Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Văn Cú
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA VĂN CÚ
Thiên Thai Trí Giả Đại Sư giảng
Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover – Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt.
Lời tựa về việc “Chú giải THIÊN THAI PHÁP HOA”
Sa Môn Cảnh Trung thuật lại
Nghe rằng: Cho đến cái lý thì chẳng có tên gọi. Tên ấy lưu truyền trong bốn cõi trời đất. Thật là chẳng thay đổi. Khi hiện ra trong ba cõi, chứng được lời dạy thì mọi việc đều ngừng lại. Tất đàn tùy theo cơ duyên mà hóa độ sự vật. Chẳng có mưu mô bày biện. Công ấy thật là lớn. Đó chính là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kịp đến bậc trượng phu ra đời. Vì một đại sự nhơn duyên mà nói vậy. Cũng giống như cây làm thuốc chẳng giống nhau; khi thọ nhận thành ra khác. Căn cơ chẳng phải một. Nên sự chỉ bày kia có khác. Đây chính là quyền biến thí cho vậy. Đó chính là việc chuyển pháp luân nói Tứ Đế ở Lộc Uyển. Đây chính là sự hiển thật. Rồi nơi đỉnh Thứu 3 lần biến hóa thành Tịnh Độ. Dùng để chỉ cho lời nói thâm sâu chơn thật. Con người tôn sùng đạo ấy cao vời. Ảnh hưởng ấy vô cùng xa rộng. Rồi gần đến chốn Già Da, mưa rơi gió thổi, giương cao tiếng pháp. Bỏ đi cái Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú – Quyển thứ I (Phần trên)
xưa cũ, mở bày chỗ vào mới. Làm lợi lạc cho đến cả cá thỏ. Cho đến những Bồ Tát nhiều như vi trần làm cho nền đạo tăng trưởng, giảm bớt sự sanh. Thanh Văn nơi am cốc, thẹn ít vui nhiều. Dược Vương thiêu cánh tay để cúng dường. Đa Bảo đã hiện ra toàn thân, đầy đủ nhỏ nhiệm; chẳng thể dùng lời mà được.
Nay có Thiên Thai Đại Sư pháp hiệu là Trí Khải. Xưa kia ở trước Đức Như Lai, tự thân nghe được những lời dạy, ở chỗ Ngũ Phẩm, nghe động đến cả 2 triều đình. Chẳng trải qua việc giảng dạy, mà Phật đã huyền ký giải bày. Cái lực của Đà La Ni vui nói chẳng cùng. Thường ở nơi cung điện lớn của ông chủ họ Trần, ở trước họ mà giảng kinh Bát Nhã Nhơn Vương. Cả vạn người quỳ nghe. Trăm vị quan khảy móng tay, há để quán tâm mình mà giải thích. Cái diệu ấy là lìa có không. Giữ lấy cái tánh chơn mà làm quy tắc. Gốc gác ấy chiếu sáng, thành chỗ triệt để. Nghe danh, giải thích, tông phong, khác với cổ đức. Năm nghĩa lý chính yếu. Tất cả đều làm hưng lời thánh giáo. Từ Ngài Trí Giả đến Ngài Hồng Pháp trong 30 năm hơn chỉ có chú giải Duy Ma. Cho đến đời nhà Tùy phụng hành sắc chỉ của Vua mới soạn ra huyền văn nầy. Đây chính là do sự quán đảnh của Pháp Sư mà tôi ghi lại thành 20 quyển. Chẳng có trí thì chẳng thể nắm bắt được. Lời nói ấy có quá chăng?
Cho đến sau khi mất 100 năm hơn, mãi cho đến năm Mậu Tý thuộc Thiên Bảo đời nhà Đường có vị Hòa Thượng ở chùa Thanh Thái thuộc quận Trần Dương cảm nhận pháp môn tốt lành như dùng chân tay mắt mũi nơi ao nước trong mát, rồi dùng giới đắc đủ đầy. Trong ngoài đều đầy đủ, như một bình báu dung chứa lòng từ bi. Ngồi nơi nhà đá ở chỗ không vắng lặng, lần lượt giảng nói pháp nầy và mặc nhiên than rằng: Thấy nghĩa lý nầy thật là sâu xa hợp với Phật Thừa. Tìm nơi câu văn mạnh mẽ nầy thì có; nhưng chẳng liên tục. Hoặc câu văn liên tục mà ý nghĩa lại đứt khoảng; hoặc câu văn ở sau mà nghĩa thì ở trước; hoặc là hàng trước thì mở ra cho chương nầy; hoặc là từ ngay phía sau tường thuật lại nghĩa nầy; hoặc giả ở trong. Câu kệ trước có đưa ra con số nầy; hoặc ở phía sau chẳng thứ tự theo tên nầy, mà Thánh Ý thì khó lường. Chỉ do nơi lòng tin, rồi nay nhơn có những vị nghe đến khuyên bảo nói rằng:
Bậc Thượng Căn dễ ngộ. Tìm hiểu rõ ràng thì chẳng mê, để lưu lại cho kẻ trung bậc hạ. Tìm vào câu văn thì mất đi yếu chỉ. Liền làm cho lợi lạc việc nầy và chính đây làm lợi ích nhiều ra hơn nữa; nên Hòa Thượng đã 3 lần suy tính. Việc chẳng như ý; nên phải một lòng nhớ nghĩ đến Đại Sư để cầu sự gia bị chẳng phải sao? Nhơn ở trong mộng mà được cảm ứng, rồi bắt đầu nghiên cứu, sự che chở lại cũng tùy theo tình huống để mà tuyên dương. Thành tâm lượng xét; chẳng phải sự cẩu thả mà có thể cầu sự giống nhau hay khác nhau. Hay lại có sự thêm vào bớt ra ở thời gian nào đó. Đối với những kẻ hậu học, làm sáng rõ các ý nầy, tìm tòi cho ra chỗ tốt đẹp, như đá như vàng, nói pháp chơn thật; chẳng phải là người nói vọng. Giúp cho gió ấy tung cánh bay xa, rồi làm cho thuyền kia rộng hướng. Biến đến trăm ngàn cảnh giới khác; cho mọi nơi mọi chốn, hóa thành chỗ tốt Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú – Quyển thứ I (Phần trên) đẹp. Cho đến gần gũi nơi bến đậu. Đó là hướng đến Đức Di Lặc và quay về lại Ngài Văn Thù. Nhằm làm cho phát sinh trí tuệ đủ đầy. Cả mùa Xuân hay Thu cũng chỉ một lời, hướng đến cả tâm hồn vậy. Đan hợp lại những câu văn như trước, để làm cho nhẹ nhàng cho cái lý chơn thật. Lại chẳng phải chỗ không Vua không Phật, cùng nhau đều phát tâm. Mười sáu vị Sa Di hoặc cùng nhau thay phiên giảng nói, như cánh hoa dưới ánh mặt trời trên đồi núi. Như gìn giữ của báu, thành tâm dùng bút trước cửa công, để viết lên chỗ chính yếu xuyên thấu. Thứ đến làm cho rõ nghĩa nầy. Thấm gội được đạo ấy nhằm lưu lại ngày sau là ý chính của việc nầy vậy.
Quyển thứ nhất
(Phần trên)
Phẩm Tựa Thứ Nhứt
Việc ủy thác giải thích về đề kinh như bên trên đã nói. Tựa ở đây nghĩa là chỉ rõ cho lời tựa. Nghĩa là tất cả như chủ khách vấn đáp, rõ ràng ở lời tựa vậy. Trải qua từ ý nghĩa nầy. Nghĩa là lần lượt do đây thuật lại. Như thế có 5 việc, mà tựa là phần đầu của kinh. Phóng ra ánh sáng sáu kiểu đoan nghiêm và khởi phát lên sự sáng sủa, đều do lời tựa vậy. Hỏi đáp là sự giải thích những điều nghi và nói ra dẫn dụ cho đúng. Nghe và thuật lại như thế. Ở đây đầy đủ ba nghĩa; cho nên gọi là lời tựa. Phẩm ở đây trong A Hàm gọi là to lớn và ở đây phiên dịch thành là phẩm. Phẩm nghĩa là giống các loại. Gom tụ lại một đoạn nên gọi là phẩm vậy. Hoặc Đức Phật tự xướng lên phẩm như Phạm Võng. Hoặc kết tập để trở thành như một luận lớn; hoặc người giải thích đầy đủ như Ngài La Thập. Nay thì Dược Vương Bổn Sự là do Phật xướng lên. Diệu Âm Quan Âm là kinh. Người giải thích dịch ra chưa nghe. Cho nên các phẩm ấy bắt đầu nói là đệ nhứt. Phật bảo cho biết nhơn duyên tạo ra việc rải hoa và những vòng hoa gồm hai thuyết. Kết tập nghĩa là sắp đặt truyền lại việc đã nói. Luận ở đây nghĩa là nương vào kinh điển. Tất cả đều chẳng có tiết mục; cách cấu tạo xưa, Sư thường bổ sung vào để làm cho rõ nghĩa lý, chẳng phân chia chương đoạn. Nếu muốn dùng ngay ý nầy thì sau đó sanh ra việc nguy hại chẳng rõ xảy ra biết dường nào.
Lại nữa Phật nói lẳng hoa là những sự tập trung, tùy theo nghĩa ấy mà lập nên phẩm. Tăng thêm một nghĩa là: Khế kinh một phần; luật một phần; A Tỳ Đàm một phần. Khế kinh lại còn chia ra làm bốn. Nghĩa là Tăng Nhứt, Trường, Trung và Tạp. Tăng Nhứt A Hàm làm sáng tỏ nhân quả của Trời Người. Trường A Hàm thì phá tà kiến. Trung A Hàm thì làm rõ nghĩa sâu xa. Còn Tạp A Hàm thì làm rõ nghĩa của việc Thiền Định.
Luật thì mở ra 5 bộ và 80 loại tụng.
A Tỳ Đàm thì mở ra 6 túc và 8 loại kiền độ.
A Hàm nghĩa là thí, giới, huệ, lục độ đều đầy đủ. Nghĩa là căn tánh, đạo, định và 8 loại tụ.
Ngài Thiên Thân tạo luận dùng 7 công đức để phân chia thành phẩm tựa. Năm lần thị hiện phân chia ở phẩm Phương Tiện. Còn những phẩm khác mỗi mỗi đều có xứ phần. Ngày xưa ở Hà Tây thuộc Giang Đông lấy ý chính nầy để phân ra đề mục của kinh văn. Đến cuối đời Vưu Phiền Quang chuyển đổi nhỏ thêm. Việc chưa ra thì làm cho sáng thêm. Ba luồng ánh sáng thì càng rõ. Kẻ đến hỏi chỗ không rõ nên hỏi Đàm Loan. Loại nhỏ như khói, hỗn tạp như bụi bay; che đậy chỗ thừa chỗ thiếu. Lô Sơn Long Sư chia câu văn làm lời tựa để rộng lưu thông. Gồm 27 phẩm cộng lại có hai loại. Từ lời tựa cho đến Pháp Sư nói phương tiện, nói chơn thật. Lý thì một mà nói thành ba. Phần Bảo Tháp thì thân ấy là phương tiện, thân ấy là chơn thật. Thật thì xa mà nói là gần. Lại nữa từ phẩm Phương Tiện đến phẩm An Lạc Hạnh. Đây là Nhơn Môn từ Dũng Xuất và dưới là Quả Môn. Ngay cả thời trung hưng của Ấn Độ ở nơi núi rừng; rồi nhận kinh từ rồng và phân phối ra câu văn giống nhau. Huyền xướng từ phần tựa cho đến phẩm Đa Bảo làm Nhơn. Từ phẩm Khuyến Trì đến phẩm Thần Lực chia ra làm quả. Từ phẩm Chúc Lũy cho đến phần Hộ Trì. Lại có vị Thầy nói rằng: Từ phẩm Tựa cho đến phẩm học vô học nhơn ký. Đây chính là thể của Pháp Hoa. Từ phẩm Pháp Sư cho đến phẩm Chúc Lũy là làm sáng tỏ công đức của việc thọ trì. Từ phẩm Dược Vương cho đến hết kinh là những bổn nguyện đẹp của chư vị Bồ Tát. Có vị Thầy lại chia ra làm 4 đoạn. Sơ phẩm là đoạn tựa ban đầu. Từ phẩm Phương Tiện cho đến phẩm An Lạc Hạnh, khai mở ra ba và hiểu rõ đoạn một. Từ phẩm Dũng Xuất cho đến phẩm Phân Biệt Công Đức là khai cận hiển viễn (mở gần, hiện xa). Còn lại sau đó là đoạn Lưu Thông.
Quang Trạch Vân nhận kinh từ Ấn Độ. Ba đoạn đầu lần lượt mỗi mỗi khai làm hai. Nghĩa là lưu thông của lời tựa và phần lời tựa riêng. Đó chính là Nhơn Môn và Quả Môn. Phần lưu thông có nghĩa là hóa ra cái kia và tự làm. Hai lời tựa, mỗi mỗi có 5. Hai phần chánh mỗi mỗi gồm 4. Hai phần lưu thông mỗi mỗi có ba. Hợp lại thành 24 đoạn.
Phàm phân chia kinh văn, tất do con người. Hoa Lan, hoa Cúc ở đâu cũng đều tốt đẹp. Người đời sau chẳng muốn vì sự có, không mà cạnh tranh nhau. Chẳng lợi làm ba, mà buồn cho một nỗi. Tam ích có nghĩa là thế giới nầy có ba Tất Đàn vậy. Một nỗi (một con đường) ấy là nghĩa thứ nhất của Tất Đàn. Thiên Thai Trí Giả phân chia câu văn ra làm ba. Phẩm đầu là Tựa. Phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Phân Biệt Công Đức, những câu kệ 19 hàng. Rồi nửa phẩm thứ 15 là một nửa cảnh gọi đúng.
Từ kệ ấy cho đến hết kinh. Cho đến giữa phẩm thứ 11 gọi là phần lưu thông. Lại nữa một lúc mà chia làm hai.
Từ phẩm Tựa cho đến phẩm An Lạc Hạnh 14 phẩm giống như: Tích, khai, quyền, hiển, thật.
Từ Dũng Xuất cho đến phẩm thứ 14 là: bổn, khai, quyền, hiển, thật. Bổn Tích gồm lời Tựa là chính lưu thông. Phẩm đầu ấy là phẩm Tựa. Phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Thọ Học Vô Học Nhơn Ký là chánh.
Từ phẩm Pháp Sư đến phẩm An Lạc Hạnh làm chỗ lưu thông.
Từ phẩm Dũng Xuất cho đến Di Lặc Dĩ Vấn Tư Sự.
Phật nay đã đáp ở nửa phẩm Tựa.
Từ phẩm Phật Cáo A Dật Đa xuống cho đến phần kệ của phẩm Phân Biệt Công Đức gọi là phần chính.
Từ đó về sau của kinh là phần lưu thông. Nay ghi lại từ ba đoạn trước đã mất các câu văn.
Hỏi rằng: Một kinh tại sao lại có 2 Lời Tựa?
Đáp rằng: Hoa Nghiêm xứ xứ các chúng đều vân tập. A Hàm biến biến như vậy. Phụ thuộc vào trước sau của Đại Phẩm. Tất cả đều chẳng phải một bộ. Hai lời tựa ấy nghi ngờ cái gì? Bây giờ chẳng yên nơi 5 nghĩa. Bổn Môn chẳng phải lần lượt đầu tiên vậy. Tích Môn thường là lưu thông đơn lẻ. Thuyết pháp chưa đến cảnh vậy. Cái ý ấy có nghĩa gì không nhỉ? Bây giờ chọn câu văn làm bốn. Một là thứ tự, hai là tại sao, ba là dẫn chứng và bốn là hiển thị ra tướng. Thứ tự nghĩa là: Thứ nhứt thuộc về nhơn duyên; thứ hai ước đoán lời dạy; thứ ba là bổn tích và thứ tư là quán tâm. Đầu tiên bắt đầu như vậy và kết cuộc như vậy mà hư. Tất cả đều dùng 4 ý ấy để làm cho câu văn mất đi. Còn nay thì lược bớt; hoặc còn ba, hai hay một. Quý ở chỗ ý chứ chẳng phải vì bút mực nhiều.
Hai là tại sao? Đây là câu hỏi lược bớt thành một. Nếu nói rộng có tới 4. Hỏi lý do tại sao? Nếu đáp rộng tức là làm cho trí tuệ thụt lùi. Còn nói lược thì ý chẳng đầy đủ. Ta nay ở trong ấy để nói, làm cho nghĩa nầy rõ ràng dễ hiểu hơn.
Nhơn duyên còn gọi là cảm ứng. Chúng sanh chẳng đầy đủ cơ duyên, tuy gần mà chẳng thấy. Từ bi là cái lực của căn lành, xa nhưng mà tự thông, cảm ứng đạo giao vậy. Nên dùng nhơn duyên để giải thích vậy. Phàm là chúng sanh thì đều cầu thoát khỏi những căn cơ nầy. Còn Thánh nhơn thì khởi lên sự ứng hiện với các chúng sanh. Nghĩa nầy chỗ rộng nằm tại đâu mà các kinh lớn đều nói?
Lòng từ bi là căn lành lớn có vô lượng cửa ngõ; lược nói ấy là thần thông. Nếu 10 phương cơ cảm mông mênh như hư không, thì nay luận về Ta Bà quốc độ, âm thanh Phật sự ấy chính là mở cửa Cam Lồ. Nương vào sự giải thích ấy để nói rõ ràng ra. Tùy theo căn cơ mà dạy dỗ. Nên mới có quyền, thật, cạn, sâu chẳng giống nhau. Cái chính là quên đi ngón tay, chỉ còn là mặt trăng thôi. Cho nên Thầy đã viết rằng: Chẳng có cái gốc thì lại chẳng có cái tích. Chẳng có tích thì lại chẳng thể hiển bổn được. Cho nên dùng bổn tích để giải thích vậy. Nếu mà tìm Tích thì Tích ấy rộng, chạy theo đó lại cực nhọc. Còn nếu tìm gốc thì gốc ấy càng cao, chẳng thể có cái cuối cùng. Số lần ngày đêm đều quý giá. Tự nó chẳng thể có nửa hào. Nên hay quán tâm cho thật cao rộng. Sự ứng hiện của bậc Thánh cũng vô cùng. Khi căn cơ đã thành thục thì sự cảm ứng được với việc lợi ích nầy. Cho nên dùng quán tâm để giải thích vậy.
Điều thứ ba là dẫn chứng: Phẩm Phương Tiện nói rằng: Mười phương chư Phật vì một đại sự nhơn duyên để xuất hiện ra nơi đời. Phàm loài người, chư Thiên, Tiểu Thừa, chẳng một, chẳng lớn. Lại chẳng phải Phật sự thì chẳng thành cơ cảm. Thật tướng gọi một ấy là truyền rộng rãi cái danh lớn ấy. Phật chỉ vì việc nầy; nên xuất hiện ra nơi đời. Nên gọi đây là một đại sự nhơn duyên. Lại rằng: Dùng đủ loại pháp môn để tuyên bày con đường của Phật. Hãy nên biết đủ loại nghe thấy, dạy bảo. Hoặc hiện, hoặc trước, hoặc quyền, hoặc thật. Tất cả đều là con đường của Phật nhằm tạo ra cách gọi như vậy.
Kinh nói rằng: Lời nói thô hay ngôn ngữ uyển chuyển tất cả đều quy về một nghĩa. Đây chính là ý nghĩa ấy vậy. Phẩm Thọ Lượng dạy rằng: Ngày nay Trời, Người, A Tu La tất cả đều rõ ta xuất gia từ thuở nhỏ, ra đi khỏi cung dòng họ Thích để đến thành Già Gia, rồi chẳng bao lâu chứng được Tam Bồ Đề. Nhưng thật ra ta đã thành Phật từ lâu rồi, vô lượng vô biên A Tăng Kỳ Kiếp đến nay. Nhưng vì phương tiện chỉ bày làm lợi ích cho chúng sanh. Trong phẩm Phương Tiện cũng có nói: Ta vốn đã lập thệ nguyện, phổ độ và làm cho tất cả chúng sanh, lại được giống như con đường nầy. Như vậy ta và các ngươi chẳng khác gì cả. Lại nữa trong phẩm Ngũ Bá Thọ Ký nói rằng: Bên trong sâu kín thì hành hạnh Bồ Tát và bên ngoài lại hiện tướng Thanh Văn. Thật ra từ quốc độ thanh tịnh của Phật, hiển thị ra 3 loại độc, lại hiện ra cho thấy tướng tà. Đệ tử của ta cũng như thế. Vì phương tiện độ chúng sanh nên ở đây Thầy trò tất cả đều rõ Bổn Tích nầy…
Phẩm Thí Dụ nói rằng: Nếu có người tin nhà ngươi mà nói, tức liền thấy ta, lại cũng thấy ngươi và các chúng Tăng cùng với các vị Bồ Tát. Hãy nên biết rằng tùy theo chỗ lắng tâm nghe thấy và quan sát và ở nơi tâm tin tưởng ấy sẽ thấy được Tam Bảo. Khi nghe nói về pháp bảo nầy, liền thấy ta, tức là Phật Bảo. Khi thấy các ngươi, tức là thấy Tăng Bảo v.v…
Thứ tư là hiển thị ra tướng. Vả lại nơi ba đoạn ấy hiển thị ra tướng nhơn duyên. Chúng sanh từ lâu tối tăm và Phật thì dùng thiện xảo, làm cho đủ loại Phật đạo nhơn duyên. Ở giữa tướng ấy ngay thẳng, rồi dùng phương tiện khác để giúp hiển bày nghĩa thứ nhứt để cho thành thục. Ngày nay mưa hoa, động đất là dùng sự diệt độ của Như Lai để mà độ thoát. Lại nữa những loại nầy từ xa xưa trong quá khứ đã thành thục rồi và trong đời nầy được giải thoát. Từ dưới đất vọt lên là những việc như thế. Lại nữa ở khoảng giữa là các loại và 4 mùi vị đều thành thục, rồi thoát khỏi cung vua và bây giờ là khai, thị, ngộ, nhập vậy. Lại nữa đời nay là các loại và đời đến sẽ thành thục và đời tiếp nữa sẽ giải thoát. Người trong tương lai được độ cũng lại như vậy. Tuy chưa là Bảo Môn; nhưng giữ lấy ý, nói nghe. Ở trong khoảng thời gian nầy đủ loại, tạo ra trong 3 đời, 9 đời làm thành đủ loại, thuần thục và giải thoát. Lại cũng chẳng nên không ngần ngại. Vì sao vậy? – Vì Như Lai là lực của thần thông tự tại. Là lực của Sư Tử phấn chấn to lớn uy dũng. Nói là tự tại như vậy. Những việc như thế ấy, có lời tựa để phân định ra như vậy. Khi chúng hội thấy việc hy hữu đoan nghiêm liền khát ngưỡng muốn nghe đầy đủ việc đạo. Phật nhân cơ hội ấy mà giáo hóa để khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến. Cho nên mới chia ra phần chính vậy. Chẳng phải lúc nào cũng được sự lợi ích. Sau đến 500 năm nữa lợi ích cho đạo thì có phần lưu thông. Lại nữa hiển thị ra giáo tướng nghĩa là bài tựa nầy chẳng phải vì người trời cao xanh mà tạo ra lời tựa. Chẳng phải vì Nhị Thừa Tiểu Đạo và tạo ra lời tựa. Chẳng phải vì không thông với ba (cõi) mà tạo ra lời tựa. Chẳng phải vì riêng Bồ Tát pháp mà tạo ra lời tựa nầy. Nhưng vì sự ngay thẳng từ bỏ phương tiện để nói vô thượng Phật đạo mà tạo ra lời tựa nầy. Việc chánh đáng nầy chẳng lấy thế gian làm chánh. Chẳng lấy ánh sáng nhỏ chia trí tuệ ra làm chánh. Chẳng phải dùng ánh sáng thể pháp trí làm chánh. Chẳng thể lấy sao, trăng, con đường của các loại trí làm chánh. Cho đến chẳng dùng ánh sáng mặt trời của tất cả loại trí để làm chánh. Còn phần lưu thông nầy chẳng phải vì lá cây, mộc ngưu, mộc mã để tạo ra phần lưu thông. Chẳng phải phần lưu thông nửa chữ; chẳng phải phần lưu thông cả chữ. Chẳng phải phần lưu thông chữ riêng. Thuần là lưu thông đầy đủ của kinh, đầy đủ pháp vậy.
