KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA VĂN CÚ

Thiên Thai Trí Giả Đại Sư giảng
Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover – Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt.

 

Quyển thứ 5

(Phần trên)

Từ „Ngã thỉ tọa đạo tràng“ trở đi, phần thứ hai có 17 hàng rưỡi. Tụng về việc thí phương tiện để giáo hóa. Điều nầy lại có 2. Sáu hàng rưỡi đầu làm rõ chỗ công dụng của sự nhớ nghĩ về Đại Thừa; nghi ngờ chẳng được. Kế đến là tìm đến sự nhớ nghĩ. Phần thứ 2 có 11 hàng, làm rõ chỗ nhớ nghĩ cùng với chư Phật dùng Tam Thừa để hóa độ nên gọi là tuyên khả đắc. Tựu chung cái niệm đầu tiên ấy dùng đại hóa. Ở đây lại chia ra làm ba. Một hàng rưỡi đầu làm rõ chỗ dùng vào việc nghi lớn. Kế đến là chúng sanh.

Phần hai có 3 hàng làm rõ chỗ chúng sanh không có cơ duyên. Kế đến phần thứ 3 có 2 hàng. Làm rõ chỗ nhớ nghĩ về hơi thở về chỗ hóa hiện to lớn ấy. Bắt đầu ngồi nơi đạo tràng cho đến cái lý không thời gian và thời gian giả hóa ra vật ấy. Vì sự biến hóa ban sơ ấy; cho nên gọi là bắt đầu.

Chữ sự ấy giải thích rằng: Đầu tiên ở tại nơi nầy, tu giữ được đạo; cho nên nói là đạo tràng. Ngồi nơi dưới gốc cây được Bồ Đề; cho nên gọi là Đạo Thọ. Cảm thọ ân đức ấy cho nên nói là quan sát. Nhớ nghĩ cái đức nơi đất ấy nên đi kinh hành. Lúc thành đạo rồi, muốn nói pháp lớn cho chúng sanh nghe. Quán Tâm giải thích rằng: Cây ấy chính là cây lớn của 12 nhơn duyên. Sâu quán duyên khởi và tự được giác ngộ. Muốn dùng pháp vô lậu, cây rừng che tàng, làm lợi ích chúng sanh; cho nên nói rằng: Quán thọ kinh hành. Kinh Đại Thừa phẩm thứ 37 nói về pháp hành đạo nầy. Tự dùng phẩm đạo ấy che đậy tất cả đất để được thành Phật đạo, muốn dùng pháp nầy để hóa độ chúng sanh; do vậy khởi lên chỗ đi. Còn cây với đất thì chẳng có phân biệt, há phải tu báo ân.

Kinh Vị Tằng Hữu nói rằng: Chỉ dùng sự thông hóa để chuyển pháp; nên gọi là báo ân.

Kinh quá khứ nhơn quả nói rằng: Phật thành đạo, sau 7 ngày đầu suy nghĩ rằng pháp của ta rất sâu vi diệu, chẳng ai có thể thọ nhận được; đến 14 ngày sau suy nghĩ chúng sanh có căn tánh cao, thấp và vừa. Tuần lễ thứ 3 suy nghĩ về việc ai là người sẽ nghe được pháp trước; liền đến Ba La Nại để độ cho 5 người và nói pháp Tứ Đế. Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Ác Bệ, Bạc Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Nam Câu Lợi chưa được đạo. Nên Phật nói Tứ Đế một lần nữa, khiến cho 4 người nầy được pháp nhãn thanh tịnh. Phật lại nói về ngũ ấm vô thường, khổ, không và vô ngã. 5 người nầy chứng được A La Hán. Phật là Phật Bảo. Tứ Đế ấy chính là Pháp Bảo. 5 người và Phật ấy là 6 vị A La Hán. Những vị nầy là Tăng Bảo.

Tiểu Vân giải thích rằng: Tuần lễ thứ 3 thì nói kinh Pháp Hoa. Câu văn khác thì nói thời; Túc Vương Hoa Trí Phật ở tại dưới cây Bồ Đề thất bảo nói kinh Pháp Hoa. Do vậy nên biết rằng nay Phật ở tại dưới cây Bồ Đề nói kinh Pháp Hoa, mà những chúng sanh độn căn thì chẳng thâm nhập được. Đều cùng với chư Phật khai mở ra 3 (thừa) để giáo hóa. Sau đó nơi Vương thành chỉ nói một thừa. Nếu mà người trí rõ được ý nầy tức là trước tiên ở dưới cội Bồ Đề dùng trí huệ Phật để nói. Rồi sau đó ở những nơi khác, nói về trí huệ của Phật. Cũng giống như ngày nay Phật trước nói Hoa Nghiêm và sau đó nói Pháp Hoa. Cho nên câu văn nói rằng: Đầu tiên thấy thân ta và nghe ta thuyết pháp, rồi nhập vào trí huệ của Như Lai. Trừ ra những kẻ trước tu tập và học theo Tiểu Thừa, mà bây giờ lại làm cho vào trí huệ của Như Lai là cùng với nghĩa nầy giống nhau.

Năm vị Tỳ Kheo ấy là những người nữ nghe Tiên Nhơn thuyết pháp. Ác Sanh Vương sân hại hai cánh tay, lỗ tai, lỗ mũi và máu biến thành sữa. Ác Sanh Vương đó là Câu Lân Thị. Tiên Nhơn ấy là Phật. Phật thệ nguyện làm cho được cam lồ. Làm cho nghe được pháp âm đầu tiên vậy.

Hỏi: Vì sao mà chuyển pháp luân đầu tiên cho 5 người nầy?

Đáp: Người đầu tiên thấy được chân lý vậy.

Người là hiện tại được thấy; người vì đó mà chứng. Phật chỗ thực hành sự nghiệp cùng với người giống nhau. Chư thiên từ người mà được thiện lợi. Người lại có 4 chúng. Luân Vương ra đời nghe đến Tha Hóa Tự Tại. Kiều Trần Như được đạo nghe đến Phạm Thiên. Phật được đạo, nghe đến Thủ Đà Hội.

Vì sao vậy?

Đáp: Nghiệp lành được gọi là dự nghiệp, xưng tán cha mẹ, Thầy Tổ nghiệp, có trên, giữa và dưới; cho nên là vậy. Nếu làm cho cõi Hữu Đảnh có tai và sự nghe, thì âm thanh của Phật lại có thể đến nơi kia. Luân Vương thực hành 10 điều lành; nên lành sanh vào cõi trời Dục. Cõi trời Dục vui với ta làm quyến thuộc tăng trưởng. Trần Như lìa dục; cho nên tối phạm hạnh. Phật là bậc tối thắng cho đến Ni Tác v.v…

Nếu nương vào Đại Thừa thì cho rằng: Khi Phật đắc đạo, âm thanh ấy biến khắp trăm ức Ni Tác. Lại cũng biến khắp 10 phương vô lượng vô biên thế giới Ni Tác v.v…

Sơ chuyển pháp luân xứ, tức là dưới cội Bồ Đề. Đầu tiên ở cõi Trời Đao Lợi giáng xuống, cùng Đại Thần biến xứ. Bốn nơi nầy tất cả là chỗ định của chư Phật. Ngoài ra những nơi khác thì không định. Lại nữa trừ chuyển pháp luân một nơi, là do 3 nơi nầy quyết định.

21 ngày theo xưa nói là để suy nghĩ về giáo lý, lại nói là để khuyến huấn. Diêu Sư nói việc nầy thật sâu xa. Cho nên các bậc Thánh hay tư duy và sau đó mới thực hành. Bảy ngày đầu tiên Phật suy nghĩ và trí ấy vi diệu. Thất thứ 2 suy nghĩ về căn tánh của chúng sanh chẳng giống nhau. Thất thứ 3 suy nghĩ về thuốc pháp có hàng vạn loại; tức là đưa ra những câu kệ tu chứng.

„Ta được trí tuệ vi diệu thứ nhất, chúng sanh các căn trì trệ, làm sao có thể độ được“. Nay làm rõ chỗ pháp thân Phật, đất đai nhuần nhuyễn mà thường chiếu sáng, hay dùng Phật nhãn để quan sát, chẳng ngằn mé. Há từ đầu cho đến Đạo Tràng còn lưu lại trong 21 ngày ấy; nên mới suy nghĩ về việc nầy. Nói 21 là làm rõ chỗ biểu hiện ấy. Sự biểu hiện nơi Phật là 3 lần thuyết pháp; giả nói là 3 lần 7. Thất đầu tiên suy nghĩ về sự thuyết pháp. Thất kế tiếp nói thí dụ và thất sau nói về nhơn duyên. Tất cả nếu chẳng có nhơn duyên, đều chẳng được. Cho nên dùng Đại để thí Tiểu vậy. Việc nầy là do Viên Giáo Đại Thừa giải thích. Nếu theo Thông (giáo) giải thích về Đại Thừa thì: Thất đầu tiên tư duy và muốn nói về Viên Giáo Đại Thừa. Thất kế tiếp suy nghĩ muốn nói về Biệt Giáo. Bảy ngày trong tuần thứ ba suy nghĩ muốn nói về Thông Giáo Đại Thừa. Tất cả đều chẳng hợp căn cơ nên chẳng được. Cho nên liền nói về Tam Tạng và Tam Thừa. Vì phương tiện mà giáo hóa vậy.

Quán Tâm giải thích rằng: Đầu tiên muốn quán về Trung Đạo. Trung Đạo thật khó quán; nên chẳng được. Kế đến muốn quán tức là giả. Tức giả quán phân biệt trí khó sanh; nên chẳng được. Sau đó muốn quán về không. Tức không ấy là xảo để độ; lại cũng chẳng thể được; rồi quán về phương tiện, bẻ gãy pháp Tiểu quán vậy.

Từ „Chúng sanh các căn độn“ trở đi phần 2 có 3 hàng làm rõ chỗ không có cơ duyên; lại chia ra làm 3. Nửa hàng đầu tiên làm rõ chỗ chướng sâu. Kế đến làm rõ hơn gồm 2 hàng rưỡi, làm rõ chỗ chẳng thể nghe sâu xa.

Từ „Lúc bấy giờ Phạm Vương“ trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng, làm rõ những phạm hạnh chỉ thưa thỉnh để nói pháp lớn; nhưng Đức Phật rõ biết không có nhân duyên; cho nên chẳng nói.

„Ta liền tự suy nghĩ“ trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng, làm rõ chỗ nhớ nghĩ đến chỗ muốn hóa độ. Lại chia ra làm 2. Một hàng rưỡi đầu làm rõ chỗ không có cơ duyên, mạnh nói chỗ nghe tức là có sự tổn hại, mất mát. Nửa hàng sau chính thức làm rõ chỗ giáo hóa.

Từ „Tìm sự nhớ nghĩ về quá khứ, Đức Phật“; phần 2 có 11 hàng. Phần tụng bên trên đối với một Phật Thừa, phương tiện nói thành 3. Cuối cùng thì điều nầy chia ra làm 2. Mười hàng đầu chính thức làm rõ chỗ hóa độ được. Sau đó một hàng giải thích về chỗ nghi. Phía trước 10 hàng ấy lại có 4. Hàng đầu tiên làm rõ chỗ Tam Thừa. Kế đến tạo ra sự suy nghĩ. Phần thứ hai gồm 6 hàng rưỡi làm rõ chỗ những người có căn cơ. Kế đến suy nghĩ. Phần thứ 3 có một hàng rưỡi làm sáng tỏ chỗ bố thí giáo hóa. Kế đến là tên gọi. Phần thứ 4 có một hàng làm rõ chỗ thọ nhận chỗ ngộ nhận.

