KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA VĂN CÚ

Thiên Thai Trí Giả Đại Sư giảng
Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover – Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt.

 

Quyển thứ 9

(Phần trên)

Không xa, không gần, câu văn ấy lại chia ra làm 3. Một là cảnh phiêu cảnh trí; hai là giải thích riêng và 3 là kết thành. Quán theo Trung Đạo là quán trí. Tất cả các pháp là cảnh của 10 pháp giới. Nếu luận về trí một cách đơn thuần thì trí không phải là chỗ để quán. Cho nên đưa ra tất cả để hiển thị tất cả chỗ không. Còn như thật là giải thích riêng biệt. Nhị biên, tam đế, không có một nào khác với cách gọi là như. Chẳng phải 7 phương tiện; cho nên có tên là thật. Dùng thật ấy để làm tướng; cho nên nói là như thật tướng. Chẳng điên đảo là không bát đảo vậy. Bất động là chẳng vì 2 việc chết mà động. Bất thoái là tâm tâm tịch diệt, nhập vào Tát Bà Nhược Hải (biển nhất thiết trí). Bất chuyển nghĩa là chẳng phải như phàm phu chuyển nơi sanh tử; chẳng như nhị thừa chuyển với phàm thánh. Như hư không nghĩa là tuy có tên gọi, mà chữ ấy chẳng thể được. Trung Đạo quán trí lại hay có chữ, mà cầu lại chẳng được. Vô sở hữu tánh nghĩa là vô tự tha cùng với vô nhơn đẳng tánh. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn có nghĩa là bất khả tư nghì vậy. Bất sanh là cảm, trí, lý tất cả đều chẳng sanh. Bất xuất là Như Lai sở trị rốt ráo chẳng bộc phát trở lại. Bất khởi là các phương tiện đều tịch diệt. Vô danh nghĩa là tên ấy chẳng có thể là tên. Vô tướng nghĩa là tướng ấy chẳng thể là tướng. Vô sở hữu là vô nhị biên hữu. Vô lượng là phi số pháp. Vô biên là vô phương sở. Vô ngại vô chướng nghĩa là biến tất cả xứ, thường dùng nhơn duyên hữu là kết quả vậy.

Bên trên là thẳng vào chỗ sáng tỏ của Trung Đạo quán huệ. Nay làm rõ song chiếu nhị biên. Lý tánh cứu cánh thanh tịnh như bên trên đã nói; không giải thích, không hoặc, mà từ hoặc ấy là nhơn duyên sanh ra sanh tử. Từ giải ấy là nhơn duyên sanh ra Niết Bàn. Lại nữa nhơn duyên hữu, hữu ấy đối với Niết Bàn. Từ điên đảo sanh; nghĩa là sanh ở nơi sanh tử. Đây tức là làm hiển rõ cái ý của song chiếu vậy. Thường vui quán các pháp như thế nghĩa là 3 đế cùng với các pháp. Lại thường nhơn duyên hữu từ điên đảo sanh. Kết cuộc bất khả tư nghì tam đế cảnh; cho nên nói là bất tư nghì giáo vậy. Thường lạc quán nghĩa là kết bất tư nghì tam quán. Lại quán tất cả pháp, không như thật tướng. Tiên quán thể chẳng điên đảo, đến 9 câu giải thích về quán tướng. Chẳng vì nhị biên bát đảo mà động; gọi là chẳng phải đảo, chẳng phải động. Chẳng rơi vào nhị thừa phàm phu nhị địa; cho nên nói bất thoái, bất chuyển. Đây là 2 câu làm sáng tỏ trí dụng, lý phi vị lai; cho nên chẳng sanh. Phi quá khứ cho nên chẳng xuất; phi hiện tại cho nên chẳng khởi.

Thích Luận quyển 51 nói rằng: Như hư không, không vào chẳng ra, vô trụ, tướng nhiếp Đại Thừa lại cũng như vậy. Vô vị lai nhập xứ. Vô quá khứ xuất xứ. Vô hiện tại trụ xứ.

Quyển thứ 43 nói rằng: Nhơn biên chẳng khởi; nên gọi là chẳng xuất. Duyên biên chẳng khởi; nên gọi là chẳng sanh. Phàm có 19 câu. Câu đầu tiên là tổng quát và 18 câu sau là đối với Đại Phẩm 18 không. Như thật tướng tức là đệ nhứt nghĩa không. Bất điên đảo tức là nội không. Nội vô lục nhập, ngã, ngã sở. Bất điên đảo bất động tức là ngoại không. Ngoại chẳng vì 6 trần lưu động vậy. Bất thoái ấy tức là nội ngoại không. 12 nhập không; cho nên nói là bất thoái. Bất chuyển tức là không không. Không ấy phá các pháp. Các pháp là chỗ phá. Không ấy là có thể phá. Chẳng có các pháp; chỉ có ở không. Không nầy lại không; cho nên nói là không không. Không ấy liền không; cho nên chẳng thể hay chuyển. Cho nên nói là bất chuyển vậy. Như hư không tức là Đại không. Chấp vào phương kế để phá; cho nên nói là như hư không. Vô sở hữu tánh, tức là cứu cánh không. Các pháp không ngoại trừ; nên gọi là cứu cánh không. Dùng cứu cánh không; cho nên vô sở hữu tánh vậy. Tất cả ngôn ngữ đoạn đạo; tức là tất cả không. Tất cả không ấy chẳng thể nói; cho nên ngôn ngữ đạo đoạn. Chẳng sanh tức là hữu vi không. Hữu vi là nhơn duyên hòa hợp. Liền chẳng hợp tức là chẳng sanh. Bất xuất tức là vô vi không. Vô ấy gọi là xuất ly. Xuất ly pháp không; cho nên gọi là bất xuất. Bất khởi tức là vô thỉ không. Cầu nguyện sơ chẳng thể được; cho nên vô khởi. Vô danh tức là tánh không, có thể giải. Vô tướng tức là tướng không. Thật vô sử hữu; tức là chẳng thể được không. Vô lượng tức là hữu pháp không. Hữu pháp tức là vô lượng. Hữu lượng lại không; cho nên nói là vô lượng. Vô biên tức là vô pháp không. Vô pháp tức là biên biểu. Nay không cho nên tức là vô biên. Vô ngại tức là hữu pháp vô pháp không. Hai ấy chẳng thể được; cho nên nói là vô ngại. Vô chướng tức là tán không. Phỏng chướng chẳng thể được; cho nên nói là vô chướng.

18 không ấy tất cả đều là Trung Đạo chánh huệ. Tất cả đều gọi là không. Tùy vào 18 loại cảnh cho nên nói là 18 vậy.

Đại Kinh nói rằng: Như Lai thường tu 18 nghĩa không. Cho nên dùng 18 không; dùng để giải thích 18 câu vậy. Kệ ấy có 28 hàng; 3 câu chia làm 3. Hàng đầu tiên tụng về chương tiêu biểu. Kế đến 22 hàng, tụng về sự tu hành. 5 hàng sau 3 câu làm sáng tỏ sự hành thành. Trường hàng, hàng cận, biệt, giải thích. Trong kệ ấy hợp lại tụng. Chánh ngôn, ý đồng, khai hợp hỗ tương hiện ra. Lược bớt chỗ rộng; lời giải như vậy lại có thể y cứ vào. Hàng ở trên cận với 2 và câu văn ấy mỗi mỗi lại có 3. Nay kệ ấy hợp tụng chẳng phải thứ tự. Đầu tiên nên vào hàng, dưới đó 14 hàng, tụng việc xa gần.

Bên trên có 10 loại viễn ly. Trong tụng ấy lược, chẳng theo thứ lớp. Ở nơi câu văn có thể thấy, lại là tụng về nhơn không, hành xứ. Thủ ý tức là kiêm luôn tụng về cận xứ 3 ý; cho nên câu kệ ấy nói điều nầy tức gọi là vi hành xứ cận xứ. Thường lìa quốc vương. Tỳ Kheo gần gũi vua chúa có 10 điều phi pháp. Một là âm mưu cùng mệnh lệnh của vua. Hai là vua giết Đại thần. Ba là điển tạng vong bảo. Bốn là cung nhơn mang thai. Năm là thân vua trúng độc. Sáu là Đại thần cạnh tranh. Bảy là 2 nước đánh nhau. Tám là theo cách của vua, chẳng giúp dân. Chín là kiểm kê vật chất của dân và mười là nhiều tật đố. Nghĩa là Tỳ Kheo thực hành thần chú có 10 sự việc. Một là tất cả thần dân nghĩa là Tỳ Kheo nầy sở tác, làm việc phỉ báng nầy với Tỳ Kheo; đồng nghĩa với phỉ báng Pháp và phỉ báng Phật. Cho nên Phật chẳng cho gần gũi vua chúa là vậy.

Ngoại đạo Phạm Chí nghĩa là theo Kinh Ma Đăng Già nói: Người đầu tiên gọi là Phạm Thiên, tạo ra Vệ Đà (Kinh). Kế đó gọi là Bạch Tịnh, biến một thành ra bốn. Một gọi là tán tụng Vệ Đà; hai gọi là cúng tế; ba gọi là ca vịnh; bốn là cầu nguyện việc tai ách. Mỗi một loại như vậy có 30 vạn bài kệ. Hợp tất cả lại thành 128 vạn bài kệ; có 1.700 quyển. Kế đó tên là Phất Sa, có 25 người đệ tử. Mỗi mỗi đối với một Vệ Đà hay rộng biết phân biệt. Theo đó có 25 Vệ Đà. Kế tiếp có người tên là Oanh Vũ biến một Vệ Đà thành ra 18. Kế đó có người tên là Thiện Đạo, có 21 người đệ tử biến thành 21 Vệ Đà. Như vậy lần lượt biến thành 1.206 Vệ Đà. Tỳ Đà Luận gọi đây là Trí Luận. Bà Gia Tạo Luận. Phàm 4 loại. Một là tín lực Tỳ Đà, làm sáng tỏ việc lấy lửa để tiêu diệt tội lỗi. Hai là Già Thọ Tỳ Đà, làm sáng tỏ việc cúng dường Bà La Môn thì được phước. Ba là Sa Ma Tỳ Đà làm sáng tỏ sự hòa hợp giữa 2 nước với nhau. Bốn là A Đà Bà Tỳ Đà, làm sáng tỏ việc đấu tranh với nhau. Đọc tất cả 4 luận nầy tự xưng là tất cả những người trí.

Tỳ Ca La, tên nầy ghi lại luận. Bà Ni Ni tạo, làm sáng tỏ các loại kinh thơ cùng với các tạp ngữ. Vệ Thế Sư luận do Ưu Lưu Khư tạo. Ở đây dịch là Tối Thắng xuất thế. 800 năm làm sáng tỏ 6 chân lý. Ca Tỳ La ở đây dịch là Huỳnh Đầu, lại còn nói là thuộc loài rùa. Tạo luận tên là Tăng Khư. Tăng Khư ở đây gọi là Vô Đảnh. Nhơn người nầy gọi luận cho nên nói là Ca Tỳ La. Nói ra 25 chơn lý. Tiểu Thừa Tam Tạng học là khi Phật còn ở tại Ba La Nại. Đầu tiên có 5 người, nói khế kinh Tu Đa La tạng; khi Phật ở La Duyệt Kỳ, đầu tiên vì Tu Na Đề nói tạng Tỳ Ni. Phật ở Tỳ Xá Ly nơi hồ Di Hầu, đầu tiên vì Bạt Xà Tử nói Tạng A Tỳ Đàm. 500 vị La Hán đêm đầu tiên tập hội là Tạng A Tỳ Đàm và tiếp theo là kinh giải thoát. Đây là vì Tam Tạng học vậy.

Thâm trước ngũ dục, dục tướng là trong 4 thiên hạ người, rồng, tu luân, Tứ Thiên Vương tất cả đều có căn tướng. Đao Lợi Thiên lấy gió làm việc. Diệm Thiên tương cận làm việc. Đẩu Suất tương khiên làm việc. Tha Hóa Tự Tại Thiên tâm niệm làm việc. Những cõi trời bên trên đều lìa khỏi dục. Quả nữ xứ nữ là khi A Nan hỏi Phật rằng: Sau khi Như Lai diệt độ rồi thì thấy người nữ như thế nào ?

Phật bảo rằng: Chớ cùng gặp gỡ. Giả sử có thấy thì chớ cùng nói chuyện. Giả thử có cùng nói chuyện thì hãy chuyên tâm niệm Phật. Cùng với những kẻ bất nam thì tên kẻ gọi là Bàn Thác. Ở đây phiên âm là Huỳnh Môn. Huỳnh Môn là có hình thù nam nữ mà chẳng thể là nam nữ.

Khi vào làng khất thực, theo Tạp A Hàm nói: Có một loại dê qua chỗ đống phân để ăn và sau đó trở lại trong bọn, cống cao ngã mạn bảo là được ăn ngon. Tỳ Kheo lại cũng như thế ấy, được tứ sự (cúng dường) rồi khởi lên sự nhiễm trước, dục tưởng, chẳng rõ biết chỗ căn bản. Giả sử chẳng được thì hằng sanh tưởng; giả thử được rồi thì hướng đến các Tỳ Kheo khác cống cao ngã mạn, mạ lỵ người khác. Cho rằng ta mới được, còn kẻ kia chẳng thể được. Đây là Tỳ Kheo dê đi khất thực vậy.

Khi Sư Tử vương gặp thú lớn liền ăn liền; chẳng vị, chẳng trước; còn được thú nhỏ cũng lại ăn nốt; chẳng bỏ, chẳng chê. Tỳ Kheo lại cũng như vậy, được tứ sự cúng dường chẳng khởi tâm nhiễm trước, chẳng có dục tưởng, tự rõ biết chỗ ra khỏi. Giả thử chẳng được sự lợi dưỡng, chẳng khởi loạn niệm, tâm không tăng giảm. Đây chính là Sư Tử Vương Tỳ Kheo khất thực.

Khất thực hành dịch bịnh có 4 việc, mà trước sau 8 giờ, làm sáng tỏ 8 sự tinh tấn, 8 sự giải đãi. Khất thực trước, liền niệm rằng: Vì tu đạo, giúp cho đỡ đói bịnh. Khất thực tuy chưa được, chẳng phế bỏ tâm thực hành. Khất thực đã được rồi, vì báo ân nhớ nghĩ đến đạo, chẳng có tự phụ. Trước sau 2 thời đều gia tâm tinh tấn. Ngoài ra 3 việc, trước sau lại cũng như thế. Ngược lại với việc nầy gọi là lười biếng. Kinh Bảo Văn nói rõ về việc khất thực có 4 phần. Một phần là cung dưỡng cho kẻ phạm hạnh; một phần cho người bịnh; một phần thì thí cho quỷ thần và một phần khác để cho chính mình ăn. Lại cũng để cho những người không đi được.

Phần thứ 2 gồm 8 hàng tụng về việc chẳng gần chẳng xa nơi xa nơi gần. Từ „nếu có Tỳ Kheo“ trở đi gồm 35 hàng, 3 câu làm sáng tỏ chỗ thực hành, lại thành ra 3. Một hàng rưỡi đầu tiên là thành tựu mục tiêu đi. Sự thành, ngoại nghi chẳng mất. Lý thành nội tâm chẳng đọng lại; cho nên nói là chẳng khiếp nhược. Tiếp theo từ „Bồ Tát có lúc“ trở đi; phần thứ 2 có 3 hàng. Thực hành mà được an lạc. Sau đó một hàng một câu, tụng trường hàng tổng kết. Từ „Bồ Tát nhập tịnh thất“ trở đi là giải thích về nguyên nhơn an lạc. Nhơn tu thiền định, dừng lại việc sai ác, được người vô ngã, bên ngoài chẳng tổn hoại. Nhơn tu trí huệ, lìa các thủ trước, được pháp vô ngã, bên trong không điên đảo. Đây chính là tâm chẳng khiếp nhược. Chẳng khiếp nhược gọi là an lạc vậy.

Từ „Văn Thù“ trở đi; phần thứ 3 gồm một hàng và một câu. Tụng trường hàng tổng kết. Phần 2 là khẩu an lạc hạnh, lại trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại chia ra làm 2. Một là tiêu đề của chương ấy; hai là giải thích về pháp hành. Tiêu chương như câu văn.

Từ „nếu dùng miệng để tuyên nói“ trở đi thì giải thích về việc thực hành pháp lại có 2. Nghĩa là chỉ hành và quán hành. Chỉ hành lại có 4. Một là chẳng nói quá; hai là chẳng khinh mạn; ba là chẳng ca ngợi việc hủy báng; bốn là chẳng giận giỗi nghi ngờ. Đầu tiên chẳng vui nói người kinh quá là người nghe có sai pháp và sai cái gì ? Bảy pháp phương tiện là Phật tùy theo kia ỷ ngữ nên gọi là bất liễu nghĩa. Nếu sai pháp nầy tức là não hại người nầy. Chẳng phải tướng của sự an lạc hạnh vậy. Hai lại là chẳng khinh mạn. Chẳng ỷ vào việc hoàn hảo mà mạ lỵ việc méo. Trọng thật khinh quyền. Ba là chẳng nói người khác về dài ngắn. Đầu tiên là chẳng nói về tất cả người.

Kế đến là riêng đưa ra việc Thanh Văn. Phàm là người ác, nghe việc thất thoát, cho nên chẳng đàm việc ngắn. Gặp đối mặt việc hủy báng; cho nên chẳng gọi là dài. Lại chẳng ước trương; nên nói là chạy theo dài. Chạy theo nghĩa là dùng cái dài kia để hủy báng cái ngắn nầy và nương vào kia để gá cho việc nầy. Lại chẳng được cho nên hướng theo và nói thêm lên, chạy theo ngắn. Chê bai hủy báng đối với kẻ kia, lại cũng sẽ phỉ báng đối với ta. Vì ý nghĩa nầy cho nên thiện ác đều dừng lại vậy. Lại chẳng nói dài ngắn như trong Nhựt Tạng phần thứ nhứt nói rằng: Đầu, giữa và sau đêm, giảm bớt việc ngủ nghỉ. Tinh tấn tọa thiền, tụng kinh tu đạo. Xả bỏ sanh tử, hướng đến con đường Niết Bàn. Chẳng gọi kia là ngắn, chẳng nói đây là dài. Khiêm hạ chạy trốn, chẳng tự kiêu mạn cao ngạo. Nương vào việc ăn uống, tri túc, đầu đà tinh tấn chẳng làm việc buông lung. Hệ niệm tư duy, tâm chẳng tán loạn đối với tất cả chúng sanh; khởi tâm từ bi. Lại nữa như Tu Đa La sở thuyết không hành. Tự đọc tụng và dạy người đọc tụng. Chẳng hủy báng kẻ khác, chẳng nói về kẻ khác sai trái, chẳng gọi cái nầy dài. Đối với người Thanh Văn, lại nữa căn tánh chẳng định. Nếu ca ngợi tán thán nhị thừa hoặc làm cho kia thoái Đại giữ lại Tiểu.; hoặc hủy báng Nhị Thừa; hoặc làm cho Đại, Tiểu nầy đều mất cả hai chẳng có chỗ giữ lấy vậy. Bốn là chẳng sanh tâm oán giận nghĩa là nếu người nầy phương hại đến pháp và đạo; tức là oán tâm. Nghĩa là đây, kia yếu kém tức là tâm nghi ngờ. Tâm ấy một tiếng động nói đến liền phát ra. Nói lấp khuất nguyên nhân của sự sai quấy cho nên chẳng sanh oán hiềm. Lành tu như vậy, hạ quán hạnh môn.

Quán các pháp không, chẳng có chỗ thủ trước, tâm chẳng câu chấp; chẳng nghịch ý người; chẳng sai tướng của pháp. Tức là chẳng nói Tiểu Thừa pháp đáp. Hằng dùng Đại Thừa để đáp lại. Nếu thấy chẳng có cơ duyên lớn mà nói Tiểu, được phương tiện lợi ích. Nếu chẳng thấy không Đại mà nói Tiểu, phòng cho cơ duyên lớn nầy. Tất cả là chẳng thấy, mà nói Đại, không có lỗi.

Kệ có 16 hàng rưỡi và chia ra làm 3. Hai hàng đầu tiên tụng về chương chính. Kế đến 9 hàng rưỡi tụng về tiền hành pháp. Sau đó 5 hàng làm sáng tỏ việc thực hành thành tựu. Đầu tiên 2 hàng tụng về Thượng Trụ An Lạc Hạnh. Bên trên tổng gọi là Ứng Trụ. Trong Tụng ấy có biệt xuất hành tướng. Hành tướng ấy lại có 3. Gồm an ổn thuyết pháp có nửa hàng. Muốn làm cho người trước được đạo an ổn và quả. Tức là cái nghĩa của việc nhập thất. Thanh tịnh địa gồm nửa hàng; tức là nghĩa của việc ngồi Thiền. Du đồ thân có một hàng; tức là ý nghĩa của việc mặc y áo. Ba pháp hướng dẫn khẩu nghiệp gọi đây là An Lạc Hạnh.

