ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT NÓI KINH NIỆM TỤNG YẾU LƯỢC

Dịch Phạn ra Hán: Tam Tạng BỒ ĐỀ KIM CƯƠNG (Bodhi-Vajra)
Dịch Hán ra Việt: Huyền Thanh

 

Quy mệnh Mãn Phần Tĩnh Pháp Thân

Tỳ Lô Giá Na Biến Chiếu Trí

Hé mở mắt Diệu Giác Quang Minh

Dài rộng giống như cánh sen xanh

Nay Ta y Kinh Yếu Lược nói

Pháp Tự Lợi, Lợi Tha, Tất Địa

Chân Ngôn, thứ tự Phương Tiện Hạnh

Phát khởi Tín Giải Thắng Nguyện Môn

 

Trước khiến Tâm mình lìa bụi dơ

Quán Phật, tưởng Ấn với Chân Ngôn

Thâm Kinh Luật Tạng Cần Dũng Tôn

Một lòng tùy thuận cung kính lễ

Đã từng Quán Đỉnh (Abhiṣeka) khiến truyền thụ

Biết các chi phần Diệu Chân Ngôn

Thấy Thắng Nhân (Jina) đó nên kính sự

Chiêm ngưỡng giống như Thế Tôn Sư

 

Từng trải phát khởi ý thù thắng

Được vào Đại Bi Mạn Trà La (Mahā-kāruṇi-maṇḍala)

Đối trao Tam Muội (Samādhi) với Chân Ngôn (Mantra)

Như thế cần nên vì tuyên nói

Nhiếp Chính Chân Ngôn, Hạnh bình đẳng

Nhiêu ích Hữu Tình, tâm chẳng gián (Không gián đoạn)

Ba Thừa (Trīṇi-yānāni), Phạm Hạnh (Brahma-caryā) đừng khinh hủy

Sáu Pháp Hòa Kính, Tâm chẳng buông

Đừng tập hành sự của người ngu

Đừng sinh giận dữ hỏng các căn

Nhiều kiếp đã tu Môn Công Đức

Một niệm nhân duyên đều đốt hết

Tâm Diệu Bồ Đề, báu Như Ý

Hay mãn các nguyện, diệt trần lao

Tam Muội Đức Tạng do đây sinh

Vì thế cần phải siêng thủ hộ

 

Quán niệm chúng sinh căn lợi thuần

Tâm Từ (Maitri-citta) nhiêu ích hiện giận vui

Đừng dùng chút phần Tham (Rāga) Sân (Dveṣa) Si (Moha)

Một niệm tương ứng hành Nhiêu Hạnh (Hạnh lợi ích)

Đừng nhớ lỗi Hữu Tình bội ân

Dùng bốn Vô Lượng (Catvāry apramāṇāni) nhiếp quần sinh

Nếu do không sức hoặc được Thời (Kāla)

Tâm thường an trụ chốn Bồ Đề

Như Lai nói đây đủ vạn hạnh

Đầy đủ các Độ (Pāramitā), Đạo Đại Thừa (Mahā-yāna-patha)

Đọc tụng, suy tư vào Chính Thọ

Chẳng dính căn (Indriya), trần (Viṣaya) tu Đẳng Dẫn (Samāhita)

Mau lìa Tham Dục (Lobha, Rāga, abhidhyā) như lửa độc

Mau lìa rượu như sương, mưa đá

Đừng tăng Ngã Mạn (Ātma-māna), ở giường cao

Tự Tổn, Tổn Tha đều mau lìa

Lại nên mau lìa nhân Hủy Phạm

Lười biếng, vọng niệm, tập Nghi ác

Ta đã chính y Đạo Tam Muội (Samādhi-patha)

Lại nơi Phật nói Tu Đa La (Sutra : Khế Kinh)

Rộng khiến mở hiểu, sinh quyết định

Pháp: Chân Ngôn (Mantra), Diệu Môn (Sumukha), Tam Muội (Samādhi)

Tùy nơi tương ứng mà suy niệm

Đem các Phước (Puṇya) Tuệ (Prajña) trang nghiêm khắp

Hết thảy Cái (Chattra) Chướng (Āvaraṇa) khiến tiêu hết

Quán sát tương ứng Pháp Thành Tựu

Gần gũi Tôn Sở nhận Minh (Vidya) ấy

An trụ thứ tự phụng Chân Ngôn

Tức ở đời này vào Tất Địa (Siddhi)

 

Kẻ Trí muốn tu nghiệp Tối Thắng

Trước lễ Tôn Giả, hỏi phương tiện

Mong Thầy hứa xong được Thắng Xứ

Ngọn núi nhiệm màu, đất, hang hốc

Bên bờ sông, châu, ao đầy hoa

Rừng cây phụ giúp nơi thích ý

Cây nhựa mầm tốt, đất không người

Lại không lạnh nóng, trùng thú hại

Nơi có Thánh Hiền đã trú qua

Lan Nhã (Araṇya), hang Tiên, trong chùa tháp

Nơi Thắng Thời này , tâm an trú

Tương ưng Tam Muội, tu Tất Địa

Ví mau mệt khổ với đói khát

Đầy đủ niệm Tuệ, nên kham nhẫn

Tùy thuận Như Lai Bồ Tát Giáo

Có bạn, không bạn, bền chắc ý

Chân Ngôn, Diệu Pháp thường ở tay

Đủ Tĩnh Niệm Tuệ luôn quán sát

Dũng tiến kiên lao không khiếp nhược

Chẳng dính Phước chư Hữu (các cõi) Thế Gian

Nơi Chân Ngôn Môn, tín giải sâu

Thành tựu Tự Tha , nghiệp an vui

Như vậy tu hành, tên Thắng Bạn Chư Thiên thủ hộ tăng uy đức

_ Tiếp dưới đây là 9 loại phương cách Tịnh Trừ Chướng Tăng Ích Tam Muội Gia Môn.

Dùng Kệ (Gāthā) nói rằng:

“Chân thành, sám các Tội

Quy y, thân cúng dường

Phát Tâm với Tùy Hỷ

Quán Thỉnh, Hồi Hướng, Pháp”

Chín loại Môn như vậy

Thứ tự tương ứng nói

Mỗi mỗi nơi Niệm Tụng

Ngày đêm làm Thời Phận

Lặng nghỉ với Kinh Hành (Caṅkramana)

Tịch trừ loài gây chướng

Tịch Căn (Căn lặng lẽ) trụ niệm Tuệ

Hay trừ lỗi phóng dật

Thường khởi Tâm Đại Bi (Kāruṇa-citta)

Giải thoát Chúng Sinh Giới

Hoặc tắm hoặc không tắm

Tĩnh ba nghiệp làm gốc (Mūla)

Trong Không Nhàn (Araṇya: A Lan Nhã), Tinh Xá

Như Pháp an Kinh Tượng

Suy tư mười phương giới

Chư Phật hiện trước mặt

Đế tưởng (thành thật tưởng, tưởng kỹ lưỡng) thân tâm mình

Rõ ràng ngay nơi ấy

Chân thành tác cung kính

Rải bày hương hoa tốt

Mọi loại thắng trang nghiêm

Nhất Tâm mà kính lễ

Mặt tùy hướng Đông ngồi

Chiêm ngưỡng Bản Sở Tôn

Minh (Vidya), Ấn (Mudra), Tu Đa La (Sutra)

Năm vóc sát đất lễ

Lễ tất cả Phật, Bản Tôn, các Bồ Tát, Chân Ngôn, Khế Ấn…. Thời đồng tụng Minh này là:

“Án, na ma tát lật-phộc, đát tha nghiệt đa, ca dã, phộc cật-chất đa, bá đà mạn đà nan, ca lộ nhĩ ”

OṂ_ NAMAḤ SARVA-TATHĀGATA KĀYA VĀK CITTA_VANDĀNĀṂ KARA-UMI

Nếu tụng Minh này mà tác lễ bái thì hay khiến lễ khắp chư Phật ở mười phương

_ Tiếp Pháp Sám Hối. Gần gũi ở trước mặt Phật, quỳ gối phải sát đất, chắp tay suy tư:“Từ đời trước đến đời này. Nhóm Tham, Sân, Si che phủ thân tâm, gom chứa nhiều phiền não, tăng trưởng Vô Minh, ba nghiệp chẳng lành nhiều vô lượng vô biên. Đối với Phật, Chính Pháp, Hiền Thánh, Sư Tăng, cha mẹ, Tôn thân, Thiện Tri Thức đã tạo ra tội cực nặng. Trái nghịch với lời của bạn tốt, chìm đắn trong sinh tử. Nay đồi trước Phật Bồ Tát ở mười phương, mở bày tâm sám hối, chẳng dám gây tạo nữa” Nói lời ấy xong, tụng Minh này là:

“Án, tát bà bá bả , suất-phổ tra, đà ha nễ, bạt nhật-la gia, sa ha”

OṂ_ SARVA-PĀPA SPHOṬA DAHANA VAJRĀYA _ SVĀHĀ

Tụng Minh 3 biến thì tội đã Hối , một thời tiêu diệt, quyết định đừng nghi

_ Tiếp Pháp Quy Y. Bấy giờ tác suy tư này:“Tất cả chư Phật ở mười phương với Pháp Tạng thâm sâu, các chúng Bồ Tát thành tựu Thắng Nguyện. Tâm con thảy đều quy y”

Ba lần tụng Minh này là:

“Án, tát bà bột đà, mộ địa tát đỏa-phộc, xả la ngao nghiệt xa nhĩ, bạt nhật-la, đạt ma, hiệt-lý”

OṂ_ SARVA BUDDHA BODHI-SATVĀNĀṂ ŚARANAṂ GACCHĀMI _ VAJRA-DHARMA HRĪḤ

_ Tiếp lại Phân thân cúng dường. Nên tưởng thân khẩu ý của mình đã lìa các nhơ bẩn.Vận tán thân đó nhiều hơn số bụi nhỏ tràn khắp các cõi ở mười phương giống như mây rải mưa ban bố, hóa làm mọi thứ cúng dường đủ dùng hiến dâng Phật.

Tụng Minh này là:

“Án, tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, bố xả, bát-la ngã lạt-đát na dạ nam, nễ lý-gia đát dã nhĩ. Tát la-phộc đát tha nghiệt đa thất-đố địa, để sắt-tra nan, tát laphộc đát tha nghiệt đa nhạ nam, mê già, a vĩ thiết đổ”

 

OṂ_ SARVA-TATHĀGATA PŪJA PRAVARTTĀNĀYA ATMANAṂ NIRYĀTA YĀMI_ SARVA TATHĀGATA-ŚCA ADHITIṢṬITAṂ_ SARVA TATHĀGATA-JÑA ME ĀVIŚATU

_ Tiếp lại Phát Thắng Bồ Đề Tâm. Bấy giờ nên quán tâm của mình giống như mặt trăng báu tròn trịa không tịnh (trong sạch trống rỗng). Lại nên quán sát nhóm Uẩn, Giới, Xứ bị vọng chấp từ vô thủy vây buộc. Nay ta biến nơi nguy hại vô tri này, vì thế quán sát tâm Tĩnh Bồ Đề.

Quán Tâm Bồ Đề, tụng Minh này là:

“Án, mộ địa chất đa một đáp-bà đà dạ nhĩ”

OṂ_ BODHICITTAM UTPĀDA YĀMI

Tụng Minh này 3 biến hay khiến cho thấy Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề lìa tất cả tướng, tự thân bình đẳng, vốn không sinh diệt. Không có ta, người, năng chấp, sở chấp. Chư Phật quá khứ và các Bồ Tát phát Tâm này nên đến Đạo Trường. Ta cũng phát Tâm Bồ Đề như vậy. Tất cả chúng sinh quy y với ta, dùng các phương tiện đều khiến cho giải thoát.

