THÍ VÔ ÚY THỦ NHÃN
Thí Vô Úy Thủ (Tay ban cho sự không sợ hãi)
Tay thứ ba trong tám tay thuộc Như Lai Bộ của Mật Pháp, là Pháp Tức Tai.
Câu thứ 72 trong Chú Đại Bi là: ”Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ” dịch nghĩa là thành tựu quang minh tự tại tức Thí Vô Úy Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ hai trong Kinh Văn:
“Nếu muốn trừ sự sợ hãi chẳng yên ở tất cả thời, tất cả nơi thì nên cầu nơi tay Thí Vô Úy”.
Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ bảy:
“Nếu người nào vì tất cả chốn sợ hãi, chẳng an thì nên cầu nơi bàn tay Thí Vô Úy”.
Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ bảy là:
Nếu muốn lìa sợ hãi nên tu pháp Thí Vô Úy. Tướng TRỪ BỒ QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT…… chỉ duỗi 5 ngón tay phải hiện chưởng, tay trái duỗi 5 ngón nâng đặt ở trên vú trái hiện chưởng, vẽ tướng xong.
Tướng Ấn đó như tướng tay ấn của tướng vẽ.
7) Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi Tay Thí-Vô-Úy.”
Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
𑖡𑖱𑖩𑖎𑖡𑖿𑖞 𑖫𑖒𑖿𑖏-𑖨𑖯𑖕
NĪLAKANTHA ŚAṄKHA-RĀJA
NĪLAKANTHA (Thanh Cảnh) ŚAṄKHA (vỏ ốc biểu thị cho cái loa Pháp) RĀJA (Vương, vua chúa)
NĪLAKANTHA ŚAṄKHA-RĀJA: Thanh Cảnh Pháp Loa Vương Bồ Tát biểu thị cho sự chính tâm thành ý hay trừ bỏ sự ách nạn sợ hãi.
“Na Ra Cẩn Trì”: Dịch ra nghĩa là “hiền thủ”. Hiền là Thánh Hiền. Thủ là thủ hộ.
“Bàn Đà Ra Dạ”: Dịch ra là “Quán Tự Tại”, “Quán Thế Âm”, còn gọi là “phóng quang”.
Thủ Nhãn này là “Thí Vô Úy Thủ Nhãn”. Thí Vô Úy Thủ Nhãn này là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng để cứu hộ tất cả chúng sinh, bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều không sợ hãi, không sợ tất cả cảnh giới khủng bố.
Kệ:
Tiểu trung hiện đại vô ngại thân
Đông tây nam bắc nhậm tung hoành
Tam thiên thế giới duy nhất niệm
Nhĩ ngã tha tâm bất khả phân
Dịch:
Nhỏ hóa lớn vô ngại thân ứng hiện
Nam bắc đông tây tùy ý dọc ngang
Một niệm gồm thâu thế giới ba ngàn
Anh, tôi, người, tâm chưa từng chia cách.
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨-𑖡𑖯𑖧 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿
OṂ_ VAJRA-NĀYA HŪṂ PHAṬ
OṂ (Quy mệnh) VAJRA-NĀYA (Lý Thú Của Kim Cương) HŪṂ (Khủng bố) PHAṬ (phá bại)
Bàn tay rủ xuống gọi là THÍ (Dàna) tức là nghĩa DỮ NGUYỆN (Varada). Do lòng bàn tay hướng ra ngoài nên gọi là Vô Úy (Abhaya). Như vậy Thí Vô Úy là tên của Ấn.
Khi gặp các sự sợ hãi do các loài Ly Mị ở núi, sông, khe, rạch……gây não loạn. Hành Giả, tay phải kết Ấn Thí Vô Úy tụng Chú thì các Quỷ Thần sẽ bị cột trói và Hành Giả sẽ được an ổn .
Muốn thành tựu Pháp này, Hành Giả ở trước Bản Tôn , quán tưởng tướng tay, tụng Chú thì sẽ trừ được sự sợ hãi.
Kệ tụng:
Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phước thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.
[Thật kỳ lạ Pháp bảo diệu kỳ, thiên ma “ Y LỆNH” không dám lại gần.
Ai trì “ TAY THÍ-VÔ-ÚY” thì nghiệp chứng tiêu trừ, Bồ-đề Tâm kiên cố.
Vạn-bệnh được lành, Phước-Thọ tăng trưởng.
Tay-mắt Vô-úy-thí, cứu độ chúng sanh không còn “TÁNH” sợ hãi bất an.]
Bồ-đề Tâm kiên cố là Tâm cầu sự giác ngộ như chư Phật không khi nào thoái chuyển, ai phát Tâm này đều là “ĐẠI-THỪA PHẬT GIÁO.” Hoặc ai phát nguyện “VÃNG SANH CỰC-LẠC”, thì được bất thoái chuyển ở nơi quả vị Phật, cũng gọi là Bồ-đề Tâm kiên cố.
Cho nên, Tịnh-Độ Tông lấy “một đời vãng sanh chứng được bất thoái chuyển” nơi quả Phật làm “TÔNG-CHỈ”.
Kệ tụng Việt dịch:
Phi thường pháp bảo trói thiên ma
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Dứt bệnh ngày xuân tăng phúc thọ
Đưa tay vô úy độ quần mê.
Thí Vô Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bảy
Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
𑖡𑖱𑖩𑖎𑖡𑖿𑖞 𑖫𑖒𑖿𑖏-𑖨𑖯𑖕
NĪLAKANTHA ŚAṄKHA-RĀJA
Án– phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨-𑖡𑖯𑖧 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿
OṂ_ VAJRA-NĀYA HŪṂ PHAṬ
* Bản Hán-văn thiếu chữ “phạ”.