LUẬN ĐẠI THỪA BẢO YẾU NGHĨA
Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 5

Như Kinh Địa Tạng nói: Lại nữa có Sát-đế-lợi Chiên-đà-la cho đến trưởng giả Chiên-đà-la đối với những thứ được làm cho 4 phương tăng như tạo lập chùa chiền tinh xá vườn rừng đài quán ruộng đất người giúp việc v.v… ẩm thực y phục đồ nằm thuốc thang, hoặc cây ăn trái, cây thuốc nhuộm, cây hương liệu, cây che mát cho đến các thứ dụng cụ hoặc tự xâm phạm chiếm đoạt, hoặc sai người xâm đoạt, hoặc tự thụ dụng hoặc khiến người thụ dụng, đối với nơi người xuất gia trong pháp của ta hoặc sinh giận dữ, mắng nhiếc, cấm cản, khinh khi gây chướng nạn đối với chính pháp, quấy rối pháp sư thuyết pháp, những việc làm như thế sinh tội lỗi rất nặng trong 3 đời tất cả Phật Thế Tôn, cho đến tất cả người trí đều xa lánh.

Lại nữa trong đó Thế Tôn có nói ta chấp nhận cho các Bồ-tát Ma-ha-tát bậc nhẫn địa được thụ dụng Sát-đế-lợi vương quán đảnh và phú lạc. Bồ-tát Kim Cương Tạng bạch Phật: Thế Tôn ! Vua Sátđế-lợi thụ quán đảnh, nếu chẳng phải Bồ-tát được nhẫn sẽ phải đọa những ác thú nào ? Phật nói: Kim Cương Tạng ! Nếu chẳng phải Bồtát được nhẫn thì chỉ có thể tu tập 10 thiện nghiệp đạo, thụ Sát-đếlợi vương quán đảnh và thụ dụng phú lạc ta cũng chấp nhận. Bồ-tát Kim Cương Tạng bạch Phật: Thế Tôn ! Nếu chẳng phải Bồ-tát được nhẫn, lại không tu đầy đủ 10 thiện nghiệp đạo, Chiên-đà-la Sát-đếlợi La-nhã kia ở trong giáo thậm thâm của Thế Tôn khiến giảm mất, phải đọa trong địa ngục lớn A-tì, làm sao được giải thoát ? Phật nói: Thiện nam tử thụ Sát-đế-lợi vương quán đảnh, nếu mặc áo giáp tín lực kiên cố, sinh tịnh tín rộng rãi trong Tam Bảo, lại không đối với 3 thừa pháp xuất ly của ta mà sinh hủy báng, dưới đến một bài kệ 4 câu cũng không khinh chê, với người giữ giới phá giới hoàn toàn không quấy rối, nếu là vật thuộc chúng tăng hoặc thuộc của riêng, tất cả vật thụ dụng đều không xâm đoạt cấm cản, thường nghe thụ pháp 3 thừa xuất ly, tùy sức tu hành, thường thân cận các Bí-sô tu hành 3 thừa, nguyện lực kiên cố không khởi tâm trái nghịch, dạy dỗ hữu tình pháp Đại thừa khiến vào an trụ, nếu là vua Sát-đế-lợi có thể đủ các tướng như vậy thì nên thụ dụng quảng đại phú lạc mà không thoái đọa. Chư Phật Như Lai trước đều chấp nhận, ta nay cũng chấp nhận việc này.

Lại nữa trong đó nói như thế này: Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện trưởng giả, hoặc nay hiện tại hoặc đời vị lai cho đến 5 trăm năm khi pháp gần diệt, hoặc tự mình hoặc người khác làm công việc hộ vệ, trong giáo pháp thanh tịnh của Phật kiên cố giữ gìn, lại nữa với người an trụ Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Đại thừa, các Bổ-đặc-già-la tu đầy đủ giới đức thanh tịnh rộng lớn, nếu là pháp khí hoặc chẳng phải pháp khí, cho đến người chỉ cạo râu tóc mặc ca-sa đều bảo hộ. Lại bảo vệ giữ gìn chùa tháp và các vật sở thuộc không xâm đoat hoặc tự thụ dụng hoặc cho người khác thụ dụng, ai xâm phạm thì liền ngăn cản, phúc uẩn như vậy vô lượng vô số không có hạn lượng.