Kế đến là chỉ phần Bổn Tích. Lúc hành Bồ Tát ở một thời xa xưa, đã tuyên dương ánh sáng kinh Pháp Hoa của Phật, lại có nói 3 phần là Thượng, Trung và Hạ. Lại có Bổn Tích, do Phật với Phật liên tục chẳng ngừng. Riêng lấy lúc mới thành Phật, nói kinh Pháp Hoa gồm 3 phần: Thượng, Trung và Hạ. Gọi chuyên môn là Thượng; cũng gọi là gốc. Vì sao vậy? – Vì khi mới thành Phật, thuyết pháp lấy Thượng làm gốc. Cái ý nầy có thể rõ được. Trong thời gian hành hóa đã giúp cho Ngài Đại Thông Trí Thắng và Nhiên Đăng Phật để tuyên dương kinh Pháp Hoa gồm 3 phần. Rồi có tên là Trung, lại gọi là Tích. Vì sao vậy? – Phía trước có trên, phía trước có gốc. Ngày nay nơi Vương thành nói có ba phần. Lại gọi là Hạ, lại gọi là Tích. Cho đến sức mạnh của Sư Tử phấn chấn. Cho đến ngày sau luôn luôn vẫn nói là ba phần. Lại chỉ cho việc đầu tiên là Thượng, là Bổn. Ví như cây lớn có cả ngàn cành vạn lá. Nhưng luận về căn bản thì chẳng có sự khác nhau vì đồng gốc đồng nhóm. Với ví dụ nầy có thể rõ biết được…
Kế tiếp chỉ rõ cái tướng của việc quán tâm. Sẽ luận về tâm nầy qua 3 phần giới, định, huệ. Đầu tiên của việc tu hành là giữ giới và ở giữa là định, sau cùng là huệ. Pháp môn lấy huệ làm gốc; định giới làm Tích. Hoặc giả giới, định, huệ mỗi mỗi chia làm 3 phần. Đầu tiên vì phương tiện bạch tứ Yết Ma để kiết giới và vì giới mà chia làm 3 phần: 25 phương tiện chánh quán lịch duyên, lành hay ra vào cũng như ở tại trong trăm ngàn Tam Muội, lấy định phân chia làm 3 phần. Nhơn duyên sở sanh pháp tức là không, tức là giả, tức là giữa và lấy huệ chia làm 3 phần. Khi qua 3 phần rồi, hiển thị 4 loại tướng. Nên dùng với nghĩa nầy từ đây cho đến “đảnh lễ rồi lui ra”; tất cả tạo ra 4 ý để làm tiêu câu văn. Cứ nên lấy tiêu chuẩn mong cầu ở nghĩa nầy như thế để dễ rõ biết. Còn phân biệt hiển thị câu văn các pháp thì rất khó. Hành giả nên rõ biết điều nầy. Ngôn ngữ tuy khác; nhưng ý thì đồng. Cả ngàn chiếc xe sẽ trở thành cả vạn vậy.
Phần lời tựa có Thông và Biệt. Từ đây cho đến “rồi ngồi sang một phía” là Lời Tựa vậy. Từ “nhĩ thời Thế Tôn cho đến phẩm biệt” cũng là Tựa vậy. Thông tựa nghĩa là Thông những lời dạy. Tựa biệt tức là tựa riêng của một kinh. Thông Tựa thường lấy 5, 6 hoặc 7 v.v… Như thị đây là dùng để chỉ cho việc nghe cái thể của pháp. Ngã văn nghĩa là kẻ hay hành trì, gìn giữ. Nhứt thời có nghĩa là nghe lấy, giữ gìn cùng với việc thời điểm chẳng khác nhau. Phật đây là từ lúc nghe Phật nói vậy. Vương thành nơi núi là chỗ nghe và giữ gìn vậy. Cùng với các vị Tỳ Kheo nghĩa là bạn với người nghe và giữ gìn việc nầy. Đây chính là do nhơn duyên hòa hợp mà lần lượt được sanh ra. Lại chữ như thị ở đây nghĩa là 3 đời chư Phật trải qua việc đầu là an ổn. Như thế các vị Phật đều giống nhau, chẳng tranh nhau với thế gian, là thế giới Tất Đàn vậy.
Luận cho rằng: đơn cử ra thời điểm là làm cho con người sanh ra lòng tin. Vì người mà Tất Đàn vậy. Lại nữa đối với việc phá ngoại đạo 2 chữ A Ẩu nghĩa là chẳng Như mà cũng chẳng Thị. Đây là đối trị Tất Đàn vậy.
Lại nữa Như Thị nghĩa là từ dùng để chỉ cho sự tin thuận. Tín tức là nghe và lý giải hội nhập. Thuận có nghĩa là theo Thầy trên con đường đạo. Đây chính là đệ nhất nghĩa của Tất Đàn. Do vậy giải thích rộng ra hơn thì chẳng thể chuyên chở hết… Giải thích lời dạy nghĩa là trải qua cách xưng tán Phật pháp của ba đời, tất cả đều như ban đầu như thế. Phật ở đời trước có tiệm, đốn, bí mật, không nhất định ở nơi các kinh. Tiệm ấy lại có 3 Tạng gồm: Thông, Biệt và Viên. Chư Phật ngày nay lại cũng như vậy. Các kinh điển không giống nhau; cho nên lại cũng có chỗ khác nhau. Chẳng nên vì một vấn đề mà là mở ra cho các chúng.
Lại nữa Phật và A Nan, hai câu văn ấy chẳng khác, mà là giống nhau. Hay giải thích chỗ đáng giải thích là thế. Bây giờ thì A Nan được Phật truyền lại cho câu văn gì? Giải thích những gì? Chẳng thể dùng câu văn tiệm để truyền ra Đốn mà là biên thành câu văn giải thích đầy đủ. Do sự truyền đạt giải thích ấy mà sai lầm, tức là câu văn chẳng thể như vậy. Khi câu văn không đúng thì cái lý cũng chẳng đúng. Nghĩa ấy thật khó mà rõ ràng. Cho thêm ý vào cho rõ, há là nương vào chỗ Tiệm Giáo mà phân biệt. Phật đã làm rõ cái thói quen là có chữ viết nhưng thật ra là không có chữ viết. A Nan được Đức Phật truyền cho văn tự của tục đế, cùng với lời dạy của Đức Phật không sai khác. Cho nên gọi là “như”. Do trong câu văn thế tục nầy lại chứa đủ giáo lý của Chơn Đế. Cho nên gọi là “thị”. Đây chính là 3 Tạng kinh đầu tiên làm rõ ra như vậy. Phật làm sáng tỏ ấy là: Sắc tức thị không; Không tức thị sắc; Sắc không không sắc không phải hai mà cũng chẳng riêng biệt. Không sắc bất dị ấy là “như”. Nghĩa là việc ấy đúng là “thị”. A Nan được Đức Phật truyền lại lời văn chẳng khác, ấy là “như”. Hay chú giải chỗ chú giải ấy là “thị”. Đây chính là kinh Thông Giáo, đầu tiên có chữ “như thị” là vậy. Phật chỉ rõ việc sống chết là có biên tế; còn Niết Bàn là vô biên. Ra khỏi việc sanh tử thì có biên giới; nhưng nhập vào Niết Bàn thì vô biên. Ra khỏi Niết Bàn cũng vô biên. Vào nơi Trung Đạo; nên A Nan được truyền và điều nầy có ra, có vào; không ra thì không vào bên trong. Cùng lời Phật dạy bảo không khác nên gọi là “như”. Từ cạn đến sâu chẳng có chỗ nào là không gọi là “thị”. Đây chính là Biệt Giáo Kinh, đầu tiên “như thị” là vậy. Phật chỉ rõ sanh tử là Niết Bàn, lại cũng có nghĩa là Trung Đạo.
Lại nữa Niết Bàn cũng chẳng phải là Trung Đạo; chơn như pháp giới, thật tánh thật tế, tỏa khắp ra các nơi; chẳng phải không là Phật Pháp. A Nan được truyền lại điều nầy. Cùng với lời dạy của Phật không có gì sai khác. Cho nên gọi là “như”. Như như bất động; cho nên gọi là “thị” Đây chính là Kinh Viên Giáo, đầu tiên “như thị” ấy vậy. Nếu dùng “động” về vào tục thì có giống như nghĩa của Tam Tạng chăng? Nếu “chẳng động” để vào tục tức giống như nghĩa của Thông, Giáo chăng? Như “động” nhập vào ấy, là nghĩa của Biệt Giáo chăng? Chẳng động “như thị” là nghĩa của Viên Giáo chăng? v.v… Nếu Đốn “như thị” ấy giống với Viên. Chẳng nhứt định “như thị” trước sau lại hỗ tương với nhau.
Bí mật ấy chính là ẩn; chẳng thể truyền được. Rộng ra là 8 cách dạy (Bát Giáo) như võng lưới ấy hay như biển pháp giới. Sợ điều nầy là hữu lậu, lo gì một mắt mà có thể thấy rộng được. Lại nữa cùng lúc mà hứng đến 4 mũi tên, chẳng làm cho rơi xuống đất, lại chưa gọi là nhanh. Chính sách Đốn ấy liệu có phá được cái chẳng phải một nầy, hà huống là 4 kia sao v.v… Bổn Tích thì giải thích “như thị” ấy là trong 10 phương 3 đời ngang dọc đều như thế cả. Quá khứ xa rồi. Hiện tại dần trôi. Vị lai thì còn xa lắm. Tất cả đều là “như thị”. Có nơi nào là Bổn và có nơi nào là Tích. Há rằng Đức Thích Tôn, khi đầu mới thành đạo trải qua “như thị” ấy là Bổn. Ở khoảng giữa làm Phật, giảng kinh và ngày nay chỗ kinh nói ấy là “như thị”. Tất cả đều là Tích vậy. Lại nữa A Nan được chỗ truyền lại, thì “như thị” ấy là Tích. Phật nói “như thị” ấy là Bổn. Lại nữa Thầy trò hiểu nhau là “như thị”. Chẳng phải cái bắt đầu của ngày hôm nay, lại chẳng phải ở khoảng giữa; nên gọi đây là Bổn. Mà khoảng giữa ấy, ngày nay ấy, chính là Tích vậy.
Quán tâm thích có nghĩa là quán sát Tất Đàn trước có dạy về Tích và nghĩa “như thị”. Tất cả đây chính là nhơn duyên sanh pháp. Đó chính là Thông Quán vậy. Mà nhơn duyên ấy tức không, tức giả. Ấy là Biệt Quán vậy.
Hai quán ấy làm phương tiện đạo, được nhập vào Trung Đạo đệ nhứt nghĩa. Cả hai cùng chiếu sáng Nhị Đế lại Thông, lại Biệt quán vậy. Như trước đến nay tất cả là Trung Đạo, chẳng phải Thông, chẳng phải Biệt quán.
Câu văn phía dưới nói rằng: Nếu có người tin rằng ngươi nói, tức là được thấy ta, lại cũng thấy ngươi, và các vị Tỳ Kheo Tăng cũng như các vị Bồ Tát. Đây chính là việc quan sát làm cho rõ câu văn ấy. Tin ấy chính là lý luận theo căn cơ và thấy ấy chính là ứng hiện. Tức là nhơn duyên vậy. Lại nữa tin thì có cạn có sâu; thấy thì có huyễn có thật. Đủ loại phân biệt, chẳng giống nhau. Tức là Phân biệt giáo, tin vào câu văn của Pháp Hoa. Tức là thấy cái Bổn ấy là thật tướng. Nếu thấy hóa thân con trai thì cái thấy gốc ấy là Long Đà. Nếu thấy ban đầu thành Đức Thích Tôn, lại thấy Đức Phật đã thành trước lâu rồi. Nếu thấy 1.200 vị Tỳ Kheo và 80.000 Bồ Tát thì lại cũng thấy cái gốc nầy. Lại nữa khi nghe kinh thì tâm tin, chẳng ngại. Tâm tin tưởng nầy rõ ràng sạch sẽ, tức là thấy Phật. Trí tuệ rõ biết, tức là thấy thân con trai. Những sự rõ ràng ấy là chúng Tỳ Kheo. Tâm từ bi thanh tịnh là thấy các vị Bồ Tát. Ước chừng tâm ấy chia ra làm bốn để giải thích, chuyển đổi sáng sủa. Nếu giải thích kinh kia mà hay dùng 3 ý thì vì chưa phát được Bổn, hiểu Tích vậy. Nên biết rằng kinh bây giờ với 3 sự giải thích ấy cùng giống với kia. Một sự giải thích cùng với kia khác đi. Bốn lần giải thích như thế…
“Ta nghe” đây hoặc là nghe “như thị” che trên kinh chính; chẳng giống với trước sau như đã đưa ra. Nay thí dụ với 4 cách giải thích. Nghĩa là khi nhĩ căn không bị hư thì cái nghe ấy có thể nghe được. Nếu có tâm muốn nghe, chúng duyên hòa hợp; cho nên nói rằng tôi nghe.
Hỏi rằng: Nói lỗ tai nghe chăng? hay là cái gì gọi là tôi nghe?
Đáp: Thân của ta là chủ là do ta nhiếp với các duyên để giải thích thế giới nầy vậy. A Nan ngồi đó nghe; nên gọi là “ngã văn”. Đại chúng nên bi lụy để thấy Như Lai; nên gọi là “ngã văn”. Kẻ vô học thì chẳng bay bổng lên để nói kệ. Phật nói kinh rất rõ ràng. Văn Thù kết tập lại. Đầu tiên là xướng đề tài và lần lượt đến “như thị ngã văn”. Rồi chúng hội cầu khẩn điều ấy và vì người mà giải thích.
A Nan ngồi đó tuyên xưng “ngã văn” để trừ nghi ngờ của chúng hội. Thân của A Nan cũng giống như thân Phật. Chỉ bé nhỏ hơn Phật 3 lóng tay, vì chúng nghi; nên Đức Thích Tôn nói lại; hoặc vì kẻ kia mà Phật đến. Hoặc giả A Nan thành Phật, khi xướng lên 3 lần “ngã văn” thì sự nghi kia liền tiêu mất. Điều nầy để đối trị cho việc giải thích ấy. A Nan là người có học, tùy theo thế gian mà xưng là “ngã văn”. Nhưng ở nghĩa đầu tiên thì không có ngã mà cũng chẳng có văn. Từ xưa đến nay việc giải thích ấy giống nhau cùng một ý nầy làm nhơn duyên vậy.
Theo cách giải thích ấy có giải rằng: Đối với kẻ phàm phu có 3 loại ngã. Đó là kiêu mạn danh tự, hai loại học nhơn và một loại vô học. A Nan là kẻ có học. Không có cái “tà ngã” mà hay hàng phục “mạn ngã”. Tùy theo đời mà dùng danh từ “ngã” chẳng có sao cả. Ở đây dùng ý đó để giải thích về “ngã” trong Tam Tạng vậy. Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói rằng: Bốn câu văn xưng “ngã” tất cả đều rơi vào tà kiến. Trong chánh pháp của Phật, không “ngã” thì ai nghe. Đây là dùng theo cái ý của Thông Giáo vậy. Kinh dạy rằng: A Nan là bậc đa văn, biết cái ngã ấy là vô ngã và cũng chẳng khác hai. Song có phân biệt “ngã” và “vô ngã”. Đây là dùng cái ý theo Biệt Giáo vậy. Lại nữa A Nan lại rõ biết ngã, vô ngã chẳng phải hai, mà vì phương tiện của người thị giả để truyền giữ trí tuệ vô ngại của Như Lai; nên đã dùng âm thanh tự tại để truyền quyền và truyền thật. Có cái gì là chẳng thể được? Đây chính là dùng cách giải thích cái “ngã” theo Viên Giáo vậy.
Lại nữa trong kinh Chánh Pháp Niệm có nói rõ về 3 vị A Nan. A Nan Đà nghĩa là hoan hỷ giữ gìn Tạng của Tiểu Thừa. A Nan Bạt Đà nghĩa là hoan hỷ hiền, thọ trì Tạp Tạng và A Nan Sa Già nghĩa là hoan hỷ hải, giữ gìn Phật tạng. Trong kinh A Hàm thì có điển tạng A Nan, giữ gìn Bồ Tát tạng, che chở cho mỗi người, đầy đủ nơi 4 đức, truyền trì 4 pháp môn là nghĩa nầy tự hiển bày v.v…
Bổn Tích giải thích rằng: Nếu chưa hội nhập thì có thể nói A Nan tùy theo đời nên gọi là “ngã”. Còn phát Tích Hiển Bổn thì đã phát tâm cùng lúc nơi Phật Không Vương. Phương tiện chỉ bày, vì người mà truyền pháp; chỗ nào mà chẳng thể.
Quán tâm giải nghĩa là quán pháp sanh ra nhơn duyên; tức không, tức giả, tức trung. Tức không ấy là “ngã” ấy không có ngã vậy. Tức giả nghĩa là phân biệt ngã vậy. Tức trung có nghĩa là chơn diệu ngã vậy …
Thích văn nghĩa là: Đêm Đức Phật thành đạo A Nan vừa sanh, làm Thị giả cho Phật hơn 20 năm và lúc chưa làm Thị giả Phật thì chưa nghe được; nên nói rằng: Lúc A Nan kết tập pháp, tự nói rằng: Khi Phật chuyển pháp luân lần đầu, tôi lúc ấy không thấy. Cho nên nếu nói nghe, thì rõ ràng là chẳng thể nghe được. Theo cách giải thích cũ thì A Nan được Phật chỉ rõ nhờ lực Tam Muội nên có thể tự nghe được. Trong kinh Báo Ân nói rằng: A Nan mong cầu 4 điều: Kinh nào chưa nghe, mong Phật nói lại. Lại cũng có nói rằng: Do Phật nói riêng nên gọi là nói. Trong Thai kinh nói rằng: Phật từ nơi kim quan tỏa ánh sáng vàng nơi cánh tay một lần nữa là vì A Nan, hiện ra tướng của sự nhập thai. Các kinh đều nghe, huống là nơi chốn nói sao.
Trong câu văn nầy nói: A Nan được thọ ký tức là nhớ lại bổn nguyện giữ gìn Phật pháp trước đây, tất cả đều như ngày hôm nay vậy. Do nhơn duyên nầy mà giải thích. Nếu có kẻ muốn nghe thì hoan hỷ với A Nan. Mặt ông tròn như trăng, mắt xanh như hoa sen. Do gần gũi được Phật; nên nhiều người quy ngưỡng về. Chuyển hóa người khác, như bình trút xuống nào có khác chi. Sự truyền thừa ấy như việc nghe pháp cũng vậy. Hoan hỷ với bậc hiền; trụ ở học địa, được hoàn toàn nguyện vô tướng. Mắt, tai, mũi, lưỡi và các căn chẳng bị thấm rỉ. Được truyền lại và giữ gìn những pháp không được nghe. Trong tạng kinh điển A Nan nhiều chỗ được thọ nhận như vậy. Giống như mây to thì mưa lớn. Sự truyền trì nầy do chỗ chẳng nghe mà được nghe pháp vậy. A Nan hải có nghĩa là bậc nghe nhiều. Tự nhiên có thể giải rõ chỗ nào là thường, chỗ nào là vô thường. Nếu rõ biết Như Lai thường chẳng thuyết pháp, thì đây là Bồ Tát Cụ Túc Đa Văn. Phật Pháp giống như nước trong biển, chảy vào trung tâm của A Nan. Sự truyền trì việc chẳng nghe pháp ấy lại cũng như vậy. Kinh điển ngày nay chính là biển trí tuệ đa văn của A Nan. Giữ gìn cái chẳng nghe, thì sự chẳng nghe ấy là diệu pháp. Bổn Tích đã giải rằng: Như trên về 4 việc nghe ấy tất cả đều dẫn theo tích, mà Bổn Địa thì bất khả tư nghì…
Quán tâm thích nghĩa là quán pháp nhơn duyên cũng chính là quán về việc nghe ấy. Quán Không tức là quán cái nghe và không nghe. Quán Giả tức là quán chẳng nghe. Quán Trung tức là quán chẳng nghe, chẳng không nghe v.v… Một niệm quán tức là quán diệu vậy…
Một lúc ở đây được biết rằng: Khi Đức Pháp Vương vận chuyển thế giới nầy. Luận rằng: Già La là lúc tốt dùng để chỉ cho các đệ tử bên trong, khi ăn thì mặc y áo là vì người khác. Tam Ma Gia nghĩa là lúc giả định, phá những kẻ tà kiến ngoại đạo, dùng để đối trị. Nếu thời gian và đạo cùng hợp nhau thì là đệ nhứt nghĩa vậy. Khi thấy chơn lý bên trên rồi và bên dưới vô học, đây gọi là “một lúc”. Nếu có 3 người cùng vào đệ nhứt nghĩa; thì đây gọi là “trung nhứt thời”. Nếu đã đến địa bên trên rồi, thì đây gọi là “thượng nhứt thời”. Nếu sơ trụ dĩ thượng, tên gọi là thượng thượng nhứt thời. Nay kinh đây nói là “thượng thượng nhứt thời” tức là chỉ cho sự dạy ấy phân biệt.