Tầm niệm nghĩa là niệm kia chẳng là căn cơ lớn, chẳng dung nạp, vĩnh viễn xa lìa việc dùng phương tiện để nhuần khắp. Chẳng phải cả hai, chẳng rõ biết khai 3. Muốn dẫn chứng cùng với chư Phật; cho nên nói là tầm niệm. Từ chỗ suy nghĩ ấy trở đi; phần thứ 2 có 6 hàng rưỡi làm rõ chỗ căn cơ nhỏ. Điều nầy lại chia ra làm 2. Bốn hàng rưỡi đầu tiên làm rõ chỗ chư Phật tán thán hoan hỷ. Hai hàng sau đó làm rõ chỗ Thích Ca tùy thuận. Bên trên muốn giáo hóa việc lớn, đối với việc kia không có cơ duyên; cho nên chư Phật chẳng ca ngợi. Nay muốn nói Tiểu là hợp với căn duyên, tức là trước sau đều được độ. Cho nên Phật ca ngợi vậy. Ban đầu sự tán thán của Phật được chia ra làm 5.

Ba câu đầu Đức Thích Ca tự sánh với chư Phật trong hiện tại. Phật hiện đây chính là do niệm Phật phương tiện và lực ấy liền hiện. Hiện là do muốn pháp đầy đủ cơ duyên 2 nghĩa; cho nên Phật hiện.

Từ chỗ „lành thay“ phần thứ 2 có một hàng và một câu làm rõ chỗ chư Phật chính thức ca ngợi Đức Thích Ca, có thể an ổn nơi thật và giả định nơi quyền. Cho nên nói là lành thay. Vì một mà nói làm 3 để dẫn nhập vào trí huệ Phật. Tức là đệ nhứt Đạo Sư, được pháp vô thượng vậy. Tức là được thật trí vi diệu đệ nhứt mà dùng phương tiện lực để tùy theo tất cả chư Phật, ẩn thật và dụng quyền.

Từ „Ngã đẳng diệc giai đắc“ trở đi; phần thứ 3 có một hàng làm rõ chỗ chư Phật lại cũng ẩn thật và dùng đến quyền như câu văn.

Từ „Thiểu trí lạc tiểu pháp“ trở đi; phần thứ tư một hàng đôi, giải thích về 2 nghĩa. Vì chúng sanh trí nhỏ chẳng thể nghe được việc lớn; cho nên giấu đi sự thật; lại vui với việc nhỏ cho nên thí cho quyền.

Từ „Duy phục thuyết tam“ trở đi; phần thứ 5 gồm nửa hàng đôi, kết lại hai nghĩa. Tuy lại nói ba lần; nhưng cuối cùng lại hiển thật.

Từ „Xá Lợi Phất đương tri“ trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng làm rõ chỗ Đức Thích Ca tùy thuận, liền nghe chư Phật ca ngợi và nói rằng: Nam Mô. Nam Mô ở đây nghĩa là cung kính, tin theo. Ở đây lại chia ra làm hai. Hàng đầu nói ra lời tùy thuận. Hàng sau nói về việc nhớ nghĩ thuận theo căn cơ của sự vật.

Từ „Tư duy thị sự“ trở đi; phần thứ 3 gồm một hàng rưỡi chính thức làm rõ chỗ bố thí cho giáo pháp.

Từ „Chư Pháp tịch diệt tướng, bất khả dĩ ngôn tuyên“ trở đi; tức là trước đó nói về Trung Đạo, cái lý của chủng tử Phật vô tánh. Lý nầy không cùng và lại chẳng thể nói hết. Nay dùng phương tiện để nói ra ba Thừa. Lại chẳng sanh chẳng diệt, mà dùng phương tiện để nói ra việc sanh diệt. Lại nữa cái lý đúng hay không cũng chẳng phải là chỗ để chỉ bày để nói. Vì là phương tiện cho nên nói ra tứ môn. Đầu tiên vì 5 người mà nói vô thường hữu môn.

Từ „Thị danh chuyển pháp luân“ trở đi; phần thứ 4 một hàng thọ nhận việc thực hành và ngộ nhập. Chuyển tâm Phật và dùng pháp để hóa độ kẻ kia. Độ cho vào tâm kia, gọi đó là chuyển Pháp luân. Trần Như đầu tiên chứng được Kiến Đế, tức là đoạn Kiến Hoặc phần, chứng được Diệt Đế; lại là phần, được Hữu Dư Y Niết Bàn. Tiếng gọi là Niết Bàn khởi lên chính mình ở nơi nầy. Do đó mà thành Vô Học, cũng còn gọi là La Hán. Hay nói pháp ba Thừa gọi là Phật. Chỗ nói ba Thừa tức là pháp. Thấy được chân lý La Hán, gọi đó là Tăng. Đây là Tam Bảo hiện đời của thế gian.

Từ „Cửu viễn kiếp lai“ trở đi; phần thứ 2 có một hàng, giải thích về chỗ nghi. Các vị Thầy nghi ngờ nói rằng: Phật đầu tiên chưa có thể rõ hết căn cơ, nhớ lại chư Phật, bắt đầu rõ biết căn tánh, liền giải thích rằng: Không phải ta chẳng rõ mà dùng nơi phương tiện; đặc biệt muốn dẫn dắt giống nhau, cho nên nhớ đến chư Phật. Chẳng phải bắt đầu niệm mới biết, mà từ những kiếp xa xôi đến nay, thấy vui với pháp nhỏ nầy, liền vì đó mà tán thán, chỉ bày và làm cho chúng sanh hết khổ. Cho nên khi nghe về Tiểu (Thừa) liền đó được giải thoát.

Nghi về Đệ Tử thì bảo rằng: Vì sao chúng sanh trong một đời mới nghe liền chứng được La Hán? Liền giải thích rằng: Từ chỗ kiếp lâu xa đến nay vì đây mà tán thán chỉ bày, xưng tụng nơi thói quen chính; cho nên liền được đạo.

Sách xưa nói rằng: Kệ nầy ý nghĩa thâm sâu vô cùng. Nay làm rõ chỗ ý bí mật để luận; hoặc là như đây? Làm rõ ràng cái ý, tức là chẳng phải tự nhiên. Sao lại làm rõ chỗ thọ lượng? Di Lặc bên trên chẳng rõ biết. Sao ở trong nầy có một câu kệ sâu xa? Nay lấy sự giải thích việc nghi ngờ ấy để làm mất câu văn kia đi.

Từ „Ngã kiến Phật Tử đẳng“ trở đi; phần thứ 3 có 6 hàng, tụng bên trên để hiển thật. Câu văn đầy đủ là 41. Đầu tiên từ „Ngã kiến Phật Tử“ trở đi; hai hàng, tụng về người là một. Tam Thừa hành nhơn đều là Phật Tử. Câu văn trên kiêm luôn cả 2 nầy.

Từ „Ngã tức tác thị niệm“ trở đi; phần thứ 2 gồm một hàng, tụng về cái lý là một. Vì đó nói về trí huệ của Phật; tức là trên tất cả các trí, Phật tri kiến.

Từ „Xá Lợi Phất đương tri“ trở đi; phần thứ 3 gồm 2 hàng tụng về giáo là một. Hay nói về đạo vô thượng; tức là sự dạy dỗ, chỉ bày là một.

Từ „Bồ Tát văn thị pháp“ trở đi; phần thứ 4 gồm một hàng, tụng về sự thực hành thứ nhứt. Tất nhiên lại làm Phật. Đây là hạnh thực hành thứ nhứt.

Tựu chung câu văn nầy chia làm 4 ý. Hai hàng đầu làm rõ căn cơ Đại Thừa bộc phát. Cũng lại nói về cái quả. Kế tiếp 2 hàng gồm một câu làm rõ chỗ Phật hoan hỷ, vì chúng sanh được lợi ích nơi Đại Thừa. Kế tiếp 3 câu chính thức làm rõ chỗ hiển thật. Tiếp đến một hàng, thọ nhận việc làm ngộ nhập. Làm rõ lý do và căn cơ bộc phát; nên gọi là quả. Quả ấy là do nơi cơ duyên bộc phát. Ứng với điều nầy có 4 câu. Tự có chướng ngại, ngoại trừ cơ duyên chưa phát. Như các vị La Hán ở nơi Tam Tạng, hay dùng niềm vui nhỏ; cho nên trược chướng tuy trừ mà căn lớn lại trì trệ, căn lành chưa phát. Tự có căn lớn; nhưng chướng phát ra chưa trừ được. Như trong Pháp Hoa nói về những kẻ phàm phu. Tuy chưa đoạn trừ kết; nhưng dùng căn lành lớn lợi lạc; nên cơ duyên mới phát. Tự có chướng ngại, tức là ngoại trừ cơ duyên, liền tự phát. Như lúc nói về nghĩa vô lượng thì chứng được quả Nhị Thừa. Tức là ở nơi chỗ ngồi nầy cơ duyên to lớn đã phát ra. Chướng nạn tự có chưa trừ thì cơ duyên lớn chưa thể phát. Gồm cả thảy 5.000 thứ. Kẻ có chí cầu Phật đạo tức là có ý lớn, chẳng cầu nơi quả nhỏ. Ở đây có 3 ý. Một là cơ duyên lớn ấy có cái nghĩa của sự cảm ứng về quả. Trong cơ duyên ấy có lý luận đầy đủ. Hai là trong tình ấy có sự mong cầu kín đáo. Vì đó mà được hay chẳng được tức là ở ý nầy. Ba là phát ngôn đầy đủ, tức là 3 lần thưa thỉnh đầy đủ. Ngày xưa trong lời dạy ấy có 2 sự mong muốn mà chưa nói thành lời; mãi cho đến ngày nay, đầy đủ cả 3 yếu tố nầy.

Hỏi: Ngày xưa ra khỏi nhà có 3 cách. Đây là cơ duyên, tình ý và sự đầy đủ. Câu văn ấy nói như chỗ đã hứa trước. Đây là mong cả 3, sao lại liên quan đến cầu một?

Đáp: Khi ra ngoài mà chẳng thấy, tức có chốn đi nơi khác. Xưa đã hứa cho 3, dùng sự mong cầu nầy để có ý khác. Đây chính là được ý đầy đủ thứ nhất. Hoặc dùng tâm cung kính, tất cả đều đến nơi ta. Một là bỏ nhỏ, ưa lớn. Căn cơ lớn ấy là cảm nơi Phật; cho nên nói rằng đến chỗ Phật. Bây giờ làm rõ chỗ những kẻ không có cơ duyên đến chỗ Phật, lại cũng dùng thân để đến. Như vô lượng nghĩa nói 4 chúng vây quanh chắp tay cung kính, tâm muốn nghe đầy đủ đạo. Gặp nơi các Đức Phật nghe phương tiện nói pháp. Ở trong nầy đầu tiên có những người chưa điều phục, thọ nhận thực hành Tam Tạng, lục độ cùng với Thông, Biệt và Tam Giáo phương tiện. Do sự điều phục nầy thuần thục, làm cho các chướng kia tiêu trừ và các cơ duyên bộc phát, mà cầu nên việc lớn.

