KINH ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA THÀNH PHẬT THẦN BIẾN GIA TRÌ

Dịch Phạn ra Hán: Đời Đường, Nước Trung Thiên Trúc Tam Tạng THIỆN VÔ ÚY và Sa Môn NHẤT HẠNH đồng dịch
Dịch Hán ra Việt: Huyền Thanh

 

QUYỂN 5

TỰ LUÂN ( Bánh Xe Chữ ) PHẨM THỨ MƯỜI

Bấy giờ, Đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo Trì Kim Cương Bí Mật Chủ rằng :” Hãy lắng nghe ! Bí Mật Chủ ! Có Pháp Môn Biến Nhất Thiết Xứ . Này Bí Mật Chủ ! Nếu Bồ Tát trụ ở Tự Môn này thì tất cả sự nghiệp thảy đều thành tựu

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ A

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ SA

Nam ma tam mạn đa phạt chiết-la nản_PHỘC

Ca khư nga già_ Già Xa nhược xã

Tra trá noa trà_ Đa tha ná đà Ba phả ma bà_ Dã la la phộc Xa sa sa ha_ Ngật-sái

* ) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ A

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ SA

NAMAH SAMANTA VAJRANÀM _ VA

KA KHA GA GHA_ CA CCHA JA JHA

TA THA DA DHA _ TA THA DA DHA

PA PHA BA BHA_ YA RA LA VA

‘SA SA SA HA_ KSA

 

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ A

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ SA

Nam ma tam mạn đa phạt chiết-la nản_ PHỘC

Ca khư nga già_ Già xa nhược xã

Tra trá noa trà_ Đa tha ná đà Ba phả ma bà_ Dã la la phộc

Xa sa sa ha_ Ngật-sái

* ) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ À

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ SÀ

NAMAH SAMANTA VAJRANÀM_ VÀ

KÀ KHÀ GÀ GHÀ _ CÀ CCHÀ JÀ JHÀ

TÀ THÀ DÀ DHÀ _ TÀ THÀ DÀ DHÀ

PÀ PHÀ BÀ BHÀ _ YÀ RÀ LÀ VÀ

‘SÀ SÀ SÀ HÀ _ KSÀ

 

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ ÁM

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ THAM

Nam ma tam mạn đa phạt chiết-la nản_ NOAN

Kiếm khiếm nghiêm kiệm_ Chiêm chiêm nhiễm chiêm

Chiêm khiểm nẫm trạm_ Đảm thám nam đạm

Biếm phiếm xàm phạm_ Diêm lãm lam xàm

Đạm sam tham hàm_ Ngật-sam

 

* ) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ AM

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ SAM

NAMAH SAMANTA VAJRANÀM _ VAM

KAM KHAM GAM GHAM_ CAM CCHAM JAM JHAM

TAM THAM DAM DHAM_ TAM THAM DAM DHAM

PAM PHAM BAM BHAM_ YAM RAM LAM VAM

‘SAM SAM SAM HAM_ KSAM

 

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ ÁC

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm_ SÁCH

Nam ma tam mạn đa phạt chiết-la nản_ MẠC

Lý khước ngược hước_ Thược xước nhược thược

Kiệt chiết thác trạch_ Đát thát nặc đạc

Bác bách mạc bạc_ Dược lộc lạc mạc

Xước sách sách hoắc_ Ngật-sách

 

* ) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ AH

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ SAH

NAMAH SAMANTA VAJRANÀM_ VAH

KAH KHAH GAH GHAH_ CAH CCHAH JAH JHAH

TAH THAH DAH DHAH _ TAH THAH DAH DHAH

PAH PHAH BAH BHAH_ YAH RAH LAH VAH

‘SAH SAH SAH HAH_ KSAH

 

Y ải ổ ô

Lị liết lý ly

Ê ái ô áo

Ngưỡng nhưỡng noa nẵng mãng

Ngang nhương ninh nang mang

Kiểm nhiêm nẫm nam noan

Ngược nhược thác nặc mặc

* ) I Ì U Ù

R R L L

E AI O AU

A NA NA NA MA

À NÀ NÀ NÀ MÀ

AM NAM NAM NAM MAM

AH NAH NAH NAH MAH

Này Bí Mật Chủ ! Đạo Tự Môn như vậy là Pháp Môn thiện xảo theo thứ tự trụ nơi Đạo Chân Ngôn, là chốn gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai, khéo giải Đạo Chính Biến Tri, vui múa Hạnh Bồ Tát, là điều mà chư Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại : đã nói, sẽ nói, đang nói.

Bí Mật Chủ ! Nay Ta quán khắp cácCõi Phật, không nơi nào không thấy Pháp Môn Biến Nhất Thiết Xứ này. Các vị Như Lai ấy , không có ai không diễn nói Pháp này. Chính vì thế cho nên , Bí Mật Chủ ! Nếu muốn biết rõ các Bồ Tát tu Hạnh Chân Ngôn của Chân Ngôn Môn thì đối với Pháp Môn Biến Nhất Thiết Xứ này nên siêng năng tu học. Từ khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối với sự tăng thêm của Kha Già Tra Đa Ba ( Ka Ca Ta Da Bha ) dùng Phẩm loại Đẳng Trì cùng nhập vào sẽ tự nhiên đắc được Bồ Đề Tâm Hạnh, Thành Đẳng Chính Giác và Bát Niết Bàn.

Có được Tự Môn đã nói của Đẳng này cùng nhau hòa hợp Pháp Giáo của Chân Ngôn đầy đủ chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối. Người tu Chân Ngôn , nếu biết như vậy , tùy theo Tâm Ý của mình mà được tự tại. Đối với mỗi một câu, dùng Ý quyết định, dùng Tuệ Giác để biết sẽ được troa truyền câu Thù Thắng Vô Thượng . Một Luân như vậy luân chuyển Tự Luân ( Bánh xe Chữ ). Người tu Chân Ngôn biết rõ điều này sẽ thường soi chiếu Thế Gian giống như Đức Thế Tôn Đại Nhật mà chuyển Pháp Luân ( Bánh xe Pháp )

 

MAN TRÀ LA BÍ MẬT PHẨM THỨ MƯỜI MỘT

Bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na dùng con mắt Như Lai quán sát tất cả Pháp Giới, nhập vào Pháp Giới Câu Xá ( Dharmadhàtu Ku’sa_Pháp Giới Tạng) dùng Tam Muội Như Lai Phấn Tấn Bình Đẳng Trang Nghiêm Tạng, hiển hiện Pháp Giới trang nghiêm vô tận, đem Môn ChânNgôn Hạnh này , đầy đủ Bản Nguyện độ Giới Chúng Sinh không dư sót.

Thời Đức Phật ở trong Tam Muội , đối với Giới Chúng Sinh vô tận như vậy. Từ mọi Thanh Môn ( Môn về âm thanh ) tuôn ra âm thanh tùy theo từng loại giống như: Bản Tính nghiệp sinh thành thục, thọ dụng quả báo của họ. Các màu sắc hiện hành, mỗi loại ngôn âm, tâm ghi nhớ của họ mà nói Pháp khiến cho tất cả chúng sinh đều được vui vẻ.

Lại ở mỗi một lỗ chân lông hiện ra thêm Thân của Pháp Giới . Hiện ra xong liền ngang bằng với hư không, ở trong vô lượng Thế Giới dùng một âm thanh biểu thị cho ngôn ngữ của Pháp Giới, diễn nói Kệ phát sinh Như Lai.

Hay sinh tùy loại hình

Pháp Tướng của các Pháp

Chư Phật và Thanh Văn

Cứu Thế, Nhân Duyên Giác

Chúng Bồ Tát Cần Dũng

Nhân Tôn cũng như vậy

Chúng sinh, Khí Thế Giới ( Thế Giới vật chất )

Thứ tự mà thành lập

Các Pháp nhóm Sinh. Trụ ( Sinh, trụ, dị, diệt )

Luôn luôn sinh như vậy

Do đủ Trí phương tiện

Lìa nghi ngờ, Vô Tuệ ( Ngu si )

Mà quán sát Đạo này

Các Chính Biến Tri nói

Lúc đó, Pháp Giới Sinh Như Lai Thân, tất cả Pháp Giới Tự Thân hiển lộ hoá mây tràn khắp. Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai vừa nói sinh Tâm trong khoảng khắc thì trong các lỗ chân lông tuôn ra vô lượng vị Phật, triển chuyển gia trì xong lại quay về nhập vào cung Pháp Giới.