Bổn Tích như trước đã nói về “một thời tích”. Xa xôi hơn thì thật đã có “một lúc” là gốc vậy. Quán tâm có nghĩa là quán tâm ấy trước không, sau là giả và sau cùng thì trung. Lần lượt quán tâm như thế. Quán tâm tức không, tức giả, tức trung. Đây là viên diệu quán tâm vậy. Phật ở đây nghĩa là kiếp sơ thì chẳng có bịnh; còn kiếp tận thì nhiều bịnh. Thọ lâu thì vui, thọ ngắn thì khổ. Ở dưới cõi trời phía Đông, giàu có là thọ. Ở dưới cõi trời phía Tây, nhiều châu báu, nhiều trâu dê là thọ. Ở dưới cõi trời phía Bắc là vô ngã, vô thân thuộc. Còn ở đây “thời” và “xứ” nầy không cảm đến việc Phật ra đời; lúc 8 vạn tuổi, lúc 100 tuổi. Còn ở dưới cõi trời phía Nam chưa thấy quả đã tu nhơn. Cho nên Phật ra đời ở đất nầy. Ly Xa Tử nói rằng: Nước Ma Kiệt Đà giống như một cái hồ lớn và Phật ra đời ở xứ nầy như hoa sen lớn vậy. Vô Thắng nói: Phật đối với chúng sanh bình đẳng chẳng hai. Các ngươi vì chìm đắm trong ngũ dục; nên chẳng thấy được Phật vậy. Chẳng phải Phật vì các người mà xuất hiện tại xứ Ma Kiệt Đà. Đây chính là việc giải thích về các thế giới. Nếu mặt trời chẳng xuất hiện thì trong hồ kia chưa sanh thì sanh ra các loại hoa, che lấp sự chết, chẳng nghi ngờ. Phật nếu xuất hiện nơi đời, tức là có Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Cư Sĩ, Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời Hữu Đảnh. Đây chính là vì con người mà giải thích vậy. Kẻ tam thừa căn tánh thì cảm được việc ra đời của Phật; ngoài ra chẳng thể cảm được. Lành đoạn giống như hữu đảnh thì vĩnh viễn qua khỏi được sự sanh tử. Đây chính là nói để đối trị vậy. Phật đối với pháp tánh thì chẳng động chẳng xuất. Có thể làm cho chúng sanh cảm nhận và thấy được sự động xuất ấy. Nhưng đối với Đức Như Lai chẳng có sự động xuất. Đây chính là nói đệ nhứt nghĩa vậy. Tất cả sự giải thích đều là do nhơn nghĩa. Phật được gọi là kẻ giác, kẻ trí. Ở dưới gốc cây nơi Đạo Tràng rõ biết thế gian, xuất thế gian; tổng tướng và biệt tướng. Rõ biết trong đời nghĩa là khổ và tập. Rõ biết xuất thế nghĩa là Diệt và Đạo. Lại cũng có thể giác ngộ cho kẻ khác. Thân cao một trượng sáu. Thọ mạng 80 tuổi là bậc long tượng Tỳ Kheo. Khi ở dưới gốc cây Bồ Đề 34 tâm chánh tập đều dứt hết. Tức là Tam Tạng Phật. Nghĩa là tự giác giác tha. Mang hình ảnh vị Tỳ Kheo, hiện ra thân thể đặc biệt tôn kính. Ở dưới gốc cây mỗi niệm đều giống nhau, đoạn trừ những tập khí nhỏ nhiệm, được thần thông và tự giác, giác tha. Riêng mình hiện tướng đặc biệt của bậc Thế Tôn, ngồi trên đài liên hoa và nhận lãnh danh hiệu Phật. Nghĩa là riêng Phật, tự mình giác ngộ vậy và cũng làm cho người khác giác ngộ theo. Ẩn tàng 3 tướng; chỉ thị hiện bất khả tư nghì như tướng của hư không. Nghĩa là tròn đầy việc tự giác, giác tha. Cho nên trong kinh nói rằng: Hoặc thấy Như Lai cao một trượng sáu; hoặc thấy thân nhỏ thân lớn; hoặc thấy ngồi trên hoa sen mà vì trăm ngàn Thích Già nói các tâm địa pháp môn; hoặc thấy thân giống như hư không trong pháp giới, chẳng có phân biệt; tức là nghĩa nầy vậy. Đây chính là sự phân biệt để dạy dỗ.
Bổn Tích giải thích rằng: Một vị Phật làm gốc; ba vị Phật là Tích. Ở khoảng giữa ấy thị hiện vô số lần sanh và vô số lần diệt. Tất cả đều là Tích vậy. Duy chỉ có bổn địa bốn Phật đều là Bổn cả. Quán tâm giải thích là quán nhơn duyên sở sanh tâm. Đầu tiên là không, thứ đến là giả và sau giữa, tất cả đều biến giác. Quán tâm tức không, tức giả, tức trung; ấy chính là viên giác vậy.
Trụ ở đây có nghĩa là hay trụ ở một nơi. Chỗ trụ ấy chính là đất nơi thành vua. Hay trụ chính là 4 uy nghi. Trụ thế chưa diệt tức là giải thích về việc nhơn duyên của việc trụ ở thế giới nầy. Lại nữa trụ ở đây có nghĩa là trụ ở 10 đường lành. Trụ ở giữa Tứ Thiền. Đây chính là vì người mà giải thích về nhơn duyên trụ vậy. Lại nữa trụ có nghĩa là ở 33 vị. Chữ trụ ở đây giải thích về nhơn duyên đối trị vậy. Lại nữa trụ có nghĩa là trụ ở Thủ Lăng Nghiêm. Nghĩa là giải thích về nghĩa đệ nhứt nhơn duyên.
Đối với việc dạy dỗ thì Tam Tạng Phật từ cửa đơn lẻ mà phát ra chơn vô lậu, trụ ở hữu dư và vô dư Niết Bàn. Qua Phật từ thể môn, phát ra chơn lý. Trụ ở hữu dư vô dư Niết Bàn; riêng Phật từ thứ đệ môn nhập vào. Trụ ở tạng bí mật. Viên Phật từ chẳng thứ đệ môn nhập vào, trụ ở tạng bí mật. Ba vị Phật trước trụ ở chỗ đều thô. Vị Phật sau trụ nơi tốt đẹp. Nay kinh gọi là Viên Phật Trụ, đối với diệu trụ vậy.
Bổn Tích giải thích rằng: Tam Tạng Phật tức là ứng với Niết Bàn. Từ bi thùy tích, sanh thân ra để trụ lại với đời. Thông Phật thệ nguyện từ bi, nhằm để độ chúng sanh và làm Phật sự. Biệt Viên Phật tất cả đều từ bi huân tập pháp tánh, yêu thương chúng sanh; cho nên ứng hiện vào pháp giới. Nên biết rằng bốn Phật trụ ở Bổn Phật Trụ. Dùng lòng từ bi; cho nên trụ nơi đất nhẫn là thành của Vua. Uy nghi trụ thế; cho nên gọi là Tích Trụ.
Chữ quán giải ở đây nghĩa là quán trụ đối với cảnh. Hoặc trụ ở cảnh vô thường; tức không, tức giả, tức trung. Lấy vô trụ pháp, trụ trong cảnh ấy; cho nên gọi là trụ. Thành Vương Xá nghĩa là theo người Thiên Trúc gọi đây là La Duyệt Kỳ Già La. Ở đây La Duyệt Kỳ gọi là Vương Xá. Già La gọi là Thành. Nước tên Ma Kiệt Đà. Nghĩa là chẳng hại. Nơi đây chẳng có những hình phạt chém giết. Lại nữa Ma Kiệt Đà ở đây nghĩa là Thiên La. Thiên La là tên của Vua vậy; rồi lấy tên vua làm tên của nước. Vua ở đây lúc là cha của Bác Túc. Ngày xưa ở một kiếp xa xôi nọ vua nầy làm chủ cả ngàn nước nhỏ. Khi vua tuần du vào núi, gặp một con Sư Tử cái. Mọi người chạy tán loạn; nhưng nó đã cùng với vua giao hợp và sau khi đầy đủ ngày tháng, nó vào cung điện để sanh. Vua biết rõ đứa con nầy và nói dối rằng ta chẳng có con; nên đây có lẽ do trời cho; nên lấy đây làm dưỡng Thái Tử. Trên bàn chân ấy loang lổ; nên người ta gọi đây là Bác Túc. Sau khi lên làm vua lại thích ăn thị sống và bảo cho người nấu không được ít thịt. Một lúc nọ không đủ thịt; nên lấy thịt của đứa bé vừa mới chết ở cửa thành phía Tây để nấu thành đồ ăn. Vua khen ngon lắm. Rồi sắc phong nên thường hay dùng loại thịt nầy. Người làm bếp mỗi ngày bắt giết một người; khiến cho cả nước sầu oán. Cả ngàn nước nhỏ cùng với binh lính nổi lên lật đổ ngôi vua, rồi bỏ vào núi Kỳ Xà. Các La Sát bắt làm Quỷ Vương. Rồi cùng với Sơn Thần lập lời thề rằng: Thề lấy đầu của 1.000 vị vua ấy để tế núi non. Bắt được 999 rồi; chỉ còn thiếu vua Phổ Minh. Sau đó dò xét và bắt được. Khóc thật to và hận cho việc sanh ra, nói lời thật mà làm cho trái với niềm tin. Bác Túc chạy trở lại nước, làm việc bố thí lớn và lập Thái Tử. Nhưng lúc bị tử hình, tâm thật an ổn. Khi hỏi Bác Túc và được trả lời là nhờ nghe Thánh Pháp. Nhơn đó mới nói và tán thán tâm từ rộng rãi và chê bai việc giết hại. Rồi nói kệ Tứ Phi Thường. Khi Bác Túc nghe pháp, được không địa bình đẳng; tức là Sơ Địa vậy. Một ngàn vị vua mỗi mỗi lấy một giọt máu và 3 sợi tóc và cùng với Sơn Thần nguyện rằng: Bác Túc nầy cùng với 1.000 vị vua đồng nhau lập nên Thành Xá. Lấy nước lớn làm thủ đô ở trong 5 núi. Mỗi mỗi trong 1.000 nước nhỏ ấy dùng con mình để nối dõi. 1.000 vị liền mê, rõ biết việc nước lớn. Lại nữa bách tánh ở trong núi, đã 7 lần làm nhà cửa là 7 lần bị cháy rụi. Khi bách tánh hỏi thì được trả lời rằng: Do ta bạc phước nên lửa mới đốt cháy nhiều lần như vậy. Nếu vua mà có phước lực thì nhà cửa nầy chẳng bị thiêu đốt. Từ nay trở đi tất cả đều loại ra, lấy phòng của ta làm Vương Xá. Do đó mà chẳng bị thiêu đốt và cho nên gọi là thành Vương Xá.
Lại nữa Bác Túc đã cùng với 1.000 vị vua lập nên nhà cửa tại đất nầy; cho nên gọi là Vương Xá. Bác Túc được đạo; nên đã tha cho 1.000 vị vua. 1.000 vị vua ấy được tha ở đất nầy; cho nên đất nầy được gọi là đất của vua tha. Có lẽ trải qua nhiều đời cái âm vận ấy gần với chữ nhà cửa vậy. Đây là nhơn duyên đã được nêu ra trong các bộ luận lớn và các kinh khác.
Sự dạy dỗ ấy trong Kinh Tượng Pháp quyết nghi nói rằng: Tất cả đại chúng chỗ thấy chẳng giống nhau. Hoặc thấy rừng rậm đất đai, đá sỏi, cây cỏ, tường đá. Hoặc thấy thất bảo thanh tịnh trang nghiêm. Hoặc thấy nơi rừng nầy là chỗ du hành của ba đời chư Phật. Hoặc thấy rừng nầy là cảnh giới bất khả tư nghì, chơn thật pháp thể. Theo thí dụ nầy thì thấy rõ ý nghĩa về 4 chỗ thấy ấy không giống nhau. Cho nên chỗ ở tức nhiên có thể cũng lại như vậy. Đây chính là ước giáo phân biệt. Bổn Tích quán tâm thuộc về thuyết phía sau.
Kỳ Xà Quật Sơn được phiên dịch là Linh Thứu. Lại cũng gọi là cái đầu con chim Kênh Kênh. Lại cũng có nghĩa là dấu chân con chó sói. Lương Vũ nói: Con chim Quyết dẫn cho mọi người nghe tiếng hót là đây vậy. Lúc con chim hót cũng giống như con Quyết. Lại giải rằng: Đỉnh núi ấy giống tương tợ như con chim Thứu; nên lấy đỉnh núi làm tên gọi. Lại cũng nói: Phía nam của núi có rừng Thi Đà. Con chim kênh kênh ăn thịt những thi thể ấy rồi còn mang về núi nầy nữa. Lúc bấy giờ người ta gọi đây là Núi Thứu. Lại cũng giải thích rằng: Phật trước và Phật bây giờ đều cư ngụ tại núi nầy. Sau khi Phật diệt độ thì các vị A La Hán ở. Pháp mất thì Phật ở. Không còn Phật thì quỷ thần ở; nên gọi đây là chỗ Thánh Linh. Tất cả có 3 việc như trên; do nhơn duyên như vậy nên gọi là núi Linh Thứu. Có 5 Tịnh Xá; bia của Bà La Môn Phạt Nộ. Ở đây cũng có hang ở cho các vị Thánh như Tát Đa Bàn Na Cầu Ha. Đây cũng có hang Thất Diệp của Nhơn Đà Thế La Cầu Ha. Đây gọi là Núi Xà Thần; Tát Bá Nộ quỷ gặp Ngài Ca Bát Bà La. Đây cũng còn gọi là núi Thiêu Độc Lực. Năm điều trên được gọi chung là núi Kỳ Xà Quật.
Hỏi rằng: Ở Kiếp Hỏa, bỗng nhiên trời đất trong sáng. Vì sao mà Phật trước, Phật sau đồng ở tại núi nầy.
Đáp: Về kiếp sau, lập bốn tướng hoàn hiện, người được thần thông. Nên rõ biết ngày xưa dùng tên như bây giờ. Như ví dụ bên trên ở kiếp trước có vị tên là Cù Đàm và bây giờ cũng tên ấy. Trong ước giáo giải thích về núi ấy như sau: Cũng giống như đã nói về ý nghĩa của thành bên trên rồi, tiếp theo giải thích về chữ quán. Vua ở đây tức là tâm vương. Xá ở đây là ngũ ấm. Tâm vương tạo ra nhà cửa ở đây. Hoặc bị bẻ gãy hay ngũ ấm xá ấy, chính là không. Không ấy là thành của Niết Bàn. Việc quán xét ở đây tức là chỗ cạn, như thấy đất, cây. Nếu quán ngũ ấm, nhà cửa tức không; thì không ấy chính là thành của Niết Bàn. Tức là thông giáo vậy. Nếu quán ngũ ấm là nhà cửa thì khi nhơn mất đi, sắc nầy sẽ giữ được cái sắc thường còn. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đây là 4 cái đức thường hằng mà chư Phật làm chỗ du hành. Nếu quán ngũ ấm là pháp tánh, thì pháp tánh ấy chẳng có thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả chúng sanh đều là Niết Bàn cả, chẳng thể mất đi, rốt ráo không tịch xá. Như vậy Niết Bàn chính là chơn như thật thể vậy…
Quán tâm sơn nghĩa là: Nếu quán sắc ấm không có tánh biết như núi; thức ấm như Linh; 3 ấm như Thứu. Quán đến Linh Thứu nầy vô thường; tức là chiếc quán vậy. Quán Linh Thứu nầy không, thì chính là thể quán vậy. Quán Linh ấy là trí tính, rõ biết cái nguyên nhơn của trí tuệ trang nghiêm vậy. Thứu ấy chính là nhơn duyên tụ tập lại. Phước đức trang nghiêm là đây. Núi ấy chính là pháp tánh chánh nhơn chẳng đặng. Ba pháp nầy gọi là tạng bí mật. Tự ở trong nầy, lại cũng dùng ở trong đó để độ người.
Câu văn ở dưới nói rằng: Phật tự tại Đại Thừa; chính là biệt, viên hai loại quán… Ở giữa có nghĩa là Phật thích Trung Đạo. Lên trên trời và giữa ngày giáng xuống giữa nước và nửa đêm thì mất. Tất cả đều biểu thị cho cái ý là Trung Đạo. Nay ở trong núi nầy nói về Trung Đạo. Giải thích cho những người cùng nghe có 3 loại. Đầu tiên là Thanh Văn, sau đến là Bồ Tát và cuối cùng là Tạp chúng. Các kinh phần nhiều cũng như vậy.
Ngày xưa nói: Có việc là có ý nghĩa. Việc ở đây là tùy theo hình và tích ấy gần gũi thân cận. Hình thể của Thanh Văn xuất tục nhưng dấu tích vẫn nói liền với Như Lai. Chứng đắc trải qua sự gần gũi thân cận như đã nói phía trước. Hình của người, trời ăn mặc khác nhau, tích ấy không chờ đợi phụng thờ. Sự chứng đắc trải qua sự thuần thục về sau nầy. Còn hình của Bồ Tát thì chẳng nhất định và tích ấy thì chẳng có nơi nào nhất định. Tức là chẳng giống với thế tục; lại chẳng khác với Tăng. Nơi chốn ấy là không gian hợp với thời tiết. Cho nên nói là ở khoảng giữa.
Có ý nghĩa ấy là các vị Thanh Văn vui với Niết Bàn; còn Trời, Người thì đắm trước nơi sanh tử. Mỗi mỗi đều có chỗ biên kiến. Bồ Tát thì chẳng vui như vậy mà cũng chẳng bị đắm trước như thế. Ở khỏng giữa ấy cầu tông chỉ. Cho nên ở tại hai khoảng không gian. Các luận giải thích ý nầy cũng lại như vậy. Điều thứ nhứt ở đây giải thích giống như hai cách giải. Còn việc giải thích thì giống như nhơn duyên. Ý nghĩa của việc giải lại ấy giống như ước giáo …
Bổn Tích giải thích là: Thanh Văn thì nội ẩn mà ngoại hiện; nay cho chỗ chứng Niết Bàn. Còn Trời, Người tất cả là Tát Đỏa, há lại chìm đắm nơi sanh tử. Tất cả đều là Tích, dẫn đến nhị biên, mà cái gốc thường là Trung Đạo.
Quán tâm giải thích rằng: Từ cái giả, nhập vào quán không, tức là thiên lệch phá sanh tử. Từ không nhập vào giả quán. Tức là thiên lệch phá Niết Bàn. Trung Đạo chánh quán thì lại chẳng có trước sau …
Như ví dụ phía trước: Thanh Văn chia làm hai. Trước là Tỳ Kheo, thứ đến Tỳ Kheo Ni. Tỳ Kheo lại chia làm hai. Đầu là trí thức lớn; thứ đến là trí thức kém. Cách gọi xưa thì đây là Đại Danh Văn và Tiểu Danh Văn. Tuy nhiên vô cứ. Bây giờ nương vào câu văn nầy để phán đoán như thế nầy. Tựu trung trí thức lớn có 6 loại. Một là loại; hai là số; ba là vị; bốn là đức; năm là liệt và sáu là kết.
Loại đây có nghĩa là: Tất cả đều là Đại Tỳ Kheo khí loại. Dụ cho quần phương quý tặc; mỗi mỗi đều có ban bối. Bây giờ các Tỳ Kheo đều là chúng sở tri thức. Cao tăng đại đức. Các luận giải thích rõ về việc nầy. Cùng với nghĩa nầy giải thêm 7 nghĩa khác nữa. Nghĩa là: Một lúc, một nơi, một giới, một tâm, một thấy, một đường, một giải thoát. Trải qua Giáo mỗi mỗi làm rõ ra bảy. Tam Tạng có 17. Thông giáo có 27. Còn Biệt giáo vô lượng bảy. Viên Giáo có 17. Nếu chưa phát ra dấu tích chánh thức thì Tam Tạng thông giáo trong ấy có 7. Nói thẳng 2 ý thì có khác nhau; nhưng thời, xứ, giới, giải thoát lại giống nhau. Tâm ấy thấy đạo ba loại liền sai biệt. Cho đến khai ba, hiển một. Tức là vào được Viên Giáo của 7.
Trong luận Pháp Hoa nói có 4 loại Thanh Văn. Nay khai, trụ, quả vì cả hai mà chiết pháp trụ quả. Đây là tam tạng Thanh Văn. Thể pháp trụ quả; ấy là Thông Giáo Thanh Văn. Khai ứng hóa chia làm hai. Chứng địa ứng hóa là Biệt Giáo Thanh Văn. Chứng trụ ứng hóa là Viên Giáo Thanh Văn. Còn khai Phật Đạo Thanh Văn lại cũng chia làm hai. Làm cho người khác lần lượt nghe được con đường của Phật thì đây là biệt giáo Thanh Văn. Làm cho kẻ khác chẳng lần lượt nghe con đường của Phật, tức là Viên Giáo Thanh Văn. Thanh Văn nghĩa là hạo nhiên (to lớn), vì sao lại chứng Niết Bàn để lìa rẽ…
Chữ Đại ở đây theo cách giải thích của luận rõ ràng là lớn; lại cũng nói là to; lại nói là hơn cả. Ở chỗ tôn trọng bậc Thiên chủ so với người lớn là chỗ kính trọng; nên gọi là lớn. Hơn cả 95 loại ngoại đạo; nên gọi là Thắng. Rõ biết nội ngoại kinh thơ; cho nên gọi là nhiều. Lại nói số đến 12.000; cho nên nói là nhiều. Nay làm rõ chỗ đường lớn; cho nên có đại dụng và đại trí; nên gọi là to. Còn thắng ở đây có nghĩa là: Đạo hơn, dụng hơn; trí hơn; do vậy nói là Thắng. Còn nhiều ở đây nói là: Đạo nhiều; dụng nhiều; trí nhiều; cho nên nói là đa. Đạo tức là tánh niệm xứ. Đại là đối với tất cả trí của ngoại đạo. Dụng đây tức là cùng với niệm xứ; hơn hẳn thần thông của ngoại đạo. Trí tức là duyên niệm xứ. Đa ở đây là ngoại đạo Tứ Vi Đà. Ước giáo giải thích là lớn, nhiều, hơn, mà người lớn nhỏ đều kính trọng. Đây chính là sự giải thích trong ba tạng.
Chữ lớn ở đây có nghĩa là lực lớn của bậc La Hán ở chỗ tôn kính. Nhiều nghĩa là biến trí sanh diệt tức là pháp vô sanh diệt. Hơn ở đây có nghĩa là hơn ba tạng 4 môn. Đây chính là sự giải thích của Thông Giáo.
Lại nữa lớn có nghĩa là thể pháp to lớn của La Hán, là chỗ tôn kính. Nhiều đây nghĩa là hằng sa Phật pháp tất cả đều rõ biết. Hơn ở đây có nghĩa là vượt hơn kẻ nhị thừa. Đây là cách giải thích của Biệt Giáo.
Lại nữa lớn có nghĩa là chỗ tôn kính của các vị Đại Bồ Tát. Pháp giới bất khả lượng pháp tất rõ biết hết vậy. Hơn có nghĩa là dùng để chỉ cho các vị Bồ Tát. Đây là cách giải thích của Viên Giáo.
Bổn Tích có nghĩa là các bậc Đại Đức nầy từ lâu tuân hành chư Phật. Cái gốc ấy là được Thắng Tràng Tam Muội, vượt qua khỏi các ngoại đạo. Trước đó đã thành tựu các loại trí, biến tri.