Từ „Ngã tức tác thị niệm“ trở đi; hai hàng một câu làm rõ chỗ nghiệp chướng tiêu trừ, Phật hoan hỷ Phật vì đó mà ra khỏi Phật huệ. Ngày xưa chướng nặng chẳng có cơ duyên, chẳng được; nên liền nói Phật huệ. Ở giữa đó các chướng tuy có trừ mà lại chưa được nói. Nay cơ duyên đã phát chính thức nói đúng lúc. Ngày xưa chúng sanh căn cơ trì trệ, trí ít, hay sợ hãi và hủy báng Phật Pháp; nên bị đọa vào đường ác. Cho nên chưa đúng lúc để nói. Bây giờ căn tánh thuận lợi, ý chí to lớn, khi nghe tất liền tin hiểu; cho nên Phật hoan hỷ.

Vô úy nghĩa là chẳng sợ chấp vào nơi Tiểu để hủy báng Đại, khởi lên tội và bị đọa vào đường ác; cho nên nói là vô úy. Đối với Bồ Tát ở phần giữa và phần sau gồm 3 câu, chính thức hiển thật. Ngũ Thừa là từng đoạn, chẳng phải đi thẳng, Thông, biệt, biên, bạn chẳng phải đi thẳng. Nay tất cả xả bỏ biên khúc kia, hay nói ngay thẳng là một đạo.

Từ „Bồ Tát khai thị pháp“ trở đi; gồm một hàng, làm sáng tỏ thọ nhận việc làm chỗ ngộ nhận. Lục độ thông qua hai Bồ Tát. Đầu tiên khi nghe nói lược về sự loạn động; ngày xưa chấp chặt cho đến nay thì nghi ngờ; nay tất cả đều trừ đi. Chẳng riêng Bồ Tát, Nhị Thừa cũng lại như thế. Khi nghe Thanh Văn tất cả đều muốn làm Phật. Ngày xưa dạy cho biết rằng chẳng nói Nhị Thừa muốn làm Phật; nay thực hành cùng thọ ký. Thọ ký há riêng của Nhị Thừa và trừ nghi há riêng của Bồ Tát. Tương tức tồn tại cả hai bổ sung cho nhau.

Hỏi: Bồ Tát sao còn nghi những gì?

Đáp: Trong Tam Tạng nói rằng: Tam Tăng chưa đoạn hoặc một đoạn, liền nhập vào chơn. Thông giáo nói Bồ Tát đoạn chánh lưu tập hết, liền thành Phật. Đầu tiên nghe nói lược qua và tất nhiên gọi đây là phương tiện. Xưa kia chơn ấy thành cũ và trí ấy an ổn tự tại. Lại nữa Tam Thừa đồng học một đạo, với ý gì lại có khác biệt. Nay nghe Pháp Hoa tảo trừ những nghi ngờ, không thể cho những mầm mống ấy còn cũa.

Từ „Như tam thế chư Phật“ trở đi; phần thứ 4 có 5 hàng rưỡi, phần tụng bên trên tán thán pháp hy hữu ấy. Chẳng có việc chánh đáng nào mà lại thấp kém, chẳng hư dối và dùng thí dụ để làm căn bản. Tựu chung ở đây có 2 phần. Hàng đầu tụng phía bên trên như pháp vi diệu nầy. Diệu Pháp ấy chính là quyền và thật. Như ba đời chư Phật thường hay chỉ dẫn như chư Phật đã dùng đến quyền. Quyền ở đây chính là chỉ dẫn nghi thức về sự việc. Nói pháp không có phân biệt là hướng dẫn giống như chư Phật hiển bày sự thật. Sự thật ấy tức là ngôn ngữ của đạo dứt trừ, há còn lại nghi thức sao. Lại nữa quyền và thật gốc ấy vốn chẳng có sự phân biệt. Vì độn căn tiểu trí phân biệt về quyền và thật. Nay lại nơi ngộ và nhập. Một và ba thì chẳng phải hai, liền đó rõ biết Phật nói ba hay một chẳng phải là không phân biệt. Tất cả chư Phật đều như vậy, sao riêng nơi mình sao?

Từ „Chư Phật dữ xuất thế“ trở đi; gồm 4 hàng rưỡi, lúc tụng bên trên được nói như vậy. Bên trên đưa ra hoa Ưu Đàm để tụng về việc nói lại của chư Phật cùng với việc xuất thế của 2 câu. Từ xa xưa kia đã có Phật ra đời.

Đây nói về cái khó của con người, làm cho việc ra đời có 2 câu. Ở đây nói về pháp khó, như ngày nay Phật ra đời, hơn 40 năm mới bắt đầu hiển bày sự chơn thật v.v…

Vô lượng vô số kiếp gồm 2 câu. Ở đây đưa ra việc nghe pháp là khó, như việc trôi nổi trong 5.000 năm. Phạn âm nơi tai mà bị vượt khỏi để đi nơi khác. Việc nghe ấy chẳng khó sao?

Người hay nghe pháp nầy gồm 2 câu, đưa ra việc tin tưởng, thọ nhận thật là khó. Tất cả chúng chỉ có Thân Tử (Xá Lợi Phất) là thành tựu như trước. Kẻ bậc trung và bậc hạ tuy có nghe đấy; nhưng chưa thể rõ biết. Đưa lên hoa Ưu Đàm thí dụ như bên trên có 4 cái khó. Hằng cùng nghe với nhau thì khó có cái gì là không thể giải được.

Từ „Nhữ đẳng vật hữu nghi“ trở đi; phần thứ 5 có 2 hàng rưỡi. Phần tụng bên trên chẳng hư vọng lại chia làm 2. Một hàng rưỡi đầu tiên ấy chớ đối với người khả tín mà lại sanh ra nghi ngờ.

Kế đến từ „Nhữ đẳng Xá Lợi“ trở đi; gồm một hàng; chớ đối với việc tin pháp mà khởi lên sự nghi ngờ.

Pháp Vương ấy là người làm vua nói chẳng có hai. Phật là vị pháp vương há lại dung chứa sự nói năng hư vọng. Phàm là phương tiện có thể là giả quyền. Chơn thật há là vọng chăng. Nghe Pháp Vương chớ có sanh nghi.

Từ „Nhữ đẳng Xá Lợi Phất“ trở đi; gồm 7 hàng, chẳng tụng về lòng tin đôn hậu; đây chính là trong chương Thích Ca, khuyến khích lòng tin và hoằng truyền kinh điển là ý nầy. Câu văn nầy lại chia ra làm hai. Đầu tiên 5 hàng rưỡi sự hoằng truyền kinh điển khiến cho việc làm nầy là nguyên nhân. Kế đến một hàng rưỡi lược nói về việc thọ ký. Hàng đầu tiên làm cho việc mến mộ cái quả nầy là nguyên nhân của việc làm, tất nhiên là việc hoằng truyền kinh điển.

40 năm hơn chứa nơi tâm Phật; người khác chẳng ai biết; nên gọi đây là bí. Một thừa đi thẳng ngay vào đạo để tổng nhiếp vạn loại; cho nên nói là tinh yếu.

Từ „Ngũ trược ác thế“ trở đi; gồm một hàng, giải thích sự bí mật, tinh yếu, làm sáng tỏ cái nghiệp chướng nặng nề của con người và rốt cuộc chẳng thể rõ hết. Do vậy khiến cho Như Lai bí mật, chẳng tuyên nói lời vọng.

Từ „Đương lai thế“ trở đi; gồm 2 hàng, làm rõ chỗ cái thể của việc hoằng truyền kinh điển. Hàng đầu làm rõ chỗ chẳng lành của con người, chớ vì đó mà nói. Sau đó làm rõ chỗ người lành thì nên vì đó mà nói.

Từ „Xá Lợi Phất“ trở đi; gồm một hàng rưỡi, 2 câu kết có 2 nghĩa. Hàng đầu kết về bí yếu. Làm sáng tỏ pháp nầy như trước dùng vạn ức phương tiện, sau đó mới chỉ cho sự chơn thật. Nửa hàng sau là kết lại phần hoằng truyền cái thể của kinh. Điều nầy chẳng thể do sự học tập mà chẳng thể liễu giải điều nầy được. Kết luận chánh về kẻ chẳng lành thì chớ nên nói. Cả đối với việc học tập, tức là hay rõ biết. Đây lại có thể nói được.

Từ „Nhữ đẳng khải dĩ tri“ trở đi; một hàng rưỡi lược nói về việc thọ ký. Bên trên làm rõ 3 câu; luận về việc có thể liễu giải nầy. Trong ấy một câu làm rõ chỗ không hoặc. Bên dưới nữa bài kệ làm rõ được sự thọ ký nầy, liền có sự giải rõ, không có nghi hoặc. Ngay đấy nên hoan hỷ làm Phật. Trong nầy việc thọ ký khai mở bên dưới với Thân Tử được thọ ký làm căn bản. Trong đây sự hoằng truyền kinh điển khai mở cho đến bên dưới mệnh lệnh cho Thân Tử phần lưu thông tạo ra căn bản.

Cái ý cũ như việc nầy, nay làm sáng tỏ từ „ngũ trược trở đi“ phần thứ 6 có 6 hàng, tụng bên trên, giảng lược việc tin tưởng đôn hậu của mọi người. Phía bên trên có 4 câu văn nầy. Gần mà chẳng tụng. Lại chia làm hai. Ba hàng đầu tụng về sự giảng lược của chúng. Kế đến 3 hàng sau tụng về sự tin tưởng đôn hậu. Ngũ trược gồm một hàng. Tụng bên trên giảng lược, chẳng phải là Đệ Tử Phật. Người nào nếu vui về cái dục ấy thì việc làm của ma nghiệp. Cho nên đủ sự giảng lược. Câu văn bên trên duyên vào Niết Bàn, hẳn chẳng phải là Phật Tử. Câu văn nầy thì duyên vào sanh tử. Vậy đâu là Phật Tử; hỗ tương cho nhau một cách đơn giản, chẳng phải như thế sao. Cuối cùng là chẳng cầu con đường Phật. Bên trên tụng đơn giản về Tăng Thượng Mạn. Thượng Mạn ấy là chưa được pháp thượng; nghĩa là được pháp cao thượng. Cho nên người nầy chẳng cầu con đường Phật. Về đời sau người ác có một hàng; tụng bên trên về Như Lai sau khi diệt độ đã giải rõ. Người nầy khó được vậy. Về tàm quý (xấu hổ) thanh tịnh gồm một hàng. Bên trên tụng rằng nếu gặp được các vị Phật thì liền được giải rõ. Kế đến 3 hàng tụng bên trên về lòng tin đôn hậu. Nếu chẳng tin về pháp nầy thì chẳng có nơi nầy. Một hàng rưỡi ban đầu thuộc về lòng tin đôn hậu nơi quyền. Kế tiếp một hàng rưỡi về lòng tin đôn hậu nơi thật. Thật và quyền không có nghi, tự rõ biết chỗ làm Phật v.v…

 

Giải thích về phẩm Thí Dụ

Trước tiên giải thích tổng quát. Thí đây là tình huống nầy và Dụ đây là huấn dụ rõ ràng. Thác ở đây so sánh với kia nói ít, dạy sâu. Phía trước rộng làm rõ về 5 vị Phật bằng văn Trường Hàng và Kệ Tụng. Kẻ thượng căn lợi trí khi nghe đầy đủ, liền được ngộ. Kẻ trung và hạ sanh vào chỗ mê; cho nên chưa đạt được. Lòng đại bi ấy chẳng kỷ xảo mà trí huệ lại vô biên. Dùng sự việc cây động để nói về gió và quạt để dụ cho mặt trăng. Làm cho việc ngộ nầy được giải rõ; cho nên nói là Thí Dụ.