_ Tiếp lại Tùy hỷ Công Đức.Suy tư như vầy:“Trong các nước ở mười phương, mọi loại mây biển Công Đức Phương Tiện của tất cả Như Lai với nhóm Phước tối thắng của các Bồ Tát. Nay ta chí tâm thảy đều tùy hỷ”.

Tụng Minh này là:

Án, tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, bát nễ-dã nhạ na, noa mộ đà ná, bố xã mê già, tam mẫu nại na, tát phả la noa, tam ma duệ, hồng”

OṂ_ SARVA-TATHĀGATA PUṆYA JÑĀNA ANUMUDANA PŪJAMEGHA-SAMUDRA SPHARAṆA SAMAYE HŪṂ

_ Tiếp lại Khuyến Thỉnh Đức Vân (mây Công Đức). Tác Pháp xong, tâm niệm miệng nói:“Nay con khuyến thỉnh tất cả Như Lai, các Đại Bồ Tát khắp cả mười phương ban cho mây Pháp lớn, giáng mưa Pháp lớn, Cứu Thế Đại Bi Nguyện tùy con thỉnh. Con ở trong đây, nguyện mau thành tựu”.

Tụng Minh này là:

“Án, tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, địa-duệ sắt noa, bố xả mê già, tam mẫu nại-la, tát phả la noa, tam ma duệ, hồng”

OṂ_ SARVA-TATHĀGATA ADDHEṢAṆA PŪJA-MEGHA-SAMUDRA SPHARAṆA SAMAYE HŪṂ

_ Tiếp lại Thỉnh Phật Trụ Thế. Bấy giờ Hành Giả tâm niệm miệng nói:“Nay con phụng thỉnh tất cả Như Lai. Vì con, kẻ phàm phu tục tử mà trụ ở thế gian làm nhiều điều ích lợi cho chúng con với tất cả chúng sinh. Con với chúng sinh trụ ở địa Phàm Phu gom chứa mọi khỗ. Làm sao được đến cõi Vô Cấu, an trụ Tân Pháp Giới Thanh Tĩnh ?!!!… Nguyện xin Như Lai chẳng buông bỏ con”.

Tụng Minh này là:

“Án_ Tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, ná địa duệ sái dạ nhĩ, tát lật-phộc tát đỏa , hệ đô lật-tha dã, đạt lật-ma đà đô, tất-bách để lật-bà phạt đổ”

OṂ_ SARVA-TATHĀGATA ADDHEṢA ĀÀMI_ SARVA-SATVA HĪTA ARTHĀYA DHARMA-DHÀTU STHITIR-BHAVATU

_ Tiếp lại Hồi Hướng Bồ Đề. Cần phải nhất tâm chắp tay nói niệm này:“Con đem tất cả mọi điều lành đã tu, sinh khởi phương tiện Công Đức, Phước lợi ích cho tất cả chúng sinh đều đồng hồi hướng Bồ Đề rộng lớn. Nguyện khiến cho Ta, Người (Tự, Tha) mau lìa sinh tử”.

Tụng Minh này là:

“Án, tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, nễ lý-dã noa mộ đà ná, bố xã mê già, tam mẫu nại-la, tát phả la noa, tam ma duệ, hồng”

OṂ_ SARVA-TATHĀGATA NIRYĀ ANUMUDANA PŪJA-MEGHASAMUDRA SPHARAṆA SAMAYE HŪṂ

Các Phương Tiện như trên hay tĩnh các thân tâm.

Lại vì nhiếp ta người (Tự, Tha)

Ngồi yên vào Tam Muội

Gia trì đất trong ngoài

Cúng dường các Như Lai

Mật Ấn với Chân Ngôn

Thứ tự tương ứng làm

_Rồi làm Kệ là:

“Tam Muội Tĩnh Pháp Thân

Kim Cương Luân Giáp Trụ

Nhóm Pháp Giới Đại Hộ

Với Vô Động (Acala: Bất Động) uy nộ

Bảy loại Môn kết hộ

Thọ trì như thứ tự”

_ Đầu tiên kết Bí Mật Tam Muội Gia. Như trước Hồi Hướng xong, tưởng vận Thân Tâm lễ khắp chư Phật với tất cả Hiền Thánh. Liền dùng tâm đoan chính kết Du Già Tọa, kết Tam Muội Ấn ấn năm nơi trên thân để tĩnh trừ ba Nghiệp.

Ấn Tướng ấy là: Chắp hai tay như thường, dựng thẳng 2 ngón cái, liền thành Ấn.

Ba lần tụng Minh này là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đế tỵ-dữu, vi thấp-phộc mục khế tỳ-dã.  Án, a tam mê, để-lị tam mê, tam ma duệ, sa-phộc hạ”

 

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYAḤ VIŚVA-MUKHEBHYAḤ_ OṂ ASAME TRISAME SAMAYE SVĀHĀ

Năm nơi là: Trái tim, vầng trán, đỉnh đầu, hai vai. Nếu liền có Ấn còn lại muốn kết, trước tiến kết Ấn nay xong, sau đó kết tiếp. Ấn này có uy lực hay khiến cho Phật Địa (Buddha-bhūmi) hiển hiện không có chướng ngại, đầy đủ sáu Ba La Mật (Saḍpāramitā), viên mãn ba Tam Muội Gia (Tri-samaya), mau được thành tựu.

_ Tiếp kết Thanh Tĩnh Pháp Thân Ấn. Hai tay đều co 4 ngón nắm ngón cái làm quyền, duỗi 2 ngón trỏ cùng dính cạnh ngón tay.

Liền nâng Ấn này để trên vầng trán. Lúc lại dùng Ấn, lật bàn tay hướng vào bên trong từ vầng trán hướng xuống dưới, duyên nơi thân mình từ từ bung tán. Ba lần tụng Minh này là:

“Ná mạc tam mạn bột đà nam. Đạt lật-ma đà-đổ, đà-phộc bà phộc cú ngân”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ DHARMA-DHĀTU SVABHĀVAKA-UHAṂ

Đây gọi là Kiến Pháp Giới Minh Ấn. Dùng Minh Ấn này xoay chuyển ở thân, liền tự suy tư:“Tự Tính Pháp Thân dài suốt vô tận giới. Vì thế nên mau thấy Pháp Thân thanh tĩnh”. Do sức của Minh Ấn này nên được thấy như vậy, thường trụ Pháp Thể giống như Hư Không dùng tự gia trì.

_ Tiếp đến Kim Cương Pháp Luân Ấn. Như vậy nên tự chân thật quán Pháp Thân kiên lao. Liền đem hai bàn tay giao nhau sao cho hai lưng bàn tay dính nhau, cổ tay phải đè cổ tay trái. Từ ngón giữa trở xuống gồm 4 ngón tay, hai bên trợ nhau móc kéo, co ngón cái phải ở trong lòng bàn tay, hướng xuống dưới lật bàn tay. Luân Ấn duyên thân khiến hai tay quyền ấy kết ngang trái tim, ngón cái trái và ngón cái phải cùng hợp nhau. Đây gọi là Pháp Luân Kim Cương Trí Ấn .

Minh Ấn này có lực tối thắng cát tường. Nếu có người tạm kết liền đồng với bậc Tự Tại chuyển Đại Pháp Luân (Mahā-dharma-cakra), chẳng lâu thành tựu Chuyển Bảo Luân. Ba lần tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bả nhật-la noản. An, bả nhật-la đáp-ma cú ngân” 

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ OṂ VAJRA-ATMAKA-UHAṂ

Bấy giờ Hành Giả trụ ở Pháp Tính, chân thật quán thân này đồng với hàng Chấp Kim Cương (Vajradhāra) không có sai khác. Tất cả Thiên Ma với các loài khác nhìn thấy người này là thân Kim Cương (Vajra-kāya) quyết định đời này chuyển bánh xe Pháp lớn, đừng sinh nghi hoặc.

_ Tiếp kết Kim Cương Giáp Trụ Ấn. Như vậy nên dùng Minh Ấn tưởng thành Giáp Trụ, quay lại thân của mình khởi khắp ánh lửa thì loài Ma có tâm ác sẽ bỏ chạy tứ tán. Giả sử cùng gần gũi ắt tự cảm quy phục. Chắp tay như thường, co 2 ngón trỏ phụ vằn lưng lóng trên của ngón giữa, kèm dựng song song 2 ngón cái trong lòng bàn tay.

Tụng Minh này là (3 lần):

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Án, phộc nhật-la khước phộc già, hồng”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ OṂ VAJRA-KAVACA HŪṂ

_Tiếp tưởng Chữ thanh tịnh của Pháp Giới. Nên tưởng chữ LA (先_RA) gia thêm điểm Không (劣_RAṂ) giống như hạt châu trên tóc, trống rỗng sáng tỏ chiếu suốt. Đặt ngay trên đỉnh đầu của mình với ánh sáng trắng ngưng dao động, tĩnh thân tâm giới. Tác quán này thời tội nặng trong trăm kiếp chỉ một thời sẽ đốn hết, vô lượng Phước Tuệ đều được viên mãn.

Minh đặt chữ là:

“Ná ma tam mạn đà bột đà nam. Hạt-lam”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_RAṂ

Pháp Giới này là Tâm mà chư Phật cùng trì giữ. Vì Phật gia trì nên hay tĩnh các nhơ. Người khéo suy tư sẽ trụ Địa Bất Thoái.

Nếu có người đi qua tất cả chốn ô uế, liền tưởng chữ ấy tỏa ánh sáng lửa màu đỏ tràn khắp Thân Giới thì uế chẳng thể nhập vào, tùy ý đi qua đều không có chướng ngại. Công dụng của chữ này là màu sắc thâm sâu của nghĩa ấy, tức là Pháp Thể, vì thế nên Pháp Thể sinh ở Tuệ Thân.

_ Tiếp lại tụng Trừ Chướng Đại Hộ Minh để giáng phục các Ma, chế ngự Quỷ Thần ác. Vì thế nên niệm Nan Nhẫn Minh Vương dùng điều gây chướng không thể kham nhẫn nên có hiệu là Đại Hộ Nan Nhẫn.

Minh là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đế tỵ-dữu, vi thấp-phộc mục khế tỳ-dã. Tát lật-phộc tha hàm, kham. La khất-xoa , ma ha miệt lễ.Tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, bản nễ-dã để, tát-xã đế, hồng hồng, đát-la tra, đát-la tra, a bát la để ha đế, sa-phộc ha”

 

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYAḤ VIŚVA-MUKHEBHYAḤ_ SARVATHĀ HAṂ KHAṂ RAKṢA MAHĀ-BALE_ SARVA TATHĀGATA PUṆYA NIRJĀTE, HŪṂ HŪṂ, TRĀṬ TRĀṬ, APRATIHATE SVĀHĀ

Nếu tạm nhớ trì uy lực của Minh này thì Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) với La Sát ác nghe HỘ này nên hết thảy đều sợ hãi bỏ chạy tứ tán. Uy lực rất lớn không ai có thể thắng.

_ Tiếp đến Bất Động Uy Nộ Pháp là tĩnh trừ xứ sở, kết hộ Phương Giới, tự tại vô ngại, nghiêm tĩnh Đạo Trường với tất cả HỘ thảy đều thông dụng.

Tướng Ấn ấy là: Hai tay đều đem ngón cái vịn lưng móng ngón út, ngón vô danh làm quyền. Đều dựng mở ngón giữa, ngón trỏ. Đem 2 ngón (ngón giữa, ngón trỏ) của tay phải vào trong nắm tay trái cùng thuận như cắm cây dao ở trong bao.