Còn Tích là đến để phò trì Phật hành hóa. Chỉ cho việc làm, yêu mến trong cái nhìn về Đại, Đa và Thắng. Muốn dẫn cho chất sữa trở thành sữa đun sôi. Lại nữa trong Tam Tạng thì Đại, Đa, Thắng là muốn dẫn dắt từ đề hồ thành sữa đặc. Ở đây dùng để chỉ phương cách cho Đại, Đa, Thắng là muốn dẫn dắt từ sữa đặc đi vào chỗ Thục Tô (sữa nhuần nhuyễn). Đây dùng để chỉ cho chuyển giáo tạo ra Bát Nhã trong Đại, Đa, Thắng; muốn dẫn Thục Tô vào Đề Hồ. Trong Pháp Hoa là Đại, Đa, Thắng vậy, mà ở bổn địa nầy Đại, Đa, Thắng lại là như thế …
Quán tâm có nghĩa là lấy Không Quán làm lớn. Giả Quán làm nhiều và Trung Quán làm hơn. Lại cũng gặp ngay Trung Quán, tâm tánh rộng mở. Dụ như hư không; cho nên gọi là Đại. Tuy cả hai bên đều vào biển tịch tịnh; cho nên gọi là Thắng. Cùng chiếu vào Nhị Đế và nhiều nơi chứa đựng. Một tâm là tất cả tâm; cho nên gọi là Đa.
Tỳ Kheo theo lời nói là người sống đời tịnh hạnh, đi khất thực; phá trừ phiền não, hay trì giới và hàng phục ma quân. Thiên Trúc gọi danh từ này hàm chứa 4 nghĩa như thế. Chữ Tấn không phiên dịch; cho nên còn lại, xưng là cái gốc. Thập Sư gọi là: Từ vô thỉ ra khỏi nhà của vợ con, muốn làm hạnh đi khất thực. Tự mình có đời sống thanh tịnh. Cuối cùng ra khỏi nhà tam giới, bắt buộc phải phá trừ phiền não, trì giới, tự giữ gìn bởi chính mình. Đầy đủ 2 nghĩa nầy thì ra khỏi cảnh giới sợ hãi của thiên ma.
Thích Luận nói: Bố Ma, phá ác, khất sĩ. Ma vui với sanh tử, mà người xuất gia thì phải giáo hóa người, cho ra khỏi tam giới; đây là cái ý đối với ma vậy. Ma dùng lực để chế ngự; dịch là bị 5 dây cột trói; nên phải lo rầu. Do vậy mà gọi là bố ma. Người xuất gia tất nhiên phá thân, miệng 7 việc ác. Cho nên gọi là phá ác. Phàm là người tại gia 3 loại như pháp. Một là làm ruộng; hai là buôn bán; ba là kẻ sĩ dùng để nuôi thân. Còn kẻ xuất gia Phật chẳng thuận hứa cho điều nầy. Duy chỉ có đi xin ăn tự nuôi sống thân, an lạc nơi đạo và làm phước lợi cho Đàn Việt. Ba nghĩa ấy hợp lại, thành nghĩa Tỳ Kheo. Trong Niết Bàn Bảo Lương nói tất cả đều phá ác cho nên gọi là Tỳ Kheo. Chẳng nói cho đủ. Cho nên bây giờ làm rõ 3 nghĩa nầy qua chỗ đầu và sau. Như đầu tiên đi xuất gia thì bạch Tứ Yết Ma, vô tác giới lực, biến tất cả cảnh; phiên dịch là vô tác ác. Đầu tiên tu thiền định. Sau khi định rồi, cùng với giới, phòng ngừa ý tham sân đừng cho khởi lên. Đầu tiên tu quán huệ, khi phát tương tợ đạo cùng với giới, hay hàng phục những phiền não. Sơ tâm cũng gọi là phá ác. Còn tâm riêng ở sau nữa là gì?
Bố Ma nghĩa là: Đầu tiên là cạo tóc và giữ giới nên làm cho ma lo lắng. Tu định là muốn hàng phục phiền não. Tu huệ là muốn phá trừ phiền não. Sơ tâm ấy lại cũng làm cho ma sợ. Còn tâm riêng ở sau ra sao?
Khất sĩ đầu tiên là lìa được đời sống tà, dùng khất thực để tự nuôi mình. Tu định trải qua các cảnh giới cầu định. Tu huệ duyên vào lý để cầu vô lậu. Tất cả ý đây là khất sĩ. Hà huống giống nhau mà chẳng gọi là khất sĩ. Đầy đủ những nghĩa nầy; nên thường gọi là Tỳ Kheo. Nương vào nơi kinh mọi người tán thán với tâm sau nầy, mà gọi là Tỳ Kheo. Ở đây là tất cả ý của ba tạng. Nếu trải qua, nương vào và cầu đến thì đúng tên là Khất Sĩ. Phá trừ những nghi hoặc chướng ngại thì gọi là phá ác. Tu việc nầy và thực hiện việc ngăn ngừa tứ ma; tức là nghĩa của Thông Giáo. Nếu trải qua 3 chân lý để cầu cái lý; gọi đây là Khất Sĩ. Trừ những hoặc thông, biệt; gọi đây là phá ác. Hàng phục 8 ma, 10 ma tức là nghĩa riêng vậy. Nghĩa là ở trong sanh tử mà cầu nghĩa thật tướng, tức là Khất Sĩ. Đạt phiền não tức là Bồ Đề, gọi đây là phá ác. Ma giới tức Phật giới. Đây chính là nghĩa của Viên Giáo. Nếu chưa phát Tích để làm sáng rõ 2 nghĩa phía trước, thì đã hiển Bổn đầy đủ, sau là ý vậy.
Bổn Tích có nghĩa là bổn chứng Niết Bàn sơn đảnh, cùng với vô minh, si ái, cha mẹ, kết nghiệp vợ con riêng biệt. Ra khỏi phần luyến ái dễ dàng ở nhà. Lâu dài trừ ngũ trụ thì làm gì cái ác có thể chuyển phá được. Rộng vì pháp chơn chánh, vui được như ăn uống sữa, mè. Liền chẳng phải cái ăn mà ở cùng trong đạo của giới (Thi Ba La Mật), nhiếp hóa chúng sanh, dùng giới để độ; hàng phục ma giới tức là cảnh giới Phật như thế càng cao hơn. Bổn địa công đức lâu dài thành tựu rồi, vì sự điều phục chúng sanh mà có Tích, dùng để chỉ cho ngũ vị Tỳ Kheo truyền dẫn chúng sanh; giống như những ví dụ đã giải thích ở trước.
Quán tâm có nghĩa là quán một niệm tâm thanh tịnh. Nếu là hư không thì chẳng phải nhị biên trói buộc chỗ chướng ngại. Bình đẳng đại huệ, vô trụ vô trước tức là xuất gia. Dùng Trung Quán để tự làm tư lương. Sống với pháp thân huệ mệnh, gọi là Khất Sĩ. Quán xem ngũ trụ phiền não tức là Bồ Đề. Đây gọi là phá ác. Tất cả các bên điên đảo đều chẳng phải là Trung Đạo. Đây chính là Bố Ma v.v…
Chúng ở đây đối với Thiên Trúc là gọi Tăng Già; ở sự phiên dịch nầy là hòa hợp chúng. Một người chẳng thể gọi là hòa hợp. Bốn người trở lên mới gọi là một hòa hợp. Sự hòa, không sống biệt chúng. Pháp hòa không riêng lý. Phật thường cùng với 1.250 người câu hội. Ba vị Ca Diếp có 1.000 người. Thân Tử, Mục Kiền Liên có 250 người. Cũng có nơi nói Da Xá có 50 người. Trong Tạp A Hàm thì nói có 45. Trong 500 vị Tỳ Kheo ấy có 90 người chứng Tam Minh 90 người đều giải thoát; hay huệ giải thoát.
Luận giải thích rõ về 4 loại Tăng chẳng nương vào đời sống thanh tịnh thì gọi là Tăng phá giới. Chẳng rõ được pháp luật thì gọi là Tăng ngu si. Ngũ phương tiện gọi là tàm quý Tăng. Nhẫn chịu được pháp khổ, gọi là chơn thật Tăng. Trong đây lại chẳng phải 3 loại, thường là chơn thật Tăng. Nếu nương vào Tứ Giáo thì Tăng nầy thiên lệch với Viên Ngũ Vị Tọa, làm giống như người nghe. Làm cho đúng thì đây là Viên Giáo, chứng được niềm tin vậy.
Bổn Tích giải thích rằng: Bổn ấy cùng với cái lý của thật tướng hòa với nhau. Lại cùng hòa với cơ duyên của pháp giới chúng sanh, mà Tích đây là nửa chữ về sự lý của Tăng; trải qua Ngũ Vị để hướng dẫn chúng sanh…
Chữ Quán được giải thích là đầu tiên học về Trung Quán, nhập tương tợ quán. Tức chưa phát được sự xấu hổ chơn thật. Nghĩa thứ nhứt là hồn của chư thiên và Thánh nhơn. Tức là vị Tăng ấy có thẹn thùng. Quán huệ nếu phát triển, tức là chơn thật Tăng. Nếu khác với điều nầy tức là 2 loại Tăng phía trước. Chẳng nương vào việc quán tưởng thì đây gọi là phá giới Tăng. Chẳng giải rõ được tướng quán thì gọi đây là ngu si Tăng. Tiếp theo chia theo số. Số rõ ràng là 12.000 người. Bổn Tích ấy gốc là 12.000 vị Bồ Tát. Tích ấy là 2.000 Thanh Văn. Quán là quán 12 nhập. Một nhập đầy đủ 10 pháp giới. Mỗi một giới lại có 10 giới. Giới giới mỗi mỗi đều có 10 như vậy. Tức là 1.000. Một nhập tức là 1.000. 12 nhập tức là 12.000 pháp môn.
Tam Minh vị nghĩa là tất cả đều là A La Hán. Kinh A Phong gọi là Ứng Chơn. Đoan chánh ứng hiện gọi là người chơn thật, tức là Vô Sanh; giải nghĩa là La Hán. Nương theo lối dịch cũ là Vô Tánh: chẳng sanh ứng cúng; hoặc nói là Vô Phiền. Gọi chung gồm 3 nghĩa. Ra khỏi vô minh. Đời sau chẳng thọ vào quả báo sanh tử. Nên nói là Bất Sanh. 98 sử phiền não diệt hết; cho nên nói là sát tặc. Đầy đủ trí về công đức, là phước điền sâu xa của Trời Người nên gọi là Ứng Cúng. Đầy đủ 3 nghĩa nầy nên gọi là A La Hán. Hoặc nói đầu tiên, bắt đầu học vô sanh, sanh chưa vô sanh. Đầu tiên tuy có bố ma; nhưng ma ấy chưa phải lớn. Đầu tiên tuy là Khất Sĩ, chưa sáng tỏ việc Ứng Cúng. Nay được Vô Sanh Nhẫn, phá giặc phiền não hết sạch. Đây chính là mảnh ruộng tốt. Dùng quả đối với nhơn; nên dịch 3 nghĩa khác nhau về La Hán. Theo Luận Thành Tựu thì nên lấy quả của 3 nghĩa ấy. Nếu qua được phần đầu; lại dùng cái nhân của 3 nghĩa thì như điều giải thích nầy. Tất cả đều thông qua cái ý của Tam Tạng chăng? Nếu là Biệt, Viên thì ý nghĩa chẳng phải như vậy. Chẳng nên sát tặc thì lại sát chẳng phải tặc. Chẳng phải tặc ấy là Niết Bàn. Ở đây lại nên phá. Cho nên nghĩa là Sát Tặc. Không sanh đối với sanh; lại không sanh không sanh. Vô Lậu là chẳng sanh. Chẳng nên Ứng Cúng thì là Ứng Cúng. Tất cả chúng sanh là Ứng Cúng. Tất cả đều ca ngợi Sơ Địa và cái đức của Sơ Trụ vậy.
Bổn Tích ấy là cái gốc có được chẳng thọ Tam Vị. Đối với nhị biên chẳng có chỗ dính mắc; cho nên gọi là bất sanh. Đoạn trừ ngũ trụ hoặc; cho nên gọi là Sát Tặc. Hay làm phước nơi chín đường, làm lợi lạc chúng sanh; cho nên có Ứng Cúng. Đây là nghĩa chính vậy. Phương tiện độ chúng sanh, trải qua Ngũ Vị, truyền truyền tạo ra sự chẳng sanh. Tích cũng như vậy. Bổn ấy là pháp thân. Tích ấy chỉ có sự lợi lạc của chính mình. Bổn ấy là Bát Nhã. Tích ấy dùng để chỉ cho sự bất sanh. Bổn ấy là giải thoát. Tích ấy dùng để chỉ cho Sát Tặc v.v…
Quán Tâm có nghĩa là: Không quán là Bát Nhã; giả quán là giải thoát. Trong quán ấy chính là pháp thân. Lại nữa quán tâm có nghĩa là từ giã, nhập vào không quán, lại có 3 nghĩa. Cho đến Trung Đạo quán; giết giặc vô minh, chẳng sanh tâm nhị thừa. Cúng dường vị nầy giống như cúng dường Đức Thế Tôn. Phương Đẳng nói: Cúng Phật và Văn Thù chẳng bằng làm việc bố thí cho Phương Đẳng một bữa ăn đầy đủ. Câu văn tiếp theo: Hủy báng hay tán dương Phật; tội phước nhẹ. Nếu hủy báng hay tán dương kẻ trì kinh thì tội phước rất nặng. Vì rằng Phật không cần tưởng nhớ đến việc ăn uống, đã lìa khỏi 8 ngọn gió; chẳng lấy gì làm tổn hại. Còn cúng thí cho người trì kinh, thì toàn thể nhục thân nầy được tiếp tục sống và khi pháp thân sanh thì tăng trưởng huệ mệnh; cho nên có được sự lợi ích. Khi hủy bán thì lo lắng sầu não, thoái tâm hối hận. Nếu gặp được, mất; liền chẳng thể cứu; cho nên nói là hao tổn lớn…
Tứ Thán Đức Văn có 5 câu thán 3 cái đức ở trên. Pháp Hoa luận nói rằng: Câu đầu nói tổng quát. Câu sau nói riêng ra. Nên biết rằng tất cả các câu đều tán thán La Hán. Các lậu đã hết, lại chẳng còn phiền não. Hai câu nầy tán thán việc Sát Tặc bên trên. Lậu đây là tam lậu vậy. Thành Luận nói: Mất đạo cho nên gọi là Lậu. Luật nói: Người si mê tạo nghiệp, khai mở các cửa lậu. Tỳ Đàm nói: Lậu làm rơi sanh tử. Lời nói của Luận và Luật tuy khác nhau; nhưng cùng một nghĩa về Lậu. Lý do tốt nhất là tặc nầy mất đi thì chơn lý sáng tỏ. Khi bần cùng cô lộ thì tạo ra cái nghiệp, khiến cho sanh tử khổ não; đánh mất pháp thân, mất cả huệ mệnh, buồn cho giá trị quý giá kia. Tất cả đều có ý nghĩa là Tặc. Bất Ưng Vị là chẳng sanh cái nghĩa tán thán cái đức vậy.
Phiền não đây chính là 98 loại sử, luân chuyển bức bách trói buộc con người. Phiền não nầy có thể thấm qua. Lậu nghiệp chính là chỗ thấm; có thể sẽ chấm dứt. Đây đúng là nghĩa của Sát Tặc vậy. Điều nầy được tạo tác; chẳng sanh tán thán sao? Kịp được lợi mình một câu. Đây là tán thán về Ứng Cúng. Tam giới nhơn quá, tất cả gọi là vì chỗ kia. Rõ biết việc đoạn bỏ công đức; tất cả đều tên là làm lợi cho mình. Cái lợi của mình đầy đủ; cho nên thành Ứng Cúng. Tận diệt tất cả các hữu kết thì tâm được tự tại cả hai câu. Đây là tán thán về Bất Sanh. Các hữu ở đây nghĩa là 25 hữu sanh xứ. Kết ở đây có nghĩa là 25 hữu sanh nhơn. Nhơn hết, quả tiêu thì tán thán là Bất Sanh. Chắc hẳn đã rõ rồi chăng? Chẳng nên tạo ra việc tán thán Sát Tặc. La Hán hằng nên hết tất cả những kết; chưa hết thì nên có sự hết. Hữu tận ấy là: Trong nhơn ấy nói về quả. Lại nữa tận ấy chẳng dài lâu. Tâm được tự tại; định đầy đủ thì gọi là tâm tự tại. Huệ đầy đủ thì gọi là huệ tự tại. Huệ tự tại chưa phải là tâm tự tại. Tâm tự tại tức là huệ tự tại. Nay nói là tâm tự tại; tức là định huệ đầy đủ; đều là người giải thoát. Cụ giải thoát nhơn, sanh ra quyết định hết. Thường hay rõ biết tán thán về cái đức Bất Sanh. Nếu nương vào luận Pháp Hoa thì gọi đây là Thượng Thượng Khởi Môn. Nghĩa là lấy phía sau để giải thích về phía trước. Luận rằng: Dùng các lậu tận; cho nên gọi là La Hán. Dùng tâm được tự tại cho nên gọi là Kết Tận. Như vậy cứ tiếp tục giải thích như trên.
Bổn Tích ấy là bất sanh, bất sanh cho nên gọi là Đại Niết Bàn. Phiền não lậu chủng đi thì nguồn nầy khô cạn lâu dài, chẳng trở lại đọa lạc vào Nhị Thừa và Phàm phu địa. Tức là cái gốc chẳng sanh. Pháp thân trí, đoạn thật tướng công đức; gọi đây là bổn kỷ lợi, được vua Tam Vị, phá 25 hữu, hiển xuất ngã tánh, đầy đủ 8 tự tại ngã. Gọi là bổn sát tặc. Tính ấy chỉ cho Nhị Thừa công đức.
Quán Tâm ấy là: Trung Đạo chánh quán, không lậu, không rơi vào không, giả nhị biên. Nhị biên phiền não phải diệt. Có thể quán thấy tánh của tâm; nên gọi đây là Thượng Định. Nương vào tạng bí mật quý giá thì đây chính là vật của mình và tức là lợi lạc cho chính mình. Chánh quán trung đạo kết hoặc liền đoạn trừ. Không kết cho nên lại có đoạn. Nhị biên chẳng thể tránh buộc tâm; cho nên gọi là tự tại. Tuy có phiền não đấy; nhưng giống như là chẳng phiền não. Chẳng đoạn trừ phiền não mà nhập Niết Bàn. Tức là ở nghĩa nầy vậy.
Điều thứ 5 là nêu ra danh tánh; nhưng ở đây chỉ lược nói 21 vị Tôn Giả. Đây đều là những đệ tử của Phật cùng thi hành Phật sự mà yên ổn; nên có thể tròn đầy. Mỗi mỗi từ một đức hạnh làm tiêu chuẩn để gọi tên và muốn dẫn đến chỗ tốt hơn. Tăng Nhứt A Hàm nói rằng: Tỳ Kheo Kiều Trần Như được gọi là bậc Thượng Tọa như những vị khác. Có cái đức thật lớn theo biểu tướng của người khác. Xá Lợi Phất là bậc có trí tuệ thâm sâu, làm lợi lạc cho người theo. Mục Kiền Liên là vị có Thần Thông to lớn. Tất cả đều nắm giữ nơi một pháp, dẫn đến các ý tốt. Nếu muốn hết đi thì phải rõ biết việc làm nầy. Từ các đức lập nên cách gọi, chẳng trải qua thì chẳng thông suốt. Mỗi mỗi vị La Hán đều có nhiều ví dụ và 4 cách giải thích v.v…
Tên của Kiều Trần Như được dịch là Hỏa Khí, thuộc dòng dõi Bà La Môn. Đầu tiên sanh ra trong gia tộc thờ thần lửa. Lửa ở đây có 2 nghĩa là chiếu sáng và thiêu đốt. Chiếu sáng có nghĩa là làm cho chỗ tối chẳng sanh ra. Thiêu ở đây có nghĩa là làm cho vật chẳng sanh ra nữa. Cái bất sanh ấy chính là tánh, là tên gọi. Chữ A có nghĩa là rõ biết rồi; hoặc nói là không rõ. Không rõ ấy chẳng phải là chẳng có chỗ biết. Nhưng đây là rõ biết cái không. Nếu nương vào hai đế, tức đây là rõ biết sự chơn thật. Dùng vô sanh trí làm tên gọi vậy.
Vô Lượng Thọ hỏi Văn Thù trong A Tỳ Đàm Bà Sa: Tất cả gọi là rõ biết bổn tế, rõ biết bổn tế. Nếu nương vào Tứ Đế, tức là sự hiểu biết kia diệt đi, mà có kinh đa phần gọi là vô trí. Hoặc có nơi dịch là được đạo. Tăng Nhứt A Hàm nói rằng: Trong Phật pháp của ta rộng nhơn nghĩa và lớn sự hiểu biết. Đầu tiên thọ nhận mùi vị của pháp; giống như Tỳ Kheo Câu Lân Như là một. Cho nên lấy chữ A làm tên.
Do lời nguyện của Phật ngày xưa khi đời đói khát, hóa làm con cá lớn ở nằm chết trên sông. Có 5 người thợ mộc dùng búa để xẻ thịt cá. Lúc đó Phật phát lời thệ rằng: Đời sau sẽ độ cho những người nầy trước. Do cái nguyện như trước kia cùng với sự vô sanh nầy; nên gọi là A.
Lại nữa vào lúc Phật Ca Diếp ra đời, có 9 người học đạo mà 5 người thì chưa chứng quả; nên thệ nguyện rằng ở trong pháp của Đức Thích ca sẽ được khai ngộ trước tiên. Do cái bổn nguyện ấy đã lập trước; nên được Vô Sanh vậy. Do đó gọi là A. Còn hạnh ở đây nghĩa là rõ biết sanh hoặc diệt, trí đoạn việc làm. Phàm trong đêm dài mọi người mê ngủ chẳng thể rõ biết, ánh sáng mặt trời chưa hiện, khi còn ánh sao mai. Kiều Trần Như Tỳ Kheo đầu tiên chứng Vô Sanh Trí và thệ nguyện rằng: Ánh sáng sao mai ấy đầu tiên phải sáng nơi mọi chúng sanh. Tất cả mọi người đều phải có trí sáng ấy. Trước đó không có, nên tên của Trần Như gọi là A. Đầu tiên phá trừ chỗ tối tăm, chưa khỏi ánh sáng của sao. Trần Như cũng như vậy. Tất cả người hết tối và trước đó không có Trần Như nên gọi là A.
Trước có nghĩa là: Thái Tử rời bỏ nước nhà, quên vua mà vào núi học đạo. Phụ Vương nhớ đến 5 người nầy và chờ đợi. Cho nên nói là Câu Lân Át Bệ. Lại cũng gọi là Thấp Bệ. Lại nữa A đây gọi là Thị. Lại cũng gọi là Mã Tịnh Bạt Đề. Cũng còn gọi là Ma Ha Nam.