Bấy giờ trong hội, tất cả thiên chủ cho đến Tất-xá-tả chủ đồng nói rằng: Thế Tôn ! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện trưởng giả có đầy đủ công đức như vậy chúng con đều ủng hộ khiến đủ 10 việc tăng trưởng.

Những gì là 10 ?

  1. Tăng trưởng tuổi thọ.
  2. Tăng trưởng không tai nạn.
  3. Tăng trưởng không bệnh tật.
  4. Tăng trưởng quyến thuộc.
  5. Tăng trưởng tiền bạc của cải.
  6. Tăng trưởng đồ dùng sinh hoạt.
  7. Tăng trưởng tự tại.
  8. Tăng trưởng tiếng khen.
  9. Tăng trưởng bạn lành.
  10. Tăng trưởng trí tuệ.

Chúng con và quyến thuộc chúng con thường bảo hộ chân thiện Sát-đế-lợi vương kia đến tận biên giới của đất nước, bảo hộ khiến xa lìa 10 thứ.

Những gì là 10 ?

  1. Binh địch của nước khác.
  2. Binh địch trong nước.
  3. Người tạo nghiệp có tội.
  4. Người sát hại.
  5. Mưa trái mùa.
  6. Gió chướng thời tiết nóng.
  7. Cực ác tinh tú.
  8. Nạn đói kém.
  9. Ác bệnh chết yểu.
  10. Tà kiến.

Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: Phật nói: Nếu các thiên long Dạ-xoa ở trong giáo pháp ta làm kẻ hộ trì, thì đó là đại thí chủ khiến pháp nhãn của ta tồn tại lâu dài, dòng giống Tam Bảo không tuyệt dứt. Các Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di những đứa con sinh từ miệng ta, từ pháp hóa sinh và các tịnh tín thiện nam tử thiện nữ nhân vì pháp thắng nghĩa đế cho đến vì cầu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tambồ-đề thảy đều hộ trì. Ta nay tự thân phú chúc cho các ngươi thiên long Dạ-xoa đại thí chủ và Từ Thị v.v… các Bồ-tát Ma-ha-tát trong đời hiền kiếp làm kẻ hộ trì như ta đã sắc bảo. Ai muốn an trụ tu hành chính pháp liền được thiện tâm.

Sao gọi là được thiện tâm ?

Như Kinh Bảo Vân nói: Bồ-tát được thiện tâm, trong đó sao gọi là thiện tâm ? Nghĩa là nếu có thể thân tâm ly tức được thiện tâm. Nên sinh tâm như vậy mà thẩm xét quán sát sẽ dùng pháp gì là pháp tâm mình sẽ thực hành. Lại nữa lấy gì gọi là thiện ? Nếu thực hành nơi thiện tức tâm hoan hỷ thanh tịnh. Do tâm hoan hỷ nên hành thiện, có thể sinh nhiều thứ chán lìa, có thể khởi nhiều thứ quan sát mà các pháp bất thiện đều diệt mất.

Kinh A-xà-thế Vương nói: Các Bồ-tát không nên sinh tâm như vậy. Nếu tâm có chỗ sinh thì các ác ma dò xét được chỗ tiện. Chư Phật Như Lai cũng không ưa thích, hiền thánh không sinh tâm hoan hỷ, phần thiện căn của mình cũng giảm mất. Nếu sinh tâm mà không có chỗ sinh tức các ác ma dòm ngó không thấy chỗ tiện, chư Phật Như Lai đều ưa thích, hiền thánh hoan hỷ, phần thiện căn của mình không giảm mất. Nếu tu hành như vậy tức nơi tất cả xứ sinh tâm, sinh tâm chuyển pháp luân, pháp nói ra không tạp loạn.

Như Kinh Khai Phát Nội Tâm nói: Phật nói: Từ Thị ! Nếu các Bí-sô thuyết pháp tạp loạn, tuy dù có đa văn trở lại sinh kiêu ngạo mê say quên mất, nội tâm tán loạn không chuyên chú, tâm siểm khúc liên tục sinh, xa lìa Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na không được người tôn trọng, thiên long Dạ-xoa cũng không tùy thuận, chỗ tu chính hạnh không thành tựu. Nếu chỗ thực hành đều vô sở đắc, đó là chính hạnh. Nếu muốn biết rõ chính hạnh, tức là siêng thực hành tu tập, đa văn an tọa. Lại nữa, trong đó nói như thế này: Nếu có Bồ-tát siêng tu thắng hạnh mà làm tổng lãnh tạo tháp 7 báu đầy 3 ngàn đại thiên thế giới ta cũng không chấp nhận. Nếu lại có người nghe thụ chính pháp một bài kệ 4 câu tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa ta liền tôn trọng ngợi khen. Bởi vì sao ? Đa văn có thể sinh Bồ-đề chư Phật, lại từ thế gian không sinh thủ trước. Nếu có Bồ-tát siêng tu thắng hạnh làm tổng lãnh nên vì người khác thuyết pháp dạy dỗ. Bồ-tát với sự dạy dỗ đó khiến các pháp ràng buộc không sinh ràng buộc, đạt được phúc uẩn rộng lớn vô lượng nghiệp chướng tiêu tan.

Từ Thị ! Giả sử Bồ-tát tu thắng hạnh tổng lãnh đầy cả Diêmphù-đề, các Bồ-tát ấy nếu có thể với một Bồ-tát siêng năng thuyết pháp giảng dạy, phụng sự cúng dường, lại nếu Bồ-tát đầy Diêm-phùđề siêng tu thuyết pháp giảng dạy mà đều với một Bồ-tát cần hành an tọa, thừa sự cúng dường, như vậy Phật đều chấp nhận và tùy hỷ. Bởi vì sao ? Sự nghiệp trí tuệ là trên hết trong những sự nghiệp khó làm, cao hiển nhất trong tất cả 3 cõi.

Lại nữa, người tuyên thuyết chính pháp hạnh, như Kinh Bảo Tích nói: Phật nói: Ca-diếp ! Ví như một chủ nhà buôn muốn vào biển lớn tìm của báu vô giá trước quan sát kỹ thuyền bè có chắc chắn không, cho đến đến được chỗ báu rồi về lại nhà mình. Ca-diếp ! Bồtát Ma-ha-tát cũng vậy, muốn vào biển nhất thiết trí trước phải quán sát siêng tu 6 Ba-la-mật-đa cho đến vượt qua tất cả ngu phu, dị sinh, địa vị Thanh Văn, Duyên Giác nhiên hậu trụ quả vị Phật.

Kinh A-xà-thế nói: Phật nói: Đại vương ! Tâm nhất thiết trí không đứt mất căn bản. Như vậy căn bản đó phải khởi tinh tiến siêng năng cố găng chỉ dạy. Bố thí không chán đủ lấy đó hồi hướng trí nhất thiết trí. Trì giới không chán đủ vì hồi hướng tất cả hữu tình. Nhẫn nhục không chán đủ vì cầu sắc tướng Phật. Tinh tiến không chán đủ vì siêng tu tập các thiện căn. Thiền định không chán đủ vì sở duyên tương ưng. Trí tuệ không chán đủ vì đối với mọi nơi tư duy lựa chọn kỹ, vì pháp lợi. Phú lạc thọ mạng đối với tất cả mọi chỗ đều không lỗi lầm. Với lại người tu chính hạnh phải khởi tâm bình đẳng vì tất cả hữu tình.

Như Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: Phật nói: Đồng tử ! Bồtát Ma-ha-tát phải đầy đủ một pháp. Nếu thành công đức ấy tức mau chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Một pháp là những gì ? Đồng tử ! Là Bồ-tát Ma-ha-tát đối với tất cả hữu tình khởi tâm bình đẳng, tâm lợi ích, tâm không chướng ngại, tâm không độc. Đó là một pháp. Người muốn tu chính hạnh phải xả bỏ các việc lợi dưỡng.

Như Kinh Khai Phát Nội Tâm nói: Cần phải quan sát các việc lợi dưỡng vì đắm trước thì mất chính niệm. Nếu khi khởi si thì thành tự lợi. Nếu khi khởi siểm nịnh thì không thể tùy thuận những gì Phật dạy. Khi kiêu ngạo khởi thì cứ chỉ làm căn bản hiểm ác. Những thứ này phá hoại mất các thiện căn, nên người trí cần phải quan sát kỹ lợi dưỡng. Tuy hiện thụ thấy có sở đắc nhưng quả lợi đời sau là hoàn toàn không. Vô lượng thiền định đều xa lìa hết phải đọa các nẻo địa ngục ngạ quỷ súc sinh. Người trí phải quan sát kỹ lợi dưỡng. Như dòng nước chảy liên tục không dứt. Đã quan sát kỹ rồi như vậy sinh tâm thiểu dục tri túc.