Tưởng thân mình như Bất Động Tôn (Acala nātha), đứng nghiêng như chữ Bát ( 八) tác thế bạt đao, chuyển bên trái là Tịch Trừ, chuyển bên phải là Kết Giới. Đây gọi là Kết Hộ .

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Chiến noa, ma ha lộ sái noa, cấpphả tra dã, hồng, đát-lợi tra, hãm, mãn”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ CAṆḌA MAHĀ-ROṢAṆA SPHAṬYA HŪṂ TRĀṬ _ HĀṂ MĀṂ

Nếu các Quỷ Thần ác đi đến hướng về người. Dùng Pháp này liền tự nhiên diệt tan. Pháp này thảy đều thông dụng tất cả nơi chốn. Tùy sau này mỗi Minh có công dụng ấy

Phần trên là bảy Môn bí mật Kết Hộ Pháp, có thể nói viên chứng Định Tuệ, xí tằng Phước Tuệ. Tác Kết Hộ lúc trước vậy.

_ Liền vào Tam Ma Địa (Samādhi) thông Tâm Tính, thỉnh Tổng Biệt Tùy Quán mà làm Kệ là:

“Chữ LA Pháp Tĩnh Tâm

Tưởng đứng, Pháp Đạo Trường

Phổ Quán với Biệt Quán

Bốn Môn như thứ tự”

Trước tiên quán chữ LA (先_RA) tĩnh tâm. Như trước ngồi Kiết Già, nên chân thật quán chữ ở trong trái tim, thêm điểm tròn ấy (劣_RAṂ) rồi tỏa sáng như mặt trời mới mọc chiếu sáng nơi sông biển. Màu ánh sáng ngưng đọng tĩnh lặng, thông suốt không chướng ngại. Thấy tâm thể của mình cũng lại như thế, lìa nhiễm không dơ, do bị khách trần chẳng thể hiển hiện. Nay ta quán uy lực của chữ Pháp Giới Thâm Tâm này cho nên tâm tĩnh bụi dơ của ánh sáng, tĩnh bụi dơ của tâm.

_ Lại nữa nên xây dựng Đạo Trường (Maṇḍala). Liền ở chính giữa Đạo Trường, phía trước mặt, chân thật quán chữ ngưng đọng ánh sáng, thanh tịnh soi chiếu Hư Không (Gagana), tuôn ánh sáng chiếu khắp để tĩnh trừ lỗi lầm của đất.

Lại tưởng thấm xuống dưới, qua bờ mé Kim Cương rồi trụ, Thể đồng với Pháp Giới không có tính Sở Hữu. Tiếp ở Giới ấy tưởng có chữ HÀM (曳_HAṂ), suy tư chữ ấy tuôn bày ánh sáng màu đen, dùng làm Phong Luân (Vāyu-cakra). Tưởng Minh của chữ ấy, tụng một biến là:

“Ná mạc tam mãn đa bột đà nan. Hàm” 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HAṂ

_Tiếp trên Phong Luân , suy tư chữ NOAN như hình kéo cung, màu như sữa bò tuôn bày ánh sáng tịnh giống như mặt trăng trắng sạch, dùng thành Thủy Luân (Varuṇa-cakra).

Tụng Minh an bày chữ này là:

“Ná mạc tam mạn đa bột đà nan. Noan”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ VAṂ

_ Tiếp trên Thủy Luân, suy tư chữ A  màu như hoàng kim (Vàng ròng) làm Kim Cương Luân (Vajra-cakra), lưu bày ánh sáng màu nhiệm làm thành Kim Đàn có hình vuông vức. Đây gọi là Ma Hề Đạt La. (Mahendra:Đại Nhân Đà La).

Tụng Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. A” 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A

_ Tiếp đến Phổ Quán Trang Nghiêm là Quán niệm đất cư ngụ của Bản Tôn với các Thánh Hội. Khiến cho tâm mắt của mình mỗi mỗi phân tỏ rõ ràng trụ ở phía trước chỗ ấy. Thấy Đức Phật ngồi trên hoa sen trắng màu nhiệm, cuống bắng Kim Cương, hoa hé nở lớn, tám cánh trang nghiêm, đầy đủ râu nhụy, hiện màu sắc của mọi báu, tỏa vô lượng ánh sáng.

Từ chung quanh hoa sen lớn lại sinh trăm ngàn ức số tòa hoa sen báu, quán trên đài hoa có ngọc xếp liền với báu tô điểm, nhiều cây cột xây dựng thành cung điện, ở bốn chung quanh đài hoa của Tòa Sư Tử có mọi báu; xen giữa các cây cột báu treo khắp phướng lọng.

Lại ở bên trên Tòa có lưới châu ngọc với báu quấn liên tiếp nhiều khắp; dây đai báu rũ, võng, anh hoa xếp tiếp nhau; the lụa rực rỡ xen chặt rất nghiêm lệ đặc thù.

Ở bên trong bên ngoài Thất có mây hoa dầy đặc; trên dưới có mây hương tỏa khắp hơi thơm.Lại ở trong Hư Không, Tiên Thiên đua nhau cử tấu âm nhạc với âm thanh màu nhiệm giải thoát.

Chung quanh xếp bày Hiền Bình, bình báu. Hàng trăm cây vua báu trổ đầy hoa quả cành là cùng nhau tỏa ánh sáng xen nhau chiếu rực. Dùng cái lưới báu che phủ mọi loại xếp bầy, từ lưới báu rũ treo ngọc Ma Ni màu nhiệm. Ánh sáng của ngọc Ma Ni chiếu soi cung điện Phật với Thế Giới ấy như trăm ngàn mặt trời ỡ trên Hư Không, ánh sáng kia còn vượt hơn cả điều ấy chẳng thể nào ví dụ được.

Có các Thái Nữ từ Phật Trí sinh hoa màu nhiệm của Bồ Đề mà dùng nghiêm sức, đều ngụ ở tòa hoa như từ Định khởi dùng sức phương tiện phát ra âm thanh màu nhiệm ca tán Phật Đức (Buddha-guṇa), ngôn từ thanh nhã, cú nghĩa sâu xa.

Vào Quán ấy thì thấy mọi việc như thế, nên tác niệm là:“Dùng chí nguyện của ta mong Phật gia trì. Do lực Như Lai với lực Pháp Giới, nay sở quán của ta như Quán mà trụ”

Bấy giờ Hành Giả ở trong Tam Muội nên niệm cùng dường tất cả Như Lai với Thánh Chúng ấy. Tức liền chắp tay tác Kim Cương Ấn, tưởng từ Ấn phát sinh ra mọi loại hoa màu nhiệm rải khắp Phật Hội nhằm tác cúng dường.

Tụng Minh Phi này dùng gia trì.

Minh là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đế tỵ-dữu, vi thấp-phộc mục khế tỳ-dã. Tát lật-phộc tha khiếm, ô nại-nghiệt đế, sa-phả la , tứ ma, già già na kiềm, sa ha”

 

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYAḤ VIŚVA-MUKHEBHYAḤ_SARVATHĀ KHAṂ UDGATE SPHARA HĪMAṂ GAGANAKAṂ SVĀHĀ Nên tụng ba biến mà dùng gia trì. Tùy theo nơi sinh, Thiện Nguyện ấy đều thành.

Đây tên là Đẳng Hư Không Lực Hư Không Tạng Minh Phi.

Đã xong phần Phổ Quán Phật Hội.

_ Tiếp lại quán riêng các Thánh, ấy là: Trong hoa tám cánh màu nhiệm như trước, quán một chữ A rồi tác suy tư là:“Các Pháp chẳng sinh vốn có tính vắng lặng, nên nghĩa chân thật này từ chữ A mà chuyển thành Lô Xá Na (Locana)

Chân thật quán Như Lai ngồi Kiết Già, tác tướng Tam Muội như màu vàng vi diệu của Diêm Phù Đàn, thân khoác lụa trắng tinh, tóc kết rũ vai dùng làm mão đội đầu, ở trong hào quang tròn, vô lượng cõi Phật với các Phật Hội đều hiện ở trong đó, ánh sáng chiếu khắp hết Chúng Sinh Giới. Người nào gặp ánh sáng ấy, tùy theo Tính được khai mở hiểu biết như ánh mặt trời sáng sớm chạm vào hoa sen đều làm cho chúng hé nở. Ba Luân của Như Lai tràn khắp tất cả xứ thường trụ chẳng diệt, vì thế mà không có sinh. Chữ A từ trái tim mà chuyển thành thân Như Lai.

_ Nếu ở trong đây, vui quán Thích Ca Mâu Ni Phật (Śākyamuṇi-buddha). Trên tòa sen ấy tưởng chữ BÀ (乩_BHAḤ) đủ tất cả màu sắc khởi thân Như Lai. Chân thật quán thân Phật giống như màu vàng tía với 32 tướng 80 loại tốt đẹp, mặc áo cà sa đỏ, ngồi Kiết Già. Trăm ngàn ức thân đều từ chữ này chuyển, y theo bản thể Lô Xá Na tuôn ra.

_Tiếp ở trên Tòa Hoa nơi phương Bắc, chân thật quán chữ SÁCH có ánh sáng như mặt trăng trắng tinh, chuyển thành Quán Âm Đại Bi Thánh Giả (Ārya Avalokiteśvarāya Bodhisattvāya mahàsattvāya mahā-kāruṇi-kāya) ngồi trên hoa sen trắng, thân tướng cũng đồng. Ở trong mão trời (Thiên quan) hiện Vô Lượng Thọ Tự Tại Như Lai (Amitāyus-Īśvara-tathāgata)

_ Tiếp ở Tòa Hoa phương Nam của Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), chân thật quán chữ LA có ánh sáng như ngọc bích, bên ngoài tỏa ánh lửa, thân tướng ngồi trên hoa cũng như vậy.

_Tiếp ở Tòa Hoa phía Đông của Hoa chính (Bản Hoa) , chân thật quán chữ ÁM (珃: AṂ) có ánh sáng trắng tinh, tất cả Như Lai chuyển từ chữ này.

_Trên Tòa Hoa ở góc Bắc , chân thật quán chữ NGÃ tuôn ánh sáng màu vàng, tất cả Phật Mẫu (Buddha-mātṛ) chuyển từ chữ này. Thân tướng, hào quang với quần áo, tất cả đều màu trắng.

_ Trên Tòa Hoa phía Đông Nam của Hoa chính, chân thật quán chữ CAvới ánh sáng màu trắng, tuôn bày Hào Tướng (Ūrṇā) của chư Phật. Đại Đức Uy Tôn chuyển từ chữ này, thân tướng với hoa thảy đều màu trắng.

_ Trên bàn đá ở Tây Nam của Hoa chính, chân thật quán chữ HÀM có màu như mây đen. Thánh Giả Bất Động (Acala Nàtha) chuyển từ chữ này như hình đồng tử, bên ngoài rực tỏa lửa mạnh.

_ Trên Toà Hoa Sen ở Tây Bắc của Hoa chính, chân thật quán chữ HA tỏa ánh sáng xanh biếc lợt. Giáng Tam Thế Tôn (Trailokya-vijaya-nātha) chuyển từ chữ này. Sắc tướng của hai thân đều như chữ gốc (Bản Tự) phát lửa mạnh mẽ bên ngoài.

_ Phương Bắc gồm có quyến thuộc của Quán Âm, thị vệ hai bên trái phải thảy đều khởi từ chữ CHIÊM TAṂ). Đa La Bồ Tát (Tārā-bodhisattva) chuyển từ chữ này. Ánh sáng của chữ màu trắng lợt, thân tướng cũng vậy, áo nhiệm màu trắng tinh, vui vẻ chắp tay ngồi phía bên phải.