Từ „An xứ pháp tọa“ trở đi gồm có 9 hàng rưỡi. Tụng về hạnh ấy có 2. Đầu tiên 5 hàng rưỡi tụng về chỉ hạnh. Kế đến 4 hàng tụng về quán hạnh. Chỉ hạnh bên trên lại có 4. Nay đều tụng. Đầu tiên tùy theo câu hỏi mà nói gồm nửa hàng, tụng về việc chẳng khinh mạn. Mạn ấy tức là chẳng thuận theo. Nếu có Tỳ Kheo đến, tùy theo nghĩa mà đáp. Hai là gồm 2 hàng rưỡi tụng về việc chẳng nói dài ngắn. Hay nương vào nghĩa; chẳng nói người tốt xấu. Nếu có hỏi khó, tùy theo nghĩa mà đáp lại có 2. Một là có thể đáp; hai là chẳng thể đáp. Hỏi đáp khó khăn, hỏi tướng trên dưới. Nếu thắng thua, liền tự rõ. Đây là lời của kẻ trí vậy. Đây là sự phóng tứ bạo dạn, có kẻ sai quấy mưu mô lấy lời của Vua. Dài, ngắn, có, không… tất cả đều chẳng rõ. Tuy đã rõ hơn rồi, thì đây chính là ngôn từ của kẻ ngu. Nhơn duyên, thí dụ, đến nơi nhập vào con đường của Phật. Ba là một hàng rưỡi, theo đó tụng về việc chẳng vui nói người sai pháp. Nếu nói người sai, sanh ra việc nhớ nghĩ ác độc với người. Nay chẳng nói việc sai quấy vậy. Giả sử phát tâm vào Phật đạo thì Phật đạo ấy từ sự hoan hỷ sanh ra. Trừ ra cái ý càn dỡ, ngu si. Bốn là một hàng tụng về việc chẳng giận ghét. Khi tâm oán giận nổi lên tức liền lười biếng, càn dỡ, lo lắng. Nay dùng tâm từ bi để nói pháp, không oán hận hiềm giận. Tinh tấn chẳng lo rầu. Trường hàng bên trên theo Ước (giáo) là dừng lại, nói việc thiện. Trong khi tụng, tất cả theo Ước (giáo) đều là hành thiện.

Từ „ngày đêm thường nghe nói vô thượng đạo giáo“ trở đi; phần thứ 2 có 4 hàng; tụng bên trên về quán môn. Bên trên nói thường dùng pháp Đại Thừa để đáp Tụng ấy nói về đạo vô thượng. Bên trên nói, làm cho được tất cả chủng trí. Tụng về việc nguyện thành Phật đạo. Từ „ta diệt độ“ trở đi; phần thứ 3 có 5 hàng kệ, làm sáng tỏ cho việc thành tựu của miệng về An Lạc Hạnh. Kế đến từ „chẳng ghen ghét“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng làm sáng tỏ việc bên trong chẳng sai; tức là bên ngoài khó có thể sanh được. Như không có vật hôi thối thì con rùa chẳng đến. Kế tiếp từ „kẻ trí như vậy“ trở đi; phần thứ 3 gồm 1 hàng làm sáng tỏ bên trong có thiện pháp; cho nên việc thực hành thành tựu. Như ta nói bên trên; nếu bên trong chẳng sai, như trong trường hàng nói. Nếu bên trong có việc lành, như trong kệ nói. Kế đến từ „người nầy công đức“ trở đi; phần thứ 4 gồm 1 hàng nói cách lượng công đức như câu văn.

Phần thứ 3 về ý An Lạc Hạnh, lại trường hàng kệ, tụng trường hàng lại có 3. Tiêu chương, thích hạnh và kết thành. Trông sự giải thích ấy trước là chỉ và sau là quán. Trong chỉ ấy lại có 4. Một là chẳng ghen ghét gièm pha; hai là chẳng khinh chê; ba là chẳng não loạn và bốn là chẳng cạnh tranh. Phàm là Nhị Thừa thì muốn mau ra khỏi sanh tử; trước tiên trừ tham dục. Bồ Tát thì trước tiên trừ sân, kiến, Ganh ghét là sân cấu; xiểm nịnh là kiến cấu. Sự ganh ghét ấy ghi đậm sự sai quấy nơi tâm từ bi; chẳng thể dạy pháp cho kia. Xiểm nịnh, cuồng loạn ấy trái ngược lại với con đường của trí tuệ. Chẳng thể là pháp tự làm được. Trí huệ mà bị chướng ngại thì làm sao có thể cầu bên trên được ? Từ bi mà bị cấu bẩn thì làm sao hạ hóa được ? An Lạc Hạnh Bồ Tát tối tu vậy. Lại từ „chớ khinh mạn“ trở đi, chẳng nên lấy viên hành ha biệt. Rõ biết căn cơ có thể tích chứa, chẳng rõ chớ nên mạ lỵ. Nội dung có ý nghĩa của cái gốc của việc thoái thiện.

Từ „Tỳ Kheo“ trở đi, chẳng nên dùng Viên Ha Thông. Điều căn bản nầy không có căn cơ lớn mạnh dùng Viên (giáo) để chửi mắng thì ngược lại với tâm, trở thành phiền não. Thông (giáo) liền bị chửi mắng (bởi) Viên (giáo) lại chưa giải được. Trước nghi, sau hối, Đại Tiểu đều mất hết. Đến đạo tới lui, gọi là xa lắm. Điều phiền não nầy riêng biệt người thực hành; lắng không, thủ chứng, gọi đây là chẳng được. Sự phiền não nầy theo Thông (giáo) thì chán sanh tử; gọi là giải đãi. Bi Hoa làm sáng tỏ Tiểu Thừa gọi là giải đãi. Khởi tâm đại bi, đến để làm sáng tỏ quán hạnh, lại có 4. Ước (giáo) như trước 4 ác mà khởi nơi thiện hạnh. Một đối với tất cả, khởi tâm đại bi, lìa nơi tật đố, xiểm nịnh. Hai là đối với Như Lai khởi tâm từ như cha, lìa sự khinh mạn. Phàm cầu Phật đạo tức là học nhơn. Cung kính sự học như Phật, chẳng thể khinh mạn. Những kẻ qua ba đời. Đây tức là Vị Lai Như Lai vậy. Ba là đối với Bồ Tát khởi tưởng như Đại Sư, lìa sự não loạn. Lý luận Tam Thừa, tất cả đều là Bồ Tát. Có giáo hóa, khuyên dạy về đức và là Thầy của tất cả chúng sanh. Nên khởi tưởng về Thầy; chớ nói điều ngắn nầy. Bốn là bình đẳng thuyết pháp, lìa những sự tranh luận. Bình đẳng phá biên chấp, tranh luận vậy. Chẳng nhiều, chẳng ít lượng khí, lợi độn.

Từ „Văn Thù“ trở đi kết về hạnh thành ra 2. Một là do dừng sự ác, ác ấy chẳng thể tăng; cho nên nói là chẳng thể não loạn. Hai là do quán hạnh; cho nên hơn người, đến hợp lại; được bạn đồng học tốt. Kệ ấy có 6 hàng. 5 hàng đầu tụng bên trên phần chỉ quán; 2 hàng mỗi mỗi có 4 ý. Sau 1 hàng tụng về sự hành trì thành tựu. Phần thứ 4 là thệ nguyện An Lạc Hạnh lại có 2. Đầu tiên là Trường Hàng và kế đến là kệ tụng. Trường Hàng lại có 2. Đầu tiên làm sáng tỏ thực hành. Kế đến là tán thán kinh. Tựu chung việc thực hành pháp lại có 3. Tiêu chương, hành pháp và kết thành. Tiêu chương thì như câu văn. Hành pháp lại chia làm 3. Đầu tiên là tại gia rồi đến xuất gia, làm rõ mục tiêu thệ nguyện rồi. Hai là „từ ưng tác thị niệm“ trở đi làm sáng tỏ chỗ phát khởi lý do thệ nguyện. Ba là từ „ta được“ trở đi; chánh thức lập nên thệ nguyện. Đầu tiên làm sáng tỏ lời thệ nguyện từ bi rồi, trải qua phát tâm phương tiện, mà chưa ra khỏi tam giới; nên còn ở nhà. Đoạn trừ thông hoặc tận rồi, gọi đây là xuất gia. Điều nầy nhiếp được 2 loại Đại Thừa và 3 loại Bồ Tát. Khung cảnh nầy cũng đầy đủ vô minh. Lại nên là cảnh của đại bi. Hằng vì điều nầy mà tất cả cùng phát tâm. Cùng với tâm từ thệ nguyện tương ưng. Đầy đủ với sự tròn đủ của đạo quả và của niềm an lạc. Cho nên nói là sanh đại bi tâm. Cảnh của lòng từ bi ấy chẳng phải là người Bồ Tát. Thông (giáo) giữ sự chưa gặp được tâm phát ra phương tiện; gọi là phi Bồ Tát. Toàn thể chẳng quy hướng về phương tiện; huống là sự chơn thật. Bi cảnh nầy nhiếp được tất cả tam giới nội. Những điều nầy lại cũng đầy đủ sự an lạc. Riêng việc nầy lưu chuyển vô cùng. Chánh cùng với lời thệ nguyện tương ưng. Hay đánh bạt tội nhơn và tội quả. Cho nên nói là sanh tâm đại bi.

Từ „nên nghĩ như vậy“ trở đi, tùy theo đó mà thuyết pháp; tức là lý do khởi lên lòng từ. Do các niềm an lạc, chấp ít, Phật phương tiện lấy đó làm sự chơn thật. Chẳng cùng với Viên đạo; cho nên gọi là Đại thất. Mất cái lớn là lý do của lời thệ nguyện. Từ „chẳng nghe, chẳng biết“ trở đi, là lý do của lời thệ nguyện từ bi. Do chưa phát, tâm biến khắp tròn đủ, chưa nghe biến khắp tròn đủ 2 đường. Cho nên dùng sự chẳng nghe, biến khắp các đường là vô văn huệ. Chẳng rõ vô tư huệ; chẳng biết vô tư huệ. Lại nữa vô viên tam huệ. Sao lại chẳng hỏi; cho nên lại chẳng nghe; chẳng tin cho nên chẳng rõ; chẳng giải cho nên chẳng tu. Biến viên tam huệ, quyền thật đều không. Thường hay thương xót, lý do để khởi tâm đại bi.

Từ „người nầy chỉ chẳng hỏi, chẳng tin kinh nầy“ trở đi, chánh thức phát lời thệ nguyện. Người kia tuy rằng chẳng hỏi,, chẳng tin, biến khắp đầy đủ nơi 2 đường. Bồ Tát chẳng Ước (giáo) biến khắp, phát lời thệ nguyện. Hằng muốn cùng viên đạo tam huệ nầy; cho nên nói là tuy chẳng hỏi, chẳng tin kinh nầy mà ta được tam Bồ Đề hướng dẫn, làm cho được vào (bên trong) vậy. Thệ nguyện bồ đề, trí tuệ thần thông. Tất cả theo Ước (giáo) là được hạnh An Lạc. Còn kẻ sâu quán nơi chỗ ngồi của Như Lai thì sao ? Cho nên được lực trí huệ, tứ biện trang nghiêm, hay dùng trí tuệ để mang lại vậy. Sâu quán nơi ở của Như Lai và áo mặc của Như Lai, được lực to lớn an lành tịch tịnh. Chẳng khởi diệt định, hiện bày những oai nghi. Thần thông phước đức trang nghiêm; trước dùng định động vậy.

Từ „Văn Thù“ trở đi, là kết lại việc thực hành thành tựu, chia ra làm ba. Đầu tiên là tổng kết việc không sai sót, tức là hạnh ấy thành tựu. Hành như thế nào thì thành? – Dùng điều nầy lập thệ nguyện lớn. Vào nhà của Như Lai là hành thành. Dùng điều nầy rõ biết tứ chúng, mất đi đạo hoàn hảo; tức là nơi chỗ ngồi của Như Lai, hạnh nầy thành; dùng điều nầy thệ nguyện chế ngự tâm nầy chẳng giải đãi vậy. Áo của Như Lai, hạnh ấy thành tựu. Ba hạnh đều lập; cho nên nói là hạnh thành. Chẳng có gì sai quấy cả. Từ bi thành tựu; cho nên không có sân hận và cấu uế mất. Như Lai nương vào sự thành tựu ấy; cho nên không giải đãi. Như Lai ngồi thành tựu; cho nên chẳng dối trá.

Từ „thường vì các Tỳ Kheo“ trở đi; phần thứ 2 kết luận riêng biệt, từ bi hành thành. Dùng sự từ bi thành tựu ấy nhiếp được tứ chúng; người, trời cúng dường nghe pháp. Thệ nguyện thành tựu cho nên cảm Phật thần thông, chư thiên hộ trì. Như Lai ngồi thành tựu cho nên thính giả hoan nghinh. Từ „ sở dĩ“ trở đi; phần thứ 3 giải thích sự thệ nguyện thành tựu; ba đời chư Phật thường hộ trì; huống là chư thiên sao ?

Từ „Văn Thù đến Pháp Hoa nầy“ trở đi; phần thứ 2 là ca ngợi kinh khó nghe nầy và chia ra làm hai. Nói pháp và nói dụ. Nói pháp lại có 2. Một là từ xưa đến nay chưa từng hiển thuyết; cho nên xưa chưa được. Hai là ngày nay mới được. Nói về dụ lại có 2. Một là chẳng cùng thí dụ với châu báu. Dụ ấy từ xưa chưa từng hiển thuyết. Hai là dụ cùng châu báu; nay lại được nghe. Hai dụ nầy mỗi mỗi có khai, hợp. Dụ chẳng cùng châu báu lại có 6. Một là uy phục các nước; hai là vua nước nhỏ chẳng thuận; ba là khởi binh đến chinh phạt; bốn là có công hoan hỷ; năm là tùy theo công lao mà thưởng ban; sáu là chẳng cùng với châu báu. Luân Vương dụ cho Đức Như Lai ra đời để hóa độ. Hàng phục các nước dụ cho âm giới nhập vào các cảnh. Hai nước nhỏ dụ cho những phiền não v.v… Chưa được vô lậu điều phục; gọi là chẳng thuận với mệnh lệnh nầy. Ba là khởi lên đủ các loại binh. Ở đây dụ cho trong bảng hiền, phương pháp vì trước quân lính của Tu Đà (Hoàn), Tư Đà (Hàm); trong phương pháp ấy vì lần lượt các quân A Na (Hàm) và A La Hán; và trong phương pháp kia làm hậu quân. Chỗ phá là 3 độc cùng với 8 vạn 4 ngàn kẻ ăn cướp. Hay phá ấy là 84.000 pháp môn của quan, binh.

Từ „Vua thấy lính“ trở đi; phần thứ 4 có công hoan hỷ. „Tùy theo công lao mà thưởng“ trở đi; phần thứ 5 là tùy theo công lao mà ban thưởng. Đất đai ở đây tức là tam vị; nhà cửa ở đây là trí tuệ. Tụ lạc ở đây là sơ quả nhị quả; ấp ở đây tức là 3 quả; thành ở đây tức là Niết Bàn. Y phục tức là tàm quý, nhẫn nhục, pháp lành, dùng để nghiêm thân đầy đủ giúp cho các pháp lành của Đạo vậy. Đủ loại thất bảo tức là bảy giác chi. Voi, ngựa, xe cộ tức là Nhị Thừa; tận vô sanh trí vậy. Nô tỳ tức là thần thông, được thiện pháp hữu lậu như người dân.

Từ „chỉ giữa búi tóc“ trở đi; phần thứ 6 mà chẳng sánh cùng với châu báu; có xuất phần, hủy cơ, vì công trạng nhỏ; có xuất phần, biến dị của cơ (duyên) và vì công huân lớn. Kinh sợ là chưa có công lao lớn mà được ban cho châu báu trong búi tóc. Các thần đều kinh ngạc. Dụ cho chúng sanh đại cơ chưa động, há nói kinh nầy thì Nhị Thừa nghi hoặc, Bồ Tát rúng động. Hợp 6 dụ ấy mỗi mỗi như câu văn.

Từ „Văn Thù như Luân Vương“ trở di; cùng với châu báu, dụ ấy có 2. Một là có công lao lớn; hai là cùng với châu báu. Minh châu ấy là dụ cho sự trong sáng của Trung Đạo; trí viên mãn dụ cho nơi thường. Tại nơi đỉnh (đầu) là cái quả tối tân, Trong tóc ấy, thật vì quyền mà ẩn náu. Xủ tóc ra là khai quyền, cùng với châu báu tức là hiển thật. Hợp ấy lại có 2, có thể làm cho đến tất cả trí. Trí ấy tức là quả; gọi là hành nhất. Nói điều thứ nhất là lời dạy số một. Mật tạng là lý nhất, kiêm thêm việc được làm người là một. Kệ ấy có 14 hàng rưỡi và chia làm 2. Đầu tiên 4 hàng, tụng bên trên về hành pháp. Kế đến 10 hàng rưỡi tụng bên trên về việc ca ngợi kinh. Đầu tiên tụng về pháp hành lại có 2. Một hàng đầu tiên siêu tụng về sự thành quả của hành. Bên trên tổng quát làm sáng tỏ sự thành tựu của việc thực hành, nay tụng về biệt hiển. Thường hành nhẫn nhục, tụng về việc thành tựu trong việc mặc y áo. Thương xót cho tất cả, tụng về việc vào nhà, thành tựu việc thực hành. Lại hay diễn thuyết, tụng về sự thành tựu thực hành việc ngồi chỗ ngồi.

Kế đến „sau đời vị lai“ trở đi; phần thứ 2 có 3 hàng; tụng về phương pháp tu hành. Bên trên lại có 3 cảnh thệ nguyện v.v… Kệ ấy đầy đủ tụng. Kế tiếp „dụ như người có sức mạnh“ trở đi; phần thứ 2 có 10 hàng rưỡi. Tụng phần trên hoan hỷ tán thán về pháp khó nghe. Bên trên lại có pháp dụ hợp; nay hằng tụng dụ hợp. Tụng dụ ấy lại có 2. Ba hàng đầu tiên tụng về việc chẳng cùng với châu báu. Kế tiếp „như có người nam“ trở di; phần thứ 2 có một hàng, tụng về việc cùng châu báu. Kế đến „Như Lai cũng lại như vậy“ trở đi; phần thứ 2 hợp dụ; đầu tiên 3 hàng rưỡi, tụng về hợp, chẳng cùng châu báu. Kế đến từ „liền rõ chúng sanh“ trở đi; phần thứ 2 gồm 3 hàng, tụng về hợp cùng châu báu. Trong nầy có khai thêm những việc nhỏ v.v…

Từ „sau khi ta diệt độ“ trở đi gồm 23 hàng; phẩm nầy là phần tổng kết thứ 3 về thành tựu việc thực hành, cảm với tướng nhỏ nhiệm. Dùng sự khuyến khích tu hành, chia ra làm 3. Một hàng rưỡi đầu tiên kết khuyến 4 hàng. Kế đến 20 hàng rưỡi cùng với 3 báo dùng sự khuyến bảo lại gọi là tam chướng thanh tịnh. Sau đó một hàng là tổng kết. Tam chướng thanh tịnh, chuyển hiện sanh, hậu thế ác nghiệp hết. Tức là có hiện sanh hậu thắng báo vậy. Một hàng đầu tiên về vô ưu não. Đây là báo chướng chuyển chuyển hiện báo. Hai hàng rưỡi chẳng sanh tham cùng, là nghiệp chướng chuyển chuyển sanh báo vậy. Ba là „chúng sanh vui thấy“ gồm 19 hàng; phiền não chướng chuyển chuyển hậu báo vậy. Nay lần đầu đọc kinh nầy, một hàng diệt, hiện thế phiền não; tức là trừ khổ thọ báo. Điều chuyển hiện báo tâm nầy, chẳng đao bịnh tức là chuyển báo sắc vậy.

Từ „chẳng sanh tham cùng“ trở đi; phần thứ 2 có nửa hàng, chuyển ác nghiệp. Cái nhơn của ác nghiệp, cảm cái quả ác. Trải qua sức mạnh của nhơn chuyển ác, được quả tốt; tức là chuyển sanh báo vậy. Bất sanh tức là chẳng sanh nghiệp ác. Hiện tại trì kinh thì chẳng tạo ra nghiệp bần cùng, đời sau chẳng sanh ti tiện. Từ „chúng sanh vui thấy“ trở đi gồm có 19 hàng, làm sáng tỏ hậu báo chuyển; chuyển 3 phiền não chướng vậy. Chia làm 2.

Ba hàng đầu tiên riêng làm sáng tỏ 3 phiền não chướng chuyển. 26 hàng tổng cộng làm sáng tỏ tất cả chướng chuyển vậy. Đầu tiên ấy lại có 3. Từ „chúng sanh vui thấy“ trở đi gồm 1 hàng; riêng làm sáng tỏ tham chướng chuyển. Đa dục tức là người chợt ngã mạn. Lại nữa chướng ấy sanh Phạm Thiên. Dục chướng chuyển cho nên người được vui thấy. Thiên Đồng giúp sứ. „Dao, gậy chẳng thêm“ trở đi; phần thứ 2 có một hàng rưỡi; riêng làm sáng tỏ sân chướng chuyển. Xả bỏ sân si tức là trừ được nội đao tiễn. Vào trận, tức là dao bên ngoài chẳng bị thương. Từ „trí huệ quang minh“ trở đi gồm nửa hàng. Ba sự phân biệt làm sáng tỏ ngu si chướng chuyển.