Thập Lực Ca Diếp, Câu Lợi Thái Tử, hai là mẫu thân, ba là phụ thân. Cả hai người đều muốn thanh tịnh. Cả 3 người đều lấy sự khổ hạnh làm chỗ thanh tịnh. Thái Tử thì siêng hành hạnh khổ hạnh. Hai người liền bỏ đi và 3 người chờ. Còn Thái Tử thì bỏ việc tu khổ hạnh, thọ nhận đồ ăn, dầu mè và nước ấm và rời 3 người kia đi.
Khi Thái Tử đắc đạo thì vì 5 người kia nói pháp Tứ Đế. Đầu tiên dạy cho 2 người. Câu Lưu pháp nhãn được thanh tịnh. Bốn người còn lại chưa chứng. Ba người đi xin ăn; cộng chung thành sáu người cùng ăn. Tiếp theo độ cho 3 người và 3 người kia được pháp nhãn thanh tịnh. Hai người đi khất thực và 6 người cùng ăn. Đến lần thuyết pháp thứ 3 thì Câu Lưu, 5 người và 80.000 chư thiên xa lìa trần cấu. 5 người ấy được vô sanh.
Phật 3 lần hỏi, chưa rõ hết pháp. Tức là 3 lần đáp như thế. Địa Thần xướng lên rằng: Không Thần truyền lệnh cho đến Phạm Thế khó biết rõ hết. Câu Lân trước hết và thấy rõ được con đường của Đạo; nghe được tiếng trống pháp đầu tiên. Mong được hương thơm đầu tiên của đạo vào người. Thâm nhập Cam Lồ đầu tiên. Dự vào dòng pháp đầu tiên; chứng chơn đế đầu tiên, đắc đạo tại Diêm Phù Đề. Là vị được đạo trước nhất kể cả người, trời và tất cả các vị La Hán. Cho nên trong kinh 12 Du Hành nói rằng: Phật thành đạo năm đầu tiên độ cho 5 người và năm thứ 2 độ cho 3 Ngài Ca Diếp; đến năm thứ 5 độ cho Thân Tử (Xá Lợi Phất) và Mục Liên. Phải nên rõ rằng chữ A ấy là trước vậy.
Do nhơn duyên đây mà giải thích. Như trong Tam Tạng dạy rằng: Giống như người mù chẳng sanh ra trí. Cái kiếng dụ cho cảnh vô sanh: Ấm, nhập, giới. Cái đầu và 6 phần dụ cho cái nhơn trong hiện tại. Hình ảnh ấy dụ cho cái quả trong vị lai. Nếu mở mắt thì thấy hình hiện lên nơi tấm kiếng. Kẻ ngu thì không rõ hết. Nếu đóng mắt lại thì như người mù chẳng thấy được chỗ thấy, 6 phần đều là cái nhơn chẳng thể sanh. Chẳng thấy hình ảnh trên kiếng là quả chẳng sanh.
Cho nên Kinh A Hàm nói rằng: Nếu mà có sắc, sắc ấy là tịnh; tịnh tức sanh; chẳng phải chẳng sanh. Nếu là thọ, tưởng, hành, thức; thức là tịnh. Tịnh tức sanh, chẳng phải chẳng sanh. Nếu là thọ, thọ ấy là lạc; lạc tức sanh; chẳng phải chẳng sanh. Cho đến sắc, sắc là lạc; lạc là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Cho đến cả tưởng hành, hành là ngã, ngã ấy là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Cho đến sắc là ngã, ngã ấy là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Cho đến sắc là ngã, ngã ấy là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Nếu tính có thức, thức là thường. Thường ấy là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Cho đến sắc; sắc là thường. Thường là sanh; chẳng phải chẳng sanh. Giống như chấp vào tấm kiếng để thấy diện mạo mình; thì diện mạo ấy là sanh (có) nhưng thật ra chẳng phải chẳng sanh. Cho đến nói ngũ ấm tất cả là sanh; nhưng thật ra chẳng phải chẳng sanh. Nếu có thể rõ biết sắc chẳng tịnh; cho đến thức chẳng thường. Lại có thể rõ biết sắc vô thường; khổ, không, bất tịnh; cho đến thức vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Đây là chẳng sanh, chẳng phải sanh. Như đóng mắt lại chấp vào tấm kiếng chẳng thấy hình ảnh sinh ra. Đây là chẳng sanh, chẳng phải sanh. Tức liền rõ biết là chẳng sanh. Lại thấy nơi ngã là sắc; thấy ngã là khác sắc, ngã ở tại sắc, sắc tại ngã cho đến thức cũng lại như vậy. Quán như thế tức là nhơn hiện tại, quả vị lai tất cả đều chẳng sanh. Giống như người đóng mắt lại, chẳng thấy hình ảnh vậy. Đây gọi là quán ấm chẳng sanh, là quán trí vậy.
Quán nhập giới nghĩa là phàm lời nói như biển. Tuy có sâu rộng; nhưng lại có bờ nầy bờ kia. Cõi nước. Nếu mắt thấy sắc rồi, liền vùi vào chỗ sâu đắm, tham vui, khởi lên thân, miệng, ý nghiệp thì đây chính là biển lớn, mà trời, người, Tu La tất cả thế gian phải nên biết điều ấy. Mắt đây chính là biển lớn; sắc ấy chính là sự nổi trôi. Thọ (giữ) sắc nầy; cho nên phải lui tới. Ở trong ấy khởi lên chẳng lành, rõ biết có cá, rồng độc. Khởi lên đánh hại nam La Sát. Khởi lên sự nhiễm ái với quỷ nữ. Thân, miệng, ý đều muốn chìm nổi uống nước. Đây chính là nhãn sắc chẳng rõ biết, mà sanh ra ái vô minh. Ái sanh cho nên gọi là hành. Hành ấy sanh cho nên gọi là nghiệp. Nghiệp ấy trói thức và trung ấm. Đây là thức sanh. Cho nên thành bào thai, 5 vóc chưa thành. Đây gọi là danh sắc sanh. Năm vóc thành rồi thì lục nhập sanh. Lục nhập chưa thể phân biệt được khổ vui. Nên gọi là súc sanh. Riêng nhận khổ, vui nên gọi là thọ sanh. Đối với trần cảnh khởi lên sự nhiễm ô; nên gọi là ái sanh. Bốn phương rong ruổi tìm cầu, gọi đây là thủ sanh. Tạo ra thân, miệng, ý, gọi đây là Hữu. Muốn thọ nhận vị lai ngũ ấm thì gọi là cái sanh được sanh ra. Khi ấm ở vị lai ấy biến đổi, gọi đây là sự già sanh ra. Ấm ở lại vị lai ấy mất đi, gọi đây là sự chết sanh. Khi trong tâm nóng nảy, gọi đây là ưu sanh. Phát ra tiếng khóc, gọi đây là sự buồn tủi sanh ra. Thân tâm tiều tụy gọi đây là khổ não sanh. Khi mà mắt thấy sắc, tức có 3 đời 12 nhơn duyên khổ não lớn nhỏ sanh và chẳng phải chẳng sanh. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nhãn giới cho đến pháp giới cũng lại như vậy.
Đây chính là sanh nhập giới và chẳng phải chẳng sanh. Vì sao lại chẳng sanh?
Khi quán sắc thì chẳng trồng hạt giống khổ thì chẳng sanh mầm mống khổ. Chẳng xuất mùi hôi thối thì chẳng huân tập trong những ung nhọt. Chẳng trồng thì chẳng sanh; tức là mầm mống chẳng mọc. Khiến cho cái hôi thối chẳng sanh; tức là ung nhọt không có. Cho nên gọi là bất sanh.
Sao gọi là trồng giống khổ?
Khi mắt thấy sắc, khởi lên sự tham, si. Rõ biết đây là hạt giống của sự khổ đau. Nhớ đến pháp ngũ dục thì lại sanh ra mầm khổ. Lục căn chấp với lục trần nên mùi hôi thối mới chảy ra. Đối với lục trần lành dữ cạnh tranh nhau khởi lên; nên đây gọi là ung nhọt. Nếu rõ biết nhãn sắc vô thường, khổ, không, vô ngã thì tham, si chẳng sanh, và sự nhớ nghĩ về dục ấy lại cũng chẳng sanh. Sự chấp trước vào cảnh ấy chẳng sanh thì việc lành, dữ cũng chẳng sanh. Đây chính là bất sanh. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đây là nhãn giới cho đến pháp giới cũng lại như vậy. Chữ A đây chính là chỗ đầu tiên được 3 Tạng bất sanh trí vậy. Nên tên A của Kiều Trần Như thông giáo quán là vô sanh vậy. Cũng giống như huyễn nhơn chấp vào kiếng huyễn và lấy huyễn lục phần với kiếng huyễn thấy ảnh trong kiếng huyễn. Ảnh ấy chẳng phải kiếng sanh, chẳng phải hình ảnh sanh. Chẳng phải kiếng và hình ảnh hợp lại sanh; chẳng phải lìa kiếng ấy để có hình ảnh. Tức là chẳng phải từ 4 câu mà sanh. Tức là chẳng ở trong, ở ngoài, ở giữa. Chẳng thường và tự có, lại cũng chẳng mất đi đâu. Đi chẳng đến phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Tánh ấy vốn vô sanh; chẳng mất; sanh ấy chẳng sanh. Tánh ấy vốn không mất. Chẳng mất và mất ấy lại chẳng mất. Chẳng sanh chẳng diệt; cho nên nói là vô sanh. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
Lại nữa quán huyễn sắc như hình ảnh huyễn trong tấm kiếng. Quán thọ như bọt nổi. Quán tưởng như đóm lửa. Quán hành như cây chuối. Quán thức như huyễn. Huyễn ấy chẳng từ vật huyễn mà sanh. Chẳng từ Thầy huyễn mà sanh. Chẳng phải vật, Thầy hợp lại sanh. Chẳng lìa vật, Thầy mà sanh. Bốn câu ấy cầu huyễn sanh, sanh ấy chẳng từ đâu đến. Bốn phương cầu huyễn diệt, diệt ấy chẳng đi về đâu. Tánh bổn vô sanh; chẳng phải diệt sanh vô sanh. Tánh bổn vô diệt. Chẳng phải diệt ấy, diệt ấy chẳng phải diệt. Vô sanh vô diệt; cho nên gọi là Vô Sanh. Quán các căn, trần đều rơi rụng, nên kết, Tặc đều dừng. Từ xưa đến nay mỗi mỗi chẳng thật. Do vọng tưởng khởi lên. Nghiệp lực ấy giả hợp nơi không mà tụ tập lại. Thể tánh của vô minh, cái gốc nó vốn chẳng có. Do vọng tưởng nhơn duyên hòa hợp mà có. Cái có ấy gốc nó tự chỗ không nhơn duyên mà thành vậy. Phiền não; nghiệp khổ như vòng tròn lửa. Xem điều ấy là không. Tất cả đều đã nói như trên. Ở đây nên hiểu ý …
Hết quyển thứ nhứt (Phần Thượng) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú.
Quyển thứ nhất
(Phần dưới)
Biệt quán vô sanh trí dùng tấm kiếng dụ cho pháp giới, mắt ví như sự quan sát của trí. Màu xanh, vàng, đỏ, trắng, nhỏ, lớn, dài, ngắn dụ cho mười phương pháp giới. Màu xanh dụ cho nhơn quả nơi địa ngục. Màu vàng dụ cho nhơn quả của ngạ quỷ. Màu đỏ dụ cho nhơn quả của súc sanh. Màu trắng dụ cho nhơn quả của Trời, Người. Màu sắc nhỏ ấy dụ cho nhơn quả của Nhị Thừa. Màu sắc lớn tượng trưng cho nhơn quả thông giáo của Bồ Tát. Màu sắc ngắn ấy giống như nhơn quả về biệt giáo của Bồ Tát. Màu sắc dài ấy tượng trưng cho nhơn quả của Phật. Tất cả đều ở trong tấm kiếng, phân biệt chẳng sai khác. Nếu muốn tự đúng, làm cho 9 nhơn quả chẳng sanh, một nhơn quả sanh. Hay muốn kia đúng thì làm cho 9 nhơn quả kia chẳng sanh và một nhơn quả sanh. Nương vào pháp giới để hành Bồ Tát hạnh. Rồi lần lượt dùng đến trí chiết thể quán, đoạn trừ 4 trụ sanh, làm cho chẳng sanh. Kế tiếp dùng đến hằng sa Phật pháp đoạn trừ những khách trần phiền não; làm cho vô trí chẳng sanh. Sau đó dùng thật tướng trí huệ đoạn trừ vô minh, làm cho gốc rễ chẳng sanh. Nếu không có 4 trụ, thì liền bẻ gãy chẳng sanh. Nếu vô vô trí thì phương tiện liền chẳng sanh. Nếu chẳng có vô minh thì thật báo chẳng sanh. Sanh ấy lại chẳng sanh. Bất sanh lại cũng chẳng sanh. Cho nên gọi là bất sanh. Đây được gọi là biệt giáo vô sanh trí vậy.
Qua Viên Giáo quán về vô sanh trí nghĩa là quán sát tấm kiếng tròn đầy; chẳng quán vai, mắt, hình tướng; chẳng phải vai; chẳng phải sự tối tăm; chẳng phải mặt; chẳng phải sự sáng tỏ; chẳng chấp vào đủ loại hình thù; chẳng chấp giữ vào những hành ảnh đối tượng; chẳng ngằn mé; chẳng trước sau; chẳng có tối của vô minh; không khác sự sai biệt nào cả. Đây dụ cho viên quán. Chẳng chấp giữ vào tướng mạo của 10 pháp giới; không có lành dữ; không đúng sai; không nhỏ lớn v.v… Tất cả đều trộn lẫn vào nhau. Hay nương theo thật tướng của các pháp và pháp tánh của Phật pháp. Cũng như sắc và hương chẳng phải là chẳng có thật tướng.
Quán phiền não nghiệp sanh tức là vô sanh, vô sanh chẳng sanh. Cho nên nói là vô sanh. Ấm, nhập, giới, khổ tức là pháp thân. Chẳng hiển hiện; cho nên gọi là pháp thân. Chướng tức là pháp thân. Tham sân si tức là Bát Nhã. Chẳng hay sáng cho nên gọi là Bát Nhã. Lại nữa chỗ có thể chiếu tánh, đã tự làm sáng tỏ rồi. Hành nghiệp cột trói tất cả; cho nên gọi là giải thoát. Chẳng đoạn trừ việc trói buộc thì được giải thoát. Lại cũng chẳng có thể nào có thể trói cột được. Lại chẳng thể nào buộc lại được; cho nên gọi là giải thoát, tức là nghiệp chẳng thể sanh nữa. Bát Nhã có nghĩa là phiền não chẳng sanh. Pháp thân nghĩa là sự khổ chẳng còn sanh. Đây là ba điều chẳng sanh; tức là một chẳng sanh. Khi một không sanh thì 3 cũng chẳng sanh. Chẳng phải ba chẳng phải một; cho nên nói là bất sanh. Hà huống là sự biên dị phiền não, nghiệp khổ mà chẳng phải chẳng sanh. Đây chính là Viên Vô Sanh Quán Trí v.v…
Bổn Tích ở đây nghĩa là Kiều Trần Như gốc ấy tự chẳng sanh; chẳng phải ban đầu chẳng sanh, muốn dẫn chứng sữa làm lạc. Cho nên Tích ấy làm đầu để chỉ cho chỗ chẳng sanh. Dẫn dụ lạc ấy sanh Tô. Cho nên Tích ấy là Thông, chẳng sanh. Dẫn dụ cho sanh ấy làm Thục. Cho nên Tích ấy là Biệt, chẳng sanh. Dẫn dụ Thục ấy là Đề Hồ; cho nên Tích ấy là Viên, chẳng sanh, mà căn bản gốc gác nầy ở chỗ cửa của chữ A. Nghĩa là tất cả pháp, đầu tiên chẳng sanh. Nếu nghe cửa chữ A; tức là giải tất cả nghĩa, đều chẳng sanh, chẳng chẳng sanh. Theo Tích ấy mà dẫn dụ chỉ bày; nên hay sanh bất sanh. Chúng sanh nếu hay gặp Viên chẳng sanh; tức là đồng với A. Phi Bổn, phi Tích, phi sanh, phi bất sanh. Việc lớn, duyên lớn đối với việc rốt ráo ấy. Cho nên câu văn ở dưới nói rằng:
Phú Lâu Na đủ loại biến hóa. Nếu ta nói đầy đủ, chúng sanh nghe điều nầy, tâm lại hoài nghi hoặc; tức là nghĩa nầy vậy.
A Hàm nói: A Nan mang dù theo sau che Phật. Đại Phạm Vương mang dù che theo sau Trần Như. Tất cả những việc nầy đều chỉ cho Tích, muốn hiểu rõ Bổn vậy.
Quán tâm bất sanh có 3 loại quán: Bất sanh có thể rõ biết; chẳng phiền lại nói. Ma Ha Ca Diếp. Đây được dịch là Đại Qui. Người nầy đời trước học đạo Linh Qui Phụ Tiên Đồ mà ứng hiện. Từ cái đức của gia tộc; cho nên nói là Qui Thị. Ngài Chơn Đế Tam Tạng dịch là Quang Ba. Tiên Nhơn đời xưa thân hay phóng ra ánh sáng yếu so với ánh sáng; rồi khiến cho chẳng hiện ra nữa; cho nên nói là Quang Ba; lại cũng còn gọi là Ẩm Quang. Ánh sáng nơi thân của Ngài Ca Diếp có thể chiếu sáng thấy vật; nên gọi là Tốt Bát La; hay gọi là Tốt Bát Bà La Diên; hay gọi là Đệ Tỳ Lê. Cây Tát Bát La vậy. Cha mẹ cầu đảo nơi thần cây và sinh ra được người con nầy; rồi lấy tên của cây ấy đặt cho. Sanh ra nơi làng Bạt Xà Tử và người ta lấy làm hiệu. Gia đình nầy rất giàu có. Tăng Nhứt A Hàm nói: Đại Phú Trưởng Giả ở xứ La Duyệt Kỳ tên là Ca Tỳ La; người vợ tên là Đàn Na, con tên là Tốt Bát La, con dâu tên là Bà Đà. Gia đình nầy giàu hơn Bình Sa Vương gấp ngàn lần. 16 nước lớn bên cạnh cũng chẳng sánh bằng. Trong Phú Pháp Tạng nói rằng: Sau khi Phật Tỳ Bà Thi diệt độ, tháp tượng màu vàng bị hư hoại, lúc ấy có một người đàn bà nghèo muốn có vàng quý và mời người thợ bạc đến để sửa lại những tượng Phật ấy. Vợ chồng đã lập thệ nguyện trong 91 kiếp ấy khi làm người hay chư Thiên thân thể đều có màu vàng và tâm thường nhận được sự an lạc. Sau cùng được thác sanh vào nước Ma Kiệt Đà; nơi gia đình Bà La Môn Ni Câu Luật. Sợ bị tội với vua Thắng Vương; nên giảm một canh lê, mà hay dùng 999 đôi bò màu vàng.
Kinh lại nói rằng: Nhà nầy rộng rãi, có đủ loại không thiếu thứ gì cả. Vàng bạc có cả trăm kho rồi đóng chặt cửa lại, chẳng thể phá hoại dời đổi được. Có cả 60 kho chứa vàng. Mỗi kho như vậy chứa 340 đấu. Kinh lại nói rằng: Dùng lúa gạo để cúng dường chư Phật hơn hẳn cõi trời Đao Lợi, hơn gấp ngàn lần để nhận được niệm an lạc. Thân có 32 tướng. Sắc vàng ấy là vàng Phù Na Đà. Vàng ấy ở dưới đáy hồ vẫn có thể chiếu sáng lên khỏi mặt nước, làm cho chỗ tối tăm mất đi. Thân của Ca Diếp thì sáng hơn vàng nầy. Ánh sáng thân Ngài chiếu xa đến một do tuần; nhưng thiếu hai tướng. Đó là không có tướng lông trắng giữa chân mày và nhục kế. Cho nên lúc chư Thiên thỉnh kết tập thì tán thán rằng: Bậc kỳ lão này si mạn đã trừ; hình thái giống như cây trụ vàng tía; trên dưới đoan nghiêm không có gì có thể sánh được. Mắt trong xanh như hoa sen. Rời bỏ gia nghiệp, lại từ bỏ vàng bạc của báu, không muốn ở chung với vợ, xả bỏ tất cả để xuất gia. Thân mặc áo quý, lấy đó làm Tăng Già Lê, trải xuống đất để làm chỗ ngồi cho Phật. Như vậy 3 lần xả bỏ, ở đời chẳng ai sánh kịp. Đây gọi là xả bỏ to lớn. Ở nơi làng Bạt Kỳ được gặp Phật và phụng cúng y báu; nhưng Phật chỉ nhận Phấn Tảo Y làm y lớn. Y nầy chính là Đại Thánh Đại Y. Lại chẳng có thô, nặng. Cho nên Ca Diếp nói: Khi ta thọ nhận y của Phật, ta tưởng là tháp, tưởng chưa từng gối đầu; huống nữa là nằm. Cho nên Đại Y nầy là Đại Tinh Tấn mà ta thường thực hành; cho nên thọ đại y.
Trong đệ tử của Phật có nhiều vị tên là Ca Diếp. Đầy đủ Thập Lực như 3 vị Ca Diếp. Họ là những bậc Đại Nhơn. Trong 3 người cùng tên ấy; người lớn nhất gọi là Đại Ca Diếp. Đó là người đầu tiên gặp Phật tại làng Bạt Kỳ. Khi nghe Phật giảng pháp đã tăng trưởng giới, định, huệ. Liền được vô lậu và nhận lãnh pháp khất thực. Thực hành 12 hạnh đầu đà; cho đến già vẫn không từ bỏ. Sau đó Phật bảo rằng: Ông tuổi đã lớn hãy bỏ việc đi khất thực, trở về thọ thực với chúng và cũng có thể bỏ mặc phấn tảo y và thọ nhận hoại sắc cư sĩ khinh y. Nhưng Ca Diếp bạch Phật rằng: Khi Phật chưa ra đời, con là Bích Chi Phật, suốt đời hành hạnh đầu đà. Bây giờ con không thể bỏ mà đã thành thói quen rồi; lại làm cho người đời sau sáng tỏ thêm. Không thì người đời sau sẽ nói Thượng Tọa Ca Diếp vì Phật cho phép nên vui. Cho nên con lại phải học chuyện khó làm của việc khổ hạnh.
Phật bảo: Lành thay! Đây chính là đại hạnh. Trong Tăng Nhứt A Hàm Phật có nói 12 phép thực hành hạnh Đầu Đà. Mà khó làm việc khổ hạnh, Ngài Đại Ca Diếp là đệ nhứt. Đầu đà thì râu tóc mọc dài, y phục dơ bẩn. Khi đến Phật thì các Tỳ Kheo khác khinh khi. Phật ra lệnh cùng ngồi chung nửa tòa với Phật; nhưng Ca Diếp chẳng chịu. Phật bảo ta có Tứ Thiền. Thiền định tức là tâm từ đầu đến cuối chẳng có mảy may hao tổn. Ca Diếp lại cũng như vậy. Ta có lòng đại bi, lòng từ che cho tất cả. Ngươi lại cũng như thể tánh nầy, lại đầy đủ lòng từ. Ta có đại bi để tế độ chúng sanh thì ngươi cũng lại như thế. Ta có Tứ Thiền Tam Muội. Một là vô hình; hai là vô lượng ý; ba là thanh tịnh tánh chứa và bốn là chẳng thoái chuyển. Nhà ngươi cũng lại như vậy. Ta có lục thông ngươi cũng lại như thế. Ta có Tứ Định. Một là Thiền Định; hai là Trí Định; ba là Huệ Định và bốn là Giới Định.