_ Tiếp ở Hoa bên phải này, chân thật quán chữ BỘT-LY BHṚ) Chữ có ánh sáng màu trắng đặc, khởi Tỳ Câu Đê (Bhṛkuṭi), thân tướng cũng thế có hào quang tròn tạp.

– Bên phải Tỳ Câu Đê, chân thật quán chữ SÁCH (SAḤ) Chữ có ánh sáng trắng vàng. Đắc Đại Thế Chí (Mahā-sthāma-prāptā) khởi từ chữ này, thân như màu vàng, mặc quần áo màu trắng.

_ Bên trái Quán Âm, chân thật quán chữ PHÁ-HỒNG (PHAṂ). Ánh sáng của chữ này với thân tướng đều là màu trắng. Vì thế ở chữ này chuyển nơi thân tướng.

_ Tiếp ở bên phải ấy, chân thật quán chữ HÀM (HAṂ) như ánh sáng màu trắng. Mã Đầu Thánh Giả (Hayagrīva) chuyển từ chữ này, có hai nanh giận dữ (Nộ nha) hiện ở góc miệng, ánh lửa mạnh mẽ, thân tướng uy mãnh cũng vậy.

_ Tiếp quán quyến thuộc của Kim Cương (Vajrapāṇi: Kim Cương Thủ) ở phương Nam. Bên trái là Chấp Kim Cương (Vajradhāra). Trên Tòa Hoa Sen ở hai bên trái phải, chân thật quán một chữ HỒNG (猲_HŪṂ). Ánh sáng của chữ này cũng màu đỏ.

Tất cả Kim Cương cùng khởi từ chữ này, thân tướng cũng thế, bên ngoài phát ánh lửa. Bên phải Thánh Giả (Vajrapāṇi), bắt đầu là Kim Cương Mẫu (Māmaki), tiếp là Đại Đao Châm (Vajra-sūci: Kim Cương Châm). Bên trái Thánh Giả là Kim Cương Tỏa (Vajra-śṛṅkhala) cùng với quyến thuộc của mình chiêm ngưỡng an trụ.

_ Lại nữa, trên hoa sen trắng ở phương Đông, chân thật quán chữ MA-HỒNG (MĀṂ) tỏa ánh sáng màu vàng. Cát Tường Đồng Tử (Mañjuśrī-kumāra-bhūta) chuyển từ chữ này , thân như màu vàng nghệ, hào quang tròn chiếu khắp. Quyến thuộc hai bên trái phải trợ nhau phụ việc đều y theo chữ này mà chuyển.

_ Lại nữa, trên Tòa Hoa Sen ở phương Nam, chân thật quán chữ ÁNH (AḤ). Từ chữ này khởi tên Trừ Cái Chướng (Sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhin). Quyến thuộc hai bên trái phải đều chuyển y theo chữ này mà phụ giúp nhau.

_ Lại ở hoa sen báu nơi phương Bắc, chân thật quán chữ Y (I) Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha-bodhisattva) chuyển từ chữ này, thân có ánh sáng vây quanh khắp như màu tạp bảo (đủ loại báu). Quyến thuộc hai bên trái phải đều chuyển từ chữ này mà trợ giúp nhau.

_ Lại trên hoa sen báu ở phương Tây, chân thật quán chữ Y (Ī) Thánh Giả Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha) khởi từ chữ này, thân như màu vàng, mặc áo màu trắng. Rất nhiều quyến thuộc hai bên trái phải trợ giúp nhau, mỗi mỗi đều dùng chữ Y mà chuyển.

_Lại ở cửa Đông, quán chữ PHỘC (VA) sinh Vô Úy Đại Hộ. Bên trái bên phải có quyến thuộc của Chúng Thích Phạm (Đế Thích và Phạm Thiên).

_Cửa Nam quán chữ SÁM (SAṂ) khởi Kim Cương Vô Thắng. Quyến thuộc của hàng Diễm Ma (Yama) đứng xếp hàng hai bên trái phải.

_Cửa Bắc quán chữ BẢ (PA) có thân Năng Hộ Chư Bố Giả sinh khởi từ chữ ấy. Chúng Tĩnh Cư (Śuddhāvāsa), chư Thiên cầm hoa ở hai bên trái phải.

Cửa Tây quán chữ SÁCH (SAḤ), Tối Thắng Giáng Phục Giả từ chữ ấy mà sinh thân. Chúng Rồng (Nāga) với Nhật Thiên (Āditya) thường hộ hai bên trái phải.

Đông Bắc Hệ Xá Ni (Īśani)

Đông Nam Hỏa Thần Vương (Agni)

Tây Nam Hệ Lật Để (Nṛtye)

Tây Bắc Phong Thần Vương (Vāyu)

Đều cầm Bản Sở Tiêu (vật biểu tượng của mình)

Uy nghiêm hộ ngung giác (các góc)

Như vậy Chúng rộng lớn

Đều chuyển từ Tự Quang (ánh sáng của chữ)

Thần lực Phật gia trì

Tùy Nguyện đều đầy đủ Như trên chân thật quán

Chung, riêng khiến tương ứng Dừng đứng trong Tam Muội Vui vẻ mà nghinh thỉnh.

_ Nếu muốn Nghinh Thỉnh. Trước tiên nên chuẩn bị hương, hoa, đèn sáng với các thức ăn uống, tất cả vật cúng rồi đem cúng dường. Nên dùng Bất Động Sân Nộ Minh Vương để trừ lỗi lầm, đặt bên phải thân. Lại dùng Minh Ấn tịch trừ Ma Sở, sau đó nghinh thỉnh.

Tiếp phía dưới Pháp Nghinh Thỉnh có thể nói là thành tựu chí nguyện, viên mãn Phước Tuệ đều siêng năng làm 17 Môn. Mong người tu hành không có sai lầm. Nên làm Tụng là:

Pháp Tịch Trừ Nghinh Thỉnh

Với bày Tam Muội Gia (Samaya)

Trên dùng nước At Già (Argha)

Pháp dâng Tôn toà hoa

Lại Tịch Trừ Hộ Thân

Pháp Chuyển Phàm thành Thánh

Phổ Tâm cung kính lễ

Lại Pháp Át Già trên

Riêng cúng dường hương hoa

Pháp Vận Tâm cúng khắp

Chính Hướng với Ca Tán

Pháp nguyện mãn Tự Tha (Ta và người)

Tùy Tâm vào niệm tụng

Pháp Tổng Biệt thọ trì

Các thứ tự như vậy

Bậc Trí khéo ứng trì

_ Mới đầu là Tịch Trừ Nghinh Thỉnh. Ấy là trước tiên Tịch Trừ sau đó Nghinh

Thỉnh Tịch Trừ là dùng Bất Động Đao Ấn.

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Chiến noa, ma ha lô sái noa, cấpphổ tra dã, hồng, đát-la tra, hãn, mãn”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ_ CAṆḌA MAHĀ-ROṢAṆA SPHAṬYA HŪṂ TRĀṬ HĀṂ MĀṂ

Dùng Minh Ấn này chạm các vật cúng với hồi chuyển bên trái bên phải. Đây gọi là Tịch Trừ Kết Hộ. Hoặc dùng Giáng Tam Thế Minh Ấn để làm Kết Hộ. Như sau sẽ nói lấy vật ấy để dùng

_ Tiếp lại dùng Minh Ấn để Thỉnh Bản Tôn. Nên tùy theo Pháp Bản Minh Ấn của mỗi một vị Phật Bồ Tát. Nếu chẳng thể kết riêng Bản Minh Ấn thì nên đều kết Pháp Thỉnh tất cả chư Phật Bồ Tát này. Tướng Ấn đó là: Hai tay hướng mười ngón vào trong cài chéo nhau rồi tác Kim Cương Phộc. Dựng ngón trỏ phải giống như móc câu, duỗi co qua lại, gọi là Kim Cương Câu Thỉnh .

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nam. Ánh, tát lật-phộc đát la, bát-la để hát đa, đát tha nghiệt đương câu thế, mạo địa già lị-dã, phả lị bố la ca, sa ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ AḤ SARVATRA APRATIHATE TATHĀGATA-AṂKUŚA BODHI-CARYĀ PARIPŪRAKA SVĀHĀ

Minh Câu Ấn này. Tụng Minh bảy biến thỉnh tất cả Phật với các Bồ Tát. Thập Địa Bồ Tát với hàng khó điều phục, các Quỷ Thần ác… đều dùng Ấn này mà truy nhiếp.

_ Thứ hai là Tam Muội hiển bày Tôn Pháp. Ấy là các Tôn đến xong, kết Tam Muội Gia Ấn đã nói lúc trườc. Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. A tam mê, để-lị tam mê, tam ma duệ, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ ASAME TRISAME SAMAYE SVĀHĀ

Chính Đẳng như vậy hiển bày Tam Muội Gia, hay mãn khắp cả Nguyện của Hữu Tình, hay khiến Bản Tôn vui vẻ ban cho an ổn, người phụng trì Pháp hay mãn Tất Địa.

_ Lại nữa bên trên dùng Pháp Át Già, dùng Minh như Pháp gia trì nước thơm tĩnh diệu dâng lên trên tắm Bản Tôn với chư Phật, tất cả Bồ Tát. Dùng Bất Động Ấn như vật khí Át Già.

Tụng Minh này 25 biến. Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Già già na, tam ma, tam ma, sa bà ha” 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ GAGANA SAMA ASAMA SVĀHĀ

_ Tiếp đến Pháp Phụng Tôn Hoa Tòa. Ấy là Đài hoa sen lớn là chỗ ngồi của Đức Thế Tôn, dùng Mật Ấn gia trì. Trước tiên Phụng Hiến thứ tự như Pháp an bày các Tòa. Tướng Ấn đó là: Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) như hoa sen. Bung tán ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh như hoa hé nở như muốn hoa nở như hình Linh Đạc (chuông nhỏ dùng tay cầm lắc). Hai ngón út, hai ngón cái cùng hợp nhau làm đài hoa.

Trước tiên đặt Tòa Phật, tiếp đến các Tòa khác, mỗi mỗi tụng Minh mà gia trì.

Hoa Tòa Minh là:

“Ná ma tam mạn đa một đà nan. Ánh, “ 巧休 屹亙阢 后盍觡袎珆

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ AḤ

_ Tiếp đến Tịch Trừ Hộ Thân. Lại nên dùng Bất Động Minh Ấn (tức Bất Động Đao Ấn) tịch trừ chốn ấy.

Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Chiến noa, ma ha lộ sái noa, cấpphổ tra dã, hồng,đát-la ca, hãn, mãn”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ_ CAṆḌA MAHĀ-ROṢAṆA SPHAṬYA HŪṂ TRĀṬ HĀṂ MĀṂ

Dùng Minh Ấn này chuyển bên trái là Tịch Trừ, chuyển bên phải là Kết Giới. Lại gia lên tất cả chi phần của thân mình. Các hàng Quỷ Thần khó giáng phục đồng thấy nơi đó có lửa Kim Cương thiêu đốt tất cả chướng ngại.

_ Tiếp đến Pháp chuyển Phàm thành Thánh. Bấy giờ Bậc Trí nên tưởng toàn thân của mình thành chữ NOAN (圳_VAṂ) chuyển chữ PHỘC (向_ VA) thành Chấp  Kim Cương (VajradhĀra). Tiếp dùng chữ ấy bày khắp chi phần.

Bố Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Noan”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ VAṂ

Quán sâu chữ này thì mau lìa các tướng, không có ngôn thuyết. Đây tức dùng được Thể Kim Cương là thân chẳng thể hoại.