Từ „nếu ở trong mộng, mộng thấy xe tốt“ trở đi; phần thứ 2 có 16 hàng. Tổng cộng làm sáng tỏ tất cả phiền não chướng chuyển; lại là hậu báo chuyển. Trì kinh hiện cảm được tướng nầy. Nên rõ quá khứ lâu xa đã thành tựu rồi; nay nhờ tích chứa nhân duyên mà phát ra vậy. Lại nữa có thành Phật, nhơn quả đẳng tướng, cùng với hậu báo vậy. Đối với trong mộng, thấy tướng vị lai hậu báo; trăm ngàn vạn kiếp việc, ở trong một niệm. Dùng sự biểu tượng của diệu pháp chẳng thể nghĩ bàn; một trong vô lượng; vô lượng trong một. Tướng nầy trước hiện, hậu sẽ khắc quả. Lại chia ra 6. Từ sơ tín tâm cho đến diệu giác 8 tướng thành Phật. Tất cả Như Lai trang nghiêm mà tự trang nghiêm; tức là báo nhẫn nhục. Ước (giáo) đầu tiên 3 hàng là mộng, vào 18 tín lại có 2. Đầu tiên 2 hàng rưỡi là báo của từ bi. Kế đến nửa hàng là chánh thấy chẳng si báo.

Kế đến „lại thấy chư Phật“ trở đi gồm 26 hàng rưỡi, mộng nhập vào 18 trụ. Kế đến „lại thấy tự thân tại…“ trở đi; gồm phần 3 có 3 câu mộng, tu thập hạnh. Kế đến „chứng các thật tướng“ trở đi; phần 4 có 1 câu mộng, ngộ thập hồi hướng. Kế đến là „thâm nhập thiền định“ trở đi; phần thứ 5 gồm nửa hàng, mộng nhập Thập Địa.

Kế tiếp „chư Phật thân sắc vàng“ trở đi; phần thứ 5 có 5 hàng, mộng nhập vào Diệu Giác. Liền nói chứng bất thối chí, tức là vì thọ ký vậy. Nên rõ ràng: được nhập vào sơ trụ vô sanh, được ghi nhận nơi chốn vậy. Lại thấy tự thân ở tại núi rừng. Rõ biết đây là thập hạnh, tu tập pháp lành, chứng những thật tướng. Rõ biết 10 hồi hướng nầy; chánh quán Trung Đạo vị vậy. Thâm nhập thiền định tức là trong Thập Địa, không dơ tam vị. Nhập Kim Cang định, chư Phật đều hiện (tiền); Ma Danh Thọ Chức vậy. Mộng 8 tướng của Phật, dùng trí Diệu Giác. Trong nầy hoặc là Sơ Trụ, có thể là tướng của tám tướng thành Phật. Tuy nhiên trước những thứ vị, xuyên qua đàm Cực Giác. „Nếu sau đời ác“ gồm một hàng là tổng kết việc thực hành thành tựu.

Tín căn đối với Tam Bảo được niềm tin kiên cố. Tất cả chẳng thể làm hại. Tinh tấn căn được Tứ Chánh Cần. Niệm căn được Tín Niệm Xứ quán. Cần phương tiện để điều phục việc tham ưu; định căn được Tứ Thiền. Huệ căn được giải Tứ Đế. Như thật trí vậy. Lại nữa tín căn đối với Như Lai, phát Bồ Đề tâm, chỗ được tâm tin thanh tịnh. Tinh tấn căn đối với Như Lai là chỗ phát tâm khởi lên sự siêng năng. Niệm căn đối với Như Lai là chỗ phát tâm, khởi lên sự nhớ nghĩ. Định căn đối với chỗ Như Lai, khởi lên Tam Muội. Huệ căn đối với chỗ Như Lai, khởi lên trí huệ. Bát Chánh là con đường Diệu Môn; lại là pháp của Sa môn, thành tựu tam sân, tất cả phiền não hết. Đây là nghĩa Sa Môn; Tứ quả là quả của Sa Môn.

Mộng ấy là từ Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật đều có mộng. Riêng Phật chẳng mộng, chẳng có nghi ngờ, chẳng có tập khí; cho nên chẳng mộng. Từ 5 việc cho nên có mộng, như kệ nói; dùng nghi tâm để phân biệt. Học tập nhơn hiện sự; chẳng phải người đến cùng với lời nói. Nhơn đây là 5 việc mộng. Lại nữa là chỗ nghe thấy cùng với nhưng sự xung khắc. Vì 7 việc cho nên có mộng. Hiện tại ý thức thường chẳng thấy sắc. Vì sao trong mộng ý địa thấy sắc ?

Đáp rằng: Tất cả đều là hội thấy, hội nghe; cho nên tưởng như vậy. Lại thấy việc tốt, việc chẳng tốt. Trong mộng không thông, không túc mệnh trí. Vì sao có thể thấy vị lai việc đời được ?

Đáp rằng: Điều nầy chẳng phải nguyện trí cảnh giới cùng với điều nầy nên rõ. Các người từng có như thế về mộng nầy và như quả nầy. Nay ở đây rõ điều nầy vậy.

Hỏi: Ai ngủ ?

Đáp: Năm đường và trung ấm, tất cả đều ngủ. Tại nơi bào thai, các căn đều ngủ; cho đến Phật lại cũng ngủ.

Hỏi: Ngủ là ngu si, là che đậy sao ? Điều nầy gọi như thế nào cho thông ?

Đáp: Phật khởi hiện tiền, muốn điều thân cho nên ngủ. Chẳng che đậy, chẳng phải ngủ là ngu vậy.

 

Giải thích Phẩm Tòng Địa Dũng Xuất

Thầy nghiêm, trọng đạo, cúc cung hết mình phụng sự. Như Lai một đời bốn phương bôn ba dũng dược; cho nên nói về phẩm Tùng Địa Dũng Xuất là 3 đời hóa đạo, huệ lợi vô song. Một mặt trăng chiếu ra vạn ảnh, đều có thể suy nghĩ được như vậy. Đã qua một lần thị hiện, hoằng truyền kinh điển để làm ích lợi cho người; cho nên nói ra: Tùng Địa Dũng Xuất phẩm. Hư không trạm nhiên, không sớm chẳng tối; hoặc giả chấp vào Tích mà mờ tối nơi Bổn nầy. Giới thiệu ngày xưa để chỉ bày cho ngày nay, phá gần hiển xa; cho nên nói ra Tòng Địa Dũng Xuất phẩm. „Tịch trường thiếu phụ, tịch quang lão nhi“ nhằm chỉ cho sức mạnh của thuốc hay; hoặc làm cho được rõ biết; cho nên nói ra phẩm: Tòng Địa Dũng Xuất.

Kinh rằng: Đây từ đâu mà đến ? Vì nhân duyên gì mà lại gặp nhau ? Nay dùng những nghĩa nầy để giải thích phẩm nầy. Dùng tứ tất đàn để hiển nhân duyên mà giải thích. Cho nên nói phẩm: Tòng Địa Dũng Xuất. Bên dưới là một đoạn lớn. Phần thứ 2 là mở bày Sư Môn của Cận Tích và hiển Phật địa làm Viễn Bổn. Câu văn nầy lại chia ra làm 3. Một là từ đây trở đi cho đến „các con tự sẽ là cái nhơn để nghe điều nầy“ là đoạn đầu của lời tựa. Hai là từ „lúc bấy giờ Đức Thích Ca bảo ngài Di Lặc“ trở đi, cho đến phẩm Phân Biệt Công Đức, Di Lặc nói gồm 19 hàng kệ. Đây là đoạn nói chánh vậy. Ba là từ „sau kệ 11 phẩm rưỡi“ là phần lưu thông v.v…

Lời tựa lại chia ra làm 2. Một là dõng xuất có 2 nghi vấn. Dũng xuất lại chia làm 3. Một là tha phương Bồ Tát thỉnh hoằng truyền kinh điển. Hai là Như Lai chẳng hứa khả. Ba là từ dưới đất vọt lên. Tha phương Bồ Tát nghe qua kinh, phước lớn. Cũng muốn phát nguyện ở lại nơi đây để hoằng truyền. Cho nên mới thỉnh. Như Lai dừng lại ở đây, phàm có 3 nghĩa. Các con mỗi mỗi tự có chỗ trụ. Nếu ở nơi nầy thì bỏ lợi ích của nơi kia. Lại nữa phương kia với đây việc kết duyên quá mỏng. Tuy muốn tuyên nói, tất chẳng được lợi ích cho cả 2. Lại nữa nếu hứa khả, tất chẳng được mời đến đây. Phương dưới nếu chẳng đến. Tích ấy chẳng được phá viễn, chẳng được hiển bày. Đây là 3 nghĩa vậy. Như Lai dừng lại, mời phương dưới đến lại có 3 nghĩa. Là đệ tử của ta muốn hoằng truyền giáo pháp của ta. Do duyên sâu rộng, có thể biến quốc độ nầy được lợi ích, biến hóa phân thân cho quốc độ được lợi ích. Biến quốc độ kia được lợi ích. Lại nữa được khai cận, hiển viễn. Cho nên dừng lại kia mà mời phương dưới vậy.

Từ „Phật nói lúc ấy“ trở đi là phần thứ 3 từ phương dưới vọt lên, chia làm 2. Một là trải qua nơi tướng của một nhà. Hai là làm sáng tỏ chỗ thăm hỏi. Hai đoạn ấy mỗi đoạn có 5. Năm phần một ấy là: Một là dõng xuất; hai là thân tướng; ba là trụ xứ; bốn là nghe mệnh lệnh và năm là quyến thuộc. Trụ xứ ấy là Thường Tịch Quang Độ. Thường ấy tức là thường đức. Tịch ấy là lạc đức. Quang ấy là tịnh ngã. Đây chính là 4 đức của Tạng bí mật.

Bên dưới là pháp tánh của vực sâu. Chỗ sâu xa; cho nên nói là phương dưới. Trụ ở phương dưới tức là chẳng thuộc nơi đây. Không trung cũng chẳng thuộc kia. Chẳng phải đây, chẳng phải kia; tức là Trung Đạo vậy. Ra khỏi đây chẳng ở bên trên, chẳng ở bên dưới; chẳng trên chẳng dưới tức là trụ giữa hư không; lại cũng là Trung Đạo vậy. Lý do để đến, vì nghe mệnh lệnh mà đến. Hoằng pháp cho nên đến. Phá chấp cho nên đến; hiển Bổn cho nên đến. Tất cả đều như bên trên đã nói. Đều là những quyến thuộc với nhau cả. Nếu con người vì tình cảm mà qua; nghĩa là gồm 6 vạn, 5 vạn hằng sa là nhiều. Lãnh 3, 2 hay 1 người, gọi là ít. Riêng mỗi một mình là đơn lẻ. Nếu nương vào câu văn qua lại để truy tìm thì 6 vạn, 5 vạn là ít. Đơn lẻ ấy lại là nhiều. Câu văn nói đơn lẻ là độc xứ. Số nầy chuyển lên trên. Nếu nương vào pháp môn thì mỗi mỗi tất cả đều là cái đức của Đạo Sư; hay dẫn mọi người đi đến bảo sở. Phải rõ ràng một ấy chẳng phải là riêng, mà 6 vạn chẳng phải là nhiều. Một ấy chính là một đạo thanh tịnh; hai ấy là định huệ; ba ấy tức là giới, định, huệ. Bốn ấy là Tứ Đế. Năm là ngũ nhãn; sáu là lục độ. Mỗi một độ như vậy đầy đủ 10 pháp giới. Mỗi một giới như vậy đều có 10. Mười ấy tức là có hằng trăm; hằng trăm tức là 1.000. Thập thiện tức là hằng vạn. Một độ đầy đủ cả vạn. Lục độ tức là lục vạn pháp môn. Nhiều chẳng phải là nhiều, mà một chẳng phải là ít. Chẳng nhiều chẳng ít, mà nhiều mà ít v.v…

Từ „đây là những Bồ Tát từ dưới đất vọt lên“ trở đi; phần thứ 2 là thăm hỏi lại chia làm 5. Một là 3 nghiệp cúng dường; hai là ngôn từ thăm hỏi; ba là Phật đáp an lạc; bốn là kệ tụng tùy hỷ; năm là Như Lai thuật lại và tán thán. Tựu chung 3 việc cúng dường ở phần đầu, trải qua 50 Tiểu Kiếp, giống như trong nửa ngày. Tứ chúng chung quanh thấy. Đây chính là ẩn dài mà hiện ngắn. Mượn thần lực nầy làm cho hẹp có thể thấy rộng được. Tất cả đều là việc bất khả tư nghì. Lễ bái nhiêu là thân, tán thán pháp là miệng và chiêm ngưỡng là ý. 50 Tiểu Kiếp sánh với nửa ngày là một thời gian khó thể suy lường được. Chỗ thấy của Như Lai chẳng có 2 tướng. Nên những Bồ Tát ở hạ phương thường gặp nhau và xưng dương. Như Lai mặc nhiên hay thọ nhận việc tán thán nầy. Giải ấy chính là ngắn mà dài. Nghĩa là 50 Tiểu Kiếp; hoặc ấy là dài mà ngắn; nghĩa là như nửa ngày. Riêng vì Bổn Tích mà tạo ra sự hướng dẫn. Như Lai chưa nói ám Bổn mà chấp vào Tích. Phật nếu khai hiển ngộ cận mà đạt viễn. Lại nên biết bất tư nghì là một. Tứ chúng đều thấy các Bồ Tát, lại cũng là việc bất tư nghì. Phàm là nhục nhãn, thiên nhãn, chỗ thấy chẳng xa, mà nay chỗ thấy đầy đủ như hư không. Thấy mưa lớn thì rõ biết là có rồng lớn. Thấy hoa nhiều; rõ biết là ao sâu; thấy đầy khắp hư không; tức là rõ biết chơn di pháp giới vậy. Đầu tiên chỉ cho 4 Đạo Sư; kế tiếp là ngôn từ thăm hỏi. Hỏi ấy lại có 2. Trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại có 2. Một là hỏi Như Lai có an lạc không. Hai là hỏi chúng sanh có dễ độ chăng v.v…

Hay đơn cử 4 người là muốn rộng khai thị ngộ nhập vào 40 vị vậy. Như Hoa Nghiêm thường đưa ra Pháp Huệ, Đức Lâm, Kim Tràng, Kim Tạng để nói về 40 ngôi vị. Ba là Như Lai đáp đầy đủ. An lạc dễ độ, cả 2 việc đều thành tựu. Dễ độ tức là an lạc. An lạc tức là dễ độ. Dễ độ lại có 2. Một là căn lợi, đức dày. Đời đời cho đến nay thường thọ nhận sự giáo hóa to lớn. Đầu tiên thấy thân ta tức là bẩm Hoa Nghiêm, nhập vào Như Lai huệ. Quả thục dễ lãnh. Là chúng sanh dễ độ. Hai là căn độn, đức mỏng; đời đời đến nay chẳng thọ sự giáo hóa to lớn. Vì người nầy cho nên liền khai đốn, nói tiệm. Ba là tạng Phương Đẳng, Bát Nhã mà điều phục. Lại làm cho người nầy nay nghe Pháp Hoa, nhập vào Phật huệ. Điều nầy trước tuy khó; đối với Phật thật là dễ. Phật rõ biết điều nầy nên chỉ bày phương tiện để được. Kẻ ít thấm nhuần, huệ ngộ giống nhau. Nay lược nói 10 ý ấy để giải thích vậy.

Một là xưa thấy, nay thấy; hai là khai hợp, chẳng khai hợp; ba là bề cao rộng, bền ngang lược bớt; bốn là nhứt Tích đa Tích cùng Bảo đơn chiếc; năm là nói thêm, chẳng nói thêm; sáu là biến thổ, chẳng biến thổ; bảy là nhiều nơi, chẳng nhiều nơi; tám là đuổi đoạt, chẳng đuổi đoạt; chín là trực hiển thật, khai quyền hiển thật; mười là lợi căn sơ thục, đốn căn hậu thục.

Phần đầu tiên bắt đầu thấy, nay lại thấy; tức là lúc đầu thành đạo gọi là thấy đầu tiên. Dưới chỗ ngồi, Pháp Hoa lâu dài, sau chơn thật; gọi đây là nay thấy. Mặt trời chiếu trên núi cao tức là nói về những người đốn (hiểu liền). Chẳng khai, chẳng hợp, chẳng nhập là khai đốn, nói tiệm (nói xa xa). Ngũ vị điều phục làm cho dần dần quay về đốn. Đốn trực chiều cao, vào nơi pháp giới; cho nên nói là cao rộng. Chẳng trải qua phương tiện; cho nên nói là bề ngang lược bớt. Nay trải qua ngũ vị tức là bề ngang rộng, được vào Phật huệ, lại là bề cao rộng. Một chỗ cho nên Bản một. Một ngàn cho nên Tích nhiều. Tích cùng với mọi người trải qua giống nhau; cho nên nói cùng nhau. Bản cùng với chúng trải qua khác; cho nên nói là riêng biệt. Thêm 4 Bồ Tát nói 40 ngôi vị. Tự nói khai, thị, ngộ, nhập; chẳng thêm đối với kia. Hoa vương thế giới; cho nên nói là bất biến. Nhị biến thổ điền; cho nên nói là biến đất. Thất xứ bát hội là vì chỗ nhiều. Núi Kỳ Xà Quật ở xa với hư không, cho nên chẳng nhiều xứ. Hóa thành mất đi, thay đổi khách làm; cho nên nói là đoạt đuổi. Chẳng có gì như việc nầy; cho nên nói là chẳng đuổi đoạt. Hành trực đạo nên gọi là ngay hiển thật. Quyết liễu pháp Thanh Văn; gọi quyền thật là hiển thật. Lợi căn duyên thục, đầu tiên vào trí huệ Phật. Căn độn sau mới thuần thục; nay được nhập vào Phật huệ. Duyên ấy tuyên nói chẳng giống nhau, lược bớt vì 10 điều khác nhau. Chủng trí pháp giới đẳng vô phân biệt; cho nên câu văn nói rằng:

Đầu tiên thấy thân ta, nghe chỗ ta nói; tức đều tin tưởng thọ nhận và nhập vào trí tuệ của Như Lai. Trừ kẻ trước đó tu tập và học theo Tiểu Thừa; nay đối với kinh nầy nhập vào nơi trí huệ của Phật, làm sáng tỏ câu văn tại chỗ thêm, chẳng đủ nghi. Các Thầy thấy nhơn duyên nầy khác biệt. Theo duyên khác biệt giải mê, chẳng rõ nghịch lại, làm cho đạo chuyển xa hơn. Nếu biết lý cùng với ngàn xe cùng triệt (dấu vết bánh xe) thì trí huệ Phật tức chẳng có đặc thù.

Xưa nói rằng: Hoa Nghiêm liễu nghĩa, đầy chữ thường trụ. Pháp Hoa biết liễu nghĩa, chẳng đủ, chẳng thường. Nay dùng câu văn nầy. Nếu đầu tiên nhập vào liễu nghĩa nầy. Nay nhập vào bất liễu nghĩa thì đầu tiên nhập vào trí huệ Phật; nay lại chẳng vào trí huệ Phật. Nếu trí huê Phật liền rõ nghĩa, lại cũng như thế. Đầy đủ chữ, thường là điều tất nhiên v.v…

Người ở cõi đất, gọi Hoa Nghiêm là Viên Tông; Pháp Hoa là bất chơn Tông. Nay lại dùng câu văn nầy sánh cùng. Phần 4 Bồ Tát lãnh giải tùy hỷ, hay hỏi, tức là trong Hoa Nghiêm có 4 Đại Sĩ. Trong Pháp Hoa Thân Tử (Xá Lợi Phất) 3 lần thỉnh, đều là có thể hỏi. Chỗ hỏi ấy tức là hỏi về trí huệ Phật vậy. Phần thứ 5 Như Lai thuật lại và ca ngợi, cùng hỏi thật khác. Hỏi nhà tùy hỷ có thể hỏi người; tất cả đều là Bồ Tát. Cùng với chỗ người hóa ấy nghe rồi tin làm, chúng ta tùy hỷ. Như Lai thuật lại ca ngợi, có thể hóa nhơn sanh ra tùy hỷ. Nghĩa nầy như thế nào ? mà kẻ hay hỏi đều là những vị Cổ Phật. Nhà ngươi có thể tùy hỷ tức là Như Lai. Bồ Tát tùy hỷ về Tích nầy.