Khi ấy, Đức Đại Nhật Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ rằng:” Bí Mật Chủ ! Có Pháp tạo lập Man Trà La :Thánh Tôn Phần Vị, chủng tử, tiêu xí ( Cờ biểu ) . Ông nên lắng nghe ! Hãy khéo suy nghĩ ! Nay Ta diễn nói “

Trì Kim Cương Bí Mật Chủ thưa rằng :” Như Thị ! Thế Tôn ! Con xin vui nguyện lắng nghe “

Thời, Bạc Già Phạm dùng Kệ tụng rằng :

Bậc Chân Ngôn ! Đàn tròn

Trước, đặt ở tự thể ( thân của mình )

Từ bàn chân đến rốn

Tứ đấy đến trái tim

Nên suy tư Thủy Luân

Hỏa Luân trên Thủy Luân

Phong Luân trên Hỏa Luân

Tiếp, nên trì niệm đất

Rồi tô vẽ hình tượng

Bấy giờ, Trì Kim Cương Thủ vượt lên Địa Thân Ngữ Ý của Đại Nhật Thế Tôn, quán sát sự bình đẳng của Pháp, nghĩ nhớ Chúng Sinh đời vị lai , vì cắt đứt tất cả nghi, nên nói Đại Chân Ngôn Vương là :

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A tam mang bát-đa, đạt ma đà đổ, nghiệt đăng nghiệt đá nẫm. Tát bà tha, ám khiếm, ám ác,thám sách, hàm hạc, lam lạc, noan phộc, sa ha. Hàm, lam lạc, ha-la hạc, sa ha. Lam lạc, sa ha“

*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM _ ASAMAPTA

DHARMADHÀTU GATI GATÀNÀM_ SARVATHÀ : ÀM KHAM_ AM AH_ SAM SAH_ HAM HAH_ RAM RAH _ VAM VAH SVÀHÀ _ HÙM

RAM RAH HRA HAH SVÀHÀ _ RAM RAH SVÀHÀ

Trì Kim Cương Bí Mật Chủ nói Đại Chân Ngôn Vương này xong. Thời tất cả Như Lai trụ 10 phương Thế Giới đều duỗi bàn tay phải xoa đỉnh đầu của Trì Kim Cương , dùng âm thanh Thiện Tai ( tốt lành ) mà xưng tán rằng :” Lành thay ! Lành thay Phật Tử ! Ông đã bay vượt lên Địa Thân Ngữ Ý của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn , vì muốn soi tỏ tất cả phương sở, trụ vào các Bồ Tát của môn Chân Ngôn Bình Đẳng, nói Chân Ngôn Vương này. Vì sao thế ? Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn Ứng Chính Đẳng Giác ngồi Tòa Bồ Đề, quán sát 12 câu, giáng phục 4 Ma . Ba nơi của Pháp Giới Sinh này tuôn ra phá hoại quân chúng ThiênMa. Tiếp, đắc được Thân Ngữ Ý bình đẳng của Thế Tôn, thân lượng ngang bằng hư không. Lượng của Ngữ Ý cũng như vậy. Mau chóng được vô biên Trí sinh. Đối với tất cả Pháp tự tại mà diễn nói Pháp. Ấy là 12 câu, vua của Chân Ngôn .

Này Phật Tử ! Nay ông hiện chứng Thân Ngữ Ý bình đẳng của Như

Lai, mọi sở tri thức đồng với Bậc Chính Biến Tri. “ Rồi nói Kệ là :

Ông hỏi Nhất Thiết Trí

Đại Nhật Chính Giác Tôn

Hạnh Chân Ngôn tối thắng

Sẽ diễn nói Pháp Giáo

Ta, xưa kia do đấy

Phát giác Diệu Bồ Đề

Khai thị tất cả Pháp

Khiến đến nơi diệt độ

Hiện tại mười phương Giới

Chư Phật đều chứng biết

Khi ấy, Cụ Đức Kim Cương Thủ, tâm rất vui vẻ. Vì nơi gia trì uy thần của chư Phật, mà nói Kệ là :

Pháp ấy không cùng tận

Không Tự Tính, không trụ

Giải thoát nơi nghiệp sinh

Đồng với Chính Biến Tri

Các phương tiện cứu đời

Tùy theo Bi Nguyện chuyển

Khai ngộ Trí Vô Sinh

Các Pháp, Tướng như thị

Thời Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ lại nói Kệ Ưu Đà Na thỉnh hỏi Tỳ Lô Giá Na Như Lai về Đại Bi Thai Tạng Sinh Man Trà La vì quyết cắt đứt sự nghi ngờ cho các chúng sinh đời vị lai

Đã cắt tất cả nghi

Chủng Trí lìa nhiệt não

Con vì Chúng Sinh nên

Thỉnh hỏi Đấng Đạo Sư Man Trà La, gì trước ?

Xin Đại Mâu Ni nói

Đạo Sư ( A xà Lê ) bao nhiêu

Bao nhiêu loại Đệ tử

Làm sao biết tướng Đất

Làm sao mà chọn trị

Nen tác tịnh thế nào

Làm sao kiên trú được

Và tĩnh các Đệ Tử

Nguyện xin Đạo Sư nói

Làm sao dùng tướng tịnh

Dùng chi để tác hộ

Làm sao gia trì Đất

Sự nghiệp, làm gì trước

Có bao Tu Đa La ( sutra_Sợi chỉ )

Làm địa phận thế nào

Cúng dường có mấy loại

Nhóm hương hoa thế nào

Hoa này nên hiến ai

Hương cũng lại như thế

Làm sao mà phụng hiến

Nên dùng hương hoa nào

Thực phẩm cùng Hộ Ma

Đều dùng Nghi quỹ nào

Với chỗ Thánh Thiên ngồi

Nguyện nói Giáo Pháp này

Thân tướng hiển hình sắc

Theo thứ tự khai diễn

Mật Ấn của Sở Tôn

Cùng với tư thế ngồi

Thế nào gọi là Ấn

Ấn này từ đâu sinh

Có mấy loại Quán Đỉnh

Bao loại Tam Ma Gia

Bậc Chân Ngôn, mấy thời

Siêng tu Hạnh Chân Ngôn

Sẽ đủ Đạo Bồ Tát

Làm sao thấy Chân Đế

Có mấy loại Tất Địa

Cùng với thời thành tựu

Làm sao lên Đại Không

Thân Bí Mật thế nào

Chẳng buông bỏ thân này

Mà được thành thân Trời

Mỗi chủng loại biến hóa

Điều ấy từ đâu sinh

Nhóm Nhật, Nguyệt, Hỏa phương

Thời phận Diệu, Tú, sao

Nơi hiện điềm chẳng lành

Sống chết nhận mọi khổ

Làm sao khiến đừng khổ

Trừ diệt hết nơi khởi

Để được thường thân cận

Chư Phật Lưỡng Túc Tôn

Bao loại lửa Hộ Ma

Bao việc để tăng uy

Tính sai biệt chư Phật

Nguyện xin Đạo Sư nói

Không sót các Thế Giới

Cùng với Xuất Thế Gian

Quả ấy với số lượng

Tam Ma Địa thù thắng

Thành tục tại nơi nào

Lại lên ở mấy thời

Được giải thoát nghiệp sinh

 

Chính Giác Nhất Thiết Trí Ly Nhiệt Não Thế Tôn

Bảo Kim Cương Thủ rằng :

Lành thay Đại Cần Dũng ! Man Trà La bí mật

Quyết định Thánh Thiên Vị

Đại Bi căn bản sinh

Ma Ha Diễn vô thượng

Chư Phật rất bí mật

Như điều ông đã hỏi Đại Lực Trì Kim Cương !

Nay Ta lược tuyên nói

Nhiệp đầu( Sơ Nghiệp ) Man Trà La

Phật Tử ! Hãy lắng nghe

Mười hai CHI CÚ sinh Đại Lực Trì Minh Vương !

Việc cần làm trước nhất

Trụ nơi Tam Muội gốc ( Bản Tam Muội )

Giải hết Đạo Du Già

Mà tác mọi sự nghiệp

A Xà Lê có hai

Thông đạt Ấn Chân Ngôn

Tướng ấy cũng như vậy

Lược chia sâu, kín, lộ

Hay biết nghĩa sâu rộng

Chỉ truyền kẻ đáng truyền

Con trưởng của Chính Giác

Xa lìa nơi Thế lạc ( Nơi ưa thích của người đời )

Thứ hai, cầu Pháp hiện

Duyên bám , si, trược sâu

Man Trà La Thế Gian

Tất cả vì đây làm

Chư Phật Nhị Túc Tôn

Bậc Quán Đỉnh truyền giáo

Nói bốn loại Đệ Tử

Thời, Phi Thời sai khác

Thời thứ nhất: Niệm Tụng

Phi Thời Cùng chẳng cùng

Có đủ tất cả tướng

Phật nói Thân Đệ Tử ( Đệ Tử thân cận )

Thoạt đầu là tướng đất

Ấy tức là Đất Tâm

Ta đã nói tác tĩnh

Như trước tu sự nghiệp

Nếu lìa lỗi tai hại

Đất Tâm không sợ hãi

Sẽ được thành Chân Tịnh

Lìa tất cả lỗi lầm

Trụ chắc, biết như vậy

Thấy ngay Tam Bồ Đề ( Sambodhi_ Chính Giác )

Nếu khác với điều này

Chẳng phải đất thanh tịnh

Nếu trụ phân biệt vọng

Hành giả tịnh đất ấy

Bí Mật Chủ ! chẳng tịnh ( Phi tĩnh )