_ Tiếp đến dùng Diệu Ấn gia trì thân đó. Trước tiên hai tay hướng vào trong cùng cài chéo các ngón thành Kim Cương Phộc. Rút hai ngón giữa dựng thẳng cùng hợp đầu ngón thành cây kim Kim Cương (Vajra-sūci) đem 2 ngón trỏ đặt ở lưng ngón giữa, mau chóng co thành Tam Cổ Xử (chày Tam Cổ) 2 ngón cái, 2 ngón út đều dựng hợp thành chày Ngũ Cổ, đặt trước trái tim.

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Án, chiến noa, ma ha lộ sái noa, hồng”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ_ OṂ CAṆḌA MAHĀ-ROṢAṆA HŪṂ

Hoặc dùng tay trái nắm Kim Cương Quyền. Đem Ấn ấn thân gọi là Thánh Giả Gia Trì Pháp.

_ Tiếp đến mặc Giáp Trụ Kim Cương. Nên dùng Minh Ấn ấn chi phần của thân. Đều đem 2 tay nắm Kim Cương Quyền, nâng Ấn từ đỉnh đầu từ từ hạ xuống đến bên chân, tưởng mặc áo giáp. Hoặc tác Ấn Bị Giáp đã nói lúc trước.

Tụng Minh ấy là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Phộc nhật-la , ca phạt già, hồng” 

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ VAJRA-KAVACA HŪṂ

Đây gọi là Pháp Bị Giáp. Tác Pháp này xong. Liền tưởng chữ KHƯ (几_KHA) đặt ở ngay đỉnh đầu của mình, suy tư chữ này giống như Hư Không sâu rộng không có bờ mé, các Pháp sâu rộng cũng lại như vậy.

Bố Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Khiếm”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ KHAṂ

_ Tiếp đến đập tan Ma quân với các loài cực mãnh lợi có tâm ác. Minh Ấn tương ứng Tồi Phục Tịch Trừ. Tướng của Ấn đó là: Tay phải nắm Quyền, duỗi thẳng ngón trỏ và ngón cái cùng phụ nhau. Nâng Ấn đặt trên vầng trán, đem Â71n khua chuyển vòng theo bên phải. Khi ấy chốn này sẽ dậy lửa mạnh.

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Ma ha phộc la vạt để, nại xả phộc la đế, kiểu nại-bà muội, ma ha muội để-lị dã, bạt-dữu nại-nghiệt đế, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ MAHĀ-BALA-VATI, DAŚA-BALA

UDBHAVE, MAHĀ-MAITRĪYA ABHYUDGATE SVĀHĀ

Vừa kết Ấn Minh thời vô lượng Ma quân với quyến thuộc của Ma, loài gây chướng đều lui tan bỏ chạy không dám nhìn thẳng.

_ Tiếp đến Chu Kết Đại Giới. Dùng Giáng Tam Thế Bí Mật Minh Ấn kết ở Đại Giới, gọi là Nan Nhẫn Đại Hộ. Ấn là: Trước tiên chắp hai tay lại như thường, co 2 ngón trỏ với 2 ngón út khiến lưng ngón tay dính nhau bên trong lòng bàn tay, dựng 2 ngón cái đè bên cạnh ngón trỏ, dựng 2 ngón giữa dính đầu ngón. Đem Ấn để ngang trái tim, tụng Minh một biến, chuyển chung quanh ba vòng.

Tụng Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Tam mạn đa noa nghiệt đế, bạn đà tư mãn, ma ha tam muội gia, nễ lật-xã đế, đà-ma la noa, a bát-la để hạt đế, đạt ca đạt ca, giá la giá la, bạn đà bạn đà, nại xá khổ. Tát phộc đa tha nghiệt đa, noa hồng đế, bát la phộc la, đạt lật-ma tạt đà vi xã duệ, bạc già phộc để, vi cú lị, vi cú lễ, lam lộ bổ lị, vi cú lễ, sa ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ SARVATRA ANUGATE BANDHĀYA SĪMĀṂ, MAHĀ-SAMAYA NIRJĀTE, SMARAṆA APRATIHATE, DHAKA DHAKA, CALA CALA, BANDHA BANDHA, DAŚARDIŚAṂ_ SARVA-TATHĀGATA ANUJÑATE PRAVARA DHARMA LADDHA VIJAYE, BHAGAVATI VIKURŪ VIKULE LELLUPURI VIKULE SVĀHĀ

Nếu muốn lược tụng, nên đến bảy biến. Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Lễ lỗ bổ lý, vi cú lễ, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ LELLUPURI VIKULE SVĀHĀ

Như vậy hai Minh, tùy tụng một Minh liền thành Kết Giới. Sức của Minh Ấn này, mười phương ba cõi thảy đều hay hộ trì bền chắc, cho nên có tên là Tam Thế Phổ Thắng Hộ Tôn

Hoặc dùng Vô Động Tôn Minh Ấn kết hộ Phương Giới với dùng Hộ Thân, làm tất cả việc cũng được không có chướng nạn.

Bất Động Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Hàm”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ MĀṂ

Dùng Đao An lúc trước liền thành Kết Hộ.

_ Tiếp lại quán tưởng Thánh Tôn Hội, Tâm tác lễ.

Tụng Minh này ba lần là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, ca dã, phộc khất cất đa, bả ná nan, ca lỗ nhĩ “

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATA KĀYA VĀK CITTA VANDANĀṂ KARA-UMI

_ Tiếp lại Át Già như trên, dùng Bất Động Ấn giữ vật Át Già phụng hiến Bản Tôn với Thánh Chúng còn lại.

Trì Át Già Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Ngân”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ HĀṂ

Lại tụng Minh ba lần, phía trên dùng Át Già .

Át Già Minh là:

“Ná ma tạm mạn đa bột đà nan. Già già na, tam ma, tam ma, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ GAGANA SAMA ASAMA SVĀHĀ

_ Tiếp lại riêng cúng hương hoa. Ấy là nghĩa như trước dâng hiến hương hoa, thức ăn uống… mỗi mỗi dùng Vô Động Tôn Minh Ấn lúc trước gia trì nước thơm rải lên trên, hay khéo cho bóng láng. Lại đem Ấn ấy mỗi mỗi chạm vào. Vô Động Minh Ấn như trên đã nói.

_ Lại ở trên đó, tưởng bày chữ LÃM (劣_RAṂ). Bố Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Lãm”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ RAṂ

_ Lại tụng Tự Minh của Bản Tôn tự trì, xưng tên. Cần hiến các Tôn còn lại cũng như vậy.

_ Phụng Đồ Hương Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Án, vĩ thú đà, kiền xã nại bà phộc, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ OṂ VIŚUDDHA-GANDHA UDBHAVA SVĀHĀ

_ Phụng Hoa Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Ma ha muội để lị-dã, bạt-dữu nại-nghiệt đế, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ MAHĀ-MAITRIYA ABHYUDGATE SVĀHĀ

_ Phụng Thiêu Hương Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Án, đạt lật-ma đà đỏa nậu nghiệt đế, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ OṂ DHARMA-DHĀTU ANUGATE SVĀHĀ

_ Phụng Đăng Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Án, đát tha nghiệt đa, lật-chi, cấp-phả la noa, phộc bà tát ná, già già nhu đà lị-dã, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ OṂ TATHĀGATA-ARCI SPHARAṆA VABHĀSANA GAGANA UDĀRYA SVĀHĀ

_ Phụng Thực Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Án, a la la, ca la la, mạt lân nại nê, ma ha mạt lệ, sa ha” (Thường tụng ba biến)

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ OM ARARA KARARA BALIṂ DADE, MAHĀ-VALIḤ SVĀHĀ

_ Tiếp lại vận tâm cúng dường . Hai tay cài chéo nhau, chắp tay lại giữa rỗng.

Ngồi ngay thẳng, suy tư tất cả cõi Phật, các Phật Bồ Tát. Phước lực sinh ra : Phan, phướng, cờ, lọng, cây báu, mây hương, đài hoa thanh tịnh nghiêm lệ, Thiên Tiên ca vịnh, chuỗi ngọc liên kết nhau tỏa sáng soi chiếu khắp thắng diệu trang nghiêm đầy cả hư không, cúng dường chư Phật với chư Bồ Tát.

Tụng Minh Phi này là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đế tỵ-dữu, vi thấp-phộc mục khế tỳ-dã. Tát lật-phộc tha khiếm, ổn nại-nghiệt đế, cấp-phả la, tứ ma, già già ná kiếm, sa ha”

 

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYAḤ VIŚVA-MUKHEBHYAḤ_ SARVATHĀ KHAṂ, UDGATE SPHARA HĪMAṂ GAGANAKAṂ SVĀHĀ

Niệm tụng ba lần, suy tư cúng dường thảy đều sung mãn, mau khéo khiến cho thành tựu tất cả Nguyện.

Lại tác niệm này:“Ta suy tư cúng dường như vậy, y theo nơi Như Lai, các vị Bồ Tát, Hải Hội rộng lớn mà sinh ra. Khởi thần lực của chư Phật Bồ Tát gia trì , dùng phước lực của Ta theo lực của Như Lai ngang bằng Pháp Giới mà dâng hiến sung túc”

_ Tiếp lại Chính Hướng nên tác niệm này:“Tất cả Công Đức mà ta dã tu tập thảy đều hồi hướng, chí cầu thành tựu, chuyên chú tương ứng trừ diệt tất cả tội chướng trong thân. Vì lợi hữu tình, cầu nguyện Vô Thượng”

Đừng nhớ thời xứ, chẳng tính toán cát hung, chẳng y Nghi Thức. Chỉ hay Chính Tu với Chính Hồi Hướng, vận Tâm cúng dường cũng mau thành tựu. Nếu cầu thành tựu chút Phước Thế Gian, tuy có chuyên cần y nơi Pháp Thức tu trì Ngoại Tướng, chỉ thành tựu nhỏ.

Nếu tu Chính Hạnh. Trước hết ở một tháng điều phục thân tâm. Trong Tâm niệm tụng khiến Tâm lặng trong. Vào tháng thứ hai, đối với Nghi Thức, làm Đại Tất Địa.

Như trước tu cúng dường

Người muốn cầu Tất Địa

Niệm tụng Kim Cương Tán

Cúng dường Phật Bồ Tát

Y theo Kinh Du Già

Sinh ra từ miệng Phật

Khiến chư Phật vui vẻ

Sẽ mau được thành tựu

Kim Cương Tán là (?!…)

_ Tiếp lại nguyện mãn Tự Tha. Bấy giờ Hành Giả ở trước Thánh Hội, tác lời niệm này:

Nay con quy mệnh Đại Hải Chúng

Nguyện mau mãn Ngã Tất Địa Tâm (Tâm Tất Địa của ta)

Xót thương mọi khổ của chúng sinh

Vì thế ân cần cầu Tất Địa

Tất cả chúng sinh chìm các nẻo

Nguyện mau phân hình nhập vào khắp

Tùy nơi hiển hiện nhiều loại thân

Phương tiện lợi lạc khiến giải thoát

Dùng lực trang nghiêm công đức ta

Lực Pháp Giới vi diệu khó lường

Lực thường trụ của các Như Lai

Lực Thiện Căn của các chúng sinh

Phước Tuệ tự tha trang nghiêm khắp

Tài Pháp không tận, đều tròn đủ

Tác nguyện đó xong, lại cài chéo các ngón tay, chắp lại.

Tụng Hư Không Minh Phi ba biến rồi dùng Gia Trì Minh là:

“Ná ma tát lật-phộc đát tha nghiệt đế tỵ-dữu, vi thấp-phộc mục khế tỳ-dã, nghiệt lật-phộc tha, khiếm, ốc nại-nghiệt đế, cấp-phả la, tứ ma, già già na kiếm, sa ha”

 

NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYAḤ VIŚVA-MUKHEBHYAḤ_ SARVATHĀ KHAṂ UDGATE SPHARA HĪMAṂ GAGANAKAṂ SVĀHĀ

Sức của Ấn Minh này hay mãn túc tất cả Nguyện bên trên và quyết định ý chẳng khởi nghi ngờ lo nghĩ sinh tâm phỉ báng. Tất cả Như Lai cùng nhau tuyên nói vì thế cần phải chí tâm, tin tưởng chân thật.