Như Lai thuật lại, ca ngợi về Bản nầy. Điều nầy lại mật biểu việc thọ lượng v.v…

Từ „lúc ấy Ngài Di Lặc cùng với 8 vạn đại sĩ“ trở đi; phần thứ 2 nghi vấn nơi lời tựa. Tự yên lặng nay đã giáng rồi, nay ngồi ở tại nơi đây. Mười phương Đại Sĩ đến gặp chẳng ngớt. Tuy chẳng thể hạn định, ta dùng sự bổ xứ trí lực, tất thấy, tất rõ biết, mà đối với chúng nầy chẳng rõ biết một người. Rồi ta du hóa mười phương, gần gũi phụng sự chư Phật. Chư Phật mau rõ được chỗ của Đại Chúng. Cuối cùng chỗ bị che đậy lại chẳng rõ biết. Nếu đến, nếu đi như thế, thì tất cả chỗ cũng chẳng rõ biết. Lại nữa những bậc Đại Sĩ kia đã đến trước và đạt trước. Di Lặc đến sau, chưa hết học. Sau chẳng rõ trước; cho nên chỗ ấy chẳng biết. Lại nữa những Đại Sĩ kia Bản thật tướng thấp, ứng hiện mười phương, riêng biệt giáo hóa; nơi có chơn ứng; chẳng phải cảnh giới Di Lặc; cho nên chẳng rõ. Lại nữa Phật yêu cầu hoằng truyền kinh điển; nên mới triệu tập các vị Đại Sĩ. Đại Sĩ nghe mệnh lệnh của Phật; cho nên đến và mật nghe thọ lượng. Chẳng phải lúc nào cũng biết được, cho nên nói là chẳng rõ. Điều nầy theo Ước (giáo) Tứ Tất Đàn (thành tựu) giải thích những nghi vấn ở lời tựa v.v…

Nghi vấn ấy lại chia ra làm 2. Một là đất nầy Bồ Tát nghi; hai là đất kia Bồ Tát nghi. Đất nầy nghi lại có 2. Đầu tiên trường hàng nghi về sự nhớ nghĩ. Kế đến kệ, gồm 19 hàng rưỡi kệ là chính thức hỏi. Lại chia ra làm 5. Hàng đầu tiên một câu hỏi từ nơi nào đến ? Kế tiếp từ „do nhân duyên gì“ trở đi; phần thứ 2 có 1 hàng 3 câu, hỏi do nhân duyên gì mà đến ? Kế tiếp từ „mỗi mỗi chư Bồ Tát“ trở đi; phần thứ 3 có 9 hàng là nói về số lượng. Kế tiếp từ „các đại uy đức“ trở đi; phần thứ 4 có 2 hàng hỏi Thầy nầy là ai ? Kế tiếp từ „như thế các vị Bồ Tát thần thông“ trở đi; phần thứ 5 gồm 5 hàng rưỡi là cuối, lại việc thưa thỉnh, lại có 5. Hai câu đầu, kết lại sự ca ngợi. Kế đến từ „bốn phương địa“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng, vì sự thỉnh đáp mà đến xứ nầy. Kế tiếp từ „ta đối với chúng nầy“ trở đi; phần thứ 3 có 1 hàng là thỉnh đáp nhân duyên đến. Kế tiếp từ „nay ở đây Đại Chúng“ trở đi; phần thứ 4 có 1 hàng rưỡi đại hội cùng thỉnh cầu. Kế tiếp từ „vô lượng đức“ trở đi; phần thứ 5 gồm 2 câu thỉnh đáp Đức Phật v.v…

Hai là tha phương Bồ Tát nghi. Phân thân quyến thuộc ngang ở trong 10 phương cùng với Di Lặc đồng nghi. Hai quốc độ đều chẳng rõ bổn địa; muốn hiển thành đạo lâu xa. Mỗi mỗi sự nghi đã được Phật giải bày và Phật cùng tất cả đều chờ đợi nơi Ngài Di Lặc v.v…

Từ „lúc bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Di Lặc rằng“ trở đi; phần thứ 2 là chính thức nói; câu văn nầy chia làm 2. Đầu tiên là trường hàng và kế đến là kệ tụng, huấn dạy hứa khả. Sau đó chính thức nói trường hàng, trước thuật lại việc tán thán. Kế đến là răn dạy. Răn dạy chớ loạn, chớ lười, chớ thối tâm. Kế đến là hứa cho quả trí tuệ. Quả trí ấy là Như Lai tri kiến, tri kiến diệu quả vậy. Kế tiếp là khai hóa, dạy dỗ, tuyên nói, chỉ bày, tự tại thần lực; quá khứ là vật lợi ích. Sư Tử phấn tấn – hiện tại phân thân trong 10 phương, đến tất cả các nơi.

Hoặc nói phấn tấn giống như tình trạng phía trước vậy. Đây là biểu thị cho vị lai thường trụ, cái tướng của việc lợi ích. Đại Thế uy mãnh là vị lai việc mạnh mẽ hữu ích; hoặc dùng điều nầy là vì hiện tại. Chấn động 10 phương, tùy theo người mà dụng ý vậy. Hân hạnh theo câu văn, lần lượt là tốt. Lại nữa có nghĩa riêng tư. Như Lai tự tại là ta vậy. Thần thông là niềm vui. Sư Tử Phấn Tấn. Phấn tấn là trừ cấu tịnh. Đại Thế uy mãnh. Vị lai ích vật tức là thường vậy. Điểm nầy là cái ý của tứ đức v.v…

Bốn hàng kệ gồm 3 câu đầu tụng về 3 lời răn dạy. Sau 3 hàng một câu tụng về việc hứa khả. Câu đầu tụng về mục tiêu của trí huệ quả. Kế đến 3 hàng tụng về 3 đời.

„Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn“ trở đi; phần thứ 2 tức là chính thức nói đoạn nầy. Câu văn ấy chia làm 3. Điều nầy mãi cho đến phẩm Thọ Lượng. Chánh thức khai cận, hiển viễn. Hai là phẩm Phân Biệt phần đầu. Tổng quát về thọ nhận sự thọ ký về pháp thân. Ba là Ngài Di Lặc tổng thưa thỉnh lãnh hội và giải bày. Đầu tiên ấy là chia làm 2. Trước tiên là lược khai cận, hiển viễn, động chấp sanh nghi. Kế đến là quảng khai cận, hiển viễn, đoạn hoặc sanh tín tâm. Lược ấy lại có 2. Một là lược khai; hai là nhơn việc nghi ngờ liền thỉnh cầu. Tựu chung việc lược khai lại có trường hàng kệ tụng. Trong nầy hằng đáp lại 2 vấn đề. Chẳng đáp về vì nhân duyên gì mà tập hội. Do chẳng đáp lại; cho nên thưa thỉnh thêm một lần nữa. Trường hàng cùng đáp cùng giải thích như câu văn. Giải thích ở phương dưới trụ ở không trung. Thích Luận làm sáng tỏ có sâu tán Tam Muội, nên làm bốn thuyết. Có là 3 cõi vậy. Đệ ấy là phi tưởng phi phi tưởng. Vì thâm thắng cho nên nói là đệ. Lại hữu ấy gọi là tướng, đệ ấy là không. Dùng không tịch cho nên là đệ (thấp, sâu). Lại nữa hữu ấy có 2 biên tục, đệ ấy là biên tế trí mãn; cho nên nói là đệ. Nay kinh dùng hạ phương không làm đệ. Chẳng phải là thượng giới, chẳng phải là hạ giới. Biểu thị cho Trung Đạo là đệ. Điều nầy theo Ước (giáo) phân biệt v.v…

Đối với những kinh điển giải thích về chữ hạ là việc Thầy rõ Đệ Tử gồm trí đoạn lưỡng đức. Đầu tiên là cùng tu, trí đoạn; kế đến là cùng chứng, trí đoạn. Đối với kinh điển phân biệt là tu trí. Chánh thức nhớ nghĩ lại là tu đoạn. Chẳng vui ở chúng là chứng đoạn. Siêng hành tinh tấn là chứng trí. Từ đó chẳng nương vào người trời mà ở. Đây là giải thích về xứ vậy. Người, trời là nhị biên; chẳng trụ, chẳng dính mắc. Trí sâu vô ngại là nương vào trí bất tư nghì (chẳng thể nghĩ bàn). Vui nơi Phật Pháp là vui với cảnh bất tư nghì. Cảnh trí ấy thật vi tế, chẳng gần hành Bồ Tát.

Kệ 8 hàng rưỡi. Đầu tiên 5 hàng rưỡi tụng đáp cả 2 câu hỏi. Phía dưới 3 hàng tụng cả về việc giải thoát v.v…

Từ „lúc bấy giờ Ngải Di Lặc“ trở đi, nhơn nghi ngờ liền thỉnh; có trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại chia làm 2. Một là nghi, hai là thỉnh. Nghe bên trên rằng: ở dưới gốc cây Bồ Đề cùng giáo hóa và nay tất cả trụ ở bất thoái. Lại nghe ta từ xưa đến nay giáo hóa họ như vậy. Nghe 2 điều nầy rồi động chấp sanh nghi. Bạch Phật việc từ dưới nhảy lên nghi, nên lại thỉnh và chia làm 2. Một là pháp; hai là dụ. Pháp nói ấy có 3. Đầu tiên tức là bạch Phật trở đi. Một là nghi việc mới thành đạo mà chỗ giáo hóa thì nhiều. Chấp gần mà nghi xa vậy. Kế đến từ „Thế Tôn với các vị Bồ Tát nầy“ trở đi; phần thứ 2 là chỗ giáo hóa nhiều liền hành nhiều vị thâm diệu. Chấp xa mà nghi gần. Kế đến từ „Thế Tôn như việc nầy“ trở đi; phần thứ 3 cuối cùng là thưa thỉnh. Dụ nói có khai hợp. Khai ấy lại có 3. Tóc đen sắc đẹp dụ cho ý của việc thành đạo ở trên. Chỉ cho người trăm tuổi dụ cho ý chỗ hóa độ bên trên thật nhiều. Hoài Bắc quý Thầy dùng thí dụ để giải thích các dụ. Mắt của cha trở lại nhờ thuốc, dáng mạo giống như tuổi 25. Con chẳng dùng thuốc hình thù như trăm tuổi. Nếu rõ biết năng lực của thuốc chẳng nghi con, cha. Chẳng rõ điều nầy nên kinh sợ. Như Lai ngang qua dùng Thùy Tích làm thuốc, thị hiện nơi Già Gia khi bắt đầu sanh. Các Bồ Tát gặp luận về Bản Địa. Xa phát đạo tâm, nay trụ bất thối. Nếu Phật cùng Phật mau rõ biết việc nầy thì tự bên dưới chẳng thấu, chẳng được mà chẳng nghi. Việc nầy khó tin bên dưới nên kết về dụ nầy.

Đầu tiên hợp cận, dụ như câu văn. Từ „mà đại chúng nầy“ trở đi, hợp với dụ Xa. Quán sát điều nầy Bồ Tát từ lâu trồng các căn lành; chẳng phải dừng sự phát tâm ở Già Gia, lành nhập, xuất, trụ. Cửu thứ đệ định là thiện nhập. Sư Tử Phấn Tấn là thiện xuất. Siêu Việt là thiện trụ, ý của Thông (giáo) tạng vậy. Từ Sơ Địa đến Thập Địa gọi là Thiện Nhập. Thập Địa nhập vào trạng huyền môn; đến tu phạm hạnh phù sự gọi là Thiện xuất. Diệu Giác biến mãn gọi là Thiện Trụ, đây là ý của Biệt (giáo) vậy. Cứu cánh pháp tánh Tam Muội gọi là Thiện Nhập. Thủ Lăng Nghiêm gọi là Thiện Xuất. Vương Tam Muội gọi là Thiện Trụ. Đây là ý của Viên (giáo) vậy. Lần lượt tập các pháp lành. Đưa ra nguyên nhơn làm Thiện Tập. Cuối cùng cái quả là Thiện Nhập v.v…

Lành đáp câu hỏi khó là đầy đủ 2 việc trang nghiêm. Bảy phương tiện là tôn quý; cho nên nói là bảo. Ngày nay Thế Tôn vì bên dưới thỉnh cầu mà đáp. Lại có 3. Từ ngày nay trở đi cùng với lời Phật. Từ chúng ta trở đi; phần thứ 2 làm rõ cái ý thưa thỉnh; thỉnh ý ấy lại có 2. Một là hiện tại, ta tuy chưa đạt được mà tin là đã vậy rồi. Rồi từ „các vị Bồ Tát“ trở đi; phần thứ 2 vì vị lai, ít thực hành, vui sanh phỉ báng. Tân phát ý là sự hủy báng ấy rơi vào đường ác. Bất thoái là tuy tin, chẳng hủy báng, chẳng thể làm tăng trưởng đạo. Nếu vì phân biệt mà báng ấy liền sinh ra niềm tin thì tin ấy tức là tăng trưởng của đạo v.v…

Từ „tuy nhiên“ trở đi; phần thứ 3 là thỉnh đáp. Thỉnh đáp lại có 2. Đầu tiên trừ cái nghi của chúng ta và vị lai trở đi; phần thứ 2 trừ cái nghi của vị lai. Kệ ấy có 14 hàng, tụng bên trên về pháp dụ. 5 hàng tụng về việc thuyết pháp, 9 hàng tụng về việc nói thí dụ. Trong thuyết pháp ấy có 3. Hàng đầu tiên tụng về chấp gần. Kế đến từ „chư Phật Tử“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng 3 câu, tụng về nghi xa. Sau đó „nói những gì mà có thể“ trở đi; phần thứ 3 gồm 1 hàng 1 câu tụng hết lại phần thưa thỉnh. Trong thí dụ về tụng ấy đầu tiên 2 hàng tụng về khai dụ. Sau đó Đức Thế Tôn là như thế trở đi gồm 7 hàng, tụng về hợp dụ. Lại có 3. Tựu chung 2 câu đầu tụng về hợp gần. Kế đến từ „là các Bồ Tát cùng chí nguyện“ trở đi; phần thứ 2 gồm 3 hàng rưỡi tụng về hợp viễn. Sau đó từ „chúng ta nghe từ Phật“ trở đi; phần thứ 3 gồm 3 hàng tụng về hợp, thỉnh, đáp, v.v…

 

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú

Hết quyển thứ 9 (Phần trên)

 

Quyển thứ 9

(Phần sau)

Giải thích Phẩm Thọ Lượng

Đầu tiên xuất hiện sự giải thích khác.

Thầy Duệ ở lời tựa nói rằng: Thọ vô lượng

kiếp chưa đủ nên mới dùng sự giải thích việc lâu dài nầy. Phân thân vô số chẳng đủ, dùng sự khác nhau của thể nầy. Do vậy mà thọ lượng định cho việc nầy là không có số (gọi). Phân thân làm sáng tỏ điều nầy chẳng khác. Phổ Hiền hiển (thị) việc nầy không thành. Đa bảo làm sáng tỏ việc nầy chẳng mất vậy.

Đạo Lãng ở Hà Tây cho rằng: Làm sáng tỏ pháp thân chơn hóa chẳng sai khác tại chưa phải là lý thứ nhất. Đa Bảo hiện ra là chứng minh cho pháp thân thường tại. Thọ Lượng minh chứng cùng thái hư nhiều vô lượng.

Đạo Tràng Quan nói rằng: Đầu tiên là hội tụ 3 và quy về Nhứt Thừa. Cuối cùng là ảnh mất, lắng thần vậy.

Ảnh mất nghĩa là tức Tích. Từng thần, tức là làm sáng tỏ Bản. Cho nên Tích thì vô thường mà Bản là thường hằng.

Người chú thích nói rằng: Số (thời gian) không tồn tại và mất đi, gọi đó là Thọ. Ra khỏi sự tu, không hạn sự non yếu gọi là Lượng. Pháp thân không có hình tướng và năm tháng để nhiếp. Khiến cho Đại Sĩ tu thật thực tiễn trong việc chiếu sáng. Chẳng dùng việc ở Già Gia vì sự thành Phật đã 100 năm mà kỳ hạn được.

Trúc Đạo Sanh bảo rằng: Sắc thân nầy của Phật do ứng hiện mà có, không, có thật hình; mà hình ấy chẳng thật, há lại có Thọ sao ! Rồi thì hằng vạn hình hài đồng với xưa nay vốn chỉ là một. Cổ cũng lại là kim, mà kim cũng lại là cổ. Chẳng có thời gian, chẳng có không nơi chốn, chẳng tồn tại. Nếu có thời gian, chẳng có; có nơi chốn lại chẳng tồn tại. Đối với chúng sanh mà như vậy. Phật chẳng lại như thế. Đây là cực đàm trường thọ. Nói Già Gia là có. Già Gia có ấy là chẳng phải Già Gia. Già Gia lại chẳng phải. Chiều dài ấy riêng có sao ? Dài, ngắn, còn, mất; dài, ngắn hằng tồn tại sao ? Những bậc long tượng đời trước như hướng mà nói. Nhiều Ước (giáo) vô lượng làm sáng tỏ cho thường.

Người đời gần đây đa phần các vị Sư nói Thọ là Lượng pháp; trước quá khứ hằng sa; sau gấp bội số trên; chung quy hạn cực, mà làm sáng tỏ chỗ vô thường. Lại kẻ mê hoặc thì chấp vào phẩm ấy làm sáng tỏ Thọ Lượng. Lượng là vô thường thì cái nào tạo ra thường để giải thích. Nay vì đó mà giải đáp. Phẩm nầy gặp đạo là Thọ Lượng; chẳng phải con đường Thọ có Lượng; chẳng phải con đường Thọ không Lượng. Rồi tạo ra vô thường, kia tạo ra thường, giải thích điều nầy trở lại để làm gì ? Con vịt và trai tranh nhau, ta thừa điều tệ hại nầy mà nên giải cho đủ 4 loại. Nghĩa là thật có lượng mà nói là vô lượng. Di Đà là có. Thật vô lượng mà nói là Lượng. Như Phẩm nầy cùng với Kim Quang Minh là có. Thật vô lượng mà nói là Vô Lượng. Như Niết Bàn nói: Chỉ Phật với Phật mới là thọ vô lượng nầy. Thật có lượng mà nói là Lượng. Như 80 (tuổi) nói lên sự nhập diệt là có. Câu văn trong phẩm nầy có đầy đủ ở nghĩa nầy. Há có thể là một, mà chẳng phải là ba sao ? Hỏi rằng: Nếu thọ lượng làm sáng tỏ cho thường thì cùng với Niết Bàn lại khác cái gì vậy ? Nay ngược lại. Pháp Hoa nhất thừa cùng với Thắng Man nhứt thừa có gì khác nhau ? v.v…

Nếu phân biệt để đáp thì: Pháp Hoa lược nói, minh chứng cho thường. Niết Bàn nói rộng, chứng minh cho thường. Thắng Man vì một, làm sáng tỏ một ấy. Pháp Hoa gặp 3 làm sáng tỏ cho một v.v…

Hỏi rằng: Gần thành (đạo) là phương tiện. Xa thành (đạo) là chơn thật. Hoa Nghiêm tịch diệt đạo tràng. Đại Kinh siêu tiền 9 kiếp, đều thành phương tiện. Nếu mà Pháp Hoa khai diễn cảnh. Thường Bất Khinh nào lại gần ? Nên rõ ràng Pháp Hoa đã trở lại phương tiện. Nếu vậy thì gặp 3, trở lại một cảnh. Lại nên chẳng gặp 3 trở lại một chăng ? Nếu mà khai 3 hiển một thì chư Phật đạo đồng. Khai cận hiển viễn tất cả chư Phật đều giống nhau. Nếu mà chư Phật đồng như vậy thì chẳng riêng gì Đức Thích Ca. Nếu chỉ riêng Đức Thích Ca thì trưiớc nghĩa nầy không đúng sao ?

Đáp rằng: Do ta phương tiện; chư Phật lại cũng như vậy. Lại nữa chư Bồ Tát nghe Thọ Lượng thì phát nguyện. Nguyện ta đến đời vị lai nói Thọ cũng lại như vậy. Điều nầy tất cả chư Phật cùng giống nhau. Lại chẳng phải rộng nói một gần, một xa. Cho nên phải biết rằng: Không trước, không sau, không gần, không xa. Hiển pháp thân thường trụ. Có thỉ, có chung, có gần, có xa. Luận nầy hợp với Tích. Dùng nghĩa nầy vọng về các kinh; đối duyên tuy khác, mà chung lại chẳng khác gì. Rồi rõ các kinh. Các vị Thầy chẳng thể là một Thầy vậy.

Hỏi: Nghĩa chọn là thường có thể là vậy mà câu văn với ý gì lại giải rộng ra ?

Đáp: Việc làm sáng tỏ, quý ở lý nầy. Kẻ tăm tối chỉ cốt giữ câu văn, hằng tìm chú thích cho giống Tông (phái). Đây chính là ý chính của lời dạy. Cấu chấp, cặn bã thì hỏi chiếc cầu gì làm lợi ích. Lại nữa lời dạy chính làm duyên. Duyên khác và nói khác. Hoặc tùy theo sự vui mừng; tùy theo sự nghi; tùy theo sự giữ gìn; tùy theo sự ngộ. Ngộ ấy tức là đạt được rồi vậy. Cái nào lại là Bàn Đàn Thiên Bá để làm gì ? cho nên nói Nê Hoàn (Niết Bàn) chơn pháp bảo; chúng sanh có nhiều cửa để vào. Điều nầy là ý ấy vậy.