Đã lìa Tâm Bồ Đề

Nên cần buông phân biệt

Tĩnh trừ tất cả đất

Ta rộng nói Pháp Giáo

Man Trà La sở hữu

Trong đó việc trước nhất

Ngu si chẳng biết giải

Chẳng phải Thế Gian Giác ( sự hiểu biết của Thế Gian )

Chẳng phải Nhất Thiết Trí

Cho đến chẳng thể bỏ

Phân biệt các Nhân khổ

Cần phải vì Đệ Tử

Mà Tĩnh Tâm Bồ Đề

Dùng Bất Động Tôn giúp

Hoặc dùng Giáng Tam Thế

Nếu Đệ Tử chẳng bị

Vọng chấp làm dao động

Sẽ thành Tối Chính Giác

Không nhơ như hư không

Trước, gia trì đất này Y nơi chư Phật dạy

Thứ hai, Tâm Tự Tại

Chỉ đây chẳng Giáo khác

Bốn loại Tu Đa La

Là trắng , vàng, đỏ, đen

Thứ năm, điều cần nhớ

Ấy là màu hư không

Trong KHÔNG mà Đẳng Trì

Ấn định Man Trà La

Thứ hai giữ Duyến Kinh

Đặt ở đất Đạo Trường

Tất cả Tòa Như Lai

Với con Trí của Phật

Hoa sen đẹp thích ý

Thế Gian xưng tốt lành

Duyên Giác, các Thanh Văn

Ấy là kẻ Biên Trí ( Trí Tuệ của bờ mé )

Nên biết tư thế ngồi

Cánh sen xanh, sen súng

Thiên Thần của Thế Giới

Phạm Chúng làm đầu tiên

Ấy xưng là Tọa Vương

Xuống đây như chứng biết

Nhớ địa phận cư ngụ

Cúng Dường có bốn loại

Là tác lễ chắp tay

Kèm với nhóm Từ Bi

Thế Gian và hương hoa

Từ tay phát sinh hoa

Dâng các bậc Cứu Thế

Kết Ấn Chi Phần Sinh

Mà quán Tâm Bồ Đề

Mỗi mỗi các Như Lai

Chốn sinh tử nhóm ấy

Dùng hoa không lỗi này

Thơm tho rất rực rỡ

Pháp Giới làm Thụ Vương ( cây vua )

Cúng dường Nhân Trung Tôn

Chân Ngữ dùng gia trì

Tam Muội tự tại chuyển

Mây rộng lớn thắng diệu

Từ đấy tuôn mưa hoa

Rải trước mặt chư Phật

Nhóm Thế Thiên còn lại

Cũng nên rải hoa này

Phụng hiến tùy tương ứng

Tính loại Bản Chân Ngôn

Như vậy nhóm hương xoa…

Cũng tùy nơi tương ứng

Luân Không Thủy ( Ngón cái và ngón vô danh ) giữ nhau

Đấy là Ấn Cát Tường

Nơi phụng hiến nhóm hoa

Nên tự Tâm dâng hiến

Nơi các Thế Thiên Thần ( Thiên Thần của Thế Gian )

Nên để ngay lỗ rốn

Hoặc Kim Cương Quyền Ấn

Nếu lại bó hoa sen

Rồi hiến tại hư không

Đạo Sư, Bậc Cứu Thế

Cho đến các Thế Thiên

Đều theo như thứ lớp

Hộ Ma có hai loại

Ấy là Nội và Ngoại

Nghiệp sinh được giải thoát

Lại đến mầm giống sinh

Hay dùng đốt các nghiệp

Nói là Nội Hộ Ma

Ngoại dùng có ba Vị

Ba Vị trụ trong ba

Thành tựu ba Nghiệp Đạo

Thế Gian Thắng Hộ Ma

Nếu khác việc làm này

Chẳng giải Nghiệp Hộ Ma

Kẻ ngu chẳng được quả

Buông lìa Trí Chân Ngôn

Chân Ngôn Như Lai Bộ

Với các Chính Giác nói

Nên biết Trắng và Vàng

Kim Cương đủ mọi màu

Chân Ngôn Quán Tự Tại

Thuần Trắng tùy việc biến

Bốn phương cùng mở rộng

Luân Viên ( vành tròn trịa ) như thứ tự

Ba góc nửa vành trăng

Mà nói Hình cũng vậy

Trước, nên biết sắc tượng

Ấy là thân Nam Nữ

Hoặc lại tất cả xứ

Tùy loại hình sắc ấy

Sinh Trí khó luận bàn

Cho nên chẳng tư nghị

Nên Vật có sai khác

Trí, Trí Chứng thường một

Cho đến Tâm rộng rãi

Nên biết số lượng đấy

Tọa Ấn cũng như vậy

Dùng với các Thiên Thần

Như nơi sinh chư Phật

Nhóm Ấn đồng bỉ ( điều kia ) sinh Dùng Ấn Pháp Sinh này

Ấn trì các Đệ Tử

Nên lược nói Pháp Giới

Dùng đấy làm tiêu biểu

Quán Đỉnh có ba loại Phật Tử chí tâm nghe

Nếu Ấn phương tiện kia

Ắt lìa nơi tác nghiệp

Gọi là Sơ Thắng Pháp

Như Lai Sở Quán Đỉnh

Ấy là điều thứ hai

Khiến khởi làm mọi việc

Thứ ba dùng Tâm truyền

Ắt lìa nơi Thời Phương

Vì khiến Tôn hoan hỷ

Nên làm như Sở Thuyết ( điều đã nói )

Trước mặt, Phật quán đỉnh

Đấy tức rất thù thắng

Chính Đẳng Giác lược nói

Năm loại Tam Muội Gia

Mới thấy Man Trà La

Đầy đủ Tam Muội Gia

Chưa truyền Chân Thật Ngữ

Chẳng truyền Mật Ấn kia

Thứ hai Tam Muội Gia

Vào thấy Hội Thánh Thiên

Thứ ba đủ Đàn Ấn

Tùy Giáo tu Diệu Nghiệp

Lại nữa hứa truyền dạy

Nói đủ Tam Muội Gia

Tuy đủ Ấn Đàn Vị

Như điều dạy của Giáo

Chưa được Tâm quán đỉnh

Tuệ bí mật chẳng sinh

Cho nên bậc Chân Ngôn

Trong Đạo Trường bí mật

Đủ Yếu Thệ ( Lời thề trọng yếu ) thứ năm

Tùy Pháp nên quán đỉnh

Nên biết khác điều này

Chẳng phải Tam Muội Gia

Khéo trụ, nếu quán Ý

Bậc Chân Ngôn giác ( hiểu rõ ) Tâm

Chẳng được ở ba xứ

Nói đấy là Bồ Tát

Được Hạnh Vô Duyên Quán

Phương tiện lợi chúng sinh

Vì trồng gốc mọi Thiện ( Thiện Chúng Bản )

Nên trong Vô Tự Tính

An trụ như Tu Di

Ở các Pháp vốn tịch ( Lặng lẽ )

Đấy gọi là KIẾN ĐẾ

KHÔNG này tức thực tế

Chắng phải lời hư vọng

Sở kiến giống như Phật

Phật xưa ( Tiên Phật ) thấy như vậy

Mới được Tâm Bồ Đề

Tất Địa cực vô thượng

Từ đây có năm loại

Các Tất Địa sai biệt

Ấy là vào tu hành

Với các Địa Thắng Tiến

Năm Thần Thông Thế Gian

Chư Phật, hàng Duyên Giác

Tu nghiệp không gián đoạn

Cho đến Tâm luôn tịnh

Chưa thuần khiến thành thuần

Bấy giờ, Tất Địa thành

Ở đấy một khoảnh khắc

Tĩnh Nghiệp Tâm cùng Đẳng

Bậc Chân Ngôn sẽ được

Tất Địa tùy ý sinh

Tất Địa lên không giới

Như ảo, vô úy giả

Lưới Chú Thuật chướng che ( sở hoặc )