Như Kinh Tạp A-hàm nói: Ví như có một bầy dê câm đi vòng quanh rừng Ni-câu-luật-đà kia. Trong đó có một con dê câm một mình đi đến chỗ người chăn dê trong sườn núi có bầy dê, đi đến trước bầy dê kia ngúc đầu quỳ xuống ngồi xin ăn và cầu che chở. Như vậy xong trở về bọn dê câm đều khinh chê. Đây có một loại Bí-sô ngã mạn ca tụng lợi dưỡng cũng như vậy, khởi tâm không chán xa lìa chúng vì cái ăn một mình vào làng xóm tuần hành khất thực lại cầu mời thỉnh, được món ẩm thực thanh tịnh tối thượng, tự mình ăn rồi còn mang về cho chúng Bí-sô nói: Chư tôn giả ! Hôm nay tôi được nhà bạch y mời được món thanh tịnh tối thượng, nay tôi có mang về các thứ khất thực được là trường thực pháp, là dĩ xả pháp. Các tôn giả nếu muốn ăn thì tùy ý. Nói như vậy xong các Bí-sô thiếu niên đều sinh khinh mạn. Người trí phải biết, nếu phát lời thô ác nói như vậy là vì những sự lợi dưỡng, như kinh có nói rộng.

Trong đây thế nào lá xa lìa 2 pháp siểm nịnh lừa gạt ?

Như Kinh Vô Nhiệt Não nói: Có 2 pháp làm chướng ngại tâm nhất thiết trí. Đó là lừa gạt và siểm nịnh. Có 2 pháp không chướng ngại. Đó là ngay thẳng và không nịnh bợ. Nếu muốn hoàn tất các chính hạnh thì phải thường thân cận thiện tri thức. Do thiện tri thức nên thành các chính hạnh.

Những kinh nào nói điều này ?

Như Kinh Thắng Sinh Thắng Man Giải Thoát nói: Các Bồ-tát Ma-ha-tát do thiện tri thức nên lưu xuất tất cả pháp Bồ-tát hạnh. Thiện tri thức có uy lực lớn có thể thành tựu viên mãn các Bồ-tát. Thiện tri thức có thể xuất sinh các thiện căn tất cả Bồ-tát. Thiện tri thức có thể kết tập sở hành tu học tất cả Bồ-tát. Thiện tri thức là căn bản có thể khiến tất cả Bồ-tát thâm tâm thanh tịnh. Thiện tri thức có thể bảo vệ tăng trưởng tất cả phúc uẩn. Thiện tri thức là nơi yêu thích vì đạt được tất cả Phật Bồ-đề. Thiện tri thức có thể nhiếp trì khiến các Bồ-tát không đọa ác thú, khiến không thoái chuyển nơi Đại thừa, không vượt học xứ của Bồ-tát, xuất quá hàng ngu phu, dị sinh, cũng không xả bỏ pháp Thanh Văn Duyên Giác mà lại còn che chở hộ giúp. Thiện tri thức có thể có thể khiến những người lầm đường trở về chính đạo, nghe chính pháp dẫn dắt khiến hiểu, ngộ nhập tất cả Phật pháp. Thiện tri thức như người mẹ có thể khiến tất cả đều sinh trong nhà Phật. Thiện tri thức như người cha rộng vì hữu tình nuôi lớn lợi ích. Thiện tri thức như người vú nuôi khéo bảo hộ tất cả khiến lìa tội nghiệp. Thiện tri thức như người giúp việc siêng năng dũng cảm có thể vào trong biển sinh tử đại phiền não làm công việc cứu vớt. Thiện tri thức như người chèo thuyền có thể chở hữu tình đến vùng đất rộng lớn quý báu của trí nhất thiết trí. Những người tu chính hạnh nếu muốn đến chỗ thiện tri thức nên tác ý như thế khiến cho thân tâm thanh tịnh siêng năng dũng mãnh. Tâm phải như đại địa có thể gánh các gánh nặng. Tâm như người giúp việc, tùy ý muốn có thể sai làm. Tâm như con chó thường sủa để giữ nhà. Phải quán tự thân tưởng như người bệnh. Thiện tri thức tưởng như thầy thuốc. Các pháp dạy dỗ tưởng như phương thuốc. Y theo chỉ dạy thực hành, tưởng như trừ bệnh. Tất cả những việc như vậy đều do thiện tri thức nên thâm tâm được thanh tịnh. Đã theo các giáo lệnh của thiện tri thức mà tu hành tốt, tức có thể tăng trưởng tất cả thiện căn. Như núi chúa Tuyết Sơn nơi nương tựa của tất cả cỏ thuốc cây rừng. Nương tựa thiện tri thức cũng vậy, có thể thành pháp khí lớn của tất cả chư Phật. Lại như biển lớn, nơi quy về của các dòng chảy. Bồ-tát nhân thiện tri thức, từ thiện tri thức xuất sinh nên được thành tựu viên mãn tất cả hành pháp của Bồ-tát và tất cả Phật pháp.