Lại nữa câu văn lại có nhiều ít. Niết Bàn đối với vị lai, thường trụ ấy làm Tông (Chỉ). Câu văn nầy tức là nhiều. Chẳng phải lấy quá khứ đã thành (Phật) lâu rồi làm Tông. Câu văn nầy tức là ít. Nếu theo nhiều thì bỏ ít; tức là ma nói, chẳng phải Phật nói. Kinh nầy dùng quá khứ thành Phật lâu rồi làm Tông chỉ. Điểm trần số giới, câu văn nầy lấy làm nhiều. Vị lai thường trụ, câu văn nầy lấy làm ít. Nếu từ nhiều bỏ ít như ban đầu phá, tạo ra 7 phần; giống như cành cây A Lê; giống như Thiên Tử ra lệnh; hoặc nhiều hoặc ít đều chẳng thể sai trái. Sai là bị tội. Phẩm Phương Tiện nói rằng: Tướng thế gian thì thường trụ. Ở nơi Đạo Tràng đã rõ rồi. Đạo Sư phương tiện nói. Câu văn nầy tức là vị lai thường trụ chẳng diệt. Lại nói rằng: Ta thường trụ đối với điều nầy. Lại nói là thường ở tại núi Linh Thứu và ngoài các trụ xứ khác nữa.

Phổ Hiền Quán nói rằng: Thường Ba La Mật là chỗ nhiếp thành nơi chốn. Ba La Mật của ta là chỗ an lập vậy. Như đây Thường (theo) câu văn lại là chẳng ít. Lại theo kinh nầy thì xứ xứ làm sáng tỏ pháp thân. Pháp thân ấy há chẳng thường sao ?

Hỏi: Có phải làm sáng tỏ pháp thân; nên luận về 3 đức chăng ?

Đáp: Quyền, thật nhị trí há chẳng phải là Bát Nhã. Ba đời thị hiện há chẳng phải là giải thoát ? Thật tướng bản địa tức là pháp thân. Tam đức làm sáng tỏ câu văn vì việc nầy vậy. Giải thích phẩm về Như Lai là 3 đời mười phương chư Phật, nhị Phật, tam Phật, Bản Phật, Tích Phật là thông hiệu vậy. Thọ lượng nghĩa là giải thích về lượng vậy. Giải thích về lượng trong mười phương ba đời, 2 Phật, 3 Phật, Bản Phật, Tích Phật là những công đức. Nay chính thức giải thích Lượng Bản Địa, 3 Phật công đức; cho nên nói Như Lai Thọ Lượng Phẩm. Nghĩa của Như Lai thật nhiều. Vả lại làm sáng tỏ 2, 3 Đức Như Lai; ngoài các thí dụ có thể giải thích được. Hai Đức Như Lai là, theo Thành Luận nói: Thừa Như thật đạo, Lai thành chánh giác; cho nên gọi là Như Lai (lên Đạo như thật để thành chánh giác). Thừa thị pháp như như trí, thật thị pháp như như cảnh. Đạo là nguyên nhân; giác là quả. Nếu đơn giản để luận về Thừa thì như chẳng rõ biết. Đơn giản để làm sáng tỏ cho thật thì như như chẳng thể rõ. Cảnh trí hòa hợp; tức là có nhơn quả. Chiếu cảnh chưa cùng; gọi đây là nguyên nhơn. Tận cùng của khởi nguyên là quả. Đạo giác nghĩa thành. Tức là thừa như thật, đạo lai thành chánh giác. Đây chính là chơn thân Như Lai vậy. Dùng như thật trí, thừa như thật đạo, lai sanh 3 cõi, thị hiện thành chánh giác tức là Ứng Thân của Như Lai vậy.

Tam Như Lai theo Đại Luận nói là: Như pháp, tương giải, như pháp tương thuyết; cho nên nói là Như Lai. Như ấy là pháp như như cảnh; chẳng nhơn chẳng quả. Có Phật, không Phật, tánh tướng thường nhiên; biến khắp các nơi mà chẳng có khác với Như. Bất động mà đến là Lai. Chỉ điều nầy là pháp thân của Như Lai vậy. Pháp như như trí. Thừa nơi như như chơn thật bảo là đạo Lai thành Diệu Giác. Trí xưng như lý. Từ lý gọi Như; từ trí gọi Lai. Tức là báo thân của Như Lai vậy. Cho nên luận rằng: Như pháp tướng mà giải; cho nên gọi là Như Lai, dùng như như cảnh trí để hợp lại. Tức là có thể nơi nơi thị hiện, thành chánh giác. Thủy ngân cùng vàng ròng có thể dát lên các tôn tượng. Công đức cùng với Pháp thân; nơi nơi ứng hiện ở.

Bát tướng thành đạo, chuyển diệu pháp luân; tức là ứng thân của Như Lai. Cho nên luận rằng: Như pháp tướng nói, cho nên gọi là Như Lai. Pháp thân của Như Lai gọi là Tỳ Lô Giá Na. Ở đây phiên âm là biến tất cả nơi. Báo thân của Như Lai gọi là Lô Xá Na. Ở đây phiên âm là Tịnh Mãn. Ứng Thân của Như Lai gọi là Thích Ca Văn. Ở đây dịch là Độ Ốc Tiêu. Đây chính là 3 Như Lai; nếu chấp giữ riêng lẻ; tức là chẳng thể được.

Đại Kinh nói rằng: Pháp thân chẳng phải là Bát Nhã, lại chẳng phải giải thoát, lại chẳng có. Ba pháp đầy đủ gọi bí mật tạng là Đại Niết Bàn; chẳng thể có một sự sai khác nào tung hoành chia riêng lẻ. Đầy đủ 3 pháp, xưng giả danh là Như Lai. Kinh Phạm Võng kết thành giáo học của Hoa Nghiêm. Đài hoa là gốc và lá là ngọn. Biệt ấy một duyên tạo như lời nói nầy; mà gốc, ngọn chẳng được rời xa nhau. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi kết thành Niết Bàn. Câu văn nói: Hoặc thấy Đức Thích Ca là Tỳ Lô Giá Na; hoặc làm Lô Xá Na. Che khuất phía trước, duyên thấy khác đi. Chẳng phải 3 Phật vậy. Phổ Hiền Quán kết thành Pháp Hoa. Câu văn nói rằng: Thích Ca Mâu Ni gọi là Tỳ Lô Giá Na; cho đến tên khác; chẳng phải là thể biệt. Đây là ý chung trong các kinh vậy. Nên biết rằng 3 thân Phật ấy chẳng phải khác một, làm sáng tỏ như vậy.

Hỏi: Phẩm nầy không có 3 tên gọi của Phật. Theo cái nào mà giải thích điều nầy như thế ?

Đáp: Tuy không nói mục tiêu, mà đầy đủ ở nghĩa nầy. Câu văn rằng: Phi như, phi dị; phi như 3 cõi, thấy nơi 3 cõi. Phi nầy biến như sự hiển bày nơi Viên Như; tức là nghĩa của Pháp thân Như Lai vậy. Lại nói rằng: Như Lai là tướng của như thật tri kiến trong 3 cõi. Tức là như như trí, xưng như như cảnh; tất cả chủng trí tri kiến; tức là Phật nhãn. Đây là nghĩa của Báo Thân Như Lai. Lại nói rằng: Hoặc thị hiện thân nầy việc nầy; hoặc thị hiện ở thân khác việc khác. Đây chính là nghĩa của ứng Thân Như Lai vậy. Nếu thường tánh được 3 Như Lai là chiều ngang. Nếu tu được 3 Như Lai tức là chiều dọc. Đầu tiên là pháp, kế đến là báo và sau cùng là ứng; lại cũng là chiều dọc. Nay kinh nói đầy đủ, chẳng ngang chẳng dọc, 3 Như Lai vậy. Chỉ ngang, dọc Như Lai, thường chẳng phải cái nghĩa ngày nay. Huống là 3 tạng thông giáo Như Lai sao ? Lại nước trước Pháp Hoa, lại làm sáng tỏ Viên Như Lai; giống với Tích nầy; ở trong ấy mà nói vậy. Phát Tích hiển Bổn 3 Như Lai. Vĩnh viễn khác với các kinh. Luận rằng: Thị hiện thành Đại Bồ Đề vô thượng. Thị hiện 3 loại Bồ Đề. Một là ứng hóa Bồ Đề; tùy theo nơi chốn mà ứng hiện.; tức là thị hiện. Như kinh giải thích việc Ngài ra khỏi cung điện. Hai là báo Phật Bồ Đề. Thập Địa đầy đủ được thường Niết Bàn. Như kinh nói: Ta thật thành Phật đến nay vô lượng vô biên kiếp rồi. Ba pháp Phật Bồ Đề. Nghĩa là Như Lai tạng tánh tịnh Niết Bàn chẳng thay đổi. Như kinh nói: Như Lai là tướng như thật tri kiến của 3 cõi. Trải qua đầy đủ ý nghĩa nầy, luận mới xuất hiện tên nầy. Chẳng lẽ tạo ra sự giải thích bên trên, há đúng với kinh luận sao ?

Kế tiếp là làm sáng tỏ Thọ Lượng. Thọ là ý nghĩa của thọ nhận. Chơn như chẳng cách ngăn với các pháp; cho nên gọi là thọ. Lại nữa cảnh trí tương ưng; cho nên nói là Thọ. Lại nữa một thời kỳ báo (thân) được 10 năm chẳng gián đoạn; cho nên nói là Thọ. Lượng được giải thích là lượng. Chữ Lượng tức là thông, không có nghĩa rộng riêng. Giải thích về lượng pháp Như Lai, dùng như lý làm mạng báo Như Lai, dùng trí tuệ làm mạng ứng Như Lai cùng duyên vào lý làm mệnh. Giải thích về lượng các mạng; hoặc có lượng, hoặc vô lượng, hoặc phi lượng, phi vô lượng. Pháp thân Như Lai như lý mạng. Có Phật, không Phật, tánh tướng thường nhiên. Bất luận tương ưng cùng chẳng tương tục; lại vô hữu lượng cùng vô lượng.

Câu văn giải thích rằng: Phi như phi dị, phi hư phi thật. Che đậy là sự giải thích về lượng, pháp thân như lý mạng vậy. Giải thích về lượng báo thân của Như Lai; dùng như như trí, khế hợp với như như cảnh. Cảnh ấy phát trí làm báo. Trí ấy minh cảnh làm thọ. Cảnh ấy lại vô lượng vô biên, thường trụ chẳng mất. Trí ấy lại như thị. To lớn vô cùng.

Câu văn lại nói rằng: Trí lực ta như vậy, dài tu nghiệp chỗ được. Huệ quang chiếu vô lượng. Thọ mệnh vô số kiếp. Đây là sự giải thích về lượng báo thân của Như Lai, trí huệ mạng. Giải thích về lượng ứng thân là: Ứng thân cùng với nhơn duyên. Duyên lâu dài giống với dài nhân duyên và duyên đầy đủ giống như sự đầy đủ v.v…

Tự kia đối với ta là như thế nào ? Kinh rằng: Số số hiện sanh, số số hiện diệt; hoặc lại tự nói; gọi là chữ chẳng giống với năm ghi nhận Đại, Tiểu. Điều nầy giải thích về Lượng Ứng Phật cùng với duyên mệnh vậy. Lại nữa pháp thân thì chẳng phải lượng và chẳng phải vô lượng. Báo thân Kim Cang trước có lượng. Kim Cang sau vô lượng. Ứng thân tùy duyên; tức là có lượng. Ứng dụng chẳng gián đoạn tức là vô lượng. Thông đồ giải thích là lượng 3 câu tại Thánh, một câu thuộc phàm. Hữu lượng vô thường, đều chẳng phải là nghĩa Phật. Xưa kia nói mà sự tăng giảm cả 2 phỉ báng thêm vào rồi vu cho Phật. Chẳng phải ma là cái gì ? Bốn câu giải thích lượng theo nghĩa nầy đã rõ rồi. Vì việc chưa giải thích, lại thường cùng với 4 câu liệu giản. Đầu tiên là biệt tác, kế đến là thông (giáo) tác. Biệt là phi thường, phi vô thường. Song phi lý cực; tức là pháp thân vậy. Thường ấy tức là báo thân. Báo trí cảnh hợp lại thường, phi vô thường. Hằng giả chánh trí viên mãn chẳng sanh, chẳng diệt. Qua khỏi Kim Cang tâm ở trước. Giữa thường là báo thân. Lại thường, lại vô thường là ứng thân. Ứng dụng vô tận lại là thường. Số xướng Niết Bàn gọi là vô thường. Vô thường ấy là Kim Cang tâm ở trước, trí dụng tăng tiến. Cho đến phàm phu sanh diệt, xuất một; tất cả đều là vô thường. Ba Phật mỗi mỗi một câu. Phàm phu cộng lại một câu. Điều nầy Ước (giáo) biệt giáo, phân biệt riêng. Thông Đồ Viên nói là mỗi một Đức Như Lai tất cả đủ 4 câu. Pháp 4 thân. Phi thường, phi vô thường. Song phá phàm thánh bát đảo. Thường là như hư không thường vậy. Vô thường là vô phàm phu tánh diệt đảo. Lại thường, lại vô thường. Tịch mà song chiếu. Báo thân 4 là phi thường, phi vô thường. Trí minh cảnh, thường là ra khỏi Nhị Thừa. Vô thường là vô sanh diệt đảo vậy. Lại thường, lại vô thường có thể song chiếu. Ứng thân 4 là phi thường, phi vô thường. Phi báo (thân) phi sanh tử vậy. Thường là thường, ứng giống nhau. Vô thường là giống với vô thường. Lại thường, lại vô thường. Cả 2 tồn tại. Phàm phu liền được vô thường một câu. Thông Đồ lại tạo ra 4 câu. Hằng có tánh, được nơi lý. Bên trên không 4 câu danh tự; huống là hành dụng sao ? Có thể lấy ý được, chẳng đợi nói vậy. Một thân tức là 3 thân; chẳng phải một, chẳng khác. Nên rõ rằng một thân Phật tức là đầy đủ thân thọ mạng công đức. Tùy duyên cảm thấy dài, ngắn chẳng giống nhau.

Đại Kinh nói rằng: Phàm phu Nhị Thừa thấy thọ mệnh Phật, giống như ngày của mùa Đông. Bồ Tát được thấy giống như ngày mùa Xuân. Còn Phật thấy Phật thọ mạng vô lượng giống như ngày mùa hạ. Sở dĩ như vậy vì phàm phu uế chướng, đất rộng mông lung. Tạng thông nhị thừa tuy đoạn tứ trụ, chẳng thấy Trung Đạo. Hoặc xả phần đoạn thọ pháp tánh, thân chưa phá vô minh. Đất kia chỗ phụng (sự) giống như Thắng Ứng. Nên rõ là Nhị Thừa chỉ thấy ngày của mùa Đông; hoặc các Bồ Tát chưa chẳng Địa Trụ; nên thấy giống như trước. Hoặc phá vô minh cho đến thọ phần pháp thân, mà cùng với lời nói được thấy báo thân thọ mạng. Đoạt mà vì lời nói; giống như Thắng Ứng; chưa cùng báo thân là khởi đầu. Chưa tận pháp tánh là cực. Chỗ thấy Phật thọ giống như là ngày của mùa Xuân. Chỉ Phật với Phật cùng tánh tận nguồn, thấy pháp thân thọ mạng giống như là ngày của mùa hạ. Đại kinh cùng với 3 dụ ấy làm thí dụ. Đối với các thường, trong ấy hư không là số một. Tất cả thọ mạng của Như Lai là số một. Thí dụ nầy về pháp thân thọ mạng thì vô thỉ, vô chung, tánh tướng trạm nhiên, chẳng giống với ứng và báo (thân) vậy. Hai là dụ cho 4 sông, tất cả đều quy về biển lớn. Dụ cho báo thân chỗ tu vạn điều lành tất cả đều cảm Phật, báo thọ mệnh như trong biển ấy. Ba là A Nậu Đạt, ao ấy phát xuất 4 con sông. Dụ nầy là dụ cho ứng thân thọ mệnh từ Pháp báo, cùng ra dài, ngắn kia.

Phẩm nầy giải thích về Lượng, Thông (giáo) làm sáng tỏ 3 thân. Nếu từ biệt (giáo) thì ý ấy chánh tại báo thân. Vì sao nghĩa ấy lại gặp nơi câu văn ? Nghĩa nầy là: Báo thân trí huệ, thượng minh hạ khế. Ba thân đầy đủ cho nên nói nghĩa nầy vậy. Gặp câu văn ấy là: Tu thành Phật cho đến nay thật là lâu xa. Cho nên có thể trong 3 đời làm lợi ích cho chúng sanh. Chỗ thành ấy là Pháp Thân. Hay thành tức là báo thân. Pháp thân hợp lại cho nên có thể làm lợi vật và nói là câu văn gặp nhau. Dùng điều nầy để giới thiệu ý chánh là luận về công đức của báo thân Phật vậy.

Lại nữa như 3 thân đầy đủ loại công đức. Tất cả là thời gian căn bản ở Đạo Tràng, dưới gốc cây, trước khi thành tựu lâu xa. Gọi đây là Bản. Khoảng giữa đó và ngày nay tịch diệt đạo tràng là chỗ thành tựu. Gọi đây là Tích. Các kinh đều nói về Bản, Tích; tức là tịch diệt đạo tràng; chỗ thành pháp, báo (thân) là Bản. Từ Bản, nơi ấy khởi lên được, yếu cả 2 ứng (thân) làm Tích. Nay trải qua nơi chốn, làm sáng tỏ, chấp giữ chỗ tịch (diệt) và ở khoảng giữa, chỗ thành tựu 3 thân. Tất cả gọi là Tích. Giữ vào Bản, ngày xưa ở nơi Đạo Tràng được 3 thân. Gọi đây là Bản. Cho nên cùng với các kinh có sai khác vậy. Không có Bản thì không dùng Thùy Tích. Phi Tích thì chẳng dùng để hiển Bản được. Bản, Tích riêng đặc thù, là một bất tư nghì. Theo ý của Thầy cầm bút thì Bản ấy ở tại Tịch Trường (nơi viên tịch).

Lại nữa Tịch Trường Bản Tích lại có nhiều loại; hoặc dùng Niết Bàn để làm Bản. Từ chơn khởi ứng (thân) làm Tích. Tích Bản cùng không, nói là Tư Song Đoạn. Cho nên đây là một bất tư nghì. Hoặc dùng tục làm Bản. Tứ tục khởi lên ứng (thân) làm Tích. Tích Bản sâu rộng, phần dưới đất chẳng thể nói nghĩ, bàn luận. Cho nên nói bất tư nghì là một. Hoặc dùng trung làm Bản. Từ trong khởi ứng (thân) làm Tích. Tích Bản đều ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Cho nên nói bất tư nghì là một. Lại nữa 3 điều nầy chẳng phải ba, lại chẳng phải một. Chẳng phải 3 chẳng phải 1, lấy đó làm Bản, mà 3 mà 1 làm Tích. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Bất tư nghì là một. Chẳng biết các vị Thầy chỉ cho nơi nào là Bản Tích, bất tư nghì là một. Nay nhiếp chấp tứ phiên. Tất cả là Tích trong bất tư nghì là một. Xa chỉ Bản Địa, tam phiên tứ phiên bất khả tư nghì. Dùng làm Bản nầy.

Từ mỗi Bản mà Thùy Tích. Do mỗi Tích mà hiển Bản. Bản Tích duy đặc thù, bất khả tư nghì một. Như đây thì Bản Tích nầy cái gì chẳng khác với các kinh ? Được gì, chẳng khác với các Sư ?

Hỏi rằng: Các kinh mỗi mỗi nói về vị hạnh; hoặc nhiều hoặc ít. Hoa Nghiêm 41 vị. Anh Lạc 52 vị. Danh nghĩa đều rộng. Kinh nầy đầu, cuối đều chẳng có việc nầy. Nói cái gì là khác biệt ?

Đáp rằng: Dụ như người đời tu các nghiệp, tập hợp đủ loại đồ quý, cầu đủ các vị. Nếu không thọ mạng thì dùng tài vị để làm.

Đại Kinh nói rằng: Giống như vị Trưởng Giả sinh ra và nuôi nấng đứa con một. Thầy tướng xem số và đoán là thọ mạng ngắn ngủi, chẳng còn bao lâu. Cha mẹ rõ biết điều nầy, chợt như cây cỏ. Pháp môn lại cũng vậy, hành đủ loại nguyên nhơn, rộng được các quả. Hiện ra các loại thông, hóa đủ loại chúng, nói đủ các loại pháp, độ đủ loại người. Tổng quát thì ở nơi biển thọ mạng của Như Lai. Trong biển ấy điều cần yếu là pháp tánh trí ứng. Duy Ma Mục Kê không khác với điều nầy sao? Rộng khai, hiểu gần, văn xa lại chia làm 2. Trước tiên là răn dạy tin tưởng, kế đến chính thức đáp lại. Phật chỉ dụ, luận khuyên các chúng, giữ lấy niềm tin.