Ngươi cũng lại như vậy.
Trong Tăng Nhứt A Hàm nói: Có một người Bà La Môn bạch Phật rằng: Hôm qua có người Bà La Môn đến nhà con, đó là ai vậy? Phật chỉ Ngài Ca Diếp. Lại hỏi rằng: Sa Môn nầy chẳng phải là Bà La Môn. Phật bảo: Sa Môn giữ pháp luật; Bà La Môn giữ pháp luật. Tất cả ta đều biết, Ca Diếp cũng như vậy. Ca Diếp có công đức sánh với ta chẳng khác. Nhưng vì sao lại chẳng ngồi? Khi các vị Tỳ Kheo nghe Phật tán thán như vậy, tâm khiếp đảm, tóc dựng đứng. Phật lại nói chỗ nhơn duyên rằng: Ngày xưa có một vị Thánh Vương hiệu là Văn Dã Yết, tài giỏi vô song. Vua trời nghe uy đức ấy liền cho 1.000 xe ngựa đến đón nhà vua. Thiên Đế đến cùng ngồi chỗ vua. Sau khi chung vui rồi, đưa nhà vua về lại cung. Ngày xưa Ca Diếp khi sanh, khi chết, khi ngồi đều làm cho ta cùng ngồi. Ta nay đã thành Phật, dùng chỗ ngồi của chánh pháp để báo đáp lại việc xưa. Nhưng lúc đối trước Phật thì trời người vì nghĩ Phật là Thầy. Lại nữa Ca Diếp cùng với A Nan vì Tỳ Kheo Ni mà thuyết pháp. Có một Tỳ Kheo Ni chẳng vui mà nói rằng: Người con trai buôn bán vàng ở trước ông Thầy của vàng mà mua vàng. Ca Diếp nói với A Nan rằng: Tỳ Kheo Ni nầy lấy ngươi ví cho ông Thầy của vàng. Còn ta là người con trai, đi buôn bán vàng. Ca Diếp nói với vị Ni ấy rằng: Phật nói trong kinh Nguyệt Dụ: Mặt trời, mặt trăng mọc lên ví như người mới học, duy chỉ có Đại Ca Diếp, người chẳng nghe. Ở nơi đại chúng chia cho nửa tòa ngồi mà ngươi cũng không nghe lời. Ở giữa đại chúng được tán thán như Phật, công đức rộng lớn. Ngươi lại chẳng nghe. Vì sao mà người nầy là kẻ buôn bán vàng? Như những việc nầy bị Phật ấn khả cho là Đại. Người đứng đầu trong đại chúng gọi là Đại. Trong 1.250 vị là một vị đứng đầu. Trong 500 vị là vị lớn nhất. Trong 4 đại đệ tử, Ngài là người lớn nhất. Là vị chủ chùa của 5 núi, là bậc Thượng Tọa Tri Sự tạo nên Diêm Phù Đề nầy. Cho nên nói là vị thế to lớn. Sau khi trà tỳ thân của Phật; nơi thiêu ấy mọc lên 4 cây Bát Đa La. Đây là biểu hiện cho ngài Ca Diếp kết tập 3 tăng kỳ kiếp pháp làm thành 3 Tạng và 4 A Hàm.
Bài tựa Tăng Triệu nói rằng: Tông cực tuyệt ở chỗ xưng gọi. Hiền thánh lấy đây làm cho yên nguy. Ý chính thì không lời và chẳng truyền lại. Thích Ca dùng lời dạy dỗ và dùng luật để phòng ngừa thân, miệng. Làm sáng tỏ việc lành dữ là do nơi Khế kinh. Diễn giải chỗ sâu xa và lấy làm pháp tướng. Đây chính là việc làm sáng tỏ giới, định, huệ vậy. Ở Tăng Nhứt (A Hàm) thì làm rõ nhânquả của Trời Người. Trường (A Hàm) thì phá tà kiến. Trung (A Hàm) làm rõ nghĩa chỗ sâu xa. Tạp (A Hàm) thì làm rõ chỗ Thiền Định. Tất cả là công đức của Ngài Đại Ca Diếp. Nếu nói riêng thì Ngài A Nan tụng lại các kinh. Ngài Ưu Ba Ly tụng lại các luật. Ngài Ca Diếp tụng lại A Tỳ Đàm. Cho nên nói việc kết tập nầy là lớn. Sau khi Đức Như Lai viên tịch, pháp ấy phú cho Ngài Ca Diếp. Hay vì tất cả mà làm cho nương tựa, giống như Đức Như Lai. Đó là gì? – Nếu có những người thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh thì pháp của ta còn tồn tại. Nếu chẳng có người nào thực hành thì pháp của ta chẳng còn. Ca Diếp hay gánh vác Phật Pháp và làm cho được trường cửu. Mãi cho đến đời vị lai nhận pháp của Phật, trao y lại và sau đó nhập diệt; cho nên nói là người giữ pháp lớn. Rồi Ca Diếp an ổn ở trên hư không và thay Phật thuyết pháp cho chư Thiên. Vì lành sanh thiên, vì ác vào hố sâu của ngũ dục, vô thường như hoa trên đường, gặp ánh mặt trời liền héo. Đối với việc nầy xa rời và chư thiên khóc than rằng: Đường xa vạn dặm, khổ ách khôn cùng; kẻ yếu đuối nghèo nàn cô lộ, Ngài thường hay thương tưởng. Nay xả bỏ và diệt độ thì ai là người che chở, giúp đỡ… Rồi dạy cho 12 loại thật rõ ràng. Đó là:
Muốn cầu y tốt là khổ; được thì nhiều lo lắng; mất thì sinh lo rầu; Phấn tảo y thì không có nước, lửa, đạo tặc, nạn vua làm khó về 5 việc lo lắng. Nếu chứa nhiều thì lại lo mất còn, nhiều ít. Cho nên chỉ 3 y. Nếu ở trong chúng mà ăn nhiều thì thuộc về việc của tăng; cho nên đi khất thực nhận được ít thì ăn ít. Lúc lo lắng buồn phiền thì lúc ngồi ăn, ăn nhiều khó tiêu, sanh ra buồn ngủ và lười biếng. Ăn ít quá thì không có sức; cho nên phải ăn vừa đủ. Khi rửa đồ đạc thì để ý, cẩn thận; chỉ có một bình bát để ăn. Nên biết làm việc chẳng nên uống nước. Phòng ốc sẽ sinh ra chỗ đắm trước; cho nên ở dưới gốc cây. Ở nơi gốc cây cũng đắm trước cho nên tìm hang động. Khi ở hang động lo lắng, phòng ngừa cho nên lên trên đường trống. Nếu nằm thì tiêu hao công đức, tăng thêm ỷ lại; cho nên thường ngồi. Hai điều nầy gọi là y pháp. Sáu việc gọi là thực pháp và bốn điều gọi là trụ xứ pháp.
Nói về việc khất thực cho rõ ràng. Sự xin ấy dễ sanh niềm vui, khó sanh ra sân hận. Được nhiều liền thích, được ít, xấu liền lo. Việc lo hay vui ấy nương vào sắc mà khởi lên, tức là sắc ấm. Thọ nhận điều lo, điều vui nầy là thọ ấm. Giữ lấy cái tướng của ưu, hỷ nầy là tưởng ấm. Ưu, hỷ ấy chính là hành ấm. Phân biệt chuyện buồn, vui ấy tức là thức ấm. Ưu, hỷ ấy tức là ý pháp. Hai việc ấy nhập vào tam giới. Giới ấy nhập vào ấm, tức là khổ đế. Ta hay khất thực để xem ta có ngã hay không ngã. Dùng việc xin ấy làm đạo; dùng việc xin ấy làm sự thật. Như vậy chân lý ấy là tán thán niềm vui và hủy hoại sự sân hận, ta hay bị mắng; tức là việc nghi ấy chưa rõ; nên lấy làm si. Đây chính là 10 sử. Trải qua 3 cõi 4 đế. Gồm 88 sử, gọi là Tập Đế.
Nếu biết việc đi xin có 4 sự điên đảo, tương tợ tương tục bị che lấp; cho nên nói đây là thường. Theo ý để vui, tạo sự máy động che khuất; cho nên gọi là ngã. Lớp da mỏng che đậy lên, gọi là tịnh. Thức ấy bốn bề che phủ, không có bốn điên đảo động loạn; nên hai ác sanh hai thiện. Tu 4 định căn, lực, giác, đạo. Đây gọi là Đạo Đế. Đối với việc khất thực chẳng tính toán cho mình thì si mê sẽ diệt. Si diệt cho nên ái diệt. Ái diệt cho nên sân diệt. Sân diệt cho nên chẳng trạo cử, rồi mạn diệt. Mạn diệt rồi cho nên việc bị mắng kia liền chẳng có nghi ngờ. Vô ngã cho nên ngã kiến diệt. Ngã kiến diệt cho nên biên kiến diệt. Chẳng chấp con đường nầy; nên giới thủ diệt. Chẳng so đo tính toán làm thật cho nên kiến thủ diệt. Chẳng chấp tà cho nên tà kiến diệt. Mười loại nầy diệt cho nên 88 loại (sử) diệt. 88 (sử) diệt cho nên tử phược (sự trói buộc) diệt. Sự trói buộc diệt cho nên quả phược diệt. Quả phược diệt cho nên 25 cõi diệt. Đây chính là Diệt Đế.
Nếu đối với việc khất thực mà chẳng thấy Bốn Chơn Đế thì việc nầy mãi lưu chuyển sanh tử trong biển khổ lớn. Nếu hay thấy được Tứ Đế thì được đoạn lìa sanh tử. Sanh tử đã hết rồi thì chẳng thọ sanh nơi các cõi. Đây là việc khất thực dùng huệ để quan sát. Nương vào pháp và pháp trụ xứ cũng như vậy. Đây chính là 3 Tạng đầu đà vậy. Người theo Thông Giáo thực hành hạnh đầu đà đã duyên vào chơn đế để chứng tịch tịnh. Tức đây là trụ xứ không huệ. Vì sự ăn ấy với tâm không, làm các việc là chỗ nương tựa. Thường thì tánh không, không phải là không có gì hết cả, mà không huệ ấy đối với người tu đầu đà, tất cả đều như huyễn hóa. Vọng tưởng, các ác tịch diệt chẳng khởi; tâm tân số pháp chẳng hành. Dùng bất khả đắc cho nên các tướng hợp với tướng không và dẫn đầu hết thảy. Ở trong những khổ hạnh, hành đệ nhất không. Trong các pháp đầu đà, không huệ đầu đà là số một.
Lược nói qua về Biệt Giáo đầu đà. Nương vào nơi pháp thân để làm trụ xứ. Bát Nhã trí huệ lấy đó làm thức ăn. Tất cả các hạnh, trang nghiêm che phủ. Đầu đà che đậy nghiệp xấu, ác. Bát Nhã đầu đà là phiền não ác. Pháp thân đầu đà, sanh tử khổ ác. Trước đầu đà phân đoạn phiền não nghiệp khổ. Sau đó đầu đà biến hóa dễ dàng, thành phiền não nghiệp khổ. Đây là Trung Đạo chánh quán đầu đà. Ra khỏi Nhị Thừa chỗ hành khổ hạnh v.v…
Còn Viên Giáo đầu đà nghĩa là trụ xứ ấy nương vào chỗ ăn uống. Hay từ một pháp nầy phân biệt nói ba. Một là đầu đà của tất cả đầu đà. Tất cả đầu đà của một đầu đà. Không phải một, không phải tất cả. Đối với tất cả đầu đà chẳng phải chẳng thật tướng. Chư Phật hay làm, đây là hạnh của Như Lai. Trong quá khứ chư Bồ Tát đã thực hành thanh tịnh v.v…
Bổn Tích nghĩa là Bổn ấy chính là cùng với Như Lai đồng ngồi chỗ cứu cánh không tịch. Đồng được pháp thân to lớn; đồng được vô ngại trí huệ; đồng được vô lượng công đức. Bên trong thì xả bỏ việc yêu thương và bên ngoài thì không có những cấu nhiễm. Cả bên trong lẫn bên ngoài hạnh đầu đà, căn bản ấy thanh tịnh. Lần lượt sẽ nói đến ở Trung Đầu Đà và nói đến việc thuần thục viên mãn của Trung Đầu Đà.
Quán tâm có nghĩa là không giữ lấy tướng Đầu Đà. Đây chính là trần sa đầu đà không thật. Tức là Trung Đầu Đà vô minh. Trong một tâm của Đầu Đà có 5 trụ …
Tam Ca Diếp – Ca Diếp như phía trước đã giải thích gồm Ưu Lầu Tần Loa lại còn gọi là Ưu Lầu Tì; cũng còn gọi là Ưu Vi. Ở đây phiên âm là Mộc Qua Lâm Na Đề. Cũng có nơi dịch là Hà và cũng có nơi gọi là Giang Già Da. Cũng còn gọi là Yết Di hay Tượng. Việc phiên âm nầy là căn cứ vào Vương Thành của nhà nầy ở cách thành Vương Xá về phía Nam lối 7 do tuần. Thuở Đức Phật Tỳ Bà Thi gặp nhau dưới gốc cây. Nhân duyên anh em của họ. Người anh là Ngõa Sa Vương làm Thầy có 500 đệ tử. Hai người em mỗi người có 250 đệ tử. Người anh, làm Phật tạo ra 10 loại biến tướng. Đó là không ở trong loài rồng độc; lửa rồng không đốt cháy được; vào nước không bị chìm. Ba bên giữ lấy quả; phía Bắc giữ lấy lượng cam lồ của Đao Lợi, rõ biết khiêm nhường và an ổn lui đi, biết rõ niệm hiện đến, lửa tắt không cháy, búa giơ lên chẳng hạ xuống được và thị hiện to lớn làm cho thấy được sự chấp tà và sau đó sửa đổi. Cho nên nói Cồ Đàm tuy có thần thông; nhưng không thấy được đạo chơn chính của Ngài. Phật liền bảo rằng:
Nhà ngươi chẳng phải La Hán; lại chẳng phải là người đắc đạo. Tuy nhiên sau khi khai ngộ, thành nghĩa Thầy trò. Tất cả đều quy phục. Hai người em thấy tướng, liền quy y với Phật. Tổng cộng thành 1.000 vị Tỳ Kheo.
Ước giáo nghĩa là như trong Tăng Nhất A Hàm nói rằng: Ưu Lưu Tì hay hộ trì tứ chúng cung cấp tứ sự làm cho chẳng có chỗ nào thiếu thốn. Đây là việc thứ nhất. Na Đề Tỳ Kheo tâm ý thanh tịnh hay hàng phục những kết sử. Đây là tinh tấn đệ nhứt. Già Da Tỳ Kheo quán rõ các pháp đều chẳng có chỗ nào dính mắc, lành hay giáo hóa, là việc tốt nhất. Đây có nghĩa là sự dạy dỗ ấy giống như sữa. Nếu chuyển nhập thành Sanh Tô (sữa đặc) thì sự hổ thẹn nhỏ kia thành lớn. Ví dụ nầy nên rõ biết. Nếu chuyển nhập vào Thục Tô (sữa đã chín) tức được ủy thác việc dạy dỗ. Nếu chuyển nhập vào Đề Hồ (sữa mịn như cháo đã nấu nhuyễn) thì như trong kinh nói: được thọ ký làm Phật.
Bổn Tích trụ ở 3 đức gồm: Lâm tức là Bát Nhã; thành tức là pháp thân; nước tức là giải thoát. Đây chính là sự bí mật của bổn tạng; mà Tích ấy lại nương vào lâm, thành, thủy ấy để độ chúng sanh vậy.
Quán tâm nghĩa là quán xét tâm tánh chánh đáng ngay thẳng. Trung Đạo chẳng động; giống như thành quách phòng ngừa quân địch chẳng động mà động. Như nước làm sạch các bờ bến điên đảo. Cùng chiếu đến cây tươi hay khô, như rừng sầm uất. Ba pháp tướng ấy đều là những cành lá dính nhau như anh em.
Xá Lợi Phất Cụ Tồn và cũng còn nói là Xá Lợi Phất La. Ở đây dịch là Thân Tử. Lại dịch Xá Lợi là Châu. Khi còn ở trong bụng mẹ, vốn đã thông minh. Tướng thông minh ấy hiện ra nơi mắt đẹp. Vì chữ Thù ấy khi sanh ra, cho nên gọi là Thù Tử. Lại dịch là Thân. Người mẹ ấy có hình thù đẹp. Từ thân ấy mà sanh ra; cho nên gọi là Thân Tử. Người con nầy làm hiển danh cho mẹ; nên dùng danh hiệu nầy. Người cha tên là Ưu Bà Đề Xá, hoặc gọi là Ưu Bà Chấn. Lại dịch là Luận Nghị. Nhờ luận nghị mà được vợ. Nhơn luận nầy đặt tên cho con. Đây chính là nhờ cái đức của cha vậy.
Thích Luận nói rằng: Ta tên là Đề Xá, theo ta cho tên; tên ấy là Ưu Bà Đề Xá. Ưu Bà ở đây có nghĩa là tìm cầu. Đề Xá là tên ngôi sao. Lại nữa Xá ấy thuộc về người cha và Lợi ấy thuộc về người mẹ. Cả hai đều có ý là làm hiển vinh cho cha mẹ; nên gọi là Xá Lợi Phất, hay Phất Tử là vậy. Tánh thuộc chủng tộc Câu Lật Đà Bà La Môn.
Tăng Nhứt (A Hàm) nói: Ở trong Phật Pháp của ta, trí tuệ vô cùng, rõ hết được các nghi ngờ thì Xá Lợi Phất đứng đầu. Người nầy ngày xưa theo Bổn Sanh kinh nói rằng: Trong quá khứ cậu cháu đều làm nghề dệt vải, biết được nhà vua có của cải cất chứa và nhơn đó đào đất để ăn trộm của quý. Người canh kho tâm vui. Vua bảo: Chớ đưa đồ trộm cho nó! Hãy đưa ngay đến quan phán xét. Người cháu nhân đây bảo người cậu đến trước và bị bắt đến tra hỏi. Người cháu sợ người khác biết nên đã cắt đầu của người cậu. Nhà vua ra lệnh dùng thây người chết an trí 4 bên đường để tìm ra người thân. Sau đó nhơn việc có nhiều người khách tụ tập thì người cháu kia chở 2 xe rơm đậy lại. Vua lại ra lệnh tịch thu. Tiếp đến nhơn việc các đứa trẻ múa hát đã ném lửa vào đốt cháy và đem đến an trí chỗ quán rượu. Người cai quản say túy lúy, rượu chỉ còn bình trống, rồi bỏ đi. Vua lo có loạn nên không cho đàn bà con gái ra ngoài. Ở bên dòng nước, đầu tiên khuyên người đàn bà nầy. Người đến gạn hỏi và châu báu nổi trên mặt nước. Người canh phòng ấy thấy được của quý báu không còn đủ. Nhơn đây mà bắt người đàn bà nầy rồi thông dâm. Người đàn bà ấy giữ áo quần lại và người nầy sợ bị chết; nên đã bỏ đi. Khi người đàn bà la hoán lên cũng vì sợ bị chết; nhưng nhơn đó sau nầy sanh ra một đứa con trai đoan chánh. Nhà vua ra lệnh bồng đến và nghe tiếng khóc rồi giữ lại. Mấy ngày đói khát cho nên đến nơi lò nấu bánh; người làm bánh cho bánh cũng khóc; cho nên vua ra lệnh đem đi nơi khác. Nhơn việc uống rượu mà người giữ kho say sưa, rồi bồng đứa bé ấy chạy ra khỏi nước. Đến nước kia cầu người hiền. Nhơn nước đó người nữ làm Đại Thần; cho nên không dùng đến. Do vậy mà lấy đứa nhỏ nầy và hứa cho làm vua của nước ấy. Nghi ngờ về việc ăn trộm lần trước; người nầy dùng 500 cỗ xe ngựa chứa đầy áo quần một loại giống nhau, đến nghênh tiếp người đàn bà ấy.
Nhà vua thấy vậy liền hỏi về vụ trộm trước và than lên rằng: Đây là người đàn bà gian dâm xảo trá. Người cháu ấy chính là Xá Lợi Phất và người cậu ấy chính là Điều Đạt vậy…
Khi còn ở trong bào thai, có người cha tên là Ưu Bà Đề Xá học thông điển tịch, mang giày buộc lưng, đầu đội mão lửa, một mình đi bộ đến thành Vương Xá, đánh trống luận nghị. Quốc Sư Đà La tự biết có chuyện, thấy tướng chẳng lành; nếu luận nghị thẳng thì phong cho người đàn bà làm vợ. Người vợ nằm mộng thấy một người, thân bị bao bọc bởi Thủ Chấp Kim Cang tất cả là núi. Sau đó lập nên một hòn núi bên cạnh. Khi tỉnh mộng thân thể nặng nề, liền hỏi chồng. Chồng bảo: Bà khi mang thai sẽ phá được tất cả luận sự; chỉ không thắng được một người, mà phải làm đệ tử. Người cậu ấy tên là Câu Hy La. Luận nghị thường hay thắng chị mình. Nhưng khi hoài thai rõ biết được luận nghị sẽ thắng được em mình. Người em tự nghĩ rằng: Đây không phải là tự lực của chị mình. Tất nhiên khi mang thai có người gá vào qua cửa miệng của người mẹ. Khi ở trong thai mà còn vậy thì huống gì là lúc được sanh ra. Rồi ủy thác việc gia đình, liền đi xa du học, chẳng lo đến cả móng tay. Do vậy người đời gọi là Trường Trảo Phạm Chí …
Hai con rồng Nan Đà Bạt Nan Đà giữ gìn thành Vương Xá, khi mưa đổ xuống; nước nhà chẳng có năm nào đói kém. Vua và thần dân liền mở đại hội và đặt lên đó 3 tòa cao, để cho Vương Thái Tử luận sư, Thân Tử lúc 8 tuổi cũng đã đến chốn nghị luận đó để hỏi và 3 người đều đáp rằng người nầy siêu việt, có thể lên đàn để luận nghị. Mọi người đều mắc cỡ vì chẳng thể luận lại được, mà thắng đứa bé nầy thì cũng chẳng có danh dự gì. Cho nên cách tốt nhất là trốn đi để tìm người lớn. Tất cả những người đi theo đều hỏi; nhưng đều đáp hết, rạch ròi rõ ràng, không vấp váp. Vua và Đại Thần xưng tán chẳng ngớt. Nước đang thái bình, bỗng dưng có người trí xuất hiện. Mãi cho đến năm 16 tuổi thì tất cả những điển tịch của cõi Diêm Phù Đề chẳng có việc nào mà chẳng rõ ràng. Rộng biết việc xưa và rõ biết việc nay, diễn dương của nghĩa sâu xa về điển tịch. Cả những vị luận nghị của 16 nước cũng chẳng ai có thể sánh bằng. Năm nơi lớn tại Thiên Trúc thì vị nầy là số một. Thầy trò cùng nhau, ấy là Phạm Chí. Phạm Chí dạy tất cả đạo thuật cho Thân Tử. Thầy có 250 đệ tử và tất cả đều phụ thuộc vào Thân Tử mà thành tựu. Khi Sa Nhiên bị chết thì Hân Nhiên cười. Thân Tử hỏi và được đáp rằng: Thế tục chẳng có mắt, chỉ vì nghĩ và thương về người thân. Ta thấy Kim Địa Quốc Vương chết, phu nhơn thiêu đốt làng, nguyện cùng sanh một xứ. Nói rồi liền mạng chung.
Sau đó thấy Kim Địa thương nhơn và hỏi ra thì đúng như vậy. Thân Tử nhớ lại là ta chưa dạy hết các pháp thuật. Có lẽ vì ta mà chẳng phải người nầy làm Thầy ta chăng. Tự biết mình chưa đạt được; nên mới đi cầu pháp tốt hơn, mà không có Thầy thì chẳng thể được. Tuy chẳng có một pháp nào là chẳng thông trong Ngoại Đạo. Vì là bậc dẫn đầu. Trên đường đi gặp Át Bệ uy nghi chững chạc; nhơn đó nên mới hỏi pháp nơi Thầy ấy. Át Bệ trả lời rằng:
Các pháp từ duyên sanh
Cho nên nói nhân duyên
Pháp và duyên đều hết
Thầy ta dạy như vậy.
Khi nghe lần đầu đã chứng được quả Tu Đà Hoàn. Sau đó đến nơi Phật và trải qua 7 ngày đã thông hiểu thuần thục Phật pháp như biển cả. Lại nói sau 15 ngày Ngài chứng được A La Hán và vì các bậc A La Hán làm Hòa Thượng. Làm Thầy của Kiều Phạm. Trong chúng Thanh Văn là đệ tử đứng hầu bên phải.
Điều Đạt phá tăng dẫn 500 Tỳ Kheo đến, Thân Tử (Xá Lợi Phất) hóa ra 500 người quy y… Thi triển sức lực giữa 2 bên. Khi biến ra hồ có hoa thì Thân Tử hóa voi để bẻ hết hoa trong hồ ấy. Điều Đạt sai hóa ra quỷ Dạ Xoa thì Thân Tử làm Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Đủ loại Thân Tử đều hơn và hàng phục Điều Đạt.
Trong A Hàm có nói rằng: Thân Tử là chỗ sanh ra Tứ Chúng và mẹ của Ngài Mục Kiền Liên là Dưỡng Mẫu… Trung A Hàm phần hai nói rằng: Nơi an cư của các Tỳ Kheo, xưng dương tán thán là Mãn Từ Tử, thiểu dục tri túc, tinh tấn ở riêng, một lòng chánh niệm, trí tuệ vô lậu. Khuyến khích phát tâm, lại xưng dương tán thán và truyền lại pháp nầy. Lúc bấy giờ ThânTử nhớ đến ta và khi nào thì được gặp người nầy. Người nầy lúc nào đến chỗ Phật? Người kia mách rằng: Người ấy là người có hình thù đẹp đẽ cao ráo như chim Oanh Vũ. Sau đó ở nơi rừng An Đà. Ở đây gọi là Thắng Lâm. Gặp rồi Thân Tử hỏi rằng: Thưa Hiền Giả! Đối với Cồ Đàm là nơi tu Phạm Hạnh chăng?
Đáp: Như thế.
Lại hỏi: Lấy giới thanh tịnh để tu Phạm Hạnh sao?
Đáp: Chẳng phải vậy.
Có phải vì tâm tịnh, thấy được là qua chỗ tịnh. Nghi sự thanh tịnh như con đường; không có con đường nào sạch sẽ, thì việc thấy biết đường sạch, lại rõ biết đoạn trừ sự sạch ấy là tu Phạm Hạnh chăng?
Đáp: Chẳng phải vậy.
Lại hướng đến hỏi rằng: Như vậy thì bây giờ nói chẳng phải. Nghĩa ấy như thế nào?
Đáp rằng: Vì Vô Dư Niết Bàn cho nên tu Phạm Hạnh.
Lại hỏi: Lấy giới làm thanh tịnh để lập nên Vô Dư Niết Bàn chăng?
Đáp: Chẳng phải vậy.
Cho đến đạo tích, tri đoạn tịnh để lập nên Vô Dư Niết Bàn sao?
Đáp: Chẳng phải vậy.
Lại hỏi rằng: Ý nghĩa nầy như thế nào?
Đáp: Nếu lấy giới thanh tịnh để tạo nên Vô Dư thì điều nầy dùng Hữu Dư để gọi lại Vô Dư. Cho đến đạo tích tri đoạn tạo nên Vô Dư lại cũng là hữu dư nên gọi là Vô Dư. Nếu lìa 7 loại nầy thì người phàm phu sẽ Bát Niết Bàn. Phàm phu lìa 7 thứ nầy mà cũng chẳng lìa. Từ giới thanh tịnh tới tâm thanh tịnh; cho đến đạo tích trí đoạn tịnh. Người hay có thể vì ta mà nói thí dụ như vua Ba Tư Nặc muốn từ Câu Tát La đến Bà Kê Đế. Ở khoảng giữa ấy bố trí 7 xe. Bỏ xe đầu; lên xe thứ hai. Cho đến bỏ xe thứ 6 lên xe thứ 7. Người ở Bà Kê Đế hỏi rằng: Có phải lên xe đầu chăng? Đáp rằng: Chẳng phải. Mãi cho đến xe thứ 7 cũng đáp rằng: Chẳng phải. Hỏi rằng: Lìa khỏi 7 xe nầy chăng? Đáp rằng: Cũng chẳng phải. Với thí dụ nầy qua sự hỏi đáp đã rõ.
Thân Tử hỏi: Tên Ngài là gì? Người tu Phạm Hạnh xưng là gì?
Đáp: Tên của cha ta là Mãn; mẹ ta tên Từ. Người tu Phạm Hạnh gọi ta là Mãn Từ Tử (Phú Lâu Na).
Thân Tử gọi là: Lành thay! Hiền Giả Mãn Từ Tử. Vì là đệ tử của Như Lai nên rõ biết biện tài, được Cam Lồ Tràng. Ở nơi Cam Lồ ấy tự chứng lấy. Gặp ngươi ở đây thật là lợi lạc lớn. Những người tu Phạm Hạnh nên dâng y đãnh lễ.
Mãn Từ Tử hỏi: Hiền Giả tên gì? Phạm Hạnh Nhơn gọi là gì?
Đáp: Tên cha ta là Ưu Bà Đề Xá; tên mẹ ta là Xá Lợi; cho nên gọi ta là Xá Lợi Tử.
Mãn Từ Tử (Phú Lâu Na) than lên rằng: Bây giờ cùng với Thế Tôn sánh làm đệ tử, cùng luận nghị mà cũng chẳng rõ. Cùng với Đức Thế Tôn thứ hai cùng luận nghị mà cũng chẳng rõ biết. Cùng với pháp cùng luận nghị mà chẳng rõ biết. Cùng với chuyển pháp luân, lại chuyển đệ tử cùng luận nghị mà chẳng biết. Nếu ta rõ biết Tôn Giả thì chẳng thể đáp được một câu, huống là luận sâu thêm nữa. Lành thay! Lành thay! Làm đệ tử của Như Lai, cho đến dâng y đãnh lễ …
Phật nói một câu, Thân Tử dùng một câu ấy làm gốc. Qua 7 ngày 7 đêm giống như tiếng gầm của Sư Tử, lại nói thêm ra nhiều câu khác và ý nghĩa khác cho đến vô cùng tận. Hà huống khi Phật nói nhiều, mà Thân Tử lại biện tài thật không có chỗ cùng tận.
Trong kinh A Hàm phần 20 nói: Khi Phật ở tại ao A Nậu Đạt thì Long Vương hỏi: Trong chúng đây không thấy Xá Lợi Phất. Nguyện Phật giải cho. Phật sai Mục Kiền Liên đến Kỳ Hoàn để gọi Thân Tử, gặp lúc đang vá y và đáp rằng: Nhà ngươi đi trước đi ta sẽ đến sau.
Mục Kiền Liên nói: Ta vì Phật đến bảo người. Vì sao lại đi trước? Mục Liên liền lấy tay chạm vào y, y ấy hoàn thành. Thân Tử nghĩ rằng Mục Liên thử ta thì ta cũng thử Mục Liên vậy. Tức thời lấy y bỏ xuống đất, ngươi có thể nhấc lên chăng? Mục Liên biết Thân Tử thử mình, liền ra hết sức nhưng không giở lên nổi. Thân Tử lúc bấy giờ cột vào cây Diêm Phù làm cho thiên hạ bị động, cột 2, 3, 4 lần. Bốn cõi trời cũng chẳng dậy được. Lại cột cả Tiểu Thiên, Trung Thiên, Đại Thiên lại cũng chẳng dậy được. Lại cột vào nơi chân của Phật đang ngồi ở nước kia, mười phương thế giới cõi Phật đều chẳng lay động.
Mục Liên tự nghĩ rằng: Ta thần lực đệ nhứt mà nay thì chẳng thể nhúc nhích được; chẳng lẽ mất thần lực rồi sao? Nhân đó liền bỏ đi và đi trước cả Thân Tử nữa. Khi đến trước Phật, Mục Liên thấy Thân Tử đã ở trước Phật rồi. Long Vương thấy đất rúng động; nên mới hỏi Phật. Phật bảo rằng: Đây là cái lực của hai người.
Long Vương và 500 Tỳ Kheo đối với Mục Liên sinh tâm khinh chê. Phật bảo Xá Lợi Phất rằng: Đối với tứ thần lực được tự tại. Mục Liên cũng tự tại mà chẳng thể mang nổi Phật lực chăng?
Nghe rồi Mục Liên nói rằng: Hiện theo thần lực của ngươi, Mục Liên dùng bình bát cùng với 500 Tỳ Kheo nầy mang đến trước Phạm Cung. Một chân đạp núi Tu Di và chân kia đến thẳng Phạm Cung. Thân ở tại nước kia, mà nói kệ nghe đầy cả các nước Đại Thiên. 500 vị ấy tâm phục…
Đối với Ước Giáo thì cho rằng Tam Tạng Trí Huệ tức là Vô Học thập trí, đoạn trừ kết sử, chứng được chơn thường và giúp Phật tuyên dương giáo hóa. Thích Luận quyển 40 gọi là Hữu Diện Đại Tướng, tức là ở nghĩa nầy.
Thông Giáo gọi Trí Tuệ là: Như trong Bát Nhã tự nói chỗ của Ma Ha Tát. Nghĩa là ta thấy chúng sanh, thấy Phật, thấy Bồ Đề, thấy chuyển pháp luân. Phá những điều thấy nầy thì gọi là Ma Ha Tát. Chư hiền thánh tự nói pháp nầy rồi, chẳng giống như bây giờ người ta vọng có mà nói. Nên rõ rằng Thân Tử chẳng phải phá cái thấy của sanh tử, lại phá cái thấy Phật, pháp Bồ Đề và cái thấy chuyển luân, Niết Bàn, mà huệ nầy khác với sự chỉ dạy ban đầu vậy.
Còn Biệt Giáo nói về Trí Huệ giống như 5 vị phân biệt. Nghĩa là từ nguyên sơ thường nghe sữa lạt gọi là chẳng nghe dư vị. Phát tâm tu hành, hằng hành nhũ lạt thì gọi đây là sơ giáo trí huệ. Nếu thường nghe về sữa, mà sữa ấy chẳng do nước sữa, nghĩa là tánh lành dữ và gốc của tánh ấy vốn không. Chẳng phải do tu thiện phá ác, diệt sắc, thủ không, mà thường hay tu, tức là không nầy vậy.
Thông Giáo nói về Trí Huệ thì cho rằng: Từ lần đầu nghe được đề hồ lấy đó làm đề hồ. Dắt bò, tìm sữa. Chuyển sữa thành Sanh Tô. Chuyển sanh Tô thành Thục Tô mới được Đề Hồ. Người mà tu và hành như thế nầy tức là Biệt Giáo Trí Tuệ vậy. Nếu từ nguyên sơ thường hay nghe đến bò thường chịu ăn cỏ, cho ra Đề Hồ và làm cho khỏi các bịnh và trừ tất cả các loại thuốc, tất nhiên có đủ trong ấy. Đối với người tu hành như thế nầy, tức là Viên Giáo Trí Tuệ vậy.
Bổn Tích là bổn trụ nơi thật tướng, trí ấy là mẹ. Từ cảnh sanh trí huệ. Cảnh đó tức là thân trí huệ, tức là con. Từ mẫn chúng sanh. Tích ấy là 5 vị của Thân Tử. Muốn chuyển máu phiền não xấu làm thành sữa tốt thì rõ biết trí tuệ ngoại đạo, tạo luận sư lớn. Muốn có thục nhũ để làm sữa thì phải thị hiện Tam Tạng Trí Huệ. Lấy đó làm đức Thế Tôn thứ hai, muốn hướng dẫn sữa ấy thành Sanh Tô. Dung nạp chỗ lớn và hiện ra nhỏ, thọ nhận việc thanh tịnh; gọi đây là che khuất. Đây là muốn dẫn cho Sanh Tô thành Thục Tô. An ủi làm lợi lạc cho những người cùng Phạm Hạnh là đối với Bát Nhã lãnh giáo, muốn hướng dẫn cho Thục Tô thành Đề Hồ. Đối với sự ngộ đầu tiên của Pháp Hoa là tất cả đều tích chứa bên trong và hiện ra ngoài, mà bổn địa bên trong kỳ bí; việc nầy thật là sâu xa.
Quán tâm ấy là một tâm ba quán. Nhiếp được tất cả trí huệ. Quán tâm ấy tức không; nhiếp được sữa trí tuệ. Quán tâm ấy tức giả; nhiếp được hai Sanh Tô Trí Huệ và Thế Trí Huệ. Quán tâm tức ở giữa, nhiếp được Đề Hồ Trí Tuệ. Đây gọi là quán tâm trung nhứt huệ, tất cả huệ, tất cả huệ, một huệ, chẳng phải một huệ, chẳng phải tất cả huệ …
Đại Mục Kiền Liên là họ. Dịch là Tán Tụng. Trong Kinh Văn Thù Vấn dịch là Lai Phục Căn. Chơn Đế nói: Chớ có Già La. Đây dịch là Hồ Đậu. Hai vật nầy những ông Tiên ngày xưa hay mang theo. Nhơn đây lấy đó làm mạng cho gia tộc.
Thích Luận nói là con của người làm nghề bói toán. Tên là Câu Luật Đà. Lấy tên của cây Câu Luật Đà đặt tên và do cầu đảo thần cây mà được con. Nhơn đây lấy làm tên vậy. Lại xưng lược là Mục Già. Vị Lai Nhơn Quả kinh nói rằng: Đại Lục Liên La Dạ Na cùng tên rất nhiều; nên gọi chữ Đại vậy. Thích Luận nói rằng: Xá Lợi Phất tài giỏi, sáng thấy quý tướng. Mục Liên lấy hào hiệp làm trọng. Trí tuệ, nghề nghiệp, so với đức hạnh ngang nhau. Trong Tăng Nhứt A Hàm nói: Trong đệ tử của ta người có thần thông nhẹ nhàng bay lên không trung đến cả 10 phương thì Mục Kiền Liên là số một. Trong Thích Luận quyển thứ 41 gọi là Tả Diện Đệ Tử (Đệ tử đứng bên trái) là Thầy ngoại đạo, có cả 500 đệ tử, dùng chú thuật có thể dời núi được. Trải qua việc làm lung lay núi và mặt trời, mặt trăng. Mục Liên nghĩ rằng: Núi nầy nếu di chuyển đi xa thì làm tổn hại. Cho nên mới ở trên đỉnh núi; ngồi kiết già trên hư không, làm cho núi trở lại như cũ không di động. Tướng ngoại đạo nghĩa là so với pháp của ta như núi động và mặt trời thì phải di chuyển. Làm thế nào để yên trở lại là chuyện đầu tiên. Chắc chắn là do Sa Môn khiến chăng? Tự rõ biết lực của mình yếu; cho nên phát tâm trở về Phật đạo, làm cho nhiều người theo chánh pháp mà xuất gia. Nan Đà Bạt Nan Đà huynh đệ ở nơi biển cạnh núi Tu Di. Phật thường hay bay vào hư không, lên cung trời Đao Lợi. Rồng nầy mới sân hận và hỏi rằng người ưu tú ấy vượt lên khỏi cả ta. Sau đó Phật muốn lên trời thì rồng nầy nổi mây đen, sương mờ che khuất ánh sáng. Các vị Tỳ Kheo thì muốn hạ xuống. Phật chẳng nghe. Mục Liên nói:
Con có thể làm cho con rồng nầy rớt xuống. Thế là rồng ấy dùng thân quấn bảy vòng núi Tu Di. Cái đuôi của nó ở biển mà cái đầu thì ở tận trên đỉnh núi. Mục Liên hiện thân nầy lớn gấp bội, quấn núi 14 vòng. Cái đuôi thò ra ngoài biển; còn đầu nằm tại Phạm Cung. Rồng nầy sân hận làm cho mưa lớn và đổ xuống đá kim cương. Mục Liên biến đá ấy thành hoa quý nhẹ nhàng dễ thương. Dụ cho sân không được, Mục Liên hóa thành thân nhỏ rúc vào trong thân rồng. Vào từ mắt và ra từ tai. Vào tai thì ra mũi. Rồng la lên, thân nầy bị đau. Liền bị bịnh khổ; nên đã hàng phục. Mục Liên dùng thân nhỏ ấy thị hiện tượng của Sa Môn rồi cả hai cùng rồng đến trước Đức Phật. Điều Đạt dẫn 500 vị Tỳ Kheo cùng với đồ chúng. Mục Liên trốn và làm cho mắt lớn lên, rồi ra tiếng sấm sét, âm thanh phát ra. Cù Già bỏ chạy mà vẫn chưa tỉnh. Thân Tử (Xá Lợi Phất) thuyết pháp cho 500 người ấy. Mục Liên dùng tay gom lại các Tăng để hòa hợp.
Trong Tạp A Hàm quyển thứ 29 nói rằng: Khi Phật tại Xá Vệ, vào ngày 15 thuyết giới, Phật yên lặng chẳng nói. A Nan 4 lần thưa thỉnh. Phật bảo rằng: Chúng chẳng thanh tịnh; nên ta chẳng thể nói giới. Ngươi có thể làm Thượng Tọa, làm người trì biệt, tụng lên các giới chăng? – Mục Liên tìm kiếm nhập định quán thấy ai không thanh tịnh, thì thấy Mã Sư đầy đủ 2 vị Tỳ Kheo rồi lấy tay đuổi ra, đóng cửa lại và thỉnh Phật thuyết pháp. Phật bảo rằng ta chẳng nói hai lời. Nay chẳng tự nói giới. Mục Liên hỏi: Trong chúng không thanh tịnh thì con cũng sẽ lại chẳng làm Duy Na.
Kỳ Vức ở đây dịch là Cố Hoạt. Được sanh lên cõi trời Đao Lợi là đệ tử của Ngài Mục Liên bịnh và Ngài dùng thần thông đến để thăm, gặp được chư thiên và đồng ra vườn dạo chơi. Kỳ Vức ngồi xe nhưng chẳng xuống xe để chào mà chỉ chắp hai tay lại thôi. Khi Ngài Mục Liên dừng thì Kỳ Vức hỏi rằng:
Chư thiên thọ lạc say đắm không dừng nghỉ như Ngài thấy. Vậy Tôn Giả có ý cầu gì mà đến đây vậy?
Đáp rằng: Bỏ ăn là chánh.
Mục Liên bay đến trước xe, Đế Thích cùng Tu La chiến thắng, tạo ra thắng đường, thất bảo lầu các, thấy thật là trang nghiêm đẹp lạ. Đòn dông và các chi tiết khác tất cả đều đẹp đẽ. Chẳng thể dính mắc vào đâu mà có thể trụ lại đấy. Đây là do phước báu của Trời và những thần lực đặc biệt mà có được điều nầy. Mục Liên bay lên trên để xem. Đế Thích cùng Mục Liên quan sát xem chốn nầy. Chư Thiên Nữ ngại gặp Mục Liên nên tất cả đều chạy trốn chẳng có mặt. Mục Liên nghĩ rằng: Đế Thích đắm say dục lạc; chẳng tu hành gì lấy làm căn bản, liền biến hóa và thiêu Thắng Đường nầy. Lửa cháy tro tàn. Rồi từ đó rộng nói về vô thường cho Đế Thích nghe. Đế Thích hoan hỷ. Phía hậu đường không bị thiêu; nên đã tập hợp 500 vị La Hán lại, như trước đã nói.
Đức Như Lai dùng phạm thinh để nghe thật sâu xa và dẫu xa đến đâu vẫn là tiếng nói của Phật chứ chẳng khác. Mục Liên muốn rõ biết là độ nghe xa của Phật là bao nhiêu; đi càng lúc càng xa; nhưng nghe cũng rất là gần. Đoạn dùng thần lực bay mãi về phía Tây, qua khỏi hằng hà sa cõi nước; nhưng vẫn nghe tiếng Sư Tử của Phật. Giống như ở gần chẳng khác gì. Bay mãi và dùng hết thần lực nên mệt mỏi và gặp ngay nơi kia đại chúng đang dùng bữa; nên đã lấy bát ra cùng dùng và sau đi kinh hành. Những người ở tại đó hoảng kinh. Vì người nầy nhỏ như đầu con trùn và từ xứ nào đến đây vậy? Phật tại nơi đó bảo rằng: Người nầy ở phía Đông, cách đây vô lượng Phật quốc độ, có một vị Phật gọi là Thích Tôn, là đệ tử số một của Thần Thông, muốn nghe âm thanh của Ngài, chứ đây không phải là loài trùn nào cả.
Niết Bàn nói: Phật cầu thị giả và tâm nghĩ đến A Nan; giống như phía Đông thì mặt trời chiếu sáng, phía Tây thì tường vách…
Ước giáo luận thần thông nghĩa là nương vào Tứ Thiền và 14 loại biến hóa. Nương vào sự quan sát và luyện tập thuần thục, chú tâm tu đủ tất cả vô lậu sự thiền. Hay tạo ra 18 sự biến hóa. Đây là sơ giáo thần thông. Nương vào không để khởi lên trí huệ và lấy không huệ tâm ấy tu các thần thông; tức là Thông Giáo Trung Thần Thông. Rồi lần lượt nương vào tam đế huân tập để được thần thông, triển chuyển thâm nhập qua khỏi Nhị Thừa thì gọi là Biệt Giáo Thần Thông. Nương vào nơi thật tướng có được thần thông; chẳng dùng hai tướng để thấy các quốc độ của Phật. Từ chơn khởi lên; nên chẳng động; chơn ấy biến khắp 10 pháp giới. Đây chính là Viên Giáo Thần Thông… Trong quá khứ từng giúp cho các vị Bích Chi Phật. Cạo tóc, mặc áo cà-sa, phát nguyện được thần thông…
Bổn Tích ấy là bổn trụ chơn đế; nơi định của Thủ Lăng Nghiêm. Hay đối với một niệm mà biến ra 10 cõi, đủ loại thị hiện; để làm cho những Phật sự. Dùng lòng từ bi cho nên Tích ấy là Ngũ Vị Thần Thông để đi vào chỗ nhỏ nhiệm nhất…
Quán tâm ấy là quán đối với một tâm có tất cả tâm. Quán tất cả tâm lại chẳng có các tâm. Tâm chẳng có chẳng không; cho đến tướng thật. Tức là quán về Thông Thông vậy.
Ma Ha Ca Chiên Diên ở đây dịch là Chi Sức, lại dịch là Mạo Thừa. Người ta gọi chữ là Ngộ. Hay nói là Phiến Thằng, lại cũng có nghĩa là Hảo Mạo. Cũng còn gọi là Kha La. Kha La dịch là Tư Thắng. Tất cả đều là họ của Ngài, lấy họ làm tên. Trung Tăng Nhứt A Hàm nói: Lành hay phân biệt nghĩa lý và diễn giải đạo giáo thì Ca Chiên Diên là số một. Như Trường A Hàm cũng nói: Có ngoại đạo chấp đoạn kiến, nghĩa là không có đời sau. Nếu hỏi đến 10 lần thì ngoại đạo đều đáp là không có đời sau.
Hỏi rằng: Mặt trời, mặt trăng của người của trời bây giờ là của đời nầy hay đời khác?
Đáp rằng: Không có đời khác tức là chẳng có ngày mai.
Lại hỏi: Ta thấy người chết chẳng sống lại được. Vì sao nói là thọ khổ. Cho nên rõ biết là không có đời sau.
Đáp rằng: Như tội nhơn bị giam, có thể được thả chăng?
Lại hỏi: Nếu sanh thiên, thì tại sao chẳng trở lại. Cho nên biết rằng không có đời khác.
Đáp rằng: Như người bị rơi xuống hầm rồi được ra khỏi, rồi chẳng trở lại hầm chăng? Lại nữa ở trên cõi trời một ngày bằng ở đây 100 năm. Sanh vào nơi kia 35 ngày. Chưa nói việc trở lại của tâm; giả thử có trở lại thì ngươi cũng đã không còn nữa.
Lại hỏi: Khi ta thiêu tội nhơn, rồi che đậy lên đó. Người cai quản chẳng thấy thần hồn xuất ra. Như vậy biết rằng không có đời khác.
Đáp rằng: Con mắt của ngươi ban ngày có thấy được thần hồn của bạn ngươi. Xuất ra sao?
Lại hỏi: Khi ta chẻ xác chết ra chỉ thấy thịt, xương, đi tìm thần hồn chẳng thấy; cho nên rõ biết là chẳng có đời sau.
Đáp rằng: Như con nít bẻ củi ra từng khúc và tìm lửa thì có thấy được chăng?
Lại hỏi: Ta bồng người chết thấy nặng; nếu thần hồn ra khỏi thì nhẹ. Nếu thần hồn không đi khỏi, tức là chẳng có đời sau.
Đáp rằng: Như lửa cùng sắt đốt cháy tức nhẹ, sắt mất lửa đi ròng lại nặng. Con người có thần thức tức nhẹ, khi chết rồi không còn thần thức nữa nên nặng.
Lại hỏi: Ta thấy khi người sắp chết, ngược lại cầu thần hồn chẳng được. Rõ ràng là không có đời sau.
Đáp rằng: Như người chẳng chuyên tâm cầu nguyện thì đều nghe được âm thanh ấy chăng.
Lại hỏi: Ngươi chỉ có phá bỏ, ta chấp điều nầy thật lâu dài, chẳng thể xả bỏ được.
Đáp rằng: Như người cắt cỏ, đầu tiên thấy cây gai, lấy gai. Thứ đến bỏ cây gai lấy vỏ gai. Thứ đến bỏ vỏ gai lấy sợi tơ gai. Kế đến bỏ sợi tơ, lấy vải sợi. Thứ đến bỏ sợi, lấy lụa. Thứ đến bỏ lụa lấy bạc. Kế đến bỏ bạc lấy vàng và bỏ hết. Vậy lấy hết tại sao chẳng thể lấy hết?
Lại hỏi: Chẳng phải ta đã nói điều nầy, mà nhiều người khác cũng nói như vậy, tại sao nói chẳng phải ta?
Đáp rằng: Cả hai thương nhơn đều gặp quỷ. Quỷ dùng hình tướng người để nói rằng: Con đường phía trước nhiều lúa gạo và chở cỏ đến đó để làm gì? Một thương nhơn liền bảo: Con đường phía trước người, bò đều đói. Vậy thì quỷ đến đó chăng? – Một thương nhân khác nói: Nếu có lúa và cỏ mới thì có thể cho lúa và cỏ. Người, bò tất cả chẳng phải vì quỷ mà ăn. Những người nầy nói dối như quỷ cuồng ngôn. Ngươi chẳng dùng lời của ta, ta thí cho lúa, cỏ. Bây giờ đã được lúa, cỏ mới sao lại chẳng bỏ ra?
Lại hỏi: Ta chẳng thể xả bỏ và khuyên ta, liền sân.
Đáp rằng: Ngươi như người nuôi heo, trên đường đi gặp phẩn, liền quay đầu lại. Trên đường ấy gặp mưa đổ xuống cũng làm dơ đầu; người bạn bảo cho liền sân. Nghĩa là ngươi chẳng phải người nuôi heo mà làm cho ta bỏ cái sân kia được. Như vậy cứ phiên dịch diễn giải rộng ra các nghĩa.
Ngoại đạo liền phục và tán thán rằng: Tôn Giả trước nói về mặt trời, mặt trăng và tôi đã hiểu rõ rồi. Muốn nghe về trí tuệ biện tài cho nên mới chấp vào chỗ dở, khó kia. Nhưng lành thay! Lời nói diệu ngọt. Ngài Ca Chiên Diên đã luận giải rành rẽ nghĩa lý lại cũng như thế.
Trong luật nói rằng: Lành hay giáo hóa về quy giới, làm cho người hay dâm thì thọ giới ban ngày, sau đó thọ quả báo thì mỗi mỗi ngày đêm đều thấy trước được tướng an lạc…
Lại ở trong đời có vị Bà La Môn nói 500 bài luận có thể cùng với ta luận chăng?
Trong 500 luận ấy có Cù Mật Thích. Ở trong nước chưa có ai mà không nghe về lời nói xấu xa như thế. Có Châu Lợi Bàn Đặc đối với người xuất gia lại chẳng phải là người thấp kém. Ngươi nên cùng với 2 người nầy tranh luận. Nếu thắng thì ta và ngươi nên danh. Người đời cho rằng thắng 2 người nầy thì chẳng khó gì. Nếu chẳng phải vậy thì giấu khuất đi. Sau đó gặp Bàn Đặc ở trên đường đi. Hỏi tên gì thì đáp rằng: Ngươi muốn hỏi nghĩa chứ tại sao lại hỏi tên?
Lại hỏi: Ngươi có thể cùng ta luận nghị chăng?
Đáp rằng: Ta có thể luận cùng Phạm Vương, hà huống là ngươi, đồ mù chột chẳng có mắt.
Lại hỏi: Mù tức là không có mắt, không mắt tức là mù, há chẳng phiền sao? rồi Châu Lợi Bà Đặc tạo ra 18 pháp biến hóa.
Liền nói: Người nầy có thể phi thân biến hóa, lại chẳng hiểu rõ. Ca Chiên Diên dùng thiên nhĩ để nghe, liền che Bàn Đặc hiện ra thân như ông ta. Từ không trung xuống hỏi: Người tên họ là gì vậy?
Đáp: Tên ta là Nam Trượng Phu.
Lại hỏi: Nam tức là Trượng Phu; Trượng Phu tức nam, há chẳng phiền sao?
Thế Diễn đáp: Hãy dừng lại ở chỗ tạp luận nầy, có thể luận vào nghĩa sâu hơn rồi hỏi: Có phải chẳng nương vào pháp, được Niết Bàn chăng?
Đáp rằng: Chẳng nương vào pháp ngũ ấm, có thể chứng được Niết Bàn.
Lại hỏi: Ngũ ấm nương vào cái gì để sanh?
Đáp: Nhơn ấy do ái sanh.
Lại hỏi rằng: Làm thế nào để đoạn ái?
Đáp: Nương vào Bát Chánh Đạo tức có thể đoạn được ái.
Thế Diễn nghe rồi liền xa rời trần cấu và theo ví dụ như đã nói.
Ước Giáo luận nghĩa hay nương vào vô thường, khổ, không và vô ngã, phá và đoạn trừ thường kiến v.v… Tối Sơ Giáo luận thì nương vào không, vô sở hữu và bất khả đắc. Phá trừ đoạn thường và ái kiến. Thông Giáo luận nghĩa do Thiên Nữ nói: Ta chẳng có chỗ được, cho nên giải như vậy. Nương vào Tổng Trì Tứ Biện. Quán sát thấy, giả và lấy đó làm thuốc để trị bịnh, phá đoạn thường kiến.
Còn Biệt Giáo luận nghĩa tướng thì nương vào thật tướng cứu cánh, chẳng có chẳng không, phá đoạn thường kiến. Còn Viên Giáo luận nghĩa thì là Ước Bổn Tích. Bổn ấy trụ ở phước đức trí huệ, hai loại trang nghiêm, hay hỏi hay đáp. Vì thương tưởng chúng sanh. Tích ấy có 5 vị luận nghị sư. Quán tâm, quán trí, cuối cùng phát ra trí tuệ. Trí ấy tới lui, tức là quán tâm luận nghĩa vậy.
A Nậu Lâu Đà lại còn gọi là A Na Luật; cũng còn gọi là A Nê Lư Đậu. Tất cả đều dịch theo âm tiếng Phạn ngày xưa. Ở đây dịch là vô tham, lại cũng gọi là Như Ý hay Vô Liệp. Ngày xưa ở vào năm mất mùa đã cúng dường thức ăn cho một vị Bích Chi Phật; nên trong 91 kiếp được quả báo luôn luôn đầy đủ. Tên là không nghèo, họ của ngài là Kiếp Sơ; do đất, nước, gió thổi mà kết thành thế giới. Ngài từ cõi Quang Âm Thiên sau khi mạng tận sanh vào đây, hóa sanh làm người. Thân có ánh sáng, khi đi giống như bay. Vui vẻ khi ăn uống, chẳng có người nam kẻ nữ nào sánh bằng. Ở trong chúng sanh ra nên gọi là chúng sanh. Tự nhiên có mùi vị của đất. Vị ấy như Đề Hồ; màu sắc như Sanh Tô và ngọt như mật. Vì ăn nhiều cho nên mất ánh sáng, không thể bay được. Người ăn ít thì có ánh sáng yếu. Có chỗ tốt xấu theo tướng ấy; nên có thị phi. Cho đến mất cả mùi vị của đất, rồi ăn đất tự nhiên, da dẻ trở thành tướng xấu xa. Da mát ăn đất bên ngoài rồi chuyển sanh các việc ác. Đất mất thì ăn lúa gạo. Khi ăn lúa gạo thì tướng nam nữ sanh ra rõ ràng và tạo ra chỗ vợ chồng. Vì vậy nên phải tạo ra nơi chốn để giữ lúa. Sau lúa sanh ra trấu. Cắt bỏ đi rồi chẳng sanh ra nữa, chỉ còn có gốc, rồi sanh ra chuyện tranh đoạt. Sau đó lập nên người để giải quyết, gọi là điền chủ để tranh tụng lý luận với nhau. Đây gọi là dân chủ. Dân chủ có con, tên gọi là Trân Bảo. Trân Bảo có con tên là Hảo Vị. Bắt đầu từ Dân Chủ được mở mang thì vòng vàng tương tục, ngay cả việc lành. Từ Cốc Ma cho đến Tịnh Phạn cả 4 đời đều là Thiết Luân. Tổng cộng lại là 84.210 vị vua. Trong kinh Du Hành thứ 12 nói rằng:
Ở trong kiếp xa xưa có một vị vua sớm mất cha mẹ, lấy nước để thế cho em. Gặp một Bà La Môn. Bà La Môn ấy nói rằng: Ngươi nên trao vương y và họ là Cồ Đàm. Nhơn đây mà theo. Lúc đó người ấy tên là Tiểu Cồ Đàm, trụ ở vườn Cam Giá. Giặc cướp đem đồ cướp được đi ngang vườn nầy, bị tặc tìm đến và bắt Tiểu Cồ Đàm. Bị tên bắn, máu rơi xuống đất. Đại Cồ Đàm buồn lo, thu hốt máu trên đất để vào dĩa và đem về vườn rồi để thần chú 2 bên dĩa ấy. Nếu vị Cồ Đàm nầy thành tâm thì Thiên Thần sẽ biến máu ấy thành người. Trải qua 10 tháng, bên trái thành người con trai và bên phải thành người con gái. Từ đây tộc gọi là Cồ Đàm. Cồ Đàm ở đây gọi là Thuần Tịch, lại cũng còn có tên là Xá Di. Xá Di chính là Tộc họ trân quý. Nhơn lúc đầu của Hiền Kiếp gặp ngay Đức Như Lai ra đời, Cồ Đàm biết thần thức bắt đầu thác sanh. Nếu tìm lại điều nầy thì từ thời Dân Chủ cho đến nay tức thuộc tộc họ Cồ Đàm. Từ đứa con thứ 4 của vua Cốc Ma. Một là mặt sáng; hai là như voi ăn; ba là dẫn đường và bốn là trang nghiêm. Bị thú rượt chạy vào núi tuyết và trốn vào rừng cây ở phía bắc. Người ở đây vui vẻ như ở chợ. Chia biên giới của nước và chức tước thì vua than rằng: Con ta có năng lực và 4 đứa cùng một họ nầy. Lại nữa ở đây đất nầy trồng cây Thích Ca sẽ tươi tốt. Nên ở đây dịch là Trực Lâm, tức là lấy rừng để lập nên nước. Do vậy mà lấy Lâm làm họ. Chữ ngoại quốc có nhiều hàm ý. Thích Ca lại là Trực mà cũng là Năng. Bây giờ Tịnh Phạn nhận lấy. Sau vua Thừa Trang Nghiêm ấy; Trang Nghiêm tức là Ô Đầu. Ô Đầu sanh ra Ô La Ô Đầu
La sanh Ni Cầu La. Ni Cầu La sanh Thi Hưu La; Thi Hưu La tức là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp sanh Tam Phạn. Hộc Phạn có 2 con. Người con đầu tên là Ma Ha Nam và kế là A Na Luật. Như vậy là cháu của vua Tịnh Phạn và là thứ tử của Hộc Phạn. Là Đường Đệ (anh em chú bác) với Thế tôn, là anh của A Nan. La Hầu La gọi là chú, là những người thân thuộc vậy. Cho nên Chu Công than rằng:
Ta là con của Văn Vương, em của Vũ Vương, cháu của Thành Vương. Trong thiên hạ chẳng có người làm loạn, mà tắm gội nơi 3 kẻ cầm quyền, thật là 3 vị chí thiết. Lễ nghĩa hiền tài như thế, huống gì là người khác.
Trong kinh Hiền Ngu nói rằng: Trong thời kỳ mạt pháp của Phật Phất Sa thì thế gian đói khát, có một vị Bích Chi Phật tên là Lợi Cật, đi khất thực không có bình bát và chẳng được gì. Có một người nghèo thấy vậy mới thương tâm và bạch nói rằng: Ở đây có thể thọ nhận đồ ăn được. Tức liền dâng cúng. Ăn xong hóa ra 18 phép. Sau lại thành vỏ lúa. Có con thỏ chạy đến ôm chạy rồi hóa ra người chết. Đi được nửa đường chờ trời tối về lại nhà. Bỏ xuống đất thành người vàng. Lấy tay chỉ đâu thì sinh ra vô số. Người ác và vua ác muốn đến cướp đi thì chỉ thấy tử thi; nhưng trước đó chỗ nầy ai cũng thấy toàn là vàng quý. 99 kiếp với quả báo đầy đủ như vậy; nên hiệu là không nghèo. Lần sanh nầy thì gia nghiệp giàu có thêm lên, mỗi ngày càng tăng trưởng. Cha mẹ muốn thử cho nên mang những đồ đựng trống không đến thì thấy trăm vị đều đầy đủ. Ở ngoài cửa mỗi ngày thường có
12.000 người. 6.000 người thì thu nhận của cải tài sản và 6.000 người trả lại. Sau khi xuất gia, bất cứ nơi đâu, người người trông thấy đều hoan hỷ. Nếu muốn có tu như nhà nầy cũng không khác. A Na Luật tinh tấn trong 7 ngày 7 đêm thì mắt mờ chẳng thấy. Mắt ấy là mắt dùng để ăn, tức trong 7 ngày ấy chẳng thấy mắt liền buồn, màu sáng đã mất, nhục nhãn không còn. Phật bảo phải cầu Thiên Nhãn. Sau đó nhớ đến 4 đại tịnh sắc và giữa đầu phát ra, thấy rõ tất cả trong ngoài sáng tối, tất cả đều thấy. Đối trước Phạm Vương nói rằng: Ta thấy Thích Ca trong Đại thiên Thế giới như thấy trong lòng bàn tay. Tăng Nhứt (A Hàm) nói: Trong Phật Pháp của ta, người có thể thấy bằng thiên nhãn triệt thấu là A Na Luật. Ông là đệ nhứt. Khi A Na Luật mất khả năng nhục nhãn thì Phật cùng với các vị Tỳ Kheo hằng vì đó mà tài bồi. Phật ở tại động Câu Tát Lạ ở nước Xá Vệ, Đức Phật đã cùng với 800 vị Tỳ Kheo vân tập, vì A Na Luật mà may 3 y. Phật tự đo lấy và các Tỳ Kheo thì cắt may; trong một ngày thì hoàn thành. Từ đó Phật rộng nói về người xuất gia thọ nhận và không nhận y như thế nào, thật đầy đủ. Rất nhiều người đắc đạo.
Theo Ước Giáo thì nương vào thiền định nên phát ra Thiên Nhãn. Phàm phu ngoại đạo nương vào vô lậu sự thiền; phát ra Thiên Nhãn. Tam Tạng nghĩa nương vào thể pháp vô lậu huệ, phát ra các hạnh. Nương vào những hạnh ấy phát ra Thiên Nhãn.
Thông Giáo ý nói nương vào chỗ tán thán việc lành, phát ra nhục nhãn. Nương vào định, phát ra Thiên Nhãn. Nương vào chơn, phát ra huệ nhãn; nương vào túc, phát ra pháp nhãn. Nương vào Trung (Đạo) phát ra Phật nhãn.
Biệt Giáo ý nói rằng nương vào thật tướng, phát ra Thiên Nhãn. Thiên nhãn tức là Phật nhãn.
Viên Giáo ý nói lại nương vào sự tán thán những việc lành và nhờ sự tu ấy mà được nhục nhãn. Nương vào tu định; nên sinh ra Thiên nhãn.
Theo Tam Tạng ý nói nương vào không để tu, sinh ra nhục nhãn và Thiên nhãn.
Theo ý của Thông (giáo) thì nói rằng: Lần lượt tu ngũ nhãn.
Còn Biệt (giáo) thì ý nói rằng: Chẳng cần lần lượt tu ngũ nhãn.
Theo Viên (giáo) ý nói Bổn Tích là bổn trụ thật tướng mới thật là Thiên nhãn. Chẳng dùng 2 tướng để thấy những Phật quốc. Tích ấy chỉ cho Bán Đầu Thiên Nhãn.
Quán Tâm cho rằng quán nhân duyên sanh ra tâm lành, tức là nhục nhãn.
Quán Nhân Duyên, sanh ra tâm không, tức là Thiên Nhãn. Quán Nhân Duyên, sanh ra tâm giả, tức là pháp nhãn. Tức là Trung (đạo) tức là Phật nhãn…
Kiếp Tân Na ở đây dịch là Phòng Túc. Cha mẹ cầu đảo nơi phòng và ngôi sao cảm được nên sanh ra con. Dùng Phòng Tinh đặt làm tên vậy. Đây là vị Tỳ Kheo lúc đầu xuất gia chưa gặp Phật. Đêm đầu tiên hướng đến Phật thì gặp mưa, ghé vào trú mưa tại phòng ông thợ làm đồ gốm, lấy cỏ lót ngồi. Tối đến lại có một Tỳ Kheo nữa vào theo sau. Vị Tỳ Kheo đến trước liền lấy cỏ trải trên đất cho ngồi. Nửa đêm lại hỏi muốn điều gì vậy? Đáp rằng: Tìm Phật. Vị Tỳ Kheo kia liền nói pháp. Những lời nói nầy có thể kiểm lại nơi A Hàm. Hốt nhiên được đạo. Vị Tỳ Kheo đến sau ấy chính là Đức Phật vậy. Cùng với Phật, Phòng Túc được pháp thân. Từ nơi được đạo nên có tên là Kiếp Tân Na. Tỳ Sa Môn mang lọng đi sau Kiếp Tân Na. Tỳ Sa Môn ấy là Túc Chủ. Chủ ấy chờ gặp ngôi sao lại cũng như thế. Tỳ Kheo nầy lành chiếm Tinh Túc. Rõ biết được hình thù, từ đó rõ được tên. Tên ấy là Kiếp Tân Na.
Tăng Nhất A Hàm nói rằng: Trong Phật Pháp của ta, lành rõ Tinh, Túc, Nhựt, Nguyệt thì Kiếp Tân Na là đệ nhứt.
Ước Giáo bảo bẻ phá các căn trần ở nhà thì giống như phòng và lầu các Chơn Đế của Phật.
Theo Tam Tạng ý nói rằng: Thể đạt căn trần tức là cùng với Như Lai đồng ở chung trong phòng của Chơn Đế.
Theo Thông Giáo ý nói rằng: Phân biệt 10 pháp giới căn trần phòng xá, tất được thấy Phật.
Biệt Giáo ý nói rằng: Đối với một căn trần phòng xá, tức là thấy tất cả những phòng xá, thấy tất cả Phật.
Tức là ý của Viên Giáo là Ước Bổn Tích. Bổn ấy cùng với Như Lai đồng cùng thật tướng. Tích ấy để chỉ cho các Phòng Túc.
Quán Tâm là quán ngũ ấm xá, bẻ gãy không, tức là không, cùng với hóa Phật cùng ở. Quán ngũ ấm xá tức giả, cùng với báo (thân) Phật cùng ở. Quán ngũ ấm xá trung là cùng với Pháp Phật cùng ở …
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú
Quyển thứ nhất (phần dưới hết)