Giải thích thêm: Dùng thế pháp để so sánh với pháp xuất thế. Nhơn ấy đối với việc gặp gỡ, có nghe mà chưa gặp, có sự dũng mãnh hoan hỷ. Như trong kinh thế gian ví như cha con để dụ cho xuất thế gian như thầy trò. Lại nữa dùng thế sanh pháp so sánh với xuất thế sanh pháp, làm cho lợi lạc âm thanh của Phật để dạy dỗ, chẳng mất đi Đại Thừa.

Như kinh nói người cha rõ biết cái tâm trước của các con; mỗi mỗi đều có chỗ ưa thích đồ chơi. Lại nữa dùng thế diệt để so sánh với xuất thế diệt. Tuy được vô lậu; nhưng nghe lại cũng trừ được phiền não. Như kinh nói: ta là cha; nên đánh bạt các khổ nạn, làm cho miễn trừ đi sự thiêu đốt. Lại dùng cuộc đời chẳng sanh chẳng diệt so sánh với xuất thế chẳng sanh, chẳng diệt, làm cho sự an trụ nầy ở trong thật trí, ta nhất định sẽ làm Phật. Như trong kinh, lên được chỗ quý hóa, lên thẳng nơi đạo tràng. Nên biết rằng Phật dùng một âm thanh để nói Thí Dụ. Sự xảo thuật ấy làm cho ở giữa hoặc ở phía dưới đều được lợi ích của Tứ Tất Đàn. Cho nên nói là phẩm Thí Dụ vậy.

Về giáo thì giải thích rằng: Ý Phật tán thán căn bản về Phật Thừa. Vì vật chẳng sâu tìm nhớ nghĩ việc trước về lòng đại bi phương tiện của Phật. Ở nơi Lộc Uyển xưng tán 3 xe. Nhị Thừa dùng hạ và trung tự mình rõ biết ân đức, chẳng cần với người. Bồ Tát dùng xe trâu mang họ ra khỏi lửa; cho nên gọi là Ma Ha Tát. Đây là thí dụ trong Tam Tạng giáo vậy. Lại nữa cả 3 người đồng sợ sự đốt cháy và khi nghe âm thanh như thế liền chạy khỏi, chẳng hề quay lại. Duyên Giác giống như nai mẹ luôn ở bên con. Còn Bồ Tát như voi lớn, lấy thân để che tên bắn, khiến chúng ra khỏi.

Kinh Niết Bàn nói rằng: Thỏ và ngựa dùng để Thí Dụ trong Thông và Giáo. Phát tâm với Tam Thừa gần đây. Nương vào cái lý cạn, trí huệ yếu kém, đoạn trừ thông hoặc, chẳng thể hết sạch tận đáy; không phải Ba La Mật. Còn Bồ Tát thì phát tâm từ xa xưa, lý sâu và trí vững, đoạn trừ biệt hoặc, sâu xa tận cùng của cội rễ về tánh.

Đại Phẩm nói rằng: Nhị Thừa như một đốm lửa. Còn Bồ Tát như ánh sáng mặt trời. Điều nầy thí dụ cho Biệt Giáo. Lại nữa từ nguyên thủy thấy thân của ta, nghe chỗ ta nói, tất cả liền tin nhận và vào trí huệ của Như Lai. Như với những người nầy thật dễ hóa độ, chẳng làm cho Như Lai sanh ra mệt nhọc.

Trong Hoa Nghiêm nói: Như sự việc ấy chơn thật thì chẳng cần thí dụ. Vì những người chưa vào được; nên hơn 40 năm liền dùng những phương tiện khác, giúp cho hiển được nghĩa đệ nhứt, làm cho mặt trời ở nơi thành vua quyết định nói Đại Thừa, để làm cho tất cả khai, thị, ngộ, nhập trí huệ của Phật. Chẳng làm cho một người nào riêng được diệt độ. Giống như bây giờ, như lúc ban đầu; như bây giờ, chẳng có hai và chẳng có khác. Những kẻ thượng căn lợi trí khi nghe, liền có thể tỏ rõ. Chẳng làm cho Như Lai sanh ra mệt nhọc, lại chẳng cần phải thí dụ. Chỉ vì bậc trung và hạ hay vọng động chấp trước và sanh nghi, do dự nơi cửa đạo, liền vì đó mà làm cho ánh sáng mặt trời như xe lớn làm thí dụ, để được lợi ích.

Đây gọi là Viên Giáo thí dụ. Bổn Tích quán tâm thí dụ có thể rõ được, chẳng cần ghi lại nữa v.v…

Thuyết pháp có 5 đoạn kinh văn. Phần một bắt đầu xong với 4 dụ chưa xong. Phẩm nầy ở tại Chư Thiên nói kệ sau đó và nhà lửa thí dụ trước đó. Theo kinh thì các quyển đều giải thích lúc ban đầu.

Có người lại nói: Kẻ phát khởi trung căn, nằm ở nơi phần đầu của quyển thứ hai, như sáu tướng lành khi hỏi và nói trong khi nói pháp và tạo ra lời tựa. Rõ biết được chỗ ghi nhớ cho nên nói thí dụ làm lời tựa. Người nầy tận tình ở ngay sau khi thuyết pháp. Kẻ trung căn chẳng thể ngộ. Cho nên sự lãnh hội nầy đứt đoạn, lãnh hội chỗ nghe thuật lại mới rõ biết. Văn Trường Hàng thì lãnh hội cùng giải bày nói chung lại. Trong kệ thì lãnh và giải, mỗi mỗi rõ riêng; cho nên nói rằng lãnh giải từng phần. Văn ấy lại có hai. Một là những nhà chú thích kinh thuần thục và hai là Thân Tử (Xá Lợi Phất) tự trần tình. Thuần thục cũng lại có hai. Nghĩa là bên trong thì rõ mà bên ngoài thì nghi. Nội giải ở bên trong tâm; nên gọi là niềm vui. Vui ấy động nơi hình thú; nên gọi là dũng dượt. Từ con người hiền thục ấy nghe diệu pháp liền được sự lãnh hội vi diệu. Nếu gặp ngay một hạnh, liền được hân hoan. Hà huống là 3 niềm vui đều đầy đủ mà chẳng thể vọt lên (dũng dượt).

Câu văn cho biết rằng: Từ Thế Tôn mà nghe được pháp âm nầy thì tâm liền hoan hỷ, trong ngoài hòa hợp cho đến vui vẻ, liền đó thế giới lại giải bày. Lại cải đổi nhỏ thành lớn. Từ bỏ nghèo hèn nơi am cốc mà thọ nhận gia nhập giàu có.

Câu văn cũng giải thích rằng: Ngày nay rõ biết mình thật là Phật Tử; cho nên vui mừng. Đây là giải thích về người. Lại nữa lo lắng hối hận, song còn nghi ấy khó trừ; trong ngoài đề phòng chướng ngại; nên mới được rõ ràng.

Văn cũng cho biết: Ta đã được lậu tận, khi nghe liền trừ ưu não; cho nên hoan hỷ. Đây là giải thích việc đối trị. Lại nữa chỗ Phật Tử được thì liền được và rồi tất cả đều được. Câu văn cũng nói: An trụ nơi thật trí, ta định sẽ làm Phật. Đây là giải thích về nghĩa đệ nhất. Theo giáo thì: Phàm là hoan hỷ thì niềm vui ấy nhập vị, mà một vị A La Hán ra khỏi 3 cõi u tối phan duyên, phá trừ tứ trụ tứ quả đối lại với việc hại chẳng gặp được sự lợi lạc; nên chẳng vui. Nay nói là hoan hỷ, quyết chẳng phải là cái hoan hỷ của thế gian. Nếu khổ công nhẫn chịu thì sẽ làm rõ chỗ phát khởi. Cứu cánh vô học thì trước đó đã được rồi; nay chẳng cần vui thêm nữa. Nếu 3 người cùng giống nhau thì lấy vô ngôn để nói đạo. Thể ấy bẻ gãy; tuy khác với việc chứng không là một. Một ấy là sự vui vẻ lâu dài đã được rồi, lại chẳng cần làm cho vui thêm nữa. Hai là không quán ấy để chỉ cho phương tiện đạo và giả quán ấy là cái nhân của Nhị Thừa. Không quán ấy đối với chỗ phàm phu lo lắng, qua khỏi nhị biên ác mới được hoan hỷ lớn. Nương vào chỗ viên ngộ sơ phát tâm trụ mà gọi là hoan hỷ trụ. Sơ hạnh lại cũng còn gọi là hoan hỷ hạnh. Sơ địa lại cũng còn gọi là hoan hỷ địa. Thân Tử là bậc thượng căn lợi trí, tất nhiên là siêu nhập và liền được hoan hỷ. Giả sử chẳng siêu nhập thì cũng có tên là hoan hỷ. Điều nầy tất cả đều theo Thông và Biệt (giáo) giải thích như vậy.

Bổn Tích giải thích rằng: Thân Tử (Xá Lợi Phất) đã thành Phật từ lâu xa hiệu là Kim Long Đà. Xưa kia trợ giúp Đức Thích Ca đứng bên trái, tượng trưng cho đệ tử có trí tuệ. Đầu tiên Ngài từ ngoại đạo bỏ tà quy chánh; đây chỉ cho nhũ vị (vị của sữa) hoan hỷ, làm lợi ích cho phàm phu. Kế đến chỉ cho lạc vị hoan hỷ, làm lợi ích cho hiền thánh. Kế đến để chỉ cho Sanh Tô, Thục Tô hoan hỷ, làm lợi ích cho các vị Bồ Tát. Nay làm chất đề hồ để nhập vào Phật tri kiến hoan hỷ, làm lợi ích cho kẻ học Phật đạo. Như những sự hoan hỷ nầy, tất cả đều là chỗ xa xưa vậy. Quán Tâm giải thích chẳng cần nhắc lại v.v…

Thục ngoại nghi liền khởi thân, chắp tay; nên gọi là thân ấy lãnh thọ và giải rõ. Ngày xưa cho rằng quyền và thật chia ra làm 2, như bàn tay chẳng chắp lại. Nay thì giải rằng: Quyền tức là thật, như hai bàn tay chắp lại.

Hướng về Phật nghĩa là: Xưa kia quyền ấy chẳng phải là cái nhơn của Phật và thật ấy chẳng phải là cái quả của Phật. Nay thì giải thích rằng: Quyền ấy tức là thật, thành ra cái nhơn của Đại Viên. Nhơn ấy tất nhiên ở nơi quả; cho nên nói là chắp tay hướng về Phật.