Câu văn nầy lại có 3 sự giáo huấn, 3 lần thỉnh cầu, lại thỉnh, lại giáo huấn. Tích Môn 3 lần thỉnh, một lần giáo huấn. Trong nầy 4 lần thỉnh, 4 lần giáo huấn. Trước sau gom lại gồm 5 lần giáo huấn, 7 lần thỉnh cầu. Thật phải là việc đặc biệt mới siêng làm những việc như vậy. Thành ấy là trung thành; Đế ấy là thẩm thật. Chẳng dối lừa đối với vật, liền cho rằng chơn. Xưa kia 7 phương tiện tùy kia, ý ngữ chẳng bảo rằng thành thật. Nay thì tùy tự ý ngữ chỉ bày cho biết điều trọng yếu. Cho nên gọi là Thánh Đế. Bồ Tát lại phụng thành lời giáo huấn, chẳng kham bởi sự nghi ngờ. Nghe tất giữ lòng tin, tin nhận thành thật lời nói vậy. Chánh đáp có trường hàng kệ tụng, lại chia làm 2. Thuyết pháp dụ về pháp. Thuyết pháp ấy lại có 2. Một là 3 đời làm lợi ích các việc. Hai là tổng kết chẳng hư dối. Cận tình tuy thấy, hiện tại 80; chẳng rõ quá khứ, không thiếu vị lai, chẳng mất. Cho nên Ước (giáo) 3 đời khai gần hiểu xa. Như đây là sự lợi ích; chẳng phải riêng ta vậy. Chư Phật lại cũng như thế. Cho nên tổng kết chẳng hư vọng. Thuyết pháp nói ít về vị lại. Trong kệ dụ thì có nói nhiều v.v…

Quá khứ lợi ích vật, câu văn ấy lại có 2. Một là từ „Như Lai bí mật“ trở đi là cái tình (cảnh) xuất hiện sự chấp (nhận) gần gũi. Hai là từ „rồi thiện nam tử“ trở đi là phá gần hiểu xa. Đầu tiên lại có 3. Một là ra khỏi chỗ, mê pháp. Hai là ra khỏi, có thể mê chúng. Ba là ý nghĩa của việc ra khỏi xa chỗ mê. Bí mật ở đây là một thân tức là 3 thân; gọi là bí. Ba thân tức là một thân; gọi đây là mật. Lại nữa ngày xưa chỗ chẳng nói gọi là bí. Chỉ Phật tự rõ, gọi là mật. Thần thông lực là dùng cho 3 thân. Thần là cái lý mà thiên nhiên bất động. Tức là thân pháp tánh vậy. Thông tức là vô ủng (không lấp), bất khả tư nghì. Tức là báo thân vậy. Lực ấy là căn bản cốt cán dùng tự tại. Tức là ứng thân. Phật ở trong 3 đời đều có 3 thân. Đối với trong những lời dạy bí mật ấy chẳng truyền. Cho nên tất cả thế gian trời, người, Tu La biết nay Phật đầu tiên là ở nơi gốc cây, rồi được 3 thân. Cho nên chấp vào gần mà lại nghi xa. Trong Bản nầy nói chẳng nói lại cùng với Nhị Thừa mà hay đối với Bồ Tát. Bồ Tát nhiếp ở Trời, người, Tu La và trong 3 đường lành. Ngoại trừ 3 cõi ác, tội dày, căn độn, ít trí. Chẳng rõ việc làm và ý nghĩa nầy cho nên Đại Phẩm hằng nói Ma Ha Diễn ra khỏi thiên, nhơn, Tu La; lại chẳng nói nơi tam đồ vậy.

Bồ Tát có 3 loại: Hạ phương, tha phương, cựu trụ. Hạ phương tức là trong ngày giáo hóa; cho nên chẳng chấp về nghĩa gần. Tha phương, cựu trụ đều có 2 loại. Một là từ pháp thân ứng sanh. Qua đời, được trước tiên là vô sanh. Hoặc trước đây nghe, phát Tích hiển Bản. Giả thử chưa được nghe, khi báo (thân) hết, thọ pháp tánh thân. Đối với pháp thân địa, tự ứng, được nghe nói lâu dài; cho nên ứng sanh vào Bồ Tát. Đa phần không chấp ý nghĩa gần. Hai là nay sanh, bắt đầu được vô sanh nhẫn. Cùng với chưa được, kể cả có trong ý nghĩa nầy.

Từ „Rồi thiện nam tử, ta thật từ khi thành Phật đến nay“ trở đi; phần thứ 2 phá chấp trừ mê, dùng sự hiển bày lâu dài làm Bản. Câu văn bên trên là lời giáo huấn với chơn lý thành thật; tức là điều nầy. Tựu chung việc nầy lại có 2. Một là hiển viễn; hai là từ „chính mình và từ đây đến“ trở đi; làm sáng tỏ quá khứ ích vật được tuyên dương. Tựu chung phần đầu lại có 2. Một là nói pháp hiển viễn; hai là đưa ra lời thí dụ, cách lượng nói pháp. Thành Phật đến nay đã thật lâu xa rồi. Già Gia gần nghĩa là phá. Phá gần hiển xa, lược có 10 ý; như nghĩa đen của câu văn vậy v.v…

Câu văn nầy chính thức dùng để phá gần hiển xa; phá gần nghĩa là tình phế cận, hiển viễn. Phế đối với việc giáo hóa gần. Trong thí dụ nầy lại chia làm 3. Một là đưa ra thí dụ để hỏi. Hai là đáp. Ba là cùng hiển, cho ra trường viễn. Ngoài ra kinh, hoặc làm sáng tỏ số bất khả thuyết, lấy trần sa làm thí dụ. Rồi ở đây, điều nầy tức là nhiều. Ngày ở phía dưới, trần ấy là điểm bị ở cõi nầy, khó thể nói. Hà huống là chẳng phải trần, há có thể nói sao. Hạ trần, chẳng hạ trần giới, thường cũng khó thể nói. Hạ trần, bất hạ trần; trần ấy há có thể nói sao? Huống là lại quá rồi, há có thể nói sao? Trong sự đáp lại phần thứ 2 của Ngài Di Lặc đưa ra 3 người chẳng rõ. Hợp dụ như câu văn.

Từ „chính mình, từ đây“ trở đi làm sáng tỏ ích vật sở tuyên ấy lại có 3. Một là ích vật xứ. Hai là đưa ra nghi về Tích bên trên. Ba là từ „nếu có chúng sanh đến tận nơi ta“ trở đi, chính thức làm sáng tỏ ích vật sở nghi. Nên hiển xứ. Bên trên dẫn dụ thật xa xôi lâu dài về chỗ ở nào. Cho nên hay tại nơi đất nước nầy và ở quốc độ kia mà làm Phật sự như câu văn. Đối với khoảng giữa ấy, phải qua cái chấp và nghi về Tích bên trên. Nghi nhơn và nghi quả. Xưa kia dạy về chỗ nói xứ xứ hành nhơn. Lại nữa nơi nơi được ghi nhận; tức là quả nghi. Nay phải trừ đi điều nghi nầy. Chỉ cho Phật Nhiên Đăng; tức là tẩy đi cái nguyên nhân nghi ngờ vậy. Lại nữa nói điều nầy nhập vào Niết Bàn, tức là tẩy đi cái quả nghi. Như vậy thì nhơn quả nầy chẳng phải là một điều. Tất cả ta đều phương tiện; chẳng phải nói thật cho nên nói là chẳng nghi. Hoặc có người nói rằng: Phương tiện nói Nhiên Đăng Phật là Thầy của ta, mà sự thật là Thích Ca trong hiện tại tạo tác. Chẳng sanh, hiện sanh; chẳng diệt, hiện diệt. Cho nên nói Niết Bàn nầy. Nay nghĩa ấy chẳng hư vậy. Hay giữ lối giải thích trước. Cớ gì mà Nhiên Đăng Phật lúc ấy nhơn duyên thuần thục, dùng Phật tượng để giáo hóa? Ta duyên chưa thuần thục, hằng vì Bồ Tát, từ Phật được thọ ký cho. Được thọ ký tức là được nghĩa của quả. Hành hành tức là nhơn. Tiêu văn tự túc. Lời nói nầy tức là trung gian thí cho sự giáo hóa nầy. Chẳng phải nghĩa Nhiên Đăng vậy.

Lại nữa ở khoảng thời gian giữa ấy ích lợi cho các vật tức là có hình (tướng) và (âm) thanh, cả 2 đều lợi ích. Nếu nói ngay về Phật Nhiên Đăng thì ở đây có hình tướng lợi ích. Lại nữa nếu nói vị nầy đã nhập Niết Bàn rồi thì vị Phật kia sau khi diệt độ, giúp Phật tuyên dương giáo hóa; tức là có sự lợi ích của âm thanh. Nếu như vậy thì hình tướng và âm thanh cả 2 đều lợi ích. Tất cả đều thuộc về nguyên nhơn của thời gian khoảng giữa vậy. Lại có hình tướng và âm thanh phát sanh. Sanh ấy tất có tử; tử ấy tức có vào Niết Bàn. Gọi đây là quả vậy. Chẳng được nói là ở khoảng giữa ấy thành Phật quả rồi. Sao lại trước đó Pháp Hoa chưa được nói, cho đến khi thành Phật. Sao lại được nghi ngờ với Phật quả ấy ? Xưa dùng đến Nhiên Đăng thì ta là đang thực hiện trong hiện tại. Điều nầy lại chẳng giải thích. Pháp Hoa là kinh trước, chưa luận là lúc xưa dùng để thành Phật. Với lời dạy gì mà nói Nhiên Đăng là ta trong hiện tại ? mà khởi lên sự nghi nầy?

Từ „nếu có chúng sanh đến nơi ta“ trở đi; phần thứ 3 chính thức làm sáng tỏ sự lợi ích cho muôn vật; chỗ có thể tuyên xưng. Lại chia ra làm 2. Một là cảm ứng; hai là thí hóa. Cho đến nơi ta nghĩa là trong quá khứ, chúng sanh căn cơ gồm cả 2 là tiệm và đốn. Minh khấu (giữ lại) pháp thân. Còn Phật nhãn quán nghĩa là lâu xa đã thành Phật rồi. Dùng con mắt của Phật để quán chiếu thì chẳng có cái gì sai biệt cả. Rồi từ đó muốn khởi lên chỗ yếu, hơn cả 2 đều ứng hợp với sự lợi ích. Phàm là căn cơ lành, lại có 2 sức mạnh. Một là cảm nhơn thiên hoa báo. Hai là cảm Phật đạo quả báo. Nếu dùng pháp nhãn để xem thì rõ biết vạn điều nhơn duyên lành là do nặng, nhẹ; mỗi mỗi đều được hoa báo. Chẳng thể cứu cánh rõ biết điều nầy cuối cùng được chủng trí quả báo. Nếu dùng Phật nhãn viên chiếu vạn thiện, rõ biết đầu đuôi của việc nầy. Kinh nầy một hướng làm sáng tỏ Phật nhãn quan sát rõ biết chúng sanh vạn thiện cứu cánh được làm Phật. Đây là ý chánh của việc lớn khi xuất thế vậy.

Tín đẳng chư căn tức là tín cùng với 5 căn. Huệ căn tín là liễu nhơn. Dư căn tức là duyên nhơn. Hai căn lành nầy mỗi mỗi có lợi độn; thống nhiếp đốn tiệm cơ duyên. Đốn cơ lợi độn tức là viên, biệt căn cơ. Tiệm cơ lợi độn tức là Tạng, thông cơ duyên. Lại nữa căn cơ Tiểu Thừa gọi là độn. Căn cơ Đại Thừa gọi là lợi. Lại nữa Tiểu Thừa căn gọi là lợi. Nhơn thiên thừa gọi là độn. Thập pháp giới chúng sanh đều có căn cơ của căn lành lợi độn. Chẳng dùng ác pháp. Ác pháp chẳng duyên liễu 2 nguyên nhơn vậy. Như Lai tất chiếu 10 cõi thiện cơ. Tùy chỗ ứng hiện mà độ, rồi hiện hình, âm thinh để làm lợi ích vậy.

Từ „xứ xứ tự nói“ trở đi, chính thức làm sáng tỏ sự ứng, hóa chỗ tuyên bày lại có 2. Trước tiên là hình tướng, âm thinh lợi ích. Kế đến là được lợi ích, hoay hỷ. Phần trước về hình tướng, lợi ích lại có 2. Đầu tiên là làm sáng tỏ chẳng sanh, hiện sanh. Kế đến là chẳng diệt, hiện diệt. Tự nói gọi chữ ấy chẳng giống nhau. Hình ấy liền hiện ra gọi là chủ nguyên nhơn; nói đây là giới thiệu về thể. Căn cơ ấy có mạnh, yếu; hình ấy chẳng có hơn kém. Hình ấy khác cho nên gọi là chẳng giống nhau. Tuổi tác lớn, nhỏ tức là hình thức hơn, kém. Hơn ấy tức là thắng ứng. Kém ấy tức là liệt ứng. Gọi chẳng giống nhau tức là 2 vị Phật hiện ra tuổi thọ có lượng và vô lượng. Xứ xứ – luận bề cao ấy tức thuộc về các nơi trong quá khứ, về hành nhơn quốc độ vậy. Luận về chiều ngang tức là 10 phương quốc độ. Gọi chữ giống nhau; Ước (giáo) nói là nơi chiều cao.

Lại có sanh pháp; gọi chữ ấy chẳng giống nhau. Như nay ứng thân nghĩ về quá khứ Nhiên Đăng Phật, Ước (giáo) nói quốc độ ngang lại có sanh pháp là tên chữ. Như ngày nay vọng nói về phân thân. Lại như Pháp Hoa 10 hiệu, trong ấy liệt kê Đức Thích Ca khác nhau; nên gọi đây là chẳng giống nhau.

Lại nữa các kinh giải thích rằng: Phật có 3 thân; tên gọi chẳng giống nhau. Cho nên giới thiệu về pháp thể tất cả đều khác. Hoặc nói Tỳ Na hay Xá Na hoặc Thích Ca. Pháp thân Phật hoặc gọi là Như Như thật tướng, đệ nhất nghĩa Bát Nhã Lăng Nghiêm cùng sánh với điều nầy. Điều nầy Ước (giáo) cho rằng thị hiện Phật pháp giới thân; gọi chữ không giống nhau. Hoặc hiện 9 pháp giới thân; gọi chữ chẳng giống nhau; tức là vô lượng vô biên có thể dùng ý để được.

Niên kỷ đại tiểu tức là điều nầy làm sáng tỏ thọ mệnh dài, ngắn. Tùy theo bên trên, chỗ hiện ứng thân; hoặc nói thọ (lượng) 2 vạn (tuổi). Như thời Phật Ca Diếp; hoặc nói lúc tuổi thọ 8 vạn tuổi. Như thời Đức Phật Di Lặc, truyền cho nhau và làm sáng tỏ chỗ Đại, Tiểu; ngang, dọc có thể biết. Tựu chung về pháp, báo, ứng Phật thọ mệnh lớn, nhỏ. Như nghĩa đen v.v… Hoặc 3 thân cùng vọng đến biện luận về lớn, nhỏ. Hoặc 3 thân mỗi mỗi riêng biệt đều là Tiểu. Hợp lại nói gọi là Đại. Thí dụ 3 sự hiến cúng v.v… Đây tất cả đều tùy chỗ ứng độ, làm sự hiện thân nầy cùng với đời sống dài, ngắn.

Lại nữa hiện ra lời nói, sẽ vào Niết Bàn. Ứng dĩ diệt độ mà được độ tức là hiện diệt độ vậy. Nay ở đây mến ngưỡng mà được giải thoát. Ý nghĩa nầy hiện ra, dụ nói trong ấy. Lại dùng đủ loại phương tiện, nói pháp vi diệu. Tức là hiện ra tiếng nói làm lợi ích. Tiểu thân đoản thọ nghĩa là lời nói nầy đối với tiệm giáo. Cho nói là đủ các loại phương tiện. Đại thân trường thọ tức là nói đốn giáo; cho nên nói vi diệu pháp. Duy ban đầu dùng tiệm mà cuối cùng làm cho nhập vào Đại. Cho nên nói tất cả làm cho được hoan hỷ. Nhưng việc hoan hỷ nầy tức là thí hóa được ích lợi. Phật nương vào tứ tất đàn (thành tựu) thí hình hài, âm thanh; cả 2 sự lợi ích chúng sanh, rộng nơi 4 điều lợi. Xưng cơ tức là vui; trái lại với cơ, tức là não.

Câu văn bên dưới nói rằng: Tất cả thật chẳng hư; tức là ở ý nghĩa nầy. Từ „các Thiện Nam Tử, Như Lai thấy các chúng sanh“ trở đi; là hiện tại Sư Tử Phấn Tấn lợi vật. Tam Muội nầy có 10 công đức.

Một là phân biệt tha nhân, các căn thuần thục; thanh tịnh, chẳng thanh tịnh.

Hai là dùng Như Lai pháp luân, giáo hóa cho kẻ chưa độ, đều được vào nơi pháp luật.

Ba là lời thệ nguyện rộng khắp 10 phương, âm thanh lại cũng như thế. Hoặc một âm, biến khắp cả; trăm ngàn vạn ạm; tất cả lại biến mãn, phổ độ giáo hóa các chúng sanh.

Bốn là chuyển vô thượng pháp luân, giáo hóa cho các chúng sanh; tất cả đều giữ việc diệt độ. Ngoài con người chẳng thể chuyển; riêng Phật có thể chuyển.

Năm là có thể chỉ bày xuất gia, thế phát, trì giữ tịnh giới. Hoặc có thể làm cho người vui.

Sáu là tánh, hành hợp không.

Bảy là phóng quang thị hiện sự diệt độ; hoặc còn, hoặc mất. Tướng tốt hoặc ẩn hoặc tốt.

Tám là hàng phục tứ ma.

Chín là làm cho kia được vào đến chỗ quan yếu, tăng trưởng chỉ quán.

Mười là bên trên lấy thập thiện làm căn bản. Thân 3, miệng 4 v.v…

Câu văn nầy lại chia ra làm 2. Một là làm sáng tỏ cơ cảm; hai là làm sáng tỏ ứng hóa. Như Lai thấy tức là Phật nhãn chiếu soi. Chúng sanh vui pháp nhỏ, là chỗ thấy căn cơ vậy. Hoa Nghiêm nói rằng: Đại chúng tuy thanh tịnh, kỳ dư vui với pháp nhỏ. Hoặc sanh nghi, hối tiếc đêm dài buồn lo. Thương điều nầy cho nên mặc nhiên. Kệ rằng: Kỳ dư chẳng cửu hành, trí tuệ chưa làm sáng tỏ; nương vào thức, chẳng nương vào trí. Nghe rồi sanh lo rầu. Việc kia rơi vào đường ác; nhớ việc nầy cho nên chẳng nói, đưa ra kinh kia, không Thanh Văn Nhị Thừa, hằng chỉ chẳng hành lâu dài. Vì người vui với pháp nhỏ. Thầy bảo rằng: Vui với pháp nhỏ là chẳng phải người nhỏ, mà là vui gần; cho nên nói là nhỏ vậy.

Nay sẽ nói qua Thông (giáo). Chỗ nói tức là bần, ái 25 hữu; tức là căn cơ của trời, người. Lại đến chỗ ta; gọi là pháp nhỏ. Tham vui Niết Bàn, cầu tự giải thoát; tức là căn cơ Nhị Thừa, đến với chỗ ta. Lại gọi là vui với pháp nhỏ. Vui nơi tiệm; rồi lần lần hướng đến Phật đạo. Tức là 3 cơ duyên của Bồ Tát, lại đến nơi ta. Lại có tên là vui với pháp nhỏ. Đức bạc ở đây là duyên cùng với 2 điều lành mà công dụng thật yếu kém.

Câu văn bên dưới nói rằng: Các con ấu trĩ, dơ bẩn nhiều; kiến, tư (hoặc) chưa trừ.

Hỏi: Chưa sanh, hiện sanh; bị thí đốn, tiệm 2 sự giáo hóa, bảy phương tiện có thể vui với pháp nhỏ. Viên, đến phó cơ là ứng vui với Đại pháp. Vì sao Thông (giáo) lại phê phán việc vui với pháp nhỏ nầy ?

Đáp: Hướng đến lược bớt ý nầy; nay thì giải thích rộng ra. Phàm vì 4 nghĩa:

Một là theo Ước (giáo) ngày qua. Tuy phát tâm lớn mà chẳng thể chuyên cần, tinh tấn; tham trước nhiều, tệ dục, chẳng ra khỏi cuộc đời. Gọi tệ dục là pháp nhỏ.

Hai là theo Ước (giáo) hiện tại, như Phật chưa ra đời, chư thiên và loài người có cơ duyên lớn, mà tâm nhiễm đời, vui trước với tà kiến; cho nên nói là vui với pháp nhỏ. Đây là 2 ý nghĩa cùng với thí dụ bên dưới giống với ý uyển chuyển so với đất.

Ba là theo Ước (giáo) tu hành, tuy chẳng vui đối với 3 cõi, tệ dục nơi pháp nhỏ, mà vui với Tam Thừa, hôi đoạn; lại có tên là pháp nhỏ. Tuy chẳng vui đối với Tam Thừa cận quả, mà vui trải qua riêng tu đối với nhất thừa. Chẳng thể đối với một tâm viên, đốn phổ tu; cho nên nói là vui với nhỏ. Đây là 3 ý của ước nhơn môn, làm sáng tỏ niềm vui với pháp nhỏ.

Bốn là Ước (giáo) quả môn. Vui nghe gần, thành nhỏ. Ra khỏi cung dòng họ Thích, đầu tiên được Bồ Đề, chẳng muốn vui nghe dài lâu, con đường dài lớn; cho nên nói là vui với nhỏ. Những điều nầy là tâm nhỏ; chẳng phải bắt đầu ngày hôm nay. Nếu trước tiên vui với lớn của Phật; tức là chẳng nói khởi đầu thành. Nói khởi đầu thành, tất cả đều vui với pháp nhỏ.

Từ „vì người nầy nói“ trở đi; phần thứ 2 hiện tại ứng hóa lại chia ra làm 2. Một là phi sanh hiện sanh. Hai là phi diệt hiện diệt. Hiện sanh lại có 2. Một là hiện sanh; hai là lợi ích. Hiện sanh lại có 2. Một là hiện sanh; hai là phi sanh. Hiện sanh chính là Tích hiện nơi sanh. Phi sanh tức là phi thỉ nhĩ sanh. Vì người nầy nói ta đầu tiên được Bồ Đề. Phía trước đã làm sáng tỏ lợi độn, 2 căn cơ đến cảm pháp thân. Nay tức là hiện cao thấp, cả 2 ứng hiện. Liệt ứng ứng độn căn. Thắng ứng ứng lợi căn. Hai điều nầy cùng với hữu sanh pháp hai thân sanh. Liệt ứng nhị thân sanh là dùng chánh huệ để gá vào thai. Khi sanh ra đi bảy bước. Như Ca Chiên Diên Tử đã thuật lại. Cho đến 6 năm khổ hạnh đã trải qua. Đây gọi là sanh thân sanh vậy. Pháp thân sanh tức là 34 tâm đoạn kết, tập tận. Chứng được 5 phần pháp thân. Thắng ứng sanh thân sanh như kinh lớn Hoa Nghiêm đã nói. Cùng với các Bồ Tát xứ; ở nơi thai tạng của Ma Gia hay nói Đại Thừa. Ra khỏi 10 phương, mỗi mỗi 7 bước. Đây gọi là sanh thân sanh; pháp thân sanh là đối với tịch diệt đạo tràng, Kim Cang hậu tâm, đoạn vô minh tận. Được Diệu Giác tương ưng, huệ cùng chiếu pháp tánh. Vạn đức đủ loại trí viên minh phổ bị. Đây gọi là pháp thân sanh. Xuất gia là ra khỏi gia đình thuộc phần yếu kém. Hơn việc nầy là ra khỏi nhà chết. Được Bồ Đề là liệt ứng được có tạo Tứ Đế; chỗ phát vô lậu, tận vô sanh trí. Gọi đây là Bồ Đề. Thắng ứng tức là chiếu Tam Đế, con đường của một sự thật. Tất cả các loại trí, làm Bồ Đề.

Từ „mà tu thật thành“ trở đi; làm sáng tỏ bản thật chẳng sanh. Nhưng trời, người, Tu la thấy 2 loại nầy sanh, pháp 2 thân; nghĩa là nói bắt đầu sanh. Đây chẳng phải như vậy. Mà ta đã từ lâu đã được sanh, pháp 2 thân rồi. Ngày nay sanh nhưng chẳng thật sanh. Cho nên nói lâu xa như vậy. Nhược tư nghĩa là như thí dụ bên trên đã có từ lâu.

Từ „hằng dùng phương tiện“ trở đi là làm sáng tỏ chỗ chẳng thật sanh, vì sao mà hiện sanh làm lợi lạc pháp nhỏ; người đức mỏng, cấu dày khiến cho được Phật đạo? Cho nên nói là hằng dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Nói như thế nầy. Phi sanh mà hiện sanh; cho nên nói như vậy đó. Ngoài ra kinh điển phá liệt ứng sanh thân, sanh phi thân, mà chẳng phá liệt ứng pháp thân, sanh phi sanh. Nay kinh chính thức phá thắng ứng pháp thân, sanh phi sanh. Vì sao?

Ta thật ra thành Phật đến nay đã lâu xa rồi. Cho nên rõ rằng ngày hôm nay liệt thắng 2 pháp thân sanh tất cả đều bị phá; cho nên sanh phi sanh. Cùng với những kinh khác vĩnh viễn sai khác.

Từ „Như Lai sở diễn“ trở đi; phần thứ 2 làm sáng tỏ hiện sanh hình tướng, âm thanh lợi ích. Trước tiên làm sáng tỏ hình tướng, âm thanh. Kế đến làm sáng tỏ chẳng hư ngụy. Nói tức là dạy bằng âm thanh; thị tức là hình hài hiện ra. Hình và âm thanh chẳng ra khỏi ở đây và kia. Nếu nói pháp thân là thân nầy. Nếu nói ứng thân là nói thân kia. Nói ích lợi là ngay với Phật Nhiên Đăng. Tức là nói thân nầy. Nhiên Đăng là Thầy ta; nên nói là thân kia. Thị hiện chánh, báo là chính việc nầy. Thị hiện y báo là thị hiện việc kia. Tùy nơi ý kia mà nói là thân kia. Tùy theo lời nói mà nói là thân nầy. Việc thị hiện đây, kia, lại những loại như thế nầy. Những gì đã nói tất cả là chơn thật, chẳng hư. Lại có hai. Trước tiên là làm sáng tỏ chẳng hư ngụy; kế đến là giải thích chẳng hư ngụy. Đầu tiên làm rộng ra sự lợi ích của âm thanh, giải thích việc chẳng hư vọng; tức là đồng giải thích chẳng hư vọng. Đầu tiên chẳng hư vọng là tiệm, đốn 2 căn cơ bẩm 2 loại hình hài, âm thanh nầy tất cả đều lợi ích, chẳng hư vọng. Bên trên, chương trước đã làm sáng tỏ; tất cả đều hoan hỷ; giống như sự lợi ích của thế giới. Nay làm sáng tỏ tất cả chẳng hư ngụy. Thắng, liệt, hình, thinh đều hòa hợp đối với 2 cơ duyên. Làm rộng Tứ Tất Đàn; tất cả đều chẳng hư vọng.

Đại Luận làm sáng tỏ Tứ Tất Đàn (thành tựu) đều là thật. Thế giới do đó thật. Đối trị vì người; cho nên thật. Thuần nhất mà thuận về ba. Đó là thế gian thật thì thật nầy tức là hư ngụy. Duyên vào trong ấy lại có thế gian 3 thật; phần nghĩa thứ nhất tức là ngụy. Nếu dùng sự hư ngụy về thật nầy thì Ước (giáo) Bản ấy hai môn; tiệm, đốn lợi ích là hư thật. Ngày xưa phương tiện thực hành chưa được sự lợi ích của thật đạo. Đây là nguyên nhân của hư ngụy. Chấp vào nơi cận Tích, chưa được Bản địa, lợi ích chơn thật; tức là quả hư ngụy. Nay nghe nói về Tích môn giống nhập vào thật tướng; tức là được nguyên nhân trong sự thật lợi ích. Nghe nói về Bản môn; tức là trừ chấp vào tình gần, được ở nơi quả địa dài lâu về sự thật lợi ích. Nay được 2 đối lại với xưa, 2 hư ngụy Ước, Viên (giáo) đốn chúng sanh. Đối với Tích Bản 2 môn; một thật, một hư, được thực hành Trung Đạo. Đây được gọi là sự thật lợi ích trong nguyên nhân mà chấp vào quả gần, là đối với quả hư vọng. Nay nghe nói nguyên nhân liền chẳng riêng biệt, được chơn thật lợi ích. Nghe nói quả xa, tức được thật quả lợi ích. Ngày xưa có một hư ngụy; nay được một sự thật. Cho nên nói tất cả thật chẳng hư vậy.

Hỏi: Xưa nay Đại Thừa hay hiển thật tướng; trước sau ngộ, là việc ứng hiện ấy có khắc chăng ?

Đáp: Đầu tiên nhập, kế đến nhập; cho đến phá bỏ thảo am, thông nhập vào Trung Đạo. Hằng nhập, có tiệm, đốn; cho nên phân làm 2 lời dạy. Thí dụ như nhập chơn đế. Đốn là nương tựa vào chiếc pháp vô thường để quán. Lợi là dùng thể pháp không để quán. Cho nên phân tạng, thông vậy.

Từ „vì sao Đức Như Lai như thật tri kiến“ trở đi; phần thứ 2 có tổng quát giải thích lợi ích của vật, chẳng hư ngụy. Đầu tiên giải thích về hình hài và sự lợi ích; sau đó giải thích về sự lợi ích chẳng hư ngụy. Ở trong nầy 6 câu hiểu nơi ứng thân chẳng lìa pháp thân. Pháp thân vô hình lại chẳng khởi diệt. Chúng sanh có khởi diệt là cơ cảm đối với pháp thân. Như Lai nguyện lực ứng đồng khởi diệt. Khởi diệt là sự thấy xuất hiện nơi tự chúng sanh. Cho nên Ước (giáo) 3 cõi dùng sự làm sáng tỏ các câu văn. Lại chia ra làm 2. Một là chiếu lý, chẳng hư ngụy. Hai là từ „dĩ chư chúng sanh“ trở đi, làm sáng tỏ xưng cơ chăng hư. Đạt được lý, xưng cơ, giải thử giáo hóa vật, tất chẳng phải hư dối vậy. Như thật tri kiến tức là thật lý. Như lý mà chiếu 3 cõi là thật. Thật tức là chẳng 3 cõi là cái tướng của nguyên nhân chẳng có sanh tử; chẳng có 2 lần chết khổ. Khởi tập khởi là thoái. Vô thường quả hiện gọi là xuất. Lại chẳng tại sanh tử ở đời và chẳng diệt khi nhập Niết Bàn.

Đây là 2 điều đầy đủ diệt; cho nên nói là chẳng tại thế gian và diệt độ. Chẳng phải đối với diệt độ là thật. Chẳng phải nơi sanh tử là hư; cho nên nói phi thật, phi hư vậy. Phi đối với thế gian là cách dị (ngăn cách, dị biệt); chẳng phải đối với xuất thế là chơn như. Cho nên nói rằng: Phi như, phi dị. Bốn điều nầy làm sáng tỏ Trung Đạo. Nếu cả 2 chẳng nhị biên, kết cú định biên. Giống như thí dụ chẳng sanh, chẳng tử. Kết cuộc là sanh là sanh, tử kết cuộc là tử. Là thoái là xuất, kết cấu là thoái, chẳng thoái, chẳng xuất; kết cấu là xuất, chẳng hư chẳng thật; kết cấu là thật, là hư là thật, kết cấu là hư. Như đây là lưu (chuyển) mà nay tất cả đều không. Cho đến đơn, đôi đều đầy đủ lại không. Rồi mới hiểu ý Trung Đạo.

Chẳng như 3 cõi, thấy nơi 3 cõi. Chẳng như 2 loại 3 cõi chúng sanh, chỗ thấy tướng của 3 cõi. Duy nhất chỉ Phật một mình như thật cùng chiếu 3 cõi là thật. Bên trong đầy đủ dụng của thật trí, lại là tùy tự nơi ý nghĩ lời nói. Lại là hoặc nói việc của thân nầy.

Cho nên Đại Phẩm nói rằng: Trong đệ nhất nghĩa chẳng có chỗ phân biệt. Như Lai quyền trí như lượng. Trí kiến 3 cõi là tướng. Tức là như 3 cõi chúng sanh thấy. Như thật rõ thấy, không 2 sự chết, mà tùy theo ý kia biểu thị 2 lần chết của thân; cho nên nói có 2 lần chết. Chẳng thoái chẳng xuất, mà tùy theo ý kia nói có thoái có xuất. Lại chẳng tại thế và diệt độ, mà tùy theo ý kia, hiển thị sanh nơi thế gian và thị hiện Niết Bàn. Nói có tại thế có được, mất. Chẳng thật mà nói Niết Bàn là thật. Chẳng hư mà nói 3 cõi là hư. Chẳng 3 đời khác nhau, mà nói có khác. Chẳng chơn đế là như, mà nói là có như. Đồng ở nơi 3 cõi, thấy nơi 3 cõi. Tất cả đều là tùy theo ý nguyện và lời nói kia. Gọi là, hoặc nói việc của thân kia, thị hiện nơi việc của thân kia. Như Lai hai trí làm sáng tỏ thẩm xét về Nhị Đế. Cho nên hình hài, lời nói, cả 2 lợi ích. Tất cả thật, chẳng hư vậy.

Từ „dĩ chư chúng sanh“ trở đi; phần thứ 2 giải thích xưng cơ chẳng hư ngụy. Đầu tiên làm sáng tỏ cơ cảm. Kế đến luận thí hóa. Dùng các chúng sanh căn cơ lợi, độn, tiệm, đốn chẳng đồng, tánh dục hành trí, đủ loại sai biệt. Muốn làm cho mỗi mỗi được tăng trưởng những căn lành. Cho nên nói lời dạy của đây, kia. Chẳng hư ngụy là nhơn duyên thí dụ vậy. Tiệm, đốn căn tánh mỗi mỗi đều có loại. Điều nầy dùng làm người Tất Đàn (thành tựu). Vì người Tất Đàn chính thức là sanh ra những căn lành. Căn lành dụ cho tánh nầy. Tập tục thành tánh. Nay vì sao tánh trước mà dục sau? Giải thích rằng: Nguyên nhân có bản nhật căn tánh, có thể khởi lên, ngày nay dục lạc. Như nguyên nhân là phiền não cho nên có ngũ ấm; lại nguyên nhân ngũ ấm lại có phiền não, chẳng trước, chẳng sau.

Tánh dục lại cũng như vậy. Điều trọng yếu là nguyên nhân tập dục mà thành tánh vậy. Dục ấy là tiệm đốn 2 cơ. Nếu các loại dục lạc chẳng giống nhau thì điều nầy dùng cho thế giới Tất Đàn. Hành giả khởi tác nghiệp hành, tùy theo dục lạc mà tu các hạnh. Điều nầy dùng cho người Tất Đàn. Trong khi hành thích nhiều, đắm trước, lại có phòng chướng. Điều nầy dùng để đối trị với Tất Đàn. Nhớ nghĩ là trí tuệ; tức là tương tợ giải. Do tu hành cho nên có thể được giải sanh.

Đây là phương tiện dụ cho chưa xứng lý, vô ngôn nói đạo. Dụ đây là quán về niệm tưởng. Tiệm, đốn chúng sanh ở tại trong ngoài, phàm vị. Có những căn lành dục lạc. Dục lạc cho nên tu hành. Tu hành cho nên được giải tương tợ. Điều nầy dùng cho đệ nhất nghĩa Tất Đàn. Tùy ở nơi nầy được giải ức tưởng, liền vì đó mà nói pháp. Tức là sáng ngộ đệ nhất nghĩa. Cho đến sơ địa dục lạc tu hành lúc nhị địa. Lại nhớ nghĩ cảnh nhị địa. Tức là niệm tưởng. Nếu phát sanh nhị địa chơn giải tức là niệm tưởng quán trừ ngôn ngữ, pháp diệt. Cho đến Phật mới được cứu cánh lìa nơi ức tưởng. Rộng thường tịch chiếu vậy.

Từ „muốn làm cho sanh“ trở đi; phần thứ 2 chính là đối cơ. Thí đây, hình hài, âm thanh lợi ích. Đối với tiệm đốn đủ loại căn cơ, làm cho sanh đủ loại căn lành. Cho nên hiện. Nếu cùng với thân nầy, kia cùng sự việc. Nếu cùng với âm thanh giáo hóa tự, tha. Nếu cùng với nhơn duyên thí dụ. Nếu đối với tiệm cơ dùng tam tạng trong tứ môn hoặc dùng nhơn duyên thí dụ. Đối với mỗi một môn lại có nhược can. Như vì giải đãi mà nói khổ nhẫn. Vì ngã mạn mà nói vô thường nhẫn v.v… Thông giáo tứ môn lại cũng như vậy. Nếu đối lại với đốn cơ. Như biệt (giáo) viên lại mỗi mỗi tứ môn nhược can đủ loại. Như 32 Bồ Tát mỗi mỗi nói vào bất nhị pháp môn. Trong Hoa Nghiêm đủ loại hạnh, tướng mạo. Tất cả vì đủ loại căn cơ. Thí nhược can thí dụ nói lời thuyết pháp. Chỗ làm Phật sự chưa từng bỏ bê. Tổng kết chẳng hư dối.

Như trên nhược can đây, kia hình (hài) và âm thanh thì tất cả làm cho chúng sanh vào Phật tri kiến. Chẳng vì người, trời Nhị Thừa việc nhỏ. Cho nên nói chỗ làm Phật sự vậy. Hoặc một người riêng được diệt độ; ngoài ra người khác chẳng được thì chỗ làm Phật sự tức là vì có sự bỏ phế. Phế ấy tức là làm cho chẳng được thật lợi ích. Há được gặp nhau, tất cả thật chẳng hư. Vì sao tất cả đều thật ?

Ngày xưa nói rằng ta ngồi nơi Đạo Tràng chẳng được một pháp thật. Bảy phương tiện cùng chẳng phải cứu cánh diệt. Hai là Niết Bàn phương tiện, không quyền. Cho nên rõ tuy hư, chưa thấy, đều là thật. Nếu ngày xưa thí 7 quyền, theo chẳng được nhập vào một thật thì có thể nói về hư vọng nầy. Hư ấy dẫn chứng được ra khỏi không có hư; ra mà chẳng vào thật. Cho nên rõ rằng xưa hư là thật vậy. Tất cả thật, chẳng hư Phật sự, chẳng phế; tức là nghĩa nầy vậy.

Từ „như vậy ta thành Phật thật là lâu xa“ trở đi; phần thứ 2 làm sáng tỏ phi diệt, hiện diệt lại có 2. Đầu tiên là làm sáng tỏ phi diệt hiện diệt; thứ 2 là từ „Như Lai dùng phương tiện nầy“ trở đi, làm sáng tỏ sự hiện diệt lợi ích. Đầu tiên ấy lại chia làm 2. Phần trước làm sáng tỏ bản chất bất diệt. Kế đến từ „rồi bây giờ“ trở đi làm sáng tỏ trong Tích xướng lên sự diệt. Từ „ta thành Phật đến nay“ trở đi, làm sáng tỏ quả vị thường. Thường cho nên bất diệt. Qua điều nầy 4 chữ, làm sáng tỏ vị lai đại thế uy mãnh thường trụ ích vật.

Từ „bản hạnh của ta“ trở đi, đưa ra nguyên nhơn huống quả, lấy đó làm sáng tỏ cho thường trụ. Người xưa nương cậy vào điều nầy, dùng chứng vô thường để nói. Trước thì hơn cả hằng hà và sau lại gấp đôi số ấy. Thần thông diên thọ dụ cho vô thường. Giữ lấy câu văn hẹp, ý lớn, có chỗ sai sót. Kinh đưa ra nguyên nhơn luống quả, quả lại chẳng có số. Kinh nói rằng: Từ lâu xa tu nghiệp được thọ mệnh vô số kiếp. Chẳng phải là thần thông diên thọ. Sao vậy? Phật tu viên nhơn. Lúc chứng sơ trụ thì đã được thường thọ. Thường thọ, hèn thọ, thọ gấp bội trên số ấy, huống là quả sao? Sao lại bỏ chỗ luống quả? Câu chấp có thể làm luống mất nguyên nhơn. Qua đó làm cho nguyên nhơn nầy đối với thường, chẳng phải vô thường vậy. Dụ như lúc Thái Tử thì duyên vào việc đã qua chẳng chấm dứt. Huống là chứng đạo cao, lộc ấy há có thể dùng đến hết sao? Làm sáng tỏ câu văn tại đó, sao lại nghi ngờ và sau đó việc lầm lẫn phát sanh sao?

Từ „rồi nay chẳng thật“ trở đi; phần thứ 2 trong Tích xướng lên sự diệt. Ba thân cùng với có, không diệt, xướng nghĩa diệt. Như Tịnh Danh nói: Pháp vốn chẳng sanh; nay tức là chẳng diệt; tức là pháp thân chẳng diệt. Lại nói rằng: Ý nghĩa của việc tịch diệt nầy tức là xướng lên sự diệt vậy. Vì sao nếu điều nầy liễu đạt thì chẳng xướng tịch diệt. Vì chưa rõ cho nên xướng lên vậy. Nếu nói chiếu tịch; tức là xướng diệt. Nếu nói tịch chiếu tức là xướng sanh.

Phàm pháp thân tuy chẳng sanh chẳng diệt, lại có sanh diệt. Nếu tâm mê chấp trước; tức là phiền não sanh mà trí huệ diệt. Nếu giải tâm vô nhiễm; tức là trí huệ sanh, phiền não diệt. Hoặc sanh giải điều nầy là vô thường diệt. Nếu giải sanh hoặc diệt, tức là tịch diệt. Điều sanh diệt nầy tất theo Ước (giáo) pháp tánh mà biện luận. Nếu chẳng mê, giải 2 duyên; tức là chẳng xướng có sự sanh diệt nầy. Báo thân chẳng diệt, xướng diệt. Tuy có trí tuệ mà ai có phiền não? Mà nói trí huệ hay phá.

Đây chính là làm sáng tỏ sự mờ tối chẳng tương trừ. Tức là nghĩa của báo thân chẳng diệt. Chúng sanh chưa rõ, nghe điều nầy liền nghĩ về việc nầy; tức là Phật, mà sanh kiêu tứ, chẳng có tu đạo. Cho nên lại nói rằng: Đạo hay diệt hoặc. Lúc có phiền não, tức là chẳng có trí tuệ. Lúc có trí tuệ, tức là không có phiền não. Há chẳng có trí tuệ lại có thể diệt phiền não chăng? Ứng thân chẳng diệt, xướng diệt. Ứng là dụng của Pháp, báo (thân). Thể liền vô diệt, dụng há có cùng sao? Tức là ứng thân không diệt. Hằng vì chúng sanh. Nếu thường thấy Phật; tức sanh kiêu tứ. Nên ta xướng rằng: Đêm nay sẽ vào diệt độ. Lại nữa pháp thân thường thể sáng tỏ, chẳng diệt. Báo thân nói chẳng diệt, tất Ước (giáo) pháp thân. Dùng lý mà luận, trí tuệ có thể phá. Vì khắp đủ cho nên phá việc chưa chu đáo. Phá vì điều chung làm riêng. Như đây làm rõ lý, chẳng có thể phá công (đức) được. Tức là trí huệ chẳng diệt nghĩa của hoặc. Tựu chung có trí tuệ, liền chẳng phiền não. Tức là huệ nầy có thể diệt hoặc. Ứng thân nói bất diệt, đủ theo Ước (giáo) pháp, báo (thân). Pháp, báo thường nhiên, ứng dụng chẳng dứt. Chúng sanh không tận tức chẳng diệt độ. Nếu pháp thân sẽ là thể luận thì chẳng sanh diệt. Báo thân liễu đạt, chẳng thể sanh diệt. Ứng thân tương tục, chẳng sanh diệt v.v…

Từ „dùng phương tiện giáo hóa nầy“ trở đi; phần thứ 2 làm sáng tỏ hiện diệt ích vật. Lại nữa có 2. Trước là chẳng diệt chúng sanh có tổn (hoại); hai là từ „dùng phương tiện nói Tỳ Kheo nên biết“ trở đi. Nếu xướng diệt đối với vật có ích. Đầu tiên lại có 2. Trước là chẳng diệt có tổn. Kế đến là giải thích rộng việc chẳng diệt. Có tổn nghĩa là như người trước vui với pháp nhỏ, thấy Phật thường tại, chẳng trồng căn lành. Tham cùng, hạ tặc, chẳng sanh 2 việc lành; cho nên chẳng lợi ích. Thấy tư (hoặc) chẳng đoạn lìa, chẳng đoạn trừ 2 ác; tức là có tổn (hoại). Tham trước ngũ dục, vào nơi ức tưởng. Ức tưởng tức là kiến hoặc. Ngũ dục tức là tư hoặc. Do đây mà chúng sanh nhiều cấu trước; cho nên nói diệt. Chẳng nói diệt tức là 2 ác sanh mà chẳng diệt. Hai lành tổn (hoại) lại chẳng sanh. Vì diệt 2 ác. Dùng nghĩa của đệ nhất đối trị. Đệ nhất nghĩa diệt chưa sanh ác. Đối trị diệt đã sanh ác rồi. Thế giới vì con người, sanh 2 điều lành. Thế giới sanh, chưa sanh điều lành. Vì con người sanh rồi, sanh điều lành. Lại nữa thế giới diệt rồi, sanh ác. Đối trị diệt chưa sanh ác. Như thiền, ngũ ấm diệt, dục giới ác; tức là thế giới diệt rồi, sanh ác. Vì con người sanh rồi, sanh thiện. Đệ nhất nghĩa sanh, chưa sanh vô vi thiện.

„Nếu thấy“ trở đi; phần thứ 2 giải thích rộng. Nếu thấy Phật thường tại liền khởi tâm mạn tứ; cho nên có sự tổn hại. Chẳng thể sanh cung kính, do vậy chẳng lợi ích gì. Kiêu tứ tức là tăng trưởng kiến hoặc. Yểm đãi tức là sanh tứ hoặc. Chẳng sanh nan tao tưởng tức là chẳng sanh kiến đế giải. Chẳng cung kính tức là chẳng hay sanh tư duy đạo. Vì ý nghĩa nầy cho nên nói ứng hiện diệt. Nếu thấy, nghe 3 Phật chẳng diệt, tất có nghĩa kiêu tứ. Liền vì chúng sanh như Di Lặc, như nhứt, như vô nhị, như bình đẳng tức là chơn. Do sự sinh nầy đối với kiêu tâm thượng mạn. Nghĩa là tất cả phiền não gốc, tự chẳng sanh. Nay lại chẳng diệt thì làm sao tu đạo? Tức là liền tứ tình buông lung. Vì đây mà nói ý nghĩa của tịch diệt.

Lại nữa khi nghe tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề. Tướng Bồ Đề tức là tướng của phiền não. Làm sáng tỏ sự đen tối chẳng tương trừ; hiển xuất Phật Bồ Đề. Chúng sanh nghe điều nầy lại khởi mạn tứ; chẳng tu điều lành, giải đãi buông lung. Vì những điều nầy vậy. Xướng nói báo thân trí huệ, hay diệt trừ phiền não vô minh lực, đại Phật Bồ Đề trí, hay có thể diệt. Ứng thân phi diệt, hiện diệt, dễ giải. Nếu xướng nói pháp gốc chẳng sanh; nay lại chẳng diệt, cần tu diệt hoặc, mới hay tịch diệt. Kinh rằng: Trí huệ chẳng diệt phiền não, mà lại làm sáng tỏ lúc chẳng tối tăm. Ngươi nay đầy đủ phiền não sao có thể có huệ được? Nên biết rằng trí huệ có thể diệt chướng hoặc. Chúng sanh nghe điều nầy nói là diệt. Liền đối với 3 Phật sanh nan tao tưởng, khởi tâm cung kính. Cho nên Như Lai dùng phương tiện vậy.

Để làm sáng tỏ việc xướng lên diệt là có lợi ích. Trước tiên tán thán việc gặp Phật là khó. Kế đến giải thích việc gặp khó kia. Ba Phật lại khó gặp; chúng sanh vui đắm với pháp nhỏ, thấy tư chướng nặng. Nghe ba thân chẳng diệt, tức chẳng tu đạo. Khó được gặp gỡ. Cho nên dưới đây mới giải thích. Những người đức mỏng, qua trăm ngàn kiếp; hoặc có thấy Phật, hoặc chẳng thấy. Nếu thấy được 3 Phật; thì người nầy lành nhiều ác ít; chẳng vì người nầy mà nói diệt. Người nầy thấy Phật vẫn thường ở tại Linh Sơn. Hoặc chẳng thấy Phật, người nầy chướng nhiều lành ít. Vì nói 3 thân khó gặp, chúng sanh nghe, liền nghĩ như thế nầy: Tuy 3 Phật chẳng có sanh chẳng có diệt, tất nhiên là sanh thiện, diệt hoặc, mới được chứng kiến. Việc nầy chẳng dễ; cho nên nói là nan tao. Tâm hoài luyến mộ khát ngưỡng tức là điều nầy làm sáng tỏ hiện diệt, chẳng tổn hại. Diệt ấy đối với kiến tư, gọi là vô tổn. Trồng căn lành gọi là hữu ích.

Lại nữa từ „thiện nam tử“ trở đi; phần thứ 2 đại đoạn kết, 3 đời ích vật, vật được thật ích. Lại chia làm 3. Trước tiên làm sáng tỏ chư Phật xuất hiện trong đời ngũ trược tất nhiên trước 3, sau một; trước gần, sau xa. Kế đến làm sáng tỏ tất cả đều để giáo hóa chúng sanh. Sau đó làm sáng tỏ tất cả chẳng hư vọng. Giống như thí dụ ở dưới, phần dụ thứ 2 nói về việc có khai dụ và hợp dụ. Khai dụ lại có 2. Một là thầy thuốc trị con bệnh. Dụ như bên trên 3 đời ứng, hóa mà tuyên nói. Hai là thí dụ việc trị liệu đứa nhỏ nầy thật là lợi ích. Bên trên 3 đời lợi vật chẳng hư. Bên trên, vị lai, câu văn ít; còn trong nầy thì đầy đủ.

Tựu chung đầu tiên ấy lại có 3. Một là thí dụ cho vị Thầy thuốc ấy đi xa. Dụ cho quá khứ ích vật. Hai là trở lại như cũ. Dụ cho hiện tại ứng hóa. Ba là tìm chỗ trở về. Dụ cho vị lai ứng hóa (thân). Quá khứ câu văn ấy chia làm 2. Một là phát cận, hiển xa. Hai là làm sáng tỏ quá khứ ứng, hóa (thân) mà tuyên nói. Nay hằng dụ ứng, hóa chỗ tuyên bày. Chỗ tuyên nói ấy lại có 3. Một là xứ sở; hai là phất Tích nghi; ba là chánh ứng, hóa. Nay hằng dụ cho ứng, hóa. Ứng, hóa lại có 2. Một là cơ cảm; hai là chánh ứng, hóa. Nay đều thí dụ. Như có vị Thầy thuốc; qua thí dụ bên trên, ta dùng Phật nhãn để quan sát, có thể nên rõ biết. Từ nhiều con cái, là truy theo dụ bên trên. Nếu có chúng sanh nào đến nơi ta, hay cơ cảm.

Bên trên chỗ ứng, hóa ấy tuyên nói lại có 2. Một là ích vật; hai làm làm sáng tỏ sự hoan hỷ. Nay hằng dụ cho sự ích vật. Bên trên, sự ích vật ấy lại có 2. Một là phi sanh hiện sanh; hai là phi diệt hiện diệt. Nay hằng dụ cho hiện diệt. Đầu tiên nói về vị lương y. Y ở đây có 10 loại:

Một là trị bịnh, nhưng bịnh lại tăng, không giảm hoặc có lúc kéo đến sự chết chóc. Dụ không thấy ngoại đạo. Tư ý làm việc ác, rồi bảo người khởi lên đoạn mất căn lành. Pháp thân liền mất, huệ mệnh lại chết đi.

Hai là trị bịnh chẳng tăng, chẳng bớt. Dụ cho việc có thấy việc khổ hạnh của ngoại đạo như lao mình vào lửa, chịu những cực hình để làm việc lành. Chẳng được thiền định, chẳng hay đoạn kết; tức là không bớt. Lại chẳng thể đoạn thiện; tức là chẳng tăng vậy.

Ba là trị bịnh hết mà chẳng tăng. Thường là ở đời chỗ trị của vị Thầy ấy sai; nhưng trở lại sống được. Tức là tu định, đoạn kết ngoại đạo.

Bốn là trị bịnh, rồi chẳng bộc phát trở lại nữa, mà chỗ trị lại chẳng thay đổi. Tức là người nhị thừa dừng trị, một hai loại có duyên. Chẳng thể biến trị cho tất cả.

Năm là tuy có thể cùng biến khắp mà chẳng có công hiệu, dùng để chữa khổ bịnh. Thích Luận gọi đây là chuyết độ (giúp một cách vụng về); tức là sáu độ Bồ Tát từ bi rộng trị.

Sáu là trị bịnh diệu thuật, trị chẳng còn bịnh não, mà chẳng thể trị cho người khỏi chết. Dụ cho Thông giáo Bồ Tát, thể pháp hằng trị có ngược lại. Phàm phu chẳng trị được tiêu chủng Nhị Thừa.

Bảy là tuy trị khó, trị bịnh khỏi hẳn; mà chẳng phải một lúc trị cho tất cả bịnh. Tức là Biệt giáo Bồ Tát vậy.

Tám là hay trong một lúc, trị cho tất cả bịnh, mà chẳng thể hay làm cho bình phục như cũ. Tức là Viên giáo sơ tâm thập tín vậy.

Chín là hay biến trị tất cả, lại hay được bình phục như cũ, mà chẳng thể làm cho qua khỏi gốc cũ. Tức là Viên giáo hậu tâm vậy.

Mười là trong một lúc trị tất cả bịnh; tức có thể làm bình phục hết. Lại làm cho khỏi hẳn cái gốc; tức là Đức Như Lai vậy.

Trước 3 loại Thầy thuốc; tức là trong Đại Kinh, Thầy thuốc cũ dùng thuốc sữa; bảy loại sau cùng với khách y học. Chẳng có thuật nghĩa là hằng dùng pháp vô thường, khổ v.v… Như dùng cay, đắng, chua làm thuốc. Có thuật từ xa đến, lại làm cho uống sữa. Cuối cùng làm lương y hoàn hảo. Lương đây chính là lành vậy. Bên trong lại có 3, đạt được ngũ căn tức là 8 (nghệ) thuật. Diệu tức là được thuốc tánh lành dùng để chữa trị. Bên ngoài rõ biết căn nguyên của bịnh hay dùng đến thuốc.

Trí huệ tức là quyền, thật 2 trí; sâu rõ 2 đế. Thông viễn nghĩa là 5 mắt rõ biết căn cơ đốn tiệm chẳng sai biệt. Trong 12 bộ kinh giáo, văn lý thật sâu xa, như làm sáng tỏ phương dược tốt, nương vào Tứ Tất Đàn để trị bịnh cho chúng sanh. Như lành trị các bịnh vậy. Vô lượng nghĩa là Y Vương, Đại Y Vương dùng y thuật lớn; cho nên gọi là lương y. Nhiều con cái nghĩa là 10 Thinh khai mở 20 Chi Phật, trở thành hằng trăm số Bồ Tát. Bồ Tát là con.

Phàm có ý nghĩa 3 loại con:

Một là thành tựu tất cả chúng sanh. Tất cả có 3 loại tánh, được Phật tánh; tức là Phật Tử. Cho nên nói chúng sanh trong nầy tất cả là con của ta. Câu văn nầy nói có nhiều con cái. Theo Ước (giáo) thì 10 tâm số pháp tức là có 100 con. Tâm vương là chánh nhơn Phật tánh. Huệ là liễu nhơn tánh. Ngoài ra 9 tướng phù trợ, khởi lên theo duyên Phật tánh. Một số lúc khởi lên 9 số phù trợ. Như vậy thành 100. Tánh Phật ấy của con Phật là phi thiện, phi ác, mà vượt qua thiện ác. Cho nên số 10 nầy cùng với tâm vương là thông tâm số. Là dùng tánh Phật với 3 nguyên nhơn. Tất cả thuộc vào chánh nhơn Phật Tử.

Hai là tựu chung ngày xưa kết duyên làm Phật Tử, như 16 vị vương tử kia. Khi giảng Pháp Hoa thì nghe pháp lại sanh vi giải tức thành liễu nhơn tánh. Xưa kia hay tu hành là vì tánh duyên nhơn nầy. Tánh chánh làm căn bản. Đây là 3 nguyên nhơn cùng với sự lệ thuộc của nhơn duyên vào. Rồi phát ra và ngày nay giải một sự thật. Cho nên dùng ngày xưa để kết duyên. Vì nhơn duyên ấy là Phật Tử tức là 30 đứa con trong nhà lửa. Ở đây với Ước (giáo) là thập tín. Một tín khởi lên tức là đầy đủ 9 loại kia sẽ trở thành 100 tín. Cho nên được kết duyên làm Phật Tử vậy.

Ba là con liễu hết nguyên nhơn; tức là ngày nay nghe kinh Pháp Hoa, an trụ trong thật trí. Ta định sẽ làm Phật, quyết rõ pháp Thanh Văn, là vua của các kinh. Từ miệng Phật sanh, được phần Phật pháp; cho nên gọi là chơn tử. Điều nầy lại có 3 tánh của nguyên nhơn. Nay lại hiển rõ, thấy nơi Phật tánh, cùng với thuộc rõ nguyên nhơn của Phật Tử. Một trăm con là ý nghĩa trở lại 10 số, nhập vào pháp thập thiện. Thập tín nhập vào sơ trụ. Cho nên nguyên nhân chính vượt qua đối với gốc, ngọn. Câu văn nầy làm sáng tỏ cho 10 con. Chẳng dùng liễu nguyên nhơn của con cái. Liễu nhơn tử thuộc phía dưới; chẳng mất tâm dùng thuốc đã làm sáng tỏ. Dùng hữu sự duyên xa đến tận nước kia. Dụ cho quá khứ ứng hóa trong hiện diệt.

Từ „các con đối với sau“ trở đi; phần thứ 2 trở lại như cũ, dụ cho hiện tại ích vật, lại có 2. Một là về sau các con uống thuốc độc. Dụ nầy nói về căn cơ ứng tướng, quan hệ với việc thấy chúng sanh đức mỏng mà cấu uế lại dày. Chúng sanh sau khi Phật diệt độ vui nhiễm nơi ba cõi theo pháp của tà sư. Cho nên nói là uống thuốc độc, liền đó đi đến nước khác, luân chuyển trong các nơi, rơi vào 3 cõi; cho nên nói là uyển chuyển vu địa.

Lúc ấy người cha trở lại nhà. Dụ nầy dụ cho ta lúc nhỏ xuất gia được tam Bồ Đề; phần 2 phi sanh hiện sanh. Phần trên lại có 2. Hình (hài) và (âm) thanh cùng sự lợi ích chẳng hư dối. Nay nói các con trúng thuốc độc nên trở về.

Dụ bên trên về hình hài lợi ích. Tín nhận các pháp nơi tà sư; cho nên uống thuốc độc, đánh mất bản tâm, chẳng sanh cơ cảm lớn nhỏ. Chẳng đánh mất tâm là sanh ra cơ cảm của Đại, Tiểu. Lại nữa mất tâm là tham trước nơi 3 cõi; trước tiên mất chỗ trồng căn lành nơi tam thừa. Vì người nầy phi diệt mà xướng là diệt. Chẳng đánh mất tâm là tuy dính mắc ngũ dục mà chẳng mất Tam Thừa thiện căn là người nầy; cho nên phi sanh hiện sanh. Lành thêm, ác giảm thấy Phật; tức là hay tu đạo đoạn lìa kết (sử). Như con gặp cha, tìm cầu thuốc để chữa lành bịnh. Thiện ít, ác nhiều được thấy Phật lại cầu gìn giữ mà chẳng tu đạo, như con gặp cha cầu cứu mà chẳng chịu dùng thuốc chữa trị. Cha vì người con nầy mà nói rằng: Phải chết; thấy nghịch là làm sáng tỏ lúc Phật ra đời, chúng sanh lại thấy sắc thân, mà vì thấy tư (hoặc chướng cách ngũ phần; chẳng được gần gũi phụng thờ pháp thân; cho nên nói là nghịch). Thấy Phật ra đời, tất cả đều làm việc cung kính hoan hỷ. Hiện các kinh văn là do Phạm Vương thỉnh cầu. Ví dụ nầy là từ ngữ cầu cứu.

Từ „người cha thấy con khổ sở“ trở đi là dụ bên trên nghe được lợi ích lại có 2. Đầu tiên dụ cho Phật nhận lời thưa thỉnh chuyển nhị đế pháp luân, mà tạo ra lời nói nầy là dụ cho việc khuyến khích răn dạy. Kinh phương tức là 12 bộ giáo điển. Dược thảo tức là chỗ dạy dỗ, chú giải 8 vạn pháp môn. Từ khi Phật xuất 12 bộ cho đến khi ra khỏi Niết Bàn. Sự ra khỏi nầy là thuốc chữa bịnh tiệm, đốn. Ngay từ Phật xuất 12 bộ. Sự ra khỏi nầy là dược thảo đốn (giáo). Từ Phật xuất Tu Đa La (Kinh). Sự xuất nầy là dược thảo tiệm (giáo). Sắc ấy là dụ cho giới. Giới phòng thân, miệng sự tướng, chướng hiển. Hương ấy là dụ cho định. Công đức hương xông tất cả. Vị ấy là dụ cho huệ; có thể được lý vị. Giới, định, huệ nầy tức là Bát Chánh Đạo. Tu bát chánh đạo có thể thấy được tánh Phật. Lại nữa sắc là Bát Nhã, chiếu rõ pháp tánh là sắc, phân minh vô ngại. Hướng ấy là giải thoát; đoạn đức, đoạn xú. Vị ấy là pháp thân. Lý vị vậy. Ba pháp chẳng ngang, chẳng dọc; gọi là bí mật tạng. Nương vào lời dạy để tu hành thì được vào trong tạng nầy. Nói tam thừa không, tam muội lực như công kích, vô tướng như dây nhỏ, vô tác như hợp lại. Mỗi mỗi tam vị đều đầy đủ giới, định, huệ. Lại nữa không quán như công kích, giải quán như dây nhỏ và Trung Quán như hợp lại. Ba quán nầy mỗi mỗi chẳng lìa giới, định, huệ. Với pháp nầy cùng với tiệm, đốn chúng sanh, làm cho tu hành, gọi là phục (điều). Từ đó mà tạo việc nầy và nói cho đến có thể phục được. Tức là khuyến môn vậy.

Từ mau trừ khổ não cho đến chẳng có loại nào lo lắng. Tức là giới môn vậy. Cùng với giới, khuyến 2 giáo làm cho những chúng sanh điều phục pháp dược. Trong những người con nầy chẳng mất tâm; bên trên dụ cho sự lợi ích chẳng hư ngụy. Bên trên lại có 2. Một là chẳng hư dối; kế đến giải thích việc chẳng hư dối. Nay nói trong các con chẳng đánh mất tâm là phục dược bệnh ấy có sai khác. Tức là dụ cho bên trên tất cả là thật chẳng hư vậy. Giải thích việc chẳng hư vọng, chẳng tạo ra thí dụ vậy.

 

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú

Hết quyển thứ 9 (phần sau)

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10