_ Tiếp đến, tùy tâm vào Pháp Niệm Tụng Tổng Biệt Thọ Trì. Bấy giờ Hành Giả ở trong Tam Muội vận tâm kính lễ tất cả chư Phật với chúng Bồ Tát. Ngồi ngay thẳng, suy tư vào bốn Thiền Môn khiến cho tâm vui thích.

Bắt đầu ở trước mặt, quán Bản Tôn, tiếp quán Minh Ấn, tiếp tưởng đồng với Bản Tôn, tiếp quán Tâm của mình giống như trăng tròn đầy. Đây gọi là Bốn. Tức ở trong ánh sáng tròn của trái tim, chân thật quán Chữ của Minh khiến cho rõ đủ, tiếp đến rõ ràng trì niệm số ký, tùy mỗi thời phận đều đủ biến số cho đến Tướng Hiệu, tùy ý thành tựu.

Bốn loại trong đây. Nếu quán thân của mình đồng với Bản Tôn mà niệm tụng thì hay khiến bỏ ra chút ít công sức sẽ mau được Tất Địa, đầy đủ Phước Tuệ. Tác quán như thế nào? Ấy là ở trong Bản Minh, một chữ Tâm Minh. Trước tiên đặt ngay trái tim mình, từ chữ mà chuyển làm hình Bản Tôn. Đây có hai loại là Phật, Bồ Tát. Như trên nói là Xá Na (Locana), Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuṇi)

_ Tiếp đến đề cử một loại như Văn Thù (Mañjuśrī). Muốn khiến tự thân đồng với vị ấy nên dùng chữ Mãn (MĀṂ) nhập vào tâm của Bồ Tát. Đặt Tự Minh là “Ná ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mãn”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ MĀṂ

Liền từ chữ này chuyển thành Văn Thù như màu vàng nghệ (Uất Kim) , đầu có 5 búi tóc, ngồi Kiết Già, tay trái cầm cọng sen xanh ở trên dựng đứng Bạt Chiết La (Vajra: Kim Cương Độc Cổ Xử), tay phải tác Thí Vô Úy gọi là Thí Nguyện Thủ.

Tụng Bồ Tát Căn Bản Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Hề hề, cú ma la ca, vi mục cát-để bả tát bách đa, tam-ma la, tam-ma la, bát-la để , hồng, sa ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HE HE KUMĀRAKA VIMUKTI

PATHĀ STHITA SMARA SMARA PRATIJÑA SVĀHĀ

Tướng Ấn ấy là: Chắp 2 tay lại, giao 2 ngón giữa, bên phải đè bên trái, ngón vô danh phải vịn đầu ngón giữa trái, ngón vô danh trái vịn đầu ngón giữa phải, co 2 ngón trỏ chạm lưng nhau đè đầu 2 ngón cái. Hình ấy như cây kiếm. Dùng Ấn ấn mỗi một chi phần, sau đó niệm tụng.

Nếu trì Pháp Minh Ấn của Phật Bồ Tát khác, mỗi mỗi tự y theo Pháp Bản Minh Ấn mà gia trì niệm tụng như Quảng Kinh nói. Dựa vào đây nên biết.

Nếu chẳng có thể mỗi một Pháp riêng biệt thì y theo Pháp Minh Ấn của Bản Bộ, tức đem Minh này dùng thay cho chỗ ấy.

_Phổ Thông Phật Bộ Tâm Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Ca”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ KA

Tâm Bí Mật này do chư Phật cùng nói, nên đặt ở trái tim của mình. Lại quán nghĩa ấy là: “Tất cả Pháp không có tạo tác”. Từ chữ này chuyển tức là Chân Thật Như Lý Quang Minh. Đây là Chư Phật Gia Trì Tâm Minh vậy

_ Tiếp đến Pháp Phổ Thông của tất cả các Bồ Tát:

Nên kết Bảo Ấn: mười ngón tay, bên phải đè bên trái, cùng cài chéo nhau nắm quyền giống như hình báu sao cho đầu ngón cách tả chỉ kỳ (?) trợ nhau giữ chặt không có kẽ hở, đừng để cho đầu ngón ló ở chỉ gian (khoảng giữa các ngón tay)

Đặt Ấn ngang trái tim tụng Nhất Thiết Chư Bồ Tát Đẳng Trừ Đoạn Chướng Não Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Tát lật-phộc tha khiếm, vi mạt để, vi chỉ la noa, đạt lị-ma đà đổ, nễ lật-xả đa, tăng tăng, sa ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ SARVATHĀ KHAṂ, VIMATI

VIKIRAṆA DHARMA-DHÀTU NIRJĀTA, SAṂ SAṂ SVĀHĀ

Đây gọi là Tư Duy Bảo Diệu Ấn. Tùy quán mỗi một hình của các Bồ Tát đều dùng Minh Ấn này.

_ Tiếp đến tùy Tâm vào niệm tụng:

Đặt chữ Khư ấy (几_KHA) ở ngay trên đỉnh đầu phóng ánh sáng tạp sắc, gia thêm điểm Không (丈 -KHAṂ) nên nghĩ như Không (trống rỗng) .

Lại ở trong đầu, tưởng đặt chữ Ám (珃_AṂ) tỏa ánh sáng thuần màu trắng giống như trăng sáng, trăm tia sáng chiếu soi mười phương. Người khéo quán sát trăm Pháp Minh Môn, đây sinh mau chứng.

Lại ở trong mắt, tưởng đặt chữ Lam (劣_RAṂ) chữ ấy toả ánh sáng có màu sắc giống như đèn sáng. Dùng Tuệ Minh này chiếu sáng trong ngoài, chiếu vành trăng tim.

Lại ở trong vành trăng, quán chữ A (狣) ánh sáng của chữ ấy giống như màu vàng trong sạch. Màu sắc của ánh sáng Hiển Mật chẳng sinh chẳng diệt, tức ngay lúc đó thấy rõ tâm trụ ở địa vị của Bản Tôn. Vành hoa sáng tỏ (quang minh hoa luân) tự vây quanh tỏa lửa sáng rực trong sạch hay làm khô kiệt bụi dơ Vô Minh Tùy Phiền Não.

Lúc tác Quán này thời trì Bản Minh, bày ở vành trăng tim xoay theo bên phải mà hành, chân thật quán sát rõ ràng. Nếu Thiền với (câu chữ) thì tùy ý vui thích, hoặc tụng hoặc nghĩ, khéo điều hơi thở, khiến cho câu chữ ấy tùy hơi thở ra vào, đầu cuối tùy nhau. Nếu nghĩ về nghĩa ấy cũng lại như thế.

_ Tiếp đến nếu cầu thành tựu lợi tự tha nguyện. Như lý tương ứng mới tác trì tụng Số kết thúc, mệt mỏi mới có thể nghỉ ngơi. Nếu suy nghĩ nghĩa thì dùng câu chữ ấy an bày ở vành trăng tim, thâm tịnh mật ý, suy tư nghĩa đó.

_ Tiếp lại, nếu tu Phước Tuệ thành tựu căn lành. Ý lặng trong mà tác tụng, chẳng kể thời xứ ác, cũng không có hạn số. Liền nói Kệ rằng:

Nếu cầu Thượng Trung Hạ

Thành tựu việc Tất Địa

Đều cầu tâm lặng trong

Chẳng cầu nhóm Thời Xứ

Nên bày Chi Phần Minh

Nhất tâm vào niệm tụng

Thế Tôn nói Pháp đó

Tên là Chân Thật Niệm Thời, Tướng với Ký Số

Ứng đến hai loại người

Được ấm áp, khói, lửa

Mọi loại các tướng lành

Trải qua đủ một tháng

Tụng đủ một Lạc Xoa (Lakṣa:100000 biến)

Nếu việc không như vậy

Lại y tháng thứ hai

Tùy phần, dâng hương hoa

Y trước tác niệm tụng

Tùy được căn lành xong

Đủ Pháp tác thành tựu

Như trên khéo quán sát

Tự tương ứng chốn vui

Nếu tâm niệm với tiếng Ứng Nguyện đều mãn túc.

_ Tiếp đến Bậc Trí vui trì Pháp Tỳ Lô Giá Na Tâm Địa. Trước hết ở ngay trái tim của mình , đặt một chữ A , nên khởi suy tư:”Các Pháp từ Bản Bất Sinh Bất Diệt” (như trước đã nói).

Trí Tự Minh là (Bài Minh an bày chữ):

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. A”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A

Từ chữ này chuyển khởi thân Như Lai. Đây gọi là Thân Mật Môn

Lai ở tam tinh (My gian: Khoảng giữa 2 lông mày) dùng Thân Mật Ấn đặt Bạch Hào Tướng (Ūrṇā: Tướng lông xoáy màu trắng ở tam tinh).

Hào Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, nắm gấp ngón cái đưa lên đặt ở tam tinh.

Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Ương hàm xà”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ AḤ HAṂ JAḤ

Dùng Minh Ấn này gia ở tam tinh tức đồng với Như Lai Đẳng không có khác.

_ Liền dùng 5 chữ gia trì thân phần, tưởng đặt 5 nơi là: Thân với lỗ rốn, trái tim, đỉnh đầu, tam tinh. Y Pháp đó trụ tức đồng với Bản Tôn.

.) Bắt đầu ở dưới thân tưởng đặt chữ A (狣) hình vuông vức như màu vàng rực. Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. A”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A

Từ chữ này chuyển thành Kim Cương Luân tức là Tòa ngồi của Như Lai (Như Lai Tòa)

.) Tiếp tưởng chữ Noan (圳_VAṂ) đặt ngay lỗ rốn như mặt trăng ngậm sương mù, ánh sáng màu trắng ngưng đọng tỏa sáng, gọi là Ma Ha Bá Lộ Noa Đại Bi Quang.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Noan”

巧休 屹亙阢 后盍觡袎圳

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ VAṂ

.) Tiếp tưởng chữ Lam (劣_RAṂ) đặt ở trái tim của mình, ánh sáng cũa chữ đó giống như mặt trời chiếu sáng, gọi là Trí Tuệ Quang. Từ trái tim mà chuyển phá Sở Tri Chướng.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Lam”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ RAṂ

.) Tiếp tưởng chữ Hàm (曳_ HAṂ) gia ở chân tóc, ánh sáng màu đen như kiếp tai dậy lửa có uy mãnh lớn, gọi là Tự Tại Lực.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Hàm” (Tức chữ Sở Quán)

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HAṂ

.) Tiếp tưởng chữ Khiếm (? Khư ) (几_ KHA) an trên đỉnh đầu, gia thêm điểm Không (KHAṂ _丈) khởi ánh sáng quý báu đủ tất cả màu sắc tràn khắp tất cả nơi chốn, gọi là Đại Không Trí.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Khiếm “

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ KHAṂ

Dùng 5 chữ này bày ở Thắng Thân, đủ ánh sáng Trí Tuệ uy đức lớn, vĩnh viễn không có mọi nạn với 3 nghiệp ác, tất cả Ma Quân tự nhiên giáng phục, Quỷ Thần khó điều phục không thể gây chương ngại, chỉ thấy thân Kim Cương hách dịch.