Chiêm ngưỡng tôn nhan là biểu hiện sự giải bày về thật nầy. Thật ấy là Phật cảnh; chẳng phải pháp phương tiện. Chiêm ngưỡng tôn nhan, không còn suy nghĩ gì nữa là biểu hiện việc khai Phật tri kiến. Cái ý ấy rõ về thật lại cũng giải rõ về quyền, Thân ấy lãnh thọ nơi quyền, lại cũng giải rõ nơi thật. Sau đó ngồi qua một bên và bạch Phật về sự lãnh giải nầy. Nghĩa là Thân Tử tự giải thích. Câu văn nầy lại chia ra làm 2. Đầu tiên Trường Hàng có 2 bài kệ tụng. Câu văn đầu lại chia làm 3. Phần đầu là chương nói về sự hoan hỷ. Kế đến giải thích về 3 việc kết thành. Bây giờ từ chính nơi Thế Tôn ta thấy được thân Phật; cho nên nói là thân hoan hỷ. Nghe pháp âm nầy, nương vào nơi miệng của Phật để nghe và hoan hỷ; cho nên nói là miệng hoan hỷ, được điều chưa từng có. Đây chính là giải rõ về ý của ta về ý của Phật; cho nên nói là ý hoan hỷ. Đây gọi là chương tiêu biểu.

Kế đến từ „Sở dĩ giả hà“ trở đi; phần thứ 2 nầy giải thích về việc ngày xưa mất đi sự hiển thị thì nay lại được.

Từ „Sở dĩ giả hà đến vô lượng tri kiến“ làm rõ chỗ ngày xưa chẳng thấy Phật; nên mất. Phật ngày xưa khi làm Bồ Tát đã được thọ ký. Ta chẳng dự tính việc nầy. Ý nghĩa thấy Phật xa, tức là chẳng thấy Phật; cho nên thân chẳng hoan hỷ. Nghe pháp như vậy như mặt trời chiếu trên núi cao, nghe được nghĩa bí mật, hiển rõ chỗ điếc chỗ câm. Chẳng được đạo, nghe pháp như thế nầy. Chỉ trong những lời dạy của Phương Đẳng, nghe Đại Thừa Phật Huệ và nay chẳng đặc thù. Cho nên nói nghe như Pháp nầy.

Thọ ký cũng ở trong Phương Đẳng cùng với Bồ Tát thọ ký. Nhị Thừa chẳng dự tính được điều nầy, sâu làm tự cảm thương, suy nghĩ sự lợi ích, thanh tịnh gọi đó là trung; nghe về lớn, bẻ gãy nhỏ. Bên trong nghi ngờ mà bên ngoài thì xấu xa; gọi đây là sự cảm thương.

Mất tất cả tri kiến nghĩa là mất cái thấy của Phật nhãn, mất sự hiểu biết của Phật trí.

Từ „Thế Tôn cho đến phi Thế Tôn“ làm sáng tỏ chỗ ngày xưa làm mất việc chẳng nghe pháp. Tốt thì dùng nơi tâm, tâm thì chấp vào con đường nhỏ của núi rừng; tức là chẳng nghe pháp; cho nên miệng chẳng có niềm vui.

Ngã thường độc xứ nghĩa là suy nghĩ qua nơi đó. Cùng nhập vào pháp tánh ấy và chính thức ra khỏi việc nầy. Chấp vào chỗ nhập ấy là một lý. Sự nghi ngờ đối với Tam Giáo là những cửa có thể. Một lý ấy cùng giống với cái mất về tri kiến của ta. Tam Giáo ấy lại khác, mà Bồ Tát thì thọ nhận. Sự thọ nhận ấy tức là Như Lai có chỗ biên chấp và trở thành việc sai trái. Nay thuật lại điều mất mát nầy chính là nói về sự hối quá ấy. Dầu do nơi ta và do ta mê ở quyền thì làm sao đóng được cái lý của việc dạy ấy. Do ta hoặc nơi thật làm thế nào để đóng lại việc biên kiến nơi Phật. Theo sự tường thuật lại ngày xưa, chẳng ngưỡng vọng thâm tạ Như Lai. Đây chính là dẫn sự sai quấy tự quay về.

Từ „Sở dĩ giả hà cho đến mỗi tự khắc tích“ làm rõ cái ý không giải đáp được sự mất mát. Lành dùng sự chẳng chờ nói chỗ nguyên nhơn; tức là chẳng giải về cái thật. Lại nữa chẳng rõ biết phương tiện cho nên chẳng giải rõ về quyền. Giải không được cho nên cái ý không vui. Ngày xưa mất liền ảnh hưởng và nay lại được tự hiểu. Chẳng chờ nói chỗ nguyên nhơn là tự tích chứa, chẳng giải về cái thật. Chẳng giải rõ phương tiện là tự tích chứa, chẳng giải rõ được chỗ quyền. Chỗ nhơn duyên ấy có 2 nghĩa. Một là chẳng thọ trì chờ đợi như đối với trước. Hai là chẳng dừng lại sự chờ đợi đối với phía sau. Đầu tiên chiếu trên núi cao là làm rõ cho trí tuệ của ba chân lý. Gọi là được cái nhơn của Phật. Dùng điều nầy để chờ đợi đối với cái ta, mà ta đây chẳng thọ nhận, để mất đi như phía trước. Với chư Phật, pháp vĩnh cửu sau đó, cần được nói sự chơn thật. Ta chẳng dừng lại chờ đợi. Đối với cả hai điều nầy là khoảng không gian và từng là chấp nhỏ, chẳng giải rõ được về quyền và thật như câu văn, mà nay từ Phật cho đến kết thành với 3 niềm vui. Đầu tiên là kết và sau đó thành tựu. Từ Phật là kết thân nầy với niềm vui. Nghe pháp tức là kết miệng nầy làm vui. Đoạn các nghi hối là kết lại cái ý với niềm vui. Như vậy mới rõ được là chơn Phật Tử, gần Phật, nghĩa ấy thành tựu vậy. Từ miệng Phật sanh, kết thành nơi miệng. Từ pháp hóa sanh, tức là cái ý kết thành. Như đây câu văn hết, câu văn không còn, giải thích cái lý và cái lý ấy ảnh hưởng. Nên dùng Tứ Tất Đàn để làm mất câu văn.

Nay từ „Thế Tôn“ trở đi; là thế giới hoan hỷ. Từ „Sở dĩ giả hà“ cho rằng xưa mất sự hiển mà nay lại được. Đây chính là cái vui của người. Từ „Thế Tôn ngã tòng tích lại“ đối trị với cái vui. Từ „Kim nhật nãi tri“ trở đi; đây chính là nghĩa thứ nhất của niềm vui. Lại nơi tâm vui ấy làm sáng tỏ Tứ Tất (Đàn). Tâm hoan hỷ ấy dấy động niềm vui, thường chẳng gặp được. Niềm vui ấy động đến giác quán, lại động đến hình hài v.v…

Kệ nầy có 25 hàng rưỡi và chia ra làm ba. Hàng đầu tiên tụng về 3 niềm vui, đưa ra việc ta nghe cùng với việc được làm Phật. Từ „xưa đến nay“ trở đi; phần thứ 2 có 22 hàng, tụng lên để giải thích về 3 niềm vui. Lại chia ra làm 3. Một hàng rưỡi đầu tiên tụng về sự thấy Phật mà hoan hỷ. Văn Trường Hàng làm rõ chỗ mất tri kiến.

Trong việc tụng ấy làm rõ chỗ chẳng mất nơi Đại Thừa.

Bên trên luận về sự mất mát luận cứ xa xôi, tụng ấy luận với gần thì luận được, cùng với hiện tại.

Từ „Ngã xứ ư sơn cốc“ trở đi; phần thứ 2 có 11 hàng, tụng bên trên về việc chẳng nghe pháp. Lại chia làm 2. Chín hàng đầu tiên tụng phần bên trên về thân thời xa xôi; cho nên chẳng nghe. Kế đến „Ngã bản trước tà kiến“ trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng, phần tụng bên trên thuộc về pháp tánh. Cho nên chẳng nghe. Tà kiến là do chỗ đắm trước của phàm phu. Nhập vào pháp tánh thì đắm trước nơi Nhị Thừa, đều chẳng nghe pháp.

„Ngã thường ư nhựt dạ“ là sự sanh tử ở đêm Niết Bàn trở thành ngày. Trong sự sanh tử ấy lại có Niết Bàn. Vì sanh tử là việc bên ngoài. Nếu lúc ngộ được 2 việc nghi nầy thì sanh tử Niết Bàn đều là ban đêm. Khi nghi nầy được trừ đi, tức là ban ngày. Khi mặt trời lên thì 2 điều nghi kia đi khỏi. Lại nữa người đời có 2 loại. Một là như cỏ trưởng thành; hai là tập nhỏ làm lớn. Khi rõ sự tướng nầy thì liền vào chỗ yếu kém. Ví dụ như từ A Tỳ Đàm vào chỗ ưu việt hơn. Bồ Tát lại cũng như vậy. Đối với Hoa Nghiêm việc nhập ấy là sự hóa đạo; nên yếu kém. Ngũ vị thấm vào thì hơn hẳn.

Từ „Nhi kim nãi tự giác“ trở đi; phần thứ 3 có 9 hàng rưỡi. Phần tụng bên trên tâm được diệu giải về niềm hoan hỷ. Bên trên làm rõ chẳng chờ đợi chỗ nhơn duyên, chẳng giải rõ về phương tiện. Phần tụng ấy giải rõ được chỗ nguyên nhơn, lại giải rõ được phương tiện. Nghe sẽ được làm Phật tức là chỗ nguyên nhân. Nghe về 5 con đường Phật giống như giải rõ về ma và chẳng phải ma. Đây là sự giải bày về phương tiện. Hỗ tương sự hiển thị ấy một bên của chương về ngũ Phật. Tức là lãnh hội câu văn đây vậy.

Từ „Văn Phật nhu nhuyến âm“ trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng rưỡi, tụng phần kết thành bên trên như câu văn. „Lúc bấy giờ Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất, ta nay“ trở đi; phần thứ 3 thuật lại sự thành tựu và sự gián đoạn. Bên trên, Thân Tử (Xá Lợi Phất) tự trần tình được sự giác ngộ; nay Như Lai thuật lại việc liễu giải, chẳng hư vọng. Câu văn nầy có 3. Một là từ xưa gặp nơi chỗ dạy về Đại. Phần 2 quên đi sự chấp về Tiểu. Phần 3 nói trở lại về Đại. Sở dĩ dùng sự dẫn giải ngày xưa, hội tụ với việc dạy dỗ. Thuật lại việc thấy Phật là nhân duyên. Nếu muốn bên trong sự quên chấp về Tiểu ấy thì thuật lại việc ưu hối nầy là cái duyên của việc nghe pháp, trở lại nói về Đại. Thuật lại sự liễu ngộ giải thích ấy chẳng hư vọng. Thuật lại sự thành tựu 3 ý bên trên vậy.

Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói rằng: Thân vô thượng; nghĩa là tướng hảo, thọ trì vô thượng; nghĩa là tự lợi lợi tha, đầy đủ vô thượng. Nghĩa là mệnh kiến giới, trí huệ vô thượng. Nghĩa là tứ vô ngại, bất tư nghì vô thượng; nghĩa là 6 Ba La Mật, giải thoát vô thượng; hay hoại đi hai chướng, hành vô thượng. Nghĩa là Thánh hạnh phạm hạnh, lại là thân vô thượng gọi đó là Đại Trượng Phu. Sự thọ trì vô thượng gọi đây là Đại Từ Bi. Cụ Túc vô thượng gọi là đáo bỉ ngạn. Trí vô thượng gọi đây là nhứt thiết trí. Bất tư nghì vô thượng gọi là A La Hán. Giải thoát vô thượng gọi là Đại Niết Bàn. Hành vô thượng gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà.

Bồ Tát Anh Lạc phẩm thứ 13 nói rằng: Đạo ấy thanh tịnh, uế trọc chẳng phải là đạo. Đạo ấy nhứt tâm, nhiều tưởng chẳng phải là đạo. Đạo là tri túc; nhiều sự ham muốn chẳng phải đạo. Đạo ấy cung kính, kiêu mạn chẳng phải đạo. Đạo ấy kiểm soát ý chí, phóng dật chẳng phải đạo. Đạo ấy là hiển diệu, tự ẩn mình chẳng phải đạo. Đạo ấy liên thuộc, vô hạnh chẳng phải đạo. Đạo ấy là sự giác ngộ, ngu hoặc chẳng phải đạo. Đạo ấy là sự giáo hóa, xan tham chẳng phải đạo. Đạo ấy gần thiện hữu, tập ác ấy chẳng phải đạo. Như vậy các loại ấy minh chứng về con đường vô thượng đạo. Nay kinh dùng sự viên thông để làm vô thượng đạo. Hoặc biên, hoặc thứ tất cả do chỗ luận của kinh kia.

Đêm dài theo ta thọ học nghĩa là ngày xưa tuy sự hóa độ lớn nhưng chưa phá được sự vô minh. Do hoặc ấy che tâm, theo Phật thọ học, rõ hết nguyên nhân tuy xa mà dụ cho sự bất diệt. Huống là nay làm cho chơn ngộ ấy há hư sao? Cho nên đưa ra việc gặp giáo pháp, tường thuật lại sự thấy Phật chẳng ngoa.

Ta dùng phương tiện sanh vào pháp của ta nghĩa là cả 2 nghĩa đây đầy đủ. Nếu ngày xưa dùng sự hóa độ lớn thì nay sanh ra đại giải. Đây thuộc về ý đầu. Nếu làm cho miễn ác đạo thì quyền dùng Tiểu để dẫn dắt. Đây là cái ý thứ 2 vậy.

Từ „Ta xưa dạy ngươi chí nguyện Phật đạo; ngươi nay đều quên“ nghĩa là ở giữa đó bỏ Đại lấy Tiểu; nên giữa chừng đã quên mất. Nếu mà nay liền tự mình; nghĩa là đã được diệt độ rồi; tức là nay đã quên. Do ngươi đã quên nguyện lớn; tức là quen với Tiểu; nên có những ưu hối, mà được nghe pháp, tức là chẳng hư vọng vậy.

„Ta nay lại muốn làm cho ngươi nhớ lại bổn nguyện“ tức là thuật lại việc được giải thoát, chẳng phải việc hư vọng. Trước tiên là thí cho quyền giáo, thành tựu đoạn giữa của thiện nhỏ. Sau đó hiển chơn thật và tùy theo bổn nguyện nầy của tâm lớn vậy.

Từ „Ngươi ở nơi vị lai“ trở đi, là đạo lớn, đoạn thứ 4 nói về thọ ký. Ở trước Phật tự trần tình để được ấn chứng. Cho nên đã cùng với việc thọ ký. Nếu được giải lớn thì tự rõ biết được Phật. Vui với sự thọ ký đầy đủ. Sự thọ ký ấy có 4 ý. Một là từ xưa chỉ nhớ Nhị Thừa, mà làm cho nhớ nghĩ đầy đủ. Hai là trung, hạ chưa ngộ, dùng sự thọ ký không che khuất. Ba là làm cho kẻ nghe được kết duyên. Bốn là đầy đủ bản nguyện nầy; cho nên thọ ký vậy.

Có Trường Hàng kệ tụng. Trường Hàng ấy lại chia ra làm 10. Một là thời tiết; hai là hành nhơn; ba là đắc quả. Giải thích về 10 hiệu thì nhiều; chẳng nhớ một loại, chẳng hư vọng gọi là Như Lai. Phước điền tốt gọi là Ứng Cúng. Rõ biết pháp giới gọi là Chánh Biến Tri. Đầy đủ Tam Minh gọi là Minh Hạnh Túc. Chẳng trở lại gọi là Thiện Thệ. Rõ biết quốc độ của chúng sanh gọi là Thế Gian Giải. Chẳng có ai sánh bằng gọi là Vô Thượng Sĩ. Điều phục tâm của kẻ khác gọi là Trượng Phu. Vì con mắt của chúng sanh gọi là Thiên Nhơn Sư. Rõ biết Tam Tụ thì gọi là Phật. Hoại ma Ba Tuần gọi là Bà Già Bà. Bốn quốc độ; năm thuyết pháp; sáu kiếp gọi; bảy chúng số; tám thọ lượng; chín là Bổ Xứ; mười là pháp trụ xa gần tất cả như câu văn.

Đại Luận chương thứ 48 nói rằng: Xá Lợi Phất, chánh pháp 32 Tiểu Kiếp. Tam tai gồm đói khát, bịnh tật và chiến tranh. Chúng sanh mất đi gọi đó là Tiểu Kiếp. Lại ngay nơi thời tiết đó gọi là Tiểu Kiếp. Như nói kinh Pháp Hoa trong 60 Tiểu Kiếp, lại là con số về thời tiết. Chẳng phải Tam Tai kia mất mà vật bên ngoài là Tiểu Kiếp. Bài kệ có 11 hàng rưỡi; chia ra làm 2. Mười hàng tụng ban đầu, bên trên có 9 ý. Lược bớt chẳng tụng về Bổ Xứ. Câu văn dài ấy có việc cúng dường Xá Lợi. Sau đó có một hàng rưỡi, phần kết ấy ca ngợi. Một hàng đầu tiên tụng về sự được quả. Kế đến là cúng dường. Phần thứ 2, một hàng theo tụng về hành nhơn. Kế đến qua vô lượng. Phần thứ 3 có nửa hàng, siêu tụng kiếp danh. Kế đến là thế giới danh. Phần thứ 4 gồm một hàng rưỡi tụng về quốc độ tịnh. Tiếp theo về nước kia. Phần thứ 5 gồm một hàng rưỡi. Tụng về số lượng Bồ Tát. Kế đến là như thị đẳng. Phần thứ 6 có nửa hàng tụng về việc thuyết pháp. Kế đến là Phật vì Vương Tử trở đi; phần thứ 7 gồm 2 hàng tụng về thọ lượng. Kế đến từ Phật diệt độ trở đi; phần thứ 8 gồm một hàng rưỡi, tụng về pháp trụ gần, xa. Xá Lợi Phất quảng trở đi; phần thứ 9 gồm nửa hàng là cúng dường Xá Lợi Phất.

„Hậu Hoa Quang Phật“ trở đi; phần 2 có một hàng rưỡi là kết luận và tán thán. Hãy nên tự vui mừng, thành sơ nhập vào sự giải thoát của hoan hỷ vị. Ở địa vị Sơ Trụ có thể 100 vị Phật ở thế giới ấy làm Phật. Hành địa bội thị; phần thứ 5 gồm 4 chúng lãnh giải. Có Trường Hàng kệ tụng. Đầu tiên trải qua ngôi nhà quen biết cho chúng hoan hỷ. Kế đến là trần tình về việc cúng dường. Từ „Túc thị nhơn hạ“ trở đi; thuộc chánh lãnh giải. Lãnh ban đầu là khai về quyền. Nay cho đến chuyển tiếp là lãnh hiểu sự thật. Kệ ấy có 6 hàng rưỡi, chia làm hai. Đầu tiên hai hàng tụng phần trên là khai quyền và hiển thật. Sau đó 4 hàng rưỡi là tự thuật về việc được giải, tùy hỷ hồi hướng vậy. Chúng ta cũng lại như vậy. Như Thân Tử (Xá Lợi Phât) về việc lãnh giải. Như Thân Tử bị thuật thành. Như Thân Tử được thọ ký vậy.

Hỏi: Ca Diếp là vị Thanh Văn thanh tịnh, sao lại chưa được liễu giải? Trong tứ chúng người nào được ngộ trước?

Đáp: Tứ chúng trời người lại cũng đầy đủ ba loại. Thượng căn thì giống như Thân Tử. Trung, hạ có thể rõ biết. Lại giải rằng: Thân Tử, Ca Diếp cùng với quyền, thực hành. Kẻ trung và hạ chưa khai. Ca Diếp mãn nguyện chỉ cho sự giống nhau, chẳng giải. Tịnh Danh nói rằng: Chúng sanh chưa thuần và Bồ Tát lại cũng chưa thuần v.v…

Từ „Nhĩ thời Xá Lợi Phất bạch Phật“ trở đi; phần thứ 2 nằm ở đoạn lớn dùng thí dụ căn bản để nói. Văn ấy lại có 4 phẩm. Phẩm thứ nhất nầy đúng là nói thí dụ để khai ba và hiển một. Phần tín giải; những người trung căn được hiểu rõ. Đức Như Lai ví dụ về cỏ thuốc; thọ ký và quyết nghi. Tất cả 4 điều nầy đều nói về thí dụ. Đoạn phía dưới phần thứ 4 tất cả đều nói về nhân duyên. (Kiều) Trần Như rõ được nhân duyên bị trói buộc, rồi lãnh hội. A Nan đã chứng minh nhân duyên của Không Vương mà nói rộng ra chỗ thọ ký v.v…

Lại nữa: Ví dụ về thuyết pháp, trong đó có những người thuộc trung căn, tứ chúng đều hoan hỷ, đã làm cho bất cứ người nào cũng hiểu về ngôi nhà ấy mà lược nói. Ví dụ thứ 2, trước sau đều có thể rõ. Câu văn phía sau nằm ở phẩm Pháp Sư v.v… Câu văn nói về thí dụ ấy có hai. Một là thỉnh, hai là đáp. Thỉnh ấy lại chia ra làm ba. Một là tự thuật chẳng nghi. Hai là thuật ấy giống với mặt trái có hoặc. Ba là phổ cập đến tứ chúng. Tự thuật như câu văn, giống như mặt sau, nghĩa là đồng hành. Vì nhớ lại xưa; cho nên thỉnh. Tứ chúng ở đây là cảnh hóa ra, làm cho đại bi mới được vận dụng, tức liền có sự thỉnh cầu.

Phật thường giáo hóa nghĩa là chấp vào tam giáo lúc xưa; mà nay thì ở trước Phật. Chấp xưa thuộc về một lý vậy. Ngày xưa nói ba; tức là cứu cánh. Nay lại nói một, làm sự chân thật, dự biết về việc mê; cho nên nói rằng: Mọi việc đều rơi vào chỗ nghi hoặc. Có người nói rằng: Thân Tử (Xá Lợi Phất) cũ mới đều có nghi cả hai. 1.200 sự dừng lại ấy cũng có cái nghi mới. Nay thì rõ biết là kẻ thượng căn thì ít nghi. Kẻ trung hạ (căn) lại nghi nhiều, sao có thể giải thích ngược lại?