Giống như lưới Đế Thích

Như thành Càn Thát Bà

Có hết thảy nhân dân

Thân Bí Mật như vậy

Chẳng Thân cũng chẳng Thức

Lại như ở trong mộng

Dạo chơi các Cung Trời

Chẳng buông bỏ Thân này

Cũng chẳng đến nơi kia

Mông Du Già như vậy

Hành giả trụ Chân Ngôn

Đã sinh nghiệp Công Đức

Thân tướng giống cầu vồng

Chân Ngôn, ngọc Như Ý

Sinh ra Thân Ngữ Ý

Tùy niệm mưa mọi vật

Không có tưởng phân biệt

Các hư không mười phương

Lìa các hạnh Hữu Vi

Bậc Chân Ngôn chẳng nhiễm

Tất cả hạnh phân biệt

Giải hết chỉ có Tưởng

Như vậy quán sát khắp

Bấy giờ, Bậc Chân Ngôn

Chư Phật đồng tùy hỷ

Chính Giác Lưỡng Túc Tôn

Nói hai loại Hộ Ma

Ấy là Nội và Ngoại

Tăng uy cũng như vậy

Các Tôn khác Tính Loại

Quán sát sẽ chứng biết

Các Chân Ngôn Thế Gian

Nay nói hạn lượng ấy

Nhóm phước đức tự tại

Mọi tri thức Thiên Thần

Nhóm ấy nói Minh Chú

Với các Ấn Đại Lực

Đều đến quả ngày nay

Nên nói có phân lượng

Tuy thành, chẳng trụ vững

Đều là Pháp sinh diệt

Chân Ngôn xuất Thế Gian

Không làm ( Vô tác ) vốn chẳng sinh

Nghiệp sinh đều đã đoạn

Chiến thắng lìa ba lỗi

Bậc Lân Giác không thầy

Vời Phật, Chúng Thanh Văn

Các Chân Ngôn Bồ Tát

Lượng ấy, Ta sẽ nói

Siêu việt cả ba thời

Mọi Duyên đã sinh khởi

Quả có thấy chẳng thấy

Tùy Ý Ngữ Thân sinh

Lưu truyền ở Thế Gian

Quả số trải một kiếp

Chính Đẳng Giác có nói

Chân Ngôn vượt Kiếp số

Đại Tiên, Đẳng Chính Giác

Chúng Phật Tử, Tam muội

Thanh tịnh lìa nơi Tưởng

Có Tưởng là Thế Gian

Theo nghiệp mà gặt quả

Có thành thục lúc thuần

Nếu được thành Tất Địa

Tự tại chuyển các nghiệp

Tâm không có tự tính

Xa lìa nơi nhân quả

Giải thoát nơi chúng sinh

Sinh Đẳng giống hư không

Lại nữa Bí Mật Chủ ! Hãy lắng nghe ! Ấy là : Mật Ấn, Hình tướng, xếp đặt vị trí của Thánh Thiên, uy lực nghiệm liền trước mắt, khuynh hướng của Tam Muội. Như vậy là 5 điều mà xưa kia Phật thành Bồ Đề hành Pháp Giới hư không với lời thệ nguyện độ thoát Giới chúng sinh không còn sót. Vì muốn đem lại lợi ích an lạc cho nên các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát theo Chân Ngôn Môn

Kim Cương Thủ thưa rằng:’ Như Thị Thế Tôn ! Con vui nguyện muốn nghe “

Thời Đức Thế Tôn dụng Kệ tụng là :

Thoạt tiên Chính Đẳng Giác

Xếp đặt Man Trà La

Bí mật ở trong Mật

Đại Bi Thai Tạng Sinh

Với vô lượng Thế Gian

Man Trà La xuất Thế

Đã có những Đồ Tượng

Thứ tự nói nên nghe

Bốn phương rộng giáp vòng

Một cửa với Thông Đạo

Ấn Kim Cương nghiêm khắp

Giữa Yết Ma Kim Cương ( Karma vajra )

Hoa sen đẹp bên trên

Hé nở chứa quả trái

Ở đấy Ấn Đại Liên

Điểm Đại Không trang nghiêm

Tám cánh đều tròn chính

Tốt đẹp đủ râu nhụy

Câu mười hai chi sinh

Rộng khắp giữa đài hoa

Lưỡng Túc Tôn bên trên

Đạo Sư thành Chính Giác

Dùng vào Man Trà la

Quyến thuộc tự vây quanh

Nên biếi đây, mới đầu

Bi Sinh Man Trà La

Từ đây lưu các Đàn

Đều như Bản Giáo ấy

Sự nghiệp, hình, Tất Địa

An trí các Phật Tử

 

Lại nữa Bí Mật Chủ !

Man Trà La Như Lai

Giống như vành trăng tịnh

Trong hiện màu Thương Khư ( màu trắng như vỏ ốc )

Tất cả Phật,tam giác

Ở ngay hoa sen trắng

Điểm Không làm tiêu biểu

Ấn Kim Cương vây quanh

Từ Chân Ngôn Chủ ấy

Giáp vòng phóng quang minh

Dùng Tâm không lo nghĩ

Rộng khắp rồi lưu xuất

 

Lại nữa Bí Mật Chủ !

Bậc Quán Thế Tự Tại ( Avalokite’svara )

Man Trà La bí mật

Phật Tử nhất tâm nghe

Rộng khắp tướng bốn phương

Giữa Cát Tường Thương Khư

Sinh ra hoa Bát Đàm

Hé nở chứa quả trái

Trên bày Kim Cương Tuệ

Nâng dùng Ấn Đại Liên

Bày tất cả chủng tử

Khéo léo dùng làm Chủng

Đa La ( Tàrà ) , Tỳ Câu Chi ( Bhrkuti )

Cùng với Bạch Xứ Tôn ( Pandaravasìni )

Minh Phi ( Vidya ranjani ) chủ giàu có

Cùng với Đại Thế Chí ( Mahà sthama pràpta )

Các Cát Tường Thụ Giáo

Đều tại Man Trà La

Được Ấn bậc Tự Tại

Thù diệu, tướng tiêu biểu

Ha Gia yết ni bà ( Hayàgriva _ Mã Đầu Minh Vương )

Như Pháp trụ tam giác

Man Trà La vây quanh

Ánh ban mai nghiêm tốt

Nên ở cạnh Minh Vương ( Vidya ràja )

Bậc xảo tuệ an lập

 

Lại nữa Bí Mật Chủ !

Nay nói Đàn thứ hai

Đẳng Chính, tướng bốn phương

Ấn Kim Cương vây quanh

Tất cả màu vàng đẹp

Trong Tâm nở hoa sen

Đài hiện Già La Xa

Ánh sáng như trăng trong

Cũng dùng điểm Đại Không

Giáp vòng tự trang nghiêm

Trên bày Ấn Đại Phong

Phơi phới như Mây huyền

Lay động tướng phan phướng

Điểm không làm tiêu biểu

Bên trên sinh lửa mạnh

Giống như lửa Kiếp Tai

Mà làm hình Tam Giác

Tam Giác dùng làm vây

Tia sáng vòng quanh khắp

Màu mặt trời sáng sớm

Giữa đấy, hoa sen hồng

Đỏ thẫm giống hoả kiếp

Lưu tán phát ánh lửa

Trì dùng tiếng chữ Khâm ( Kham )

Chữ chủng tử thắng diệu

Phật xưa nói Pháp này

Man Trà La Cần Dũng

Bộ Mẫu Thương Khế La ( ‘Sànkala )

Với Kim Cương Bộ Chủ

Kim Cương Câu Sách Chi

Đại Đức Trì Minh Vương

Tất cả đến nơi này

Trong Đại Man Trà La

Ấn Đàn, các Phật Tử

Hình sắc như thứ tự

Tùy loại mà tương ứng

Thành tựu các nghiệp lành

 

Lại nữa, Ta đã nói

Bậc Kim Cương Tự Tại

Hư Không Vô Cấu

Kim Cương Luân với Nha

Diệu TrụDanh Xưng

Đại Phẫn với Tấn Lợi

Tịch Nhiên Đại Kim Cương Kèm với Thanh Kim Cương

Liên HoaQuảng Nhãn

Diệu Kim Cương Kim Cương

Với Trụ Vô Hý Luận

Vô lượng Hư Không Bộ

Với nhóm Man Trà La

Đã nói trắng, vàng, đỏ

Cho đến nhóm màu đen

Ấn Hình , chỗ còn lại

Ấn Tam Kích Nhất Cổ

Hai tay đều năm ngọn

Hoặc Chấp Kim Cương Lạp

Tùy loại sắc khu biệt

Tất cả tác Chủng Tử

 

Đại Phước Đức ! Nên biết

Man Trà La Bất Động ( Acala )

Phong Luân với Hỏa Câu

Y phương Niết Ly Để ( Tây Nam )

Dưới Đại Nhật Như Lai

Với Chủng Tử vây quanh

Đại Tuệ Đao vi diệu

Hoặc dùng Ấn Quyến Sách

Bậc đủ Tuệ an bày

Giáng Tam Thế ( Trailokya vijaya ) sai khác

Vì ngay tại Phong Luân

Quang dùng Ấn Kim Cương

Mà trụ ở ba nơi

 

Lại nữa, Bí Mật Chủ !

Trước nói Man Trà La

Chư Phật Bồ Tát Mẫu

An trí Đàn, Hình Tượng

Phương chính màu vàng ròng

Ấn Kim Cương vây quanh

Man Trà La tối thắng

Nay sẽ thấy Tôn Tướng

Trong ấy hoa sen lớn

Ánh lửa màu vàng khắp

Giữa để Như Lai Đỉnh ( Tathàgata usnìsa )

Siêu việt nơi phần giữa

Đến vị trí chia ba

Nên làm Như Lai Nhãn ( Tathàgata caksu )

Tự trụ trong ánh lửa

Bày khắp Chủng Tử kia

Tiếp, tất cả Bồ Tát

Đại Như Ý Bảo Tôn

Vì Man Trà La ấy

Tròn trắng tỏa bốn phía

Vắng lặng thanh tịnh khắp

Mãn tất cả ước nguyện

 

Lại nữa hãy lắng nghe !

Đàn Thích Ca Sư Tử

Là Đại Nhân Đà La

Màu vàng ròng diệu thiện

Bốn phương cùng chia đều

Ấn Kim Cương như trước

Trên hiện Ba Đầu Ma ( Padma_ Hoa sen hồng )

Anh vàng vòng khắp cả

Đại Bát ( Cái bình bát lớn ) đủ ánh lửa

Ấn Kim Cương vây quanh

Nhóm cà sa, tích trượng

Đặt để như thứ tự

Năm loại Như Lai Đỉnh

Lắng nghe, nay sẽ nói

Bạch Tản ( Sitàtapatra Usnìsa ) dùng Tản Ấn

Bậc Cụ Tuệ, Thắng Đỉnh ( Jaya usnìsa )

Dùng Ấn Đại Tuệ Đao

Rộng khắp đều lóe sáng

Tối Thắng Đỉnh ( Vijaya Usnìsa ) Luân Ấn

Trừ Chướng Đỉnh ( Vikirana Pamca Usnìsa ) Câu Ấn

Đại Sĩ Đỉnh( Tejora’si Usnìsa ) Tướng tóc ( Kế Tướng )

Gọi là Hỏa Tụ Ấn

Quảng Sinh ( Abhudgata Usnìsa ) Bạt Chiết La ( vajra _ Kim Cương

Ấn )

Phát Sinh ( Aka’sa svaraghosah Usnìsa ) dùng Liên Hoa

Vô Lượng Thanh (Anantasvara Usnìsa ) Thương Khư ( Vỏ Ốc )

Quan sát từng tượng loại

Hào Tướng ( Urna ) Ma Ni Châu

Phật Nhãn! Nên nghe tiếp

Đỉnh kế màu vàng khắp

Vì dùng Bạt Chiết La

Vô Năng Thắng Sinh Ấn

Dùng tay cầm hoa sen

Vô Năng Thắng miệng lớn

Ở trên hoa sen đen

Hạnh của cảnh giới tịnh

Ấy là Trời Tĩnh Cư

Đặt các Ấn Tướng ấy

Phật Tử nên lắng nghe

Ấy là tay suy tư ( Tư Duy Thủ )

Thiện Thủ với Tiếu Thủ Hoa Thủ, Hư Không Thủ

Tô vẽ như Pháp tắc

Địa Thần Ca La Xa

Tròn trắng Kim Cương vây Ấn Thỉnh Triệu Hỏa Thiên

Nên dùng Đại Tiên Thủ ( Tay Đại Tiên )

Ca nhiếp Kiên Đáp Ma

Mạt Kiến Noa Kiệt Già

Bà Tư Nghê Thích Bà

Cả thảy như thứ tự

Nên vẽ Vi Đà Thủ ( Tay Vi Đà )

Ngụ bên trong Hỏa Đàn

Xà Ma ( Yama ) Đàn Trà Ấn

Thường ngụ trong Phong Luân

Một Lật Để ( Mrti ) Linh Ấn

Hắc Dạ ( Kàla Ràtrìye ) Kế Đô Ấn

Lao Đạt La ( Laudri ) Thâu La

Đại Phạm Phi ( Brahmi ) Liên Hoa

Câu Ma Lợi ( Kumari ) Thược Để

Tỳ Sắt Nữ ( Visnavi ) Luân Ấn

Nên biết Diễm Ma Hậu ( Yame ) Dùng Một Yết La Ấn

Kiều Phệ Ly Gia Hậu ( Kauveli )

Dùng Kiếp Bạt La Ấn

Nhóm như vậy đều ngụ

Trong Phong Man Trà La

Ô Tựu với Bà Thê

Nhóm Dã Can vây quanh

Nếu muốn thành Tất Địa

Y Pháp dùng tô vẽ

Niết Ly Để ( Nrti ) Đại Đao

Tỳ Lữu ( Visnu ) Thắng Diệu Luân

Cưu Ma La ( Kumara ) Thược Để

Nan Đồ ( Nanda ) Bạt Nan Đà ( Upananda )

Mật Vân với Điện Câu

Đều đủ màu Thanh Đàm

Hộ vệ mái che cửa

Tại Tòa Thích Sư Tử

Thương Yết La ( ‘Sankara ) Tam Kích

Phi ( ‘Sankali ) tác Bát Chi Ấn

Nguyệt Thiên Ca La Xa

Sen trắng trong sạch nở

Nhật Thiên ( Àditya ) Kim Cương Luân

Tiêu biểu xe Dư Lạc

Xã Gia ( Jaya ) Tỳ Xã Gia ( Vijaya )

Nên biết Bậc Đại Lực

Đều dùng Đại Cung Ấn

Tại Nhân Đà La Luân

Phong phương, Phong Tràng Ấn

Diệu Âm ( Surasvatyai ) Nhạc Khí Ấn

Phộc Lỗ Noa ( Varuna ) Quyến sách

Mà đặt trong Đàn tròn

Ông, Đại Ngã nên biết

Chữ Chủng Tử xoay quanh

Tiêu biểu của nhóm ấy

Như Man Trà La nữa

Quyến thuộc Thích Sư Tử

Nay đã lược tuyên nói

 

Phật Tử ! Lắng nghe tiếp

Đàn Thí Nguyện Kim Cương

Bốn phương chia đều khắp

Vệ ( Hộ vệ ) dùng Ấn Kim Cương

Nên ở trong ấy làm

Hỏa Sinh Man Trà La

Trong Tâm lại an trí

Diệu Thiện Thanh Liên Ân

Bậc Trí Man Thù Âm ( Mamju ghosa)

Bản Chân Ngôn vây quanh

Như Pháp bày Chủng Tử

Mà dùng làm Chủng Tử

Lại ở bốn bên ấy

Dùng sen xanh nghiêm sức

Tô tạo Chúng Cần Dũng

Hết thảy như thứ tự

Quang Võng ( Jàlinì prabha ) dùng Câu Ấn

Bảo Quan ( Ratna makuta ) giữ Bảo Ấn

Vô Cấu Quang ( Vimala prabha ) Đồng Tử

Hoa sen Xanh chư nở

Diệu Âm Cụ Đại Tuệ

Đã nói các Sứ Giả

Nên giữ Mật Ấn ấy

Thảy đều như nơi ứng

Kế Thiết Ni( Ke’sinì ) Đao Ấn

Ưu Ba ( Upake’sinì ) Luân La Ấn

Chất Đát La ( Citrà ) Trượng Ấn

Địa Tuệ ( Vasu mati ) dùng Tràng Ấn

Chiêu Triệu Sứ Giả ( Àkarsnì ) ấy

Dùng Ương Câu Thi Ấn

Tất cả làm như vậy

Dùng hoa sen xanh vây

Hết thảy Chư Phụng Giáo

Dùng Thương Yết Lê Ấn

 

Lại nữa, Ấn phương Nam

Trừ Nhất Thiết Cái Chướng ( Sarva Nivarana Viskambhi )

Chủng Tử Đại Tinh Tiến

Là Chân Đà Ma Ni

Trụ ở trong Hỏa Luân

Chúng Đoan Nghiêm theo hầu

Nên biết quyến thuộc ấy

Tiêu biểu của Bí Mật

Tiếp theo nên tô vẽ

Nay Ta rộng tuyên nói

Trừ Nghi ( Bhandra pàlà conama ) dùng Bảo Bình

Đặt Nhất Cổ Kim Cương

Bậc Thánh Thí Vô Úy ( Abhayamdada )

Tác Thí Vô Úy Thủ ( Tay Thí Vô Úy )

Trừ Nhất Thiết Ác Thú ( Apayamjaha )

Phát Khởi Thủ ( Tay Phát Khởi ) làm tướng

Cứu Ý Tuệ Bồ Tát ( Karunàmredita )

Bi Thủ ( Tay Bi ) thường tại tim

Đại Từ Sinh Bồ Tát ( Maitràbhudgate )

Nên dùng Chấp Hoa Thủ ( Tay cầm hoa )

Tưởng nhớ ngay trên tim

Rũ co Hỏa Luân Thủ ( tay bánh xe lửa )

Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não ( Sava dàha pra’samita )

Tác Thí chư Nguyện Thủ ( Tay ban bố các Nguyện )

Nước Cam Lộ lưu trú

Khắp các đầu ngón tay

Cụ Bất Tư Nghị Tuệ ( Acintya mati danta )

Trì Như Ý Châu Thủ ( Tay cầm Ngọc Như Ý )

Đều trụ trên hoa sen

 

Ở trong Man Trà La

Phương Bắc, Địa Tạng Tôn ( Ksiti Garbha )

Mật Ấn sẽ nói tiếp

Trước, làm Tòa trang nghiêm

Tại Đàn Nhân Đà La

Sen lớn phát ánh lửa

Xen kẽ đủ mọi màu

Nơi đấy dựng phướng lớn

Trên đấy có báu lớn

Đấy gọi là Tối Thắng

Hình tượng của Mật Ấn

Lại nên ân cần làm

Thượng Thủ các quyến thuộc

Vô lượng vô số chúng

Các Mộ Đạt La ( Mudra_ Ấn ) ấy

Bảo Tác ( Ratna karah ) ở trên báu

Tam Cổ Kim Cương Ấn

Bảo Chưởng ( Ratna pani ) ở trên báu

Nhất Cổ Kim Cương Ấn

Trì Địa ( Dhirini dharah ) ở trên báu

Hai tay Kim Cương Ấn

Bảo Ấn Thủ ( Ratna mudra pani ) trên báu

Ngũ Cổ Kim Cương Ấn

Kiên Ý ( Drdha dhya’saya ) ở trên báu

Yết Ma Kim Cương Ấn

Tất cả đều nên trụ

Trong Man Trà La ấy

 

Phương Tây, Hư Không Tạng ( Aka’sa garbha )

Đàn tròn trắng đẹp ý

Tòa hoa sen trắng lớn

Đặt Ấn Đại Tuệ Đao

Mũi nhọn bền như vậy

Bén nhọn như băng sương

Ngay Chủng Tử làm chủng ( Giống loại )

Bậc Trí nên an bày

Với vẽ các quyến thuộc

Ấn Hình như Pháp Giáo

Hư Không Vô Cấu Tôn ( Gagana Amala )

Cần phải dùng Luân Ấn

Hình bánh xe vây quanh

Đấy đủ tại Phong Đàn

Hư Không Tuệ ( Gagana Mati ) Thương Khư ( Loa Ấn )

Ở Phong Man Trà La

Thanh Tĩnh Tuệ ( Vi’suddha Mati ) sen trắng ( Bạch Liên Ấn )

Ở Phong Man Trà La

Ấn Tướng của Hành Tuệ ( Carya Mati )

Nên dùng Xà Cừ Bình

Trên cắm hoa sen xanh

Ở Phong Man Trà La

An Tuệ ( Mojnagah ) Kim Cương Liên ( Kim Cương Liên Hoa Ấn )

Ở Phong Man Trà La

Lược nói Bí Tạng Phật

Mật Ấn các Tôn xong

 

NHẬP VÀO PHÁP CỦA MAN TRÀ LA BÍ MẬT PHẨM THỨ MƯỜI HAI

Bấy giờ , Đức Thế Tôn lại tuyên nói về cách nhập vàp Pháp của Man Trà La Bí Mật. Ưu Đà Na là :

Người học khắp Chân Ngôn

Thông đạt Đàn Bí Mật

Như Pháp vì Đệ Tử

Đốt hết tất cả tội

Thọ Mệnh đều đốt diệt

Khiến nó chẳng phục sinh ( Không cho sinh trở lại )

Giống tro lửa đã tàn

Thọ Mệnh ấy quay lại

Là dùng Chữ đốt Chữ

Nhân Chữ mà lại sinh

Tất cả Thọ với Sinh

Không nhơ, thanh tĩnh khắp

Dùng mười hai Chi Cú

Để làm vật khí kia

Tam Muội Gia như vậy

Tất cả chư Như Lai

Bố Tát, Đấng Cứu Thế

Với Phật, Chúng Thanh Văn

Cho đến các Thế Gian

Bình đẳng chẳng trái ngược

Hiểu được Bình Đẳng Thệ

Bí Mật Man Trà La

Vào tất cả Pháp Giới

Các Đàn được tự tại

Thân Ta giống như nó ( Lời Thệ Nguyện )

Bậc Chân Ngôn cũng vậy

Dùng sự Chẳng khác nhau

Gọi là Tam Muội Gia

 

NHẬP VÀO ĐỊA VỊ CỦA MAN TRÀ LA BÍ MẬT  PHẨM THỨ MƯỜI BA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập vào Tam Muội Đẳng Chí , trụ ở Định đấy quán sát các chúng sinh đời vị lai. Tức thời các cõi Phật , mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay, năm báu xen kẽ nhau. Rũ treo : lọng báu, cờ xí trang nghiêm cửa, rèm tua dài rộng đủ mọi màu , chuông báu, phất trần trắng, quần áo đẹp ( Danh y). Cắm dựng cây phướng Ma Ni. Mọi thứ ao tắm tràn đầy nước tám Công Đức thơm tho có vô lượng loài chim : Uyên Ương, Ngỗng, Hồng Hộc kêu hót phát ra những âm thanh hòa nhã. Nhiều hàng cây tạp xinh tươi , nở đầy loại hoa mùa thơm tho nghiêm tốt, tám phương đều cột treo các chuỗi anh lạc bằng ngọc báu. Mặt đất mềm như bông sợi, người nào chạm đến hoặc bước lên trên đều cảm thấy khoái lạc . Vô lượng âm nhạc tự nhiên hòa nhịp tạo thành âm thanh vi diệu khiến ai cũng thích nghe. Vô lượng Bồ Tát tùy theo phần Phước của mình đều cảm nhận được cung điện, nhà cửa và tùy theo Ý sinh tạo ra chỗ ngồi của mình.Do Nguyện Lực của Như Lai Tín Giải đã sinh ra sự biểu tượng ( Tiêu Xí ) của Pháp Giới là đóa hoa sen vua to lớn ( Đại Liên Hoa Vương ) trong đó có Thân Pháp Giới Tính của Như Lai an trụ, tùy theo mọi loại Tính Dục của các chúng sinh khiến cho được vui vẻ. Thời tất cả Chi Phần của Đức Như Lai ấy có sức mạnh không bị chướng ngại được sinh ra từ sự tín giải của mười Trí Lực, tức thời hiện ra tướng trang nghiêm với vô lượng hình sắc là Sắc Thân đã được tăng trưởng từ Công Đức của các Độ ; Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Tuệ trong vô số trăm ngàn câu chi na dữu đa Kiếp. Xuất hiện xong rồi, ở trong Đại Chúng Hội của các Thế Giới, phát ra âm thanh to lớn mà nói Kệ rằng :

Chư Phật rất Kỳ Đặc

Quyền Trí khó nghĩ bàn

Tuệ Vô A Lại Gia ( Tuệ không có sự cất dấu )

Hàm chứa nói các Pháp

Nếu hiểu Vô Sở Đắc ( Không có chỗ đắc )

Pháp Tướng của các Pháp

Không có đắc mà đắc

Đắc chư Phật Đạo Sư

Nói ra âm thanh như vậy xong, liền quay về nhập vào Thân khó luận bàn của Như Lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ rằng :” Này Thiện Nam Tử ! Hãy lắng nghe về Man Trà La Nội Tâm. Bí Mật Chủ !Thân Địa ấy tức là Tự Tính của Pháp Giới ,Chân Ngôn , Mật Ấn gia trì bằng cách dùng sự thanh tĩnh của Bản Tính mà gia trì . Nơi gia trì của Yết Ma Kim Cương để tĩnh trừ các sự nhơ bẩn về 4 Tướng : Ta, Người, Chúng Sinh, Thọ Giả do nhóm Nhu Đồng ( Thắng Ngã ) đã tạo lập . sự sai lầm tai hại này giống như gốc cây ( Châu- ) mà cho là cái Ghế (Ngột _ ) vậy.

Đàn vuông có bốn cửa đều thông đạt với bốn hướng có Giới Đạo ( Lối đi của Giới) bao vòng quanh. Bên trong hiện Ý Sinh Bát điệp đại liên hoa vương (Hoa sen vua to lớn có 8 cánh do ý tưởng sinh ra ) vượt quá Địa của Thân Ngữ đi đến Địa của Tâm , mau chóng được Quả Thù thắng đẹp ý.

Đàn vuông có bốn cửa thông đạt với bốn hướng có Giới Đạo vây chung quanh . Bên trong hiện Ý Sinh Bát Diệp Đại Liên Hoa Vương ( Hoa sen vua to lớn có 8 cánh do ý tưởng sinh ra ) vượt quá Địa của Thân, Ngữ… cho đến Địa của Tâm , mau chóng được Quả thù thắng đẹp ý.Nơi Hoa Sen ấy : Phương Đông là BảoTràng Như Lai, Phương Nam là Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Phương Bắc là Cổ Âm Như Lai, Phương Tây là Vô Lượng Thọ Như Lai, Phương Đông Nam là Phổ Hiền Bồ Tát, Phương Đông Bắc là Quán Tự Tại Bồ Tát, Phương Tây Nam là Diệu Cát Tường Đồng Tử ( Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ), Phương Tây Bắc là Tự Thị Bồ Tát ( Di Lặc Bồ Tát ). Trong nhụy sen là Phật Bồ Tát Mẫu, tự trang nghiêm bằng Quyến Thuộc của Tam Muội Lục Ba La Mật. Bên dưới an bày Các Chúng Phẫn Nộ của hàng Trì Minh,Trì Kim Cương Chủ Bồ Tát dùng làm cuống sen hiện trên cái biển lớn không cùng tận có tất cả hàng Địa Cư Thiên nhiều vô số lượng vây chung quanh.

Lúc đó, Hành Giả vì thành Tam Muội Gia cho nên tương ứng dùng Ý tưởng sinh ra Hương , hoa, đèn sáng, hương xoa, mọi loại thức ăn… tất cả đều dùng để dâng hiến. Ưu Đà Na rằng :

Bậc Chân Ngôn lắng nghe !

Tô vẽ Man Trà La

Tự thân ( Thân của mình ) làm Đại Ngã

Chữ La (RA ) tĩnh các nhơ

An trụ Du Già Tọa

Tìm nhớ các Như Lai

Đỉnh trao các Đệ Tử

Chữ A điểm Đại Không (AM )

Bậc Trí truyền Diệu Hoa

Khiến rải trên thân mình

Vì ( Đệ Tử ) nói Nội Sở Kiến ( Điều mà Thầy nhìn thấy trong Tâm )

Nơi Hành Nhân Tôn phụng

Đàn Trường tối thượng này

Ứng với Tam Muội Gia

 

TÁM ẤN BÍ MẬT PHẨM THỨ MƯỜI BỐN

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại quán sát các Đại Chúng Hội, rồi bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ rằng :” Này Phật Tử ! Có 8 Ấn Bí Mật, là điều cực kỳ bí mật , là nơi tương đồng với uy thần của Địa Vị Thánh Thiên, ở ngay Đạo Chân Ngôn dùng Man Trà La tròn đầy(Viên Cụ) làm vật biểu tượng như sự tương ứng của Bản Tôn. Nếu y theo Pháp Giáo, đối với các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn Môn tương ứng biết như vậy: Tự Thân trụ vào Hình của Bản Tôn bền chắc chẳng động. Như Bản Tôn rồi lại an trụ như Bản Tôn thì sẽ được Tất Địa.

Tám Ấn như thế nào ? Ấy là đem hai tay Trí Tuệ(tay phải ) Tam Muội ( Tay trái ) chắp lại giữa trống không (Không Tâm Hợp Chưởng ), bung tán Phong Luân (Ngón Trỏ ) Địa Luân ( Ngón út ) như phóng tán ánh lửa . Đây là Ấn Thế Tôn Bản Uy Đức Sinh. Man Trà La của Ấn ấy có hình Tam Giác đầy đủ ánh quang minh. Chân Ngôn ấy là :

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lam Lạc, sa ha “

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_RAM RAH_ SVÀHÀ

_ Liền dùng Ấn này, co Phong Luân ( Ngón trỏ) đặt trên Hư Không Luân ( Ngón cái ) như hình chữ Phộc (VA ). Đây là Ấn Thế Tôn Kim Cương Bất Hoại . Man Trà La ấy như tướng của chữ Phộc, có ánh sáng Kim Cương. Chân Ngôn ấy là :

“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Noan Phộc, sa ha“

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_VAM VAH_ SVÀHÀ

_ Lại dùng Ấn đầu tiên, bung tán Thủy Luân (Ngón vô danh ) Hỏa Luân ( Ngón giữa ). Đây gọi là Ấn Liên Hoa Tạng, Man trà La như tướng vành trăng có hoa Ba Đầu Ma (Padma_ Hoa sen hồng ) vây quanh. Chân Ngôn ấy là :

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thám Sách, sa ha “

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_SAM SAH_ SVÀHÀ

_ Lại dùng Ấn này, co 2 Địa Luân ( 2 ngón út) vào trong lòng bàn tay. Đây là Ấn Như Lai Vạn Đức Trang Nghiêm. Man Trà La ấy giống như hình nửa vành trăng ( Bán Nguyệt ) , dùng Điểm Đại Không vây quanh. Chân Ngôn ấy là:

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hàm Hộc, sa ha “

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_HAM HAH_ SVÀHÀ

_ Lại dùng tay Định( tay trái ) Tuệ (tay phải) chắp lại như hình đóa hoa chưa nở (Vị Khai Phu Hoa Hợp Chưởng) dựng thẳng đứng 2 Hư Không Luân (2 ngón cái ) rồi hơi co lại. Đây là Ấn Như Lai Nhất Thiết Chi Phần Sinh. Man Trà La ấy như hình trăng đầy Ca La Xả có Kim Cương vây quanh.Chân Ngôn ấy là :

“ Nam ma tam mãn đa bột đà nẫm. Ám Ác, sa ha“

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_AM AH_ SVÀHÀ

_ Liền dùng Ấn này , co Hỏa Luân ( Ngón giữa) các tướng còn lại đều như trước. Đây là Ấn Thế Tôn Đà La Ni . Man Trà La ấy giống như Cầu Vòng có cây Phan Kim Cương để rũ vây khắp chung quanh. Chân Ngôn ấy là:

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bột đà đà lai , sa-một-lật để mạt la đà na yết lý, đà la dã tát noan, bạc già phộc để, a ca la phộc để, tam ma duệ, sa ha “

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_BUDDHA DHÀRANI SMRTI BALA DHÀNA KARI _ DHÀRAYA SARVAM BHAGAVATI ÀKÀRA VATI, SAMAYE_ SVÀHÀ

_ Lại chắp hai tay lại giữa trống rỗng ( Hư Tâm Hợp Chưởng ) mở bung Hỏa Luân ( ngón giữa) Địa Luân ( Ngón út ) Không Luân ( ngón cái ) cùng nắm giữ nhau . Đây gọi là Ấn Như Lai Pháp Trụ. Man Trà La ấy giống như hư không có đủ màu sắc ( Tạp Sắc ) vây quanh và có 2 Điểm Không. Chân

Ngôn ấy là :

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A phệ  ná vĩ nê, sa ha“

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM_ À VEDA VIDE_ SVÀHÀ

_ Đồng với Hư Tâm Hợp Chưởng lúc trước, Dùng tay Trí Tuệ ( Tay phải ) Tam Muội ( Tay trái ) cùng nhau gia trì rồi tự xoay chuyển . Đây là Ấn Thế Tôn Tấn Tật Trì . Man Trà La ấy cũng như hư không có điểm màu xanh trang nghiêm. Chân Ngôn ấy là :

 

“ Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha du già du nghi ninh, du nghệ thuyết lý , khiếm nhạ lỵ kế, sa ha

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM _MAHÀ YOGA YOGINI YOGE’SVARI_ KHAM JARÌKE_ SVÀHÀ

Này Bí Mật Chủ ! Đây gọi là Như Lai Bí Mật Ấn, là sự bí mật tối thắng, chẳng nên trao truyền cho người một cách dễ dàng, ngoại trừ kẻ đã được Quán Đỉnh lại có tính điều nhu, tinh tiến bền chắc, phát nguyện thù thắng, cung kính Sư Trưởng, ghi nhớ Ân Đức, trong ngoài thanh tĩnh, biết buông bỏ thân mình để cầu Pháp

 

GIỚI CẤM CỦA TRÌ MINH PHẨM THỨ MƯỜI LĂM

Bấy giờ, Kim Cương Thủ vì các Bồ Tát tu Hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn Môn lại dùng Kệ Tụng thỉnh hỏi Đức Đại Nhật Thế Tôn về Giới Cấm của Trì Minh

Làm sao thành Giới Cấm ?

Làm sao trụ Thi La ( Sìla_ Giới thanh lương ) Tùy chỗ trụ thế nào ?

Tu hành lìa dính mắc Tu hành bao nhiêu Tháng ? Giới Cấm được kết thúc Trụ nơi Pháp Giáo nào ?

Mới biết uy đức ấy

Lìa Thời, Phương tác nghiệp Với Pháp Đẳng của Pháp Làm sao mới chóng thành ?

Nguyện Phật nói lượng ấy

Phật trước đã tuyên nói

Khiến được nơi Tất Địa

Con hỏi Nhất Thiết Trí

Chính Giác Lưỡng Túc Tôn

Vì chúng sinh đời sau

Nhân Trung Tôn chứng biết

 

Lúc đó, Đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na thương xót lo lắng cho chúng sinh mà nói Kệ rằng :

Lành Thay ! Cần Dũng Sĩ !