_ Lại ở trong thân, tưởng đặt chữ A (? Ám) (珃_AṂ). Ở 2 mắt, tưởng đặt chữ Lãm (劣_ RAṂ). Như trước nên quán thân của mình tức là thân Như Lai, dùng mắt Vô Cấu chiếu vành trăng tim, tương ứng câu chữ. Hoặc tụng hoặc nghĩ không cho gián đoạn. Tiếng như chuông mõ, Trí như gương sáng. Như Phật Bồ Tát đã nói Minh Ấn, tùy vui thọ trì mau được thành tựu

_ Tiếp đến, nếu người vui thọ trì Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ấn Pháp. Trước hết ở trái tim của mình đặt chữ (乩_ BHAḤ) Chữ đó có ánh sáng lìa các Quán

Hạnh. Tác tưởng như vầy:“Từ chữ này chuyển khởi thân Mâu Ni” Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Bà”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHAḤ

Bí mật gia trì thành thân Phật xong, nên trì Mật Ấn với dùng Chân Ngôn. Tướng Ấn đó là: Để 2 bàn tay ngang rốn, tay phải đè tay trái giống như nhập định là Như Lai Bát Ấn.

Tụng Thân Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Tát lật-phộc cát-lệ xả, nễ tố nại ná, đạt lậtma phộc thất đa, bát-la bả đa, già già ná tam ma tam ma, sa-phộc ha “

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ SARVA KLEŚA NIRSUDANA

DHARMA VAŚITAḤ PRĀPTA, GAGANA SAMA ASAMA SVĀHĀ

Như vậy thọ trì Minh Ấn vui thành tựu đều y theo Bản Tự (chữ gốc) tương ứng mà chuyển khởi hình Bản Tôn. Lại dùng Tự Minh an bày chi phần của thân, sau đó trì tụng (như trước đã nói)

_ Tiếp đến, nếu muốn tu hành Pháp Môn này. Trước tiên nên cầu vào Đại Lộ Ca Noa (đây là Bi Sinh) Mạn Trà La (Mahā-kāruṇodbhava- maṇḍala) xong lại nương thọ trì Xà Lê quán đỉnh, tức cần tu hành đầy đủ Pháp này. Giả sử được Trì Minh, Quán Đỉnh khác mà chẳng được thâm sâu, nếu được Pháp Môn này bổ trợ thì chư Phật Bồ Tát thảy đều vui vẻ.

_ Tiếp đến Trì Minh riêng biệt. Có thể y theo Nghi Quỹ do Kinh này đã nói. Ở chi phần của thân, an bày chữ của Minh. Ấy là nhóm 5 chữ sẽ tăng thêm uy đức, lìa các tội lỗi. Xong có thể y theo Pháp Tắc của Bản Tôn, trì tụng thành tựu.

Lại nữa tùy theo sự trì tụng Minh Ấn của Bản Tôn ấy. Tướng của Mạn Trà La tùy theo việc mà có hình sắc, ngồi, đứng, phương tiện khéo, Du Già (Yoga) mau được Tất Địa.

Phàm có 3 Phẩm là Thượng, Trung, Hạ.

Tùy việc tương ứng lại có 3 loại là: Tịch Tĩnh Trừ Tai (Śāntika), Tăng Ích (Puṣṭika), Giáng Phục (Abhicāruka).

Tùy trong một loại lại chia ra làm 4 Tướng là: Tướng tròn màu trắng, tướng vuông màu vàng, tướng hoa sen màu đỏ, tướng tam giác liền bày màu đen. Đây gọi là 4 Tướng

_ Lại nữa, tu sự Tịch Tĩnh thì ngồi Kiết Già, hướng mặt về phương Bắc ,đối diện với tướng tròn, một lòng lìa duyên tác Pháp thành tựu, gọi là Phiến Để Ca (Śāntika)

Tu sự Tăng ích thì giao hai ống chân kèm chặt, hướng về phương Đông, đối diện với tướng vuông, vui vẻ mà ngồi tác Pháp thành tựu, gọi là Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika)

Tu sự Tướng Nhiếp Pháp, nâng cao 2 đầu gối như tường Hiền Tọa, dung mạo giận dữ, tâm vui vẻ và xưng tên việc ấy, đối trước tướng hoa sen mà trì tụng, gọi là Bá Thí Ca La Noa (Vaśikaraṇa: Tăng Ích)

Tu sự Giáng Phục, Không Lộ Cứ Tọa (Ngồi Xổm) hướng mặt về phương Nam, đối trước hình Tam Giác, khởi Trí phẫn nộ cùng Pháp tương ứng, gọi là A Tỳ Già La Ca (Abhicāruka)

Như vậy trì tụng tác thành tựu. Tùy loại hương hoa và dùng quần áo xứng với Bản Pháp: Nhương Tai, Tăng Phước, Diên Thọ, Giáng Oán thứ tự tương ứng đừng để sai lầm, tùy ý thành tựu

_ Lại nữa, ấy là Minh bắt đầu an chữ Án (OṂ) cuối cùng xưng Sở Phương, nói Sa-phộc ha (SVĀHĀ) thì gọi là Phiến Để Ca (Śāntika:Tức Tai)

Minh bắt đầu xưng chữ Án (OṂ) cuối cùng xưng Sự Danh Phương, xưng câu Hàm phát tra (HŪṂ PHAṬ), thì gọi là Giáng Phục A Tỳ Già La Ca (Abhicāruka)

Nếu Minh bắt đầu xưng câu Ná ma (NAMAḤ) cuối cùng xưng lời sau chót là câu Ná ma (NAMAḤ) thì gọi là Tăng Ích Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika)

Nếu Minh bắt đầu xưng câu Hồng phát tra (HŪṂ PHAṬ) cuối cùng xưng danh sự, lời cuối là câu Hồng phát tra (HŪṂ PHAṬ) cũng gọi là A Tỳ Già La Ca (Abhicāruka:Giáng Phục)

Hoặc Minh bắt đầu xưng câu Ná ma (NAMAḤ) cuối cùng xưng việc của mình, nếu nói câu Hồng phát tra (HŪṂ PHAṬ). Đấy gọi là Bá Thí Ca La Noa

(Vaśikaraṇa: Kính Ái)

Hoặc Minh bắt đầu là câu Hồng phàt tra (HŪṂ PHAṬ) ở danh sự, cuối cùng là Thân đà thân đà (Cchinda cchinda) Thân đà thân đà (Bhinda bhinda) cũng gọi là A

Tỳ Gia La Ca (Abhicāruka:Giáng Phục)

Minh Pháp như trên là thứ tự sắc tướng đều y theo chữ chuyển thành hình Bản Tôn, đều tùy theo Bản Pháp gia trì thân của mình. Hoặc Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva) hoặc Phật (Buddha) Bồ Tát (Bodhisattva) đều nên suy tư cùng với Pháp Tướng tương ứng mà tác Pháp thành tựu. Ấy là nhóm vô lượng công đức của Phật Bồ Tát như trước

Lại đối với Giới Phận Hữu Tình vô tận, hưng Nguyện Đại Bi làm các việc lợi ích. Chư Phật Bồ Tát tùy mọi loại hương hoa mà tác Cúng Dường (Như trên đã nói)

_ Lại nữa, nên chắp hai tay, dùng bài Tán Kim Cương, ngôn từ vi diệu khen ngợi công đức chân thật của Như Lai. Đem việc lành đã tu tập đều hồi hướng phát nguyện.

Nói lời như vầy:

“Mọi Công Đức, Như Lai đã chứng

Thảy đều hồi hướng Đại Bồ Đề

Nay con gom Phước Tuệ đã tu

Hồi hướng Bồ Đề cũng như vậy

Pháp Giới chúng sinh vương sống chết

Luân hồi sáu nẻo không chỗ về

Thệ nguyện đều độ đến Bồ Đề

Tự lợi, lợi tha đều đầy đủ

Con y Như Lai Đại Trí trụ

Tất cả chúng sinh, Phổ Nguyện đồng

Thường nên tu tập gom Phước Đức

Lìa hẳn nghiệp chướng các phiền não

Chúng con nguyện được Đệ Nhất Lạc (Niềm vui bậc nhất)

Tất Địa vô ngại, được nên thành

Trong ngoài thanh tịnh khéo trang nghiêm

Đầy đủ từ thân lưu xuất khắp

Dùng nhân duyên này thành tựu nên

Ước nguyện chúng sinh đều khiến đủ”

Tác hồi hướng phát nguyện như vậy xong. Lại dâng Át Già với các cúng dường (Như trên đã nói) Liền chắp tay đặt trên đỉnh đầu, quy mệnh lễ Phật với chúng Bồ Tát.

Nói lời như vầy:

“Kính lễ Phật mười phương

Tất cả các Bồ Tát

Nguyện xin an lập con

Ở Đạo Tối Vô Thượng

Đại Thừa diệu thâm sâu

Mau khiến con khai giải

Tâm quyết định Vô Đẳng

Đoạn hết sạch nghi ngờ”

Tác lễ xong nên Khải Bạch. Nói lời như vầy:

“Các Như Lai hiện tiền

Các Bồ Tát cứu thế

Chẳng đoạn Giáo Đại Thừa

Đến địa vị thù thắng

Nguyện xin chúng Thánh Tôn

Quyết định chứng biết con

Đều nên tùy chỗ an (Sở an)

Sau rũ thương giáng đến”

Lại kết Tam Muội Gia Ấn lúc đầu đưa lên trên đỉnh đầu rồi bung tán.

_ Pháp tắc Kết Hộ như trước, ghi nhớ thứ tự, mỗi mỗi giải tán. Trước tiên là Thỉnh cầu Bản Tôn đều quay về Cung, nếu chẳng giải trừ tức là Vô Đẳng Thệ Pháp Già chẳng đi.

Như vậy giải tống Tôn xong, sau đó liền kết Pháp Giới Pháp Minh Ấn đã nói lúc trước để gia trì thân của mình (Pháp như trước đã nói). Tác suy tư này: “Thân này của con cùng với Bản Tính của Pháp Giới, đồng thể trụ Tâm Bồ Đề giống như Kim Cương Tát Đỏa”. Tức lại tưởng chữ Lam (劣_RAṂ) ở trên đỉnh đầu của mình

Lại dùng Giáp Trụ Minh Ấn mặc áo giáp Kim Cương. Mật nghiêm như vậy tức là Tự Tính đồng với Bậc Kim Cương Vô Hoại, chư Hữu thấy nghe thân người này tức cùng nhìn thấy Phật với các Bồ Tát. Hoặc nghe tiếng nói, hoặc chạm thân ấy thảy đều quyết định ở A Nậu Bồ Đề, được Bất Thoái Chuyển, thảy đều thành tựu tất cả công đức, tức cùng với thân Phật ngang bằng không có khác.

Như vậy xong rồi, lại khởi Tâm Tăng Thắng tu hành sự nghiệp. Vì các Hữu Tình nên khuyên, tự khuyên không được lười biếng ngạo mạn. Ở chốn thanh tĩnh tùy phần hương hoa nghiêm trì cúng dường

Nếu quán thân mình như Phật Bồ Tát. Nơi khởi của thân hoặc trụ Quán Âm, hoặc trụ thân Thắng Diệu của chư Phật, tùy Bản Minh Ấn mà dùng gia trì, dùng tâm Pháp Thí. Sau đó đọc tụng Kinh Điển Đại Thừa Phương Quảng thâm sâu, ca tán vô lượng công đức của Như Lai, hoặc dùng tâm niệm thỉnh chư Thiên Thần đều khiến cho nghe nhận.

_ Lại nữa, nếu dùng Quán Âm (Avalokite’svara) gia trì thân thì vị Bồ Tát này tức là Pháp Thân chân tịnh, công đức trang nghiêm của Như Lai.

Nếu dùng Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) gia trì thân thì Đức Như Lai này là vua của tất cả Pháp, ở trong các Pháp được tự tại.