Như Kinh Bảo Tích nói: Phật nói: Ca-diếp ! Như người đi thuyền vào trong biển lớn kia, đi giữa chừng chợt thuyền vỡ, trong đó có người nhờ một miếng ván hoặc các khúc cây nương vào đó mà được đến bờ yên ổn. Ca-diếp ! Bồ-tát thừa đối với chiếc thuyền tâm nhất thiết trí cũng như vậy. Thoạt giữa dòng hoại mất pháp Bồ-tát thừa, nếu gặp thiện tri thức mà y chỉ tức được trở lại tâm nhất thiết trí. Bằng các pháp Ba-la-mật-đa chở đi đến miền pháp giới. Ca-diếp ! Có pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề mà đều y chỉ thiện tri thức, cho nên đối với các thiện tri thức thì cúng dường phụng sự là trên hết. Nếu Phật tại thế, nếu sau khi Niết-bàn, cần phải siêng năng tu hành mới được phúc hạnh viên mãn quả báo rốt ráo mới làm xong.

Như Kinh Hoa Tích nói: Nếu thấy Sư Tử Du Hý Như Lai, thấy rồi phát tâm thanh tịnh cúng dường. Lại nữa, nếu sau khi Phật ấy nhập Niết-bàn nhặt lấy xá-lợi như hạt cải mà cúng dường, như vậy quả báo đạt được đều bằng như nhau không sai biệt.

Như Kinh Đại Bi nói: Phật nói: A-nan ! Nếu có người hiện tiền cúng dường ta lại còn thiết trí việc đó, lại nữa nếu có người sau khi ta Niết-bàn thâu lấy xá-lợi bằng như hạt cải làm các cúng dường rồi cũng thiết trí việc đó, lại nữa nếu có người trong pháp của ta tạo lập bảo tháp lại cũng thiết trí viếc đó, hoặc nếu có người dùng một cái hoa rải ném lên không trung quán tưởng cúng dường chư Phật, ta nói người này do thiện căn đây cuối cùng sẽ chứng quả đại Niếtbàn. A-nan ! Nói tóm lại, dưới đến các hữu tình trong loài bàng sinh nếu có thể tưởng niệm chư Phật, ta nói chúng nhờ thiện căn ấy cuối cùng cũng thành đại quả Niết-bàn. A-nan ! Ông quán nơi Phật Thế Tôn thực hành những bố thí nào mà được tối đại, những phát tâm gì là uy lực lớn ? A-nan ! Nếu có người có thể một xưng niệm Na-mô Phật-đà-da, đó là thắng nghĩa. Bởi vì sao ? Là vì Phật Thế Tôn đủ đại danh xưng bất không. Nghĩa bất không này là Na-mô Phật-đà-da. Bởi ở nơi chư Như Lai có bao nhiêu thiện căn cực ít mà không hoại mất. Dưới đến một khi phát tịnh tâm, tất cả đây cho đến cuối cùng chứng đến Niết-bàn. A-nan ! Ví như người đánh cá muốn đánh bắt cá trong ao lớn tức dùng câu dùng mồi thả xuống nước, cá đua nhau bơi đến ăn. Người đánh cá biết có cá lại dùng cần câu cứng dây chắc câu nơi nước sâu, được cá rồi đưa lên bờ tùy ý sử dụng. Thế gian có một loại hữu tình cũng như vậy, trước ở nơi Phật Thế Tôn phát tâm thanh tịnh gieo trồng các thiện căn, cho đến khi phát tịnh tín rồi hữu tình ấy sau lại làm việc ác, nghiệp chướng che khuất sinh nơi nạn xứ, sau lại được gặp Phật Thế Tôn dùng trí Bồ-đề và lưỡi câu dây nhợ 4 nhiếp cứu vớt hữu tình kia ra khỏi dòng sinh tử đặt lên bờ Niết-bàn.

Hải Long Vương Vấn Kinh nói: Phật nói: Long vương ! Các Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có thể đủ 8 pháp tức được thường không lìa chư Phật.

Những gì là 8 ?

  1. Chỉ dạy quán hình tượng Phật.
  2. Phụng sự Như Lai.
  3. Thường ngợi khen Như Lai.
  4. Tạo hình tượng Phật.
  5. Chỉ dạy quán sắc tướng Phật.
  6. Tùy cõi Phật nào nghe danh hiệu Phật liền trong cõi Phật ấy phát sinh thắng nguyện.
  7. Không sinh tâm hạ liệt.
  8. Khởi tâm quảng đại cầu trí Phật.

Như Kinh Bồ-tát Tạng nói: Nếu có thể làm trang nghiêm thanh tịnh tháp miếu Phật sẽ được 4 thứ tối thượng thệ nguyện thanh tịnh.

Những gì là 4 ?

  1. Được thệ nguyện thanh tịnh sắc tướng tối thượng.
  2. Được thệ nguyện thanh tịnh đầy đủ các tướng tối thượng.
  3. Được thệ nguyện thanh tịnh tu tập kiên cố tối thượng.
  4. Được thệ nguyện thanh tịnh tối thượng quán thấy Như Lai.

Kinh ấy lại nói: Nếu có người nơi tháp miếu Như Lai rải hoa bôi xức hương thơm cúng dường, người này được 8 pháp không hoại mất.

Những gì là 8 ?

  1. Không hoại mất sắc tướng.
  2. Không mất sự giàu có an vui.
  3. Không hoại mất quyến thuộc.
  4. Không hoại mất tịnh giới.
  5. Không hoại mất đa văn.
  6. Không hoại tịch định.
  7. Không hoại trí tuệ.
  8. Không hoại thệ nguyện.

Nếu ai muốn tạo hình tượng Như Lai thì nên tùy ý tạo hoặc đất đá cây gỗ kim loại, hoặc ngà voi, hoặc vàng bạc lưu ly thủy tinh châu đỏ, san hô, mã não, ngọc kha, vỏ ốc các thứ hương quý v.v… hoặc vẽ hoặc trên ván trên tường, hoặc trên giấy trên lụa, hoặc tạo mới hoặc chỉnh sửa làm mới hình tượng Như Lai đã hư cũ. Làm như vậy đời sau sẽ không sinh trong dòng tộc hạ cấp, không sinh trong dòng tộc ác nghiệp, không sinh trong dòng tộc tà kiến, thân thể không tàn khuyết. Cho dẫu tạo đủ tội ngũ vô gián, mà ở nơi Như Lai có thể phát tịnh tín tạo lập hình tượng Như Lai, người này đời sau có nghiệp báo địa ngục cũng chuyển nặng thành nhẹ, trong pháp 3 thừa hoặc các thừa khác mà được xuất ly. Như người thân thể ô uế bất tịnh mà có thể tắm rửa làm sạch sẽ thoa xức hương thơm, thì mùi ô uế tiêu tan không sót, tạo tội nghiệp ngũ vô gián cũng vậy, nhờ tạo Phật tượng nên các tội nghiệp tiêu diệt không sót. Nếu có tạo đủ 10 nghiệp bất thiện mà nơi Như Lai phát tâm tịnh tín các tội nghiệp kia cũng đều tiêu diệt. Như bơ cho vào lửa thì cháy thành lửa ngọn, nghiệp tiêu tan không sót cũng như vậy. Huống chi người đầy đủ tâm Bồ-đề tối thắng và những người xuất gia đủ tịnh giới.

QUYỂN 5 HẾT

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10