Đại Đức Trì Kim Cương

Đã nói Giới Thù Thắng

Phật Xưa ( Cổ Phật ) đã khai diễn

Duyên Minh , nơi khởi Giới

Trụ Giới như Chính Giác

Khiến được thành Tất Địa

Vì lợi cho Thế Gian

Đẳng khởi tự Chân Thật

Đừng sinh Tâm nghi lo

Thường trụ nơi Đẳng Dẫn

Giới tu hành sẽ hết

Tâm Bồ Đề và Pháp

Với Nghiệp Quả tu hành Hòa hợp làm một Tướng

Đủ Giới như Phật Trí

Khác đây chẳng đủ Giới ( Phi Cụ Giới )

Xa lìa các tạo tác

Được các Pháp tự tại

Thông đạt lợi chúng sinh

Thường tu Hạnh Vô Trước ( không dính mắc )

Nhóm đá quý, mọi báu

Cho đến đủ Lạc Xoa

Đã nói Chân Ngôn Giáo

Thảy đều theo các tháng

Kết thúc lượng Giới Cấm

Thoạt tiên quán Kim Luân

Trụ Đại Nhân Đà La

Nên kết Ấn Kim Cương

Uống sữa để nuôi thân

Hành Giả đủ một tháng

Hay điều hơi ra vào ( Điều hòa hơi thở )

Tiếp, nơi tháng thứ hai

Nghiêm chính trong Thủy Luân

Nên dùng Ấn Liên Hoa

Mà uống thuần nước Tịnh ( Tĩnh thủy )

Tiếp, nơi tháng thứ ba

Quán Hỏa Luân thắng diệu

Ăn chẳng cầu thực phẩm

Dùng Ấn Đại Tuệ Lực

Tiêu diệt tất cả tội

Mà sinh Thân, Ý , Ngữ

Tháng thứ tư: Phong Luân

Hành Giả thường nuốt Gió

Kết Ấn Chuyển Pháp Luân

Nhiếp Tâm dùng trì tụng

Quán Thủy Luân Kim Cương

Y trụ nơi Du Già

Đây là tháng thứ năm

Xa lìa : được, chẳng được ( Đắc , Phi Đắc )

Hành Giả không dính mắc ( Vô sở trước )

Đẳng đồng Tam Bồ Đề ( Sambodhi_ Chính Giác ) Hòa hợp Luân Phong Hỏa

Ra khỏi mọi lỗi lầm

Lại trì tụng một tháng

Cũng bỏ : Lợi, chẳng lợi

Thiên Chúng hàng Phạm Thích

Ma Hầu, Tỳ Xá Già

Đứng xa mà kính lễ

Tất cả làm Thủ Hộ

Thảy đều phụng Giáo Mệnh

Người ấy được như vậy

Người, Trời, thần Dược Xoa

Trì Minh, các Linh Tiên

Cùng hộ vệ hai bên

Tùy theo Mệnh sẽ làm

Loài Bất Thiện gây chướng

Nhóm La Sát , bảy Mẫu

Cung kính mà lánh xa

Thấy ánh sáng nơi ấy

Phóng tán như lửa mạnh

Tùy nơi trụ Pháp Giáo

Đều y theo Minh Cấm ( Giới Cấm Trì Minh )

Đẳng Chính Giác Chân Tử

Tất cả được tự tại

Điều phục kẻ khó phục

Như Đại Chấp Kim Cương

Lợi ích các Quần Sinh

Đồng với Quán Thế Am

Trải qua sáu tháng xong

Tùy Ước Nguyện thành Quả

Thường ở nơi Tự Tha

Thương xót mà cứu giúp

 

TRÍ CHÂN NGÔN CỦA A XÀ LÊ PHẨM THỨ MƯỜI SÁU

Bấy giờ, Ngài Trì Kim Cương lại tiếp tục hỏi Đức Đại Nhật Thế Tôn về Tâm của Man Trà La Chân Ngôn, rồi nói Kệ rằng :

Làm sao làm tất cả ? Chân Ngôn Thật Ngữ Tâm Giải rốt ráo thế nào ?

Nói tên A Xà Lê

Lúc đó, Đức Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Ủy dụ Kim Cương Thủ : Lành thay Ma Ha Tát !

Khiến Tâm ấy vui vẻ

Lại bảo lời như vậy

Giải thật kín trong kín ( Bí trung Tối Bí )

Đại Tâm Chân Ngôn Trí Nay vì ông tuyên nói Hãy nhất Tâm lắng nghe !

Ấy chính là chữ A

Tâm của mọi Chân Ngôn ( Nhất thiết Chân Ngôn Tâm )

Từ đấy lưu xuất khắp

Vô lượng các Chân Ngôn

Dứt tất cả hý luận Hay sinh Trí Tuệ khéo Bí Mật Chủ ! Đẳng nào ?

Tâm của mọi Chân Ngữ ( nhất thiết Chân Ngữ Tâm )

Phật Lưỡng Túc Tôn nói

Chữ A là hạt giống

Nên tất cả Như Thị An trụ các Chi Phần

Tương ứng an bày xong

Y Pháp đều truyền khắp

Do chữ ban đầu ( Bản Sơ Tự ) ấy

Khắp chốn tăng thêm Chữ

Mọi Chữ dùng thành Âm

Biết Thể do đây sinh

Nên đây biến tất cả

Thân sinh mọi loại Đức

Nay nói nơi phân bày

Phật Tử ! Nhất Tâm nghe

Đem Tâm mà làm Tâm ( Trái Tim )

Còn lại bày Chi Phân ( các phần )

Tất cả làm như vậy

Liền đồng với Ngã Thể

An trụ Du Già Tọa

Tìm nhớ các Như Lai

Nếu nơi Giáo Pháp ấy

Giải Trí rộng lớn này

Đại Công Đức Chính Giác

Nói là A xà Lê

Đây tức là Như Lai

Cũng gọi tên là Phật

Bồ Tát với Phạm Thiên

Tỳ Lữu, Ma Ê La ( Đại Tự Tại )

Nhật Nguyệt Thiên, Thủy Thiên

Đế Thích, Thế Gian Chủ

Hàng Hắc Dạ, Diễm Ma

Phạm Chí với Thường Dục

Cũng gọi tên Phạm Hạnh

Chúng Tỳ Khưu Lậu Tận ( Chư Tăng đã giải thoát sinh tử )

Cát Tường, Trì Bí Mật

Bậc thấy biết tất cả

Giàu có Pháp Tự Tại

Nếu trụ Tâm Bồ Đề

Cùng với Thanh Trí Tính ( Tính trí của âm thanh )

Chẳng vướng tất cả Pháp Gọi là Biến Nhất Thiết

Tức là bậc Chân Ngữ

Trì Chân Ngôn Cát Tường

Vua của lời chân thật

Trì Ấn Chấp Kim Cương

Các Tự Luân ( Bánh xe Chữ ) đã có

Nếu ở tại Chi Phần

Nên biết trụ Tam Tinh ( My Gian )

Chữ Hàm (Hùm ) câu Kim Cương

Chữ Sa (Sa ) ngay dưới môi

Đấy là câu Liên Hoa

Ta liền đồng Tâm Vị ( Vị trí của Tâm )

Tất cả Xứ tự tại

Rộng khắp mọi chủng loại

Hữu Tình với Phi Tình

Chữ A (A ) Đệ Nhất Mệnh

Chữ Phộc (VA ) gọi là nước

Chữ La (RA ) gọi là lửa

Chữ Hàm (HÙM ) tên Phẫn Nộ

Chữ Khư (KHA ) đồng hư không

Ấy là Điểm Cực Không

Biết Tối Chân Ngôn này

Gọi là A Xà Lê

Cần phải đủ phương tiện

Biết rõ điều Phật nói

Thường tác tinh cần tu

Sẽ được câu Bất Tử

BỐ TỰ ( An bày chữ) PHẨM THỨ MƯỜI BẢY

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cương Thủ rằng: Lại nữa, Bí Mật Chủ ! Chư Phật đã diễn nói An bày các Tự Môn Phật Tử ! Nhất tâm nghe

Chữ Ca (KA) dưới yết hầu (Cổ họng)

Chữ Khư (KHA) ngay nóc họng ( Hàm ếch)

Chữ Nga (GA) làm cái cổ ( Phần ghi chú lại ghi là cái đầu)

Chữ Già (GHA) trong yết hầu

Chữ Già (CA) làm gốc lưởi (Thiệt căn) Chữ Xa (猌 _CHA) ngay trong lưỡi

Chữ Nhược (JA) làm đầu lưỡi

Chữ Xà (JHA) chốn sinh lưỡi (Thiệt sinh xứ)

Chữ Tra ( TA) làm ống chân

Chữ Trá (THA) biết bắp đùi

Chữ Noa (DA) nói eo lưng

Chử Trà ( DHA) dùng an ngồi (2 cái mông)

Chữ Đa ( TA) phần sau cuối (hậu môn)

Chữ Tha (THA) biết cái bụng

Chữ Ná (DA) làm hai tay (2 bàn tay)

Chữ Đà (DHA) tên hông sườn

Chữ Ba ( PA) làm cái lưng

Chữ Phả (PHA) biết lồng ngực

Chữ Ma ( BA) làm hai chỏ (2 khủy tay)

Chữ Bà ( BHA) dưới cánh tay

Chữ Mãng (_MA) ở trái tim

Chữ Gia ( YA) tướng âm tàng (Phần hạ bộ)

Chữ La (RA) gọi con mắt

Chữ La ( LA) làm vầng trán

Ai(Ì ) Y ( I ) hai vành mắt (I:vành mắt phải_ Ì : vành mắt trái)

Ô Ô hai vành môi ( U: vành môi trên_ Ù : vành môi dưới)

Ế Ai hai lỗ tai ( E: lỗ tai phải_ AI:lỗ tai trái)

Ô Au hai gò má ( O: gò má phải_ AU: gò má trái)

Chữ Am ( AM ) câu Bồ Đề

Chữ Ac ( AH ) Đại Niết Bàn

Biết tất cả Pháp này

Hành Giả thành Chính Giác

Của cải Nhất Thiết Trí

Thường trụ nơi Tâm ấy

Đời xưng Nhất Thiết Trí

Chính là Tát Bà Nhã ( Sarva Jna)

QUYỂN 5 ( Hết )

Trang: 1 2 3 4 5 6 7