Vì thế cho nên đối với 2 Tôn này, tùy y theo một Tôn, tác Bản Tính Tướng mà dùng gia trì

_ Lại nữa, nếu dùng Tính Quán Âm để gia trì thì tưởng dùng chữ Sách (SA) đặt ở trong trái tim.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Sách “

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ SA

Nên nghĩ nghĩa của chữ Sách (SA) là không nhiễm không dính giống như hoa sen xuất ra từ tính của bùn lầy. Như vậy hình màu nhiệm của Quán Âm cũng chuyển từ chữ này, tức là Thánh Giả không có dáng dấp của người phàm (Như trên đã nói).

Tướng Ấn tức là Hoa Tòa Ấn lúc trước. Tụng Minh này là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, phộc lộ cát đế, ca lỗ noa ma dã, la la, hồng, xà, sa-phộc ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ SARVA-TATHĀGATA

AVALOKITA KĀRUṆA-MAYA _ RA RA HŪṂ JAḤ_ SVĀHĀ

Trước tiên dùng chữ Lãm (RAṂ) đặt trên đỉnh đầu, lại dùng Minh Ấn này gia trì trên đỉnh đầu của thân mình, sau đó tùy sức đọc tụng Kinh Điển. Hoặc tạo tháp Chế Để (Caitya) hoặc Mạn Trà La (Maṇḍala: Đàn Trường), nhiễu tháp kinh hành, các sự nghiệp lành, tu sáu Hòa, kính Hữu Tình mới phát tâm.

_ Lại nữa, nếu đến lúc ăn thời vì chi phần nên hành Khất Thực (đi xin thức ăn) hoặc Đàn Việt (Dānapati:Thí Chủ) hoặc thức ăn trong chúng Tăng. Thức ăn xin được nên lìa cá thịt, huân thái (rau có mùi nồng như hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ). Phần dư thừa sau khi cúng dường Bản Tôn, chư Phật cho đến mọi loại dư thừa để cách đêm, qủa cạy bất tịnh, các thứ nước uống có thể làm cho người bị say… đều chẳng nên nhận.

Nếu được thức ăn dư trong sạch như Pháp. Trước hết dùng tay nắm thức ăn dâng hiến Bản Tôn, sau đó tùy ăn. Phần thức ăn dư thì đem cho các kẻ đói khát, bần cùng, người đi xin ăn. Nên tác niệm này:“Ta vì giữ thân an ổn để hành Đạo nên nhận thức ăn chứ chẳng vì mùi vị thơm ngon mà thêm bớt nơi tâm, cũng như tra dầu mỡ vào xe chuyên chở các vật chẳng cho hư hoại”.

Tác niệm ấy xong, sau đó liền ở trong nơi thọ thực, tưởng đặt chữ Lãm (RAṂ) tĩnh khắp các thức ăn.

_ Lại tưởng toàn thân mình thành chữ Lãm (劣) Từ chữ này chuyển làm Yết Ma Kim Cương Kiên Cố Tát Đỏa. Tưởng Tự Minh là:

“Ná ma tam man đa bột đà nan. Án Noan, sa ha”

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ VAṂ (?RAṂ) SVĀHĀ

Vì sức của Minh này nên hay khiến cho mau chuyển được thân Kim Cương.

_ Lại tụng Thí Thập Phương Minh 8 biến rồi ăn.

Minh là:

“Ná ma tát lật-phộc bột đà mạo địa tát đỏa nan. Án, ma lam đà nễ, đế minh ma lý nễ, sa ha”

NAMAḤ SARVA-BUDDHA BODHI-SATVĀNĀṂ_ OṂ BALIṂ DADE TEJE-MĀLINI SVĀHĀ

Trụ Bản Tôn Du Già ăn xong, hết thảy thức ăn còn dư, dùng Tâm bất động trì tụng một biến rồi đem cho Bạn Thần (Vị Thần cùng ăn ở với mình). Vị Thần này vui vẻ thường tự tương tùy mà làm ủng hộ.

Bất Động Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Đá-la tra, a mộ già chiến noa, ma ha lộ sái noa, cấp-phả tra dã, hồng, đát-lạt bà dã, đát-lạt bà dã, hồng, đát-lạt tra, hãn, mãn”

 

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ TRĀṬ _ AMOGHA-CAṆḌA MAHĀROṢAṆA SPHAṬYA HŪṂ, TRABHĀYA TRABHĀYA HŪṂ TRĀṬ, HĀṂ MĀṂ

Lại nữa, ăn xong thì tạm nghỉ. Lại nên lễ bái như trước, hối lỗi, tịnh thân, đọc tụng Kinh Điển. Như Pháp thường nghiệm, chẳng nên gián đoạn thiếu sót. Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm như Pháp đã ứng, suy tư tu tập. Nếu tạm nằm ngủ tức như trước nói. Sự nghiệp Kim Cương, Minh Ấn, Chữ… chuyển thân, mặc giáp như thân Kim Cương, kính lễ tất cả chư Phật Bồ Tát đẳng. Liền vận Tâm khởi mây hương hoa mà tác cúng dường. Tác Tâm thương xót che giúp chúng sinh cầu Đại Bồ Đề. Tác Tâm đó xong thì mới có thể yên ngủ chút ít, đừng vì nẳm ngủ mà sinh tham dính. Ứng với uy nghi của chính thân là: Nghiêng hông phải, gác chéo chân như sư tử nằm. Nếu chi thể mệt mỏi thì tùy ý chuyển ắt nên tưởng tướng ánh sáng, tâm khởi mau chóng. Lại nữa chẳng nên ngồi nằm trên giường phản cao rộng đẹp đẽ. Thức dậy xong, như lúc đầu tu tập niệm tụng cho đến khi mặt trời ló dạng. Xong việc Pháp như trên

_ Tiếp lại trì Chân Ngôn, thường nên siêng năng chẳng nên vứt bỏ. Tất cả chư Phật Bồ Tát ba đời đều tu Pháp này mà mau được Địa Nhất Thiết Trí của Như Lai.

Nếu kẻ có Trí, từ địa phàm phu như Pháp tu hành tức hay ở đời này vượt qua khắp vô biên quốc độ của chư Phật.

_ Lại nữa, nếu y theo biến số. Ở trong Thời Tướng, siêng năng tu tập mà chẳng thành tựu thì nên tự cảnh ngộ, ra công tinh tiến nhiều hơn, đừng sinh lui mất, khởi tưởng kém cỏi mà nói Pháp này chẳng phải là điều mà ta kham nổi. Lại chẳng nên tác tâm lơ là kiêu mạn, đem hết sức lực của thân này tác ý quyết định gặt hát thành tựu.

Lại tác niệm này: “Tất cả chư Phật với các Bồ Tát là chỗ nương tựa của ta. Do ta y theo nên vô tận hữu tình mong cầu ta cứu độ, ta thề độ thoát tất cả chúng sinh”.

Như vậy cần thành chẳng ngơi nghỉ cho nên chư Phật Bồ Tát đều biết tâm này, liền dùng uy thần gia trì chẳng bỏ, tùy theo chỗ làm liền được thành tựu.

_ Lại nữa, hai việc trong đó chẳng nên xa lìa sẽ mau được thành tựu. Một là: Chẳng bỏ chư Phật với các Bồ Tát. Hai là: Chẳng bỏ việc nhiêu ích chúng sinh. Luôn y theo tâm trí, nguyện chẳng lay động thì hai Hạnh này tùy ý thành tựu.

_ Lại nữa, tu hành Pháp này, tùy ý trong ngoài, tắm rửa thân tâm thường khiến trong sạch. Hai Pháp trong này là: Nội Táo Dục (tắm rửa bên trong) và Ngoại Táo Dục (tắm rửa bên ngoài)

Tắm rửa bên trong là an bày chữ của Minh ở trong thân tâm gọi là Nội Táo Dục (như trên đã nói)

Tắm rửa bên ngoài là tùy thời tẩy rửa hoặc ở sông, suối, ao. Tam Muôi Gia an trên đỉnh đầu của mình, dùng chữ Lam (RAṂ) ấy đặt ở trong nước. Dùng

Động Minh Ấn kết hộ nơi ấy.

Trí Tự Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Lam” 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ RAṂ

Đặt ở chữ này hay khiến cho lìa nhơ bẩn.

_ Lại tùy vui trụ thân tướng Bản Tôn. Lại nên dùng Bất Động Minh Vương gia trì vào 3 nắm đất dùng tắm rửa.

Bất Động Minh là:

“Ná ma tam mạn đa bột đà nan. Hãn” 

NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ HĀṂ

Kết Đao Ấn lúc trước dùng tiếp chạm mặt đất, hộ Thân kết Giới, tùy ý nên làm.

_Lại dùng Tam Giới Tối Thắng Tâm Minh dùng để kết hộ.

Tâm Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Hác”

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ _ HAḤ

Mật Ấn ấy như Ngũ Cổ Kim Cương lúc trước vậy.

_ Hoặc tụng Thân Minh là:

“Ná ma tam mạn đa phộc nhật-la noản. Kha vi-ma, tát lật-phộc đát tha nghiệt đa, vĩ sái duệ, tam bà phộc, đái-lại lộ chỉ-dã, vi xả dã, hồng, xà, sa ha”

 

NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆĀṂ_ HA HA HA , VISMAYA _ SARVA TATHĀGATA-VIṢAYE SAṂBHAVA, TRAILOKYA-VIJAYA HŪṂ JAḤ SVĀHĀ

Như vậy tắm xong, đi đến một tĩnh xứ hoặc trong ao nước, dùng Ấn bụm nước, như Pháp xúc miệng. Ấy là dùng tay Ấn thấm mắt, tai, mũi, miệng, đỉnh đầu, cổ họng… rửa ráy thân áo. Lại dùng kết Tam Muội Gia đặt trên đỉnh đầu, tưởng lễ Bản Tôn với các Bồ Tát.

Lại dùng hai tay bụm nước dâng hiến Bản Tôn 3 lần. Dùng 3 bụm nước tắm rửa Bản Tôn với Tam Bảo xong, từ nơi tắm rửa đi ra, thương nhớ Hữu Tình muốn khiến cho giả thoát lối nẻo, đi đến Tĩnh Thất , y thứ tự như trước mà tác niệm tụng

_ Lại nữa, nếu y theo trong nước tác niệm tụng thời nước hoặc hoặc đến đỉnh đầu làm Thượng Thành Tựu. Nước đến eo lưng làm Trung Thành Tựu. Nước đến bắp đùi làm Hạ Thành Tựu. Ba tướng như vậy, tùy được một tướng. Nơi Thượng Trung Hạ thảy đều thành tựu, một thời trừ hết vô lượng tội nặng, tất cả Trí câu tập tại thân này.

_ Lại nữa, nếu dùng cúng dường tất cả chi phần với mọi phương tiện, thứ tự tu hành chẳng lìa các tướng cầu thành tựu. Đây gọi là Thế Gian Tiểu Tất Địa vậy.

Nếu y theo Vô Tướng Tối Thắng quán sát thân tâm , tín giải cầu quả Vô Thượng. Tùy nơi ánh sáng chiếu rọi, vận tâm cúng dường. Dùng Câu chân thật đặt ở trái tim, chi phần . Xa lìa duyên bám níu hư vọng, tu hành niệm tụng được Xuất Thế Gian Tối Thượng Thành Tựu . Y theo Khế Kinh nói thứ tự phương tiện mà nói lời Kệ:

Tướng, Vô Tướng thâm sâu

Kém Trí chẳng thể vào

Y Vô Tướng nói Tướng

Nhiếp hai loại người ấy

 

ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT NÓI KINH NIỆM TỤNG YẾU LƯỢC

(MỘT QUYỂN_Hết)

Hiệu chỉnh xong một quyển vào ngày 01/10/2010