Từ „Lành thay Thế Tôn“ trở đi; vì tứ chúng đồng thỉnh vậy. Nhân duyên nghĩa là nhơn duyên trước 3 sau:

1. Từ „Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phất“ trở đi. Lần thứ 2 Phật đáp. Câu văn nầy chia làm ba. Một là phát khởi; hai là thí dụ; ba là khuyến tin. Phát khởi lại chia ra làm 2. Một là đè nén; hai là lấy đi. Đè nén làm cho mạnh hơn và kéo theo làm cho mau hơn.

Từ „Ngã tin bất tín“ trở đi; dùng để chỉ cho cái quyền rõ ràng bên trên. Tất cả đều vì bồ đề, chỉ cho bên trên được hiển thật. Tất cả đều hóa thành Bồ Tát. Nếu là quyền, nếu là thật thì tất cả đều vào Phật Đạo ở vô trụ Niết Bàn. Như bên trên đã nói rõ. Sao lại còn chấp vào lời dạy mà mê mờ chẳng thể rõ biết. Như việc nầy chứa đựng; nghĩa là câu văn nầy bị đè nén.

Từ „Rồi Xá Lợi Phất nay sẽ“ trở đi; kế tiếp làm cho an ổn. Phía trước thì gạt ra, rối cắt đứt đi. Lo sợ làm cho tự chìm sâu xuống. Bây giờ với thí dụ nầy hứa rằng sẽ làm sáng tỏ nghĩa nầy. Kẻ nào hay giải được thì được xưng tán là kẻ trí. Có 2 thí dụ nói bằng văn trường hàng, kệ tụng. Văn trường hàng khai dụ và sau đó hợp dụ lại. Khai dụ chẳng giống nhau như bên trên đã nói về điều nầy. Nay lại chia làm hai. Một là tổng; hai là biệt. Tổng thí dụ như trong chương Thích Ca, nay ta cũng như vậy, gồm 2 hàng kệ lược tụng dùng để khai, quyền, hiển, thật. Biệt thí dụ có trong chương Thích Ca nói: Ta dùng Phật nhãn để quan sát xem thấy, gồm 41 hàng rưỡi kệ, rộng tụng khai, quyền, hiển, thật có 6 ý. Tổng dụ có 6.

Một là Trưởng Giả; hai là nhà cửa; ba là một cửa; bốn là 500 người; năm là lửa cháy; sáu là 30 người con. Trưởng Giả ở đây dụ cho ta. Ta đây tức là một hóa thân của Đức Thích Ca. Nhà lửa ở đây dụ cho chỗ an ổn nằm bên trên 3 cõi chẳng an ổn. Một cửa đây dụ cho chỗ tối thượng tuyên nói cửa vào chốn Phật. 500 người dụ cho chúng sanh. Lửa đốt cháy dụ cho bên trên đối với việc các pháp chẳng an ổn của ngũ trược, bát khổ. 30 người con ấy dụ cho việc rõ biết tánh dục của chúng sanh, tam thừa hành nhơn.

Dụ về Trưởng Giả lại chia làm 3. Một gọi là hạnh; hai là vị hiệu và ba là đức nghiệp. Danh như khách và hạnh như chủ. Hạnh ấy có chỗ thân cận, gần gũi gọi là gần xa. Cho nên đưa ra nơi chốn dùng hiển danh cho việc làm vậy. Đối với cương lĩnh của quốc gia xa xôi cũng như việc cai trị nơi làng ấp thôn xóm lân cận gần gũi.

Trưởng Giả ở đây gọi là di hành ở 3 nơi nầy. Gần chẳng thấy cái tiếp cận nhỏ nhặt, xa chẳng ôm lấy chỗ cao xa. Miệng chẳng nói lời phân biệt, thân chẳng làm việc phân biệt, ý chẳng chọn pháp. Gọi đây là những hành tướng và xưng là người lớn chơn thật. Bên trong thì hợp với Như Lai tam nghiệp, tùy theo trí tuệ và việc làm nầy gọi là tùy theo căn cơ mà giáo hóa. Gọi đây là việc xưng tán cũng như nghe đến cái đức đầy đủ khắp nơi. Ngày xưa dùng mười phương hư không, từ bi là chỗ thể nhập vào; nơi đó gọi là quốc gia; gồm 3.000 thôn ấp. Một tứ thiên hạ gọi là một làng. Lại lấy đại thiên làm quốc gia. Trong đó có trung thiên làm ấp và tiểu thiên làm làng. Nay tất cả đều chẳng còn dùng đến nữa.

Trong Đại Luận quyển 60 nói rằng: Nhu, thuận, nhẫn là làng; vô sanh nhẫn tam Bồ Đề là thành. Nhơn quả cùng chung là lời thệ nguyện. Bây giờ trải qua việc thường dùng thì cái quả của đức ấy, chính là lời thệ. Thật báo độ, ấy là quốc gia; hữu dư độ, ấy là ấp; đồng cư độ, ấy là làng. Từ bổn thùy tích, nhiếp tích khác với bổn. Gọi hành tướng và nói là chẳng khác với ông khách cũng như chủ. Vẽ nên bờ cõi của 3 nước, lấy 2 cột làm hiệu và chia ra làm 3. Một là Trưởng Giả trong đời; hai là Trưởng Giả xuất thế; ba là quan tâm Trưởng Giả. Thế ấy gồm 10 đức. Một là dòng dõi cao quý; hai là địa vị cao sang; ba là giàu có lớn; bốn là uy lực; năm là trí tuệ sâu dày; sáu là tuổi cao; bảy là việc làm trong sạch; tám là đầy đủ lễ nghĩa; chín là được xưng tán và mười là ở dưới hướng về. Tánh ấy như Tam Hoàng Ngũ Đế. Nhà có người hầu. Vị ấy như là một ông Tướng. Còn việc giàu có như nhiều vàng, bạc. Uy đức nghiêm trang chẳng phải chẳng cung kính được. Trí ấy uy vũ, có quyền uy siêu bạt. Tuổi thọ như cây cao. Còn việc làm chẳng có việc gì là không như lời nói. Lễ ấy chính là sự điều độ theo thuật xử thế ở đời. Bên trên là chỗ cung kính của người. Bên dưới nghĩa là 4 biển đều quay về. Nếu 10 đức ấy mà đầy đủ thì gọi là Đại Trưởng Giả.

Còn xuất thế Trưởng Giả nghĩa là được sanh ra trong 3 đời chơn như thật tế như Phật. Thành tựu với đạo nghiệp 10 hiệu chẳng gì sánh được. Pháp và tài vạn đức, tất cả đều đầy đủ; mười lực hùng dũng hàng phục tà ma bên ngoài. Một tâm ba trí chẳng có đâu là không thông suốt, sớm thành chánh giác từ xa trở lại đây. Ba nghiệp tùy theo trí vận động, chẳng mất đi. Uy nghi đầy đủ như Phật, tâm như biển rộng. Mười phương các cõi đều xưng tán. Bảy loại phương tiện đến để nương nhờ. Đây gọi là xuất thế Phật Trưởng Giả.

Tam quán tâm nghĩa là trí tuệ từ thật tướng mà xuất ra. Sanh nơi nhà của Phật thì chủng tánh chơn chánh. Tam hoặc chẳng khởi, tuy rằng chưa có phát ra sự chơn thật. Rồi mặc áo Như Lai, gọi là tịch diệt nhẫn. Tam đế hàm tàng tất cả các công đức. Nhờ huệ chánh quán mà hàng phục ái kiến. Trung đạo song chiếu, quyền thật lại rõ ràng. Xưa nhờ tích tụ những căn lành và hay tu về quán nầy và quán nầy ra khỏi trên bảy phương tiện. Quán nầy quán về tâm tánh, gọi là thượng định. Tức là tam nghiệp chẳng sai. Trải qua các duyên cũng như cảnh, uy nghi chẳng mất, nên quán như vậy; thì tín sâu và có tướng rõ biết. Chư Phật đều vui mừng. Tán thán kẻ giữ gìn pháp nên trời rồng và 4 bộ chúng đều cung kính cúng dường

Câu văn phía dưới nói rằng: Phật Tử trụ ở đất nầy tức là Phật thọ dụng. Kinh hành và ngồi nằm, liền gọi người nầy là Phật, há chẳng gọi là quán tâm Trưởng Giả. Bây giờ dùng 10 đức ấy chiếm đầy đủ ý nghĩa nơi kinh, mà thiếu một câu văn.

Quốc, ấp, tụ lạc có một vị Trưởng Giả. Ba nơi gọi là lớn, há chẳng phải vì tộc họ cao quý. Trưởng ấy há chẳng phải địa vị cao. Suy ấy há chẳng phải là già. Tài phú vô lượng há chẳng phải là quá đầy đủ. Có nhiều nhà cửa ruộng vườn phân chia đồng đều, há chẳng phải là có trí tuệ sâu xa. Có nhiều nô bộc há chẳng phải là kẻ có thế lực. Nhà nầy to lớn, há chẳng phải là vị Thầy đức hạnh. Nhưng chỉ có một cửa, há chẳng phải dạy bảo răn người chỉ có một con đường. Có nhiều người làm tức là có kẻ qui thuận. Tuy nhiên thiếu một câu văn nói về việc kính phục người bên trên. Nay dùng chữ lớn để thêm vào. Chỗ biết của người lớn ấy gọi là đại.

Từ „Người nầy già suy“ trở đi; có 3 sự ca ngợi về đức nghiệp. Đức ấy có trong và ngoài. Trong ấy chính là trí tuệ; ngoài ấy tức là tài vật. Tuổi cao, quảng bát xưa nay dụ cho trí đức của Đức Phật. Già suy ấy của căn và ý chí thuần thục ấy dụ cho đoạn đức của Phật. Của cải giàu có ấy dụ cho cái đức nằm bên ngoài. Vô lượng ấy tổng dụ cho vạn đức vậy. Nhà cửa thì dụ riêng. Đất đai ở đây có thể dưỡng nuôi mạng sống, dụ cho thiền định cùng Bát Nhã. Nhà cửa có thể là chiếc thang của thân, dụ cho thật cảnh làm chỗ thác của trí. Lược nói có 18 cửa không. Nói rộng thì có vô lượng cõi không. Nếu luận về phước đức thì chẳng có hạnh nào mà chẳng tu. Nếu luận về trí tuệ thì chẳng có cảnh nào mà chẳng chiếu sáng. Cho nên nói rằng: Có nhiều nhà cửa.

Nô Bộc là kẻ ở dùng để giúp người, dụ cho phương tiện tri kiến; tất cả đều đầy đủ. Cùng với ánh sáng trong 6 đường theo đó mà thuận nghịch vạn lần tức là thật trí của kẻ ăn người ở. Hai là nhà nầy rộng lớn. Nhà cửa ở đây dụ cho sự an ổn, đối với chỗ chẳng an. Chẳng an ổn đây dụ cho 3 cõi. Chúng sanh tất cả đều ở nơi nhà của ba cõi. Như Lai ứng hóa nơi nhà nầy. Cho nên nói là to lớn vậy. Tuy là 3; nhưng chỉ có một cửa; điều nầy dụ cho các pháp môn tuyên bày chỉ nói về con đường của Phật.

Đạo Tràng Quán nói rằng: Cái lý của thật tướng chẳng khác. Huệ ấy lại tuyên dương có một. Không đường nào ra khỏi được nữa; cho nên nói rằng một cửa.

Quang Trạch nói rằng: Ba cõi tuy rằng rộng và 90 lần gọi là lớn; nhưng luận ấy về việc ra khỏi nầy, chỉ có lời dạy của Phật. Cho nên nói một cửa. Bây giờ làm rõ cái lý đơn thuần về cửa ấy. Lý ấy chẳng thông thì cửa nào mới có ý nghĩa? Đơn giản nói là cửa. Người có thể qua được; nhưng với ý gì lại chẳng ra khỏi? Nay giữ cái lý nầy làm chỗ dạy bảo. Câu văn cho biết rằng dùng lời dạy của Phật để làm cửa. Ra khỏi 3 cõi khổ, được chứng cửa Niết Bàn lại có hai. Đó là cửa nhà và cửa xe. Nhà ấy chính là chỗ sống chết. Cửa ấy chính là con đường cần thiết để ra. Phương tiện nầy dạy cho biết rõ ràng. Còn xe ấy chính là pháp Đại Thừa. Cửa ấy chính là làm rõ chỗ Viên Giáo. Nếu là cửa của nhà thì cũng là cửa của xe. Đầu tiên dùng 3 xe để cứu con và nếu ra khỏi được lại cho xe lớn. Nếu ra khỏi được cửa rồi thì chẳng vào lại. Kết quả của xe, nhà khác nhau.

Bốn, năm trăm người là dụ cho chúng ở bên trên, tức là 5 con đường. Năm điện đường lầu các ấy dụ cho sự an ổn bên trên và đối lại với pháp chẳng an ổn là ngũ trược vậy. Trước tiên ra khỏi chỗ nơi nhà bị thiêu đốt; đây dụ cho quả báo của 6 đường. Kế đến là làm rõ việc có khả năng đốt cháy của lửa. Đây dụ cho 8 khổ của ngũ trược. Chỗ ở ấy dụ cho dục giới. Lầu các ấy dụ cho sắc giới và vô sắc giới. Tường vách dụ cho tứ đại. Tần Lạc dụ cho sự giảm tổn, khuynh đảo nguy hại dụ cho sự biến đổi. Cây trụ ấy dụ cho mạng sống. Cây đòn dông dụ cho ý thức. Sự mục thối ấy dụ cho việc nguy hại chẳng lâu bền. Muốn làm cho dễ giải thích thì nên quán về sự giải thích nầy.

Nhà ấy dụ cho những phần bên dưới của thân thể. Các ấy dụ cho những phần bên trên của cái đầu. Tường ấy dụ cho da thịt. Tần Lạc ấy dụ cho sự già yếu. Cây trụ ấy dụ cho 2 chân. Sự hư hại ấy dụ cho sự vô thường. Cây đòn dông ấy dụ cho xương gân. Khuynh nguy ấy dụ cho thời kỳ lớn. Chỗ lấp khuất dụ cho ruột non và ruột già. Lại còn nói thí dụ về tâm v.v…

Chung quanh phía dưới làm rõ việc lửa có thể thiêu đốt. Tám khổ ấy biến dị nơi tứ đại và tứ sanh; cho nên nói là khắp cùng. Lại nữa tất cả đều là vô thường; cho nên nói là câu thời. Lửa đốt cháy dụ cho trước không, nay có. Trước không đây chính là khổ, vô minh cho nên có.

Từ „Lục trưởng giả chư tử“ trở đi; có 30 người con dụ cho tánh dụ của những chúng sanh thượng trí, cùng gặp nhau học hỏi Phật Pháp, có liên hệ với tánh tướng của cõi trời, tức là ý nghĩa về những người con nầy. Tánh dục ấy có khác. Nếu đủ 10, tức là con của Bồ Tát; hai mươi, ba mươi ấy là con của Nhị Thừa. Cơ hội nầy được ra khỏi nhà; cho nên gọi là con. Nếu chẳng có cơ hội nầy thì 500 người ấy hoặc là (Bích) Chi Phật xuất thế. Chưa giống nhau. Hoặc là nhiếp Tiểu Thừa, hoặc là nhiếp Trung Thừa. Tất cả gọi đủ là 10. Tất nhiên gồm 10 trí tánh cho nên nói rằng bên trong có trí tánh, thường chẳng phải như thật trí tánh. Ba câu kệ bên trên, trước là tụng về thật và sau tụng về quyền. Nay tổng dụ lại thì trước thật sau quyền v.v…

 

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Hết quyển 5 (Phần bên trên)

 

Quyển thứ 5

(Phần dưới)

Từ „Vị Trưởng Giả thấy lửa lớn“ trở đi; là phần 2 của biệt dụ. Biệt nầy lại chia ra làm 4. Đầu tiên Trưởng Giả thấy về lửa. Dụ nầy như bên trên Phật thấy về ngũ trược. Có 4 hàng kệ làm căn bản. Hai là dụ cho việc xả bỏ bàn ghế, xe cộ. Dụ bên trên nầy nói Đức Thích Ca đã vì ngũ trược mà ngủ thì nhiều, cho lại ít; đầu tiên ngồi nơi Đạo Tràng, 17 câu kệ rưỡi làm căn bản. Ba là việc ra lệnh cho các con, dụ ra được thì cho xe lớn. Dụ nầy ý nói Đức Thích Ca hiển bày tướng chân thật và „ta thấy Phật Tử có ý cầu Phật đạo“ gồm 6 hàng kệ và lấy đó làm căn bản. Bốn là Trưởng Giả dụ cho việc không hư vọng. Dụ nầy nói về: „ta làm vị vua của Pháp“ gồm hai hàng rưỡi kệ, làm căn bản. Tựu chung gồm: Đầu tiên thấy lửa. Câu văn nầy lại chia làm 4. Ý nầy lại có 3. Một là làm sáng tỏ việc có thể thấy; hai là làm sáng tỏ chỗ thấy; ba là làm sáng tỏ chỗ lo sợ; bốn là rộng biết chỗ thấy trước. Tạo thành 3 ý là: Trưởng Giả thấy cái ngọn thò ra nên có thể thấy. Dụ nầy là do „ta dùng Phật nhãn để xem thấy. Đó là lửa lớn đang vây chặt bốn bên nổi lên. Ngọn ấy ra khỏi nên thấy, dụ cho chỗ thấy nơi 6 đường của chúng sanh, liền quá sợ hãi. Dụ nầy về chúng sanh; cho nên mới khởi tâm đại bi, mà các con lại bị ở trong lửa.

Nói rộng thì phần hai là chỗ thấy lửa. Trở lại việc giải thích nầy thành ý nghĩa của việc sợ hãi. Thân thọ lãnh tâm pháp; tức là ngôi nhà có 4 bên. Từ 4 phía nầy mà khởi lên sạch, vui v.v… gồm 4 điên đảo. Lửa của 8 sự khổ đang tụ tập nơi ấy. Nếu thân nầy rõ biết là bất tịnh, khổ, vô thường, tức là lửa phiến não sẽ diệt. Ngày xưa có 3 cách để giải thích. Một nói là Tứ đại chính là 4 phía. Sáu thức nằm ở giữa. Hai ấy là tứ sanh; ba gọi là bốn điên đảo. Nương vào câu văn ở dưới thì dùng, sanh, lão, bệnh, tử làm 4 phía, liền quá sợ hãi. Nhớ lại việc nầy liền thối lui việc lành; cho nên lo sợ. Buồn rầu rồi khởi lên việc xấu; cho nên lo toan. Sợ ấy chính là đối lại với sự nhớ nghĩ lòng từ mà chẳng được vui. Lo ấy tức là đối lại với bi ưu. Việc nầy lại sanh ra sự khổ. „Ta tuy có thể làm cho mọi người ra khỏi chỗ chán nầy được an ổn“; tức là việc giải thích về sự lo sợ nầy do từ bi mà thành tựu. Tuy là từ sau cùng mà làm rõ nơi Phật đã dùng lực trí tuệ có thể tìm đến lời dạy chơn chánh để thấy chỗ giải thích chơn thật. Chẳng vì ngũ trược bát khổ là chỗ nguy hiểm mà gọi là an ổn. Bốn điên đảo ấy gió thổi chẳng lay động; cho nên gọi là ổn. Cuối cùng được ra khỏi sự nhọc mệt ấy.; cho nên gọi là được ra khỏi; mà chúng sanh thì chẳng phải như vậy. Vì chỗ bị lửa đốt; nên Như Lai từ bi giống như lo lắng bị lửa đốt; cho nên nói như vậy. Qua lời nói về chỗ đốt ấy chính là cái cửa. Nay hỏi rằng: Lời dạy ấy là do vì cái cửa thì lời dạy nầy có phải vì sự đốt cháy hay chẳng phải vì sự đốt cháy? Để cứu vớt thì cho rằng: Giáo môn ấy chẳng đốt cháy được cánh cửa của Phật dạy được mà có thể thông qua việc đốt cháy nơi con người. Chỗ qua con người đó, bị đốt cháy. Có thể gọi đây là thông môn và chính là sự đốt cháy. Như trong cửa ấy có người chết, thì gọi cửa nầy là sung môn; nhưng thật ra chẳng có sung.

Lại hỏi rằng: Nếu như lời dạy ấy là thường còn, chẳng phải pháp hữu vi. Nếu chẳng phải như vậy thì vì sao lại chẳng bị đốt cháy, mà nay lời giải thích lại chẳng phải như vậy.

Phàm cửa ấy có đồ vật hay không có. Không có đồ vật thì chẳng lấy gì làm tiêu đích của cái cửa. Chẳng phải không, mà không ấy lấy thông vậy. Đồ vật ấy có thể bị đốt cháy; nhưng cái không thì chẳng thể đốt được. Lời dạy có thể làm sáng tỏ cho các chỗ. Nếu chẳng làm sáng tỏ bằng lời thì chẳng lấy đó làm lời dạy. Nếu chẳng phải chỗ làm rõ thì vì sao được ra khỏi? Lời nói rõ ràng ấy có thể là vô thường; nhưng chỗ giải thích ấy lại chẳng phải là vô thường. Được sự dạy dỗ cho nên được giải thích; gọi đây là sự an ổn, được ra khỏi. Có thể sự giải thích ấy bị ma sát mà mất đi. Cho nên nói là cái cửa bị đốt cháy. Nếu chẳng từ cái cửa thiêu đốt nầy thì tại sao ra khỏi được một cách an ổn vậy? Cái gốc ấy đối với lời dạy dỗ, cốt ở nơi sự giải thích rõ ràng.

Đại Kinh nói rằng: Cái nhơn vô thường cho nên cái quả là thường. Nếu như lời giải thích nầy căn cứ theo kinh thì đối với cái cửa bị đốt cháy ấy Tiểu Thừa cho rằng vô thường giáo môn và từ cái cửa bị thiêu đốt nầy mà ra. Còn Đại Thừa là thường trụ giáo môn. Câu văn ấy liền ra khỏi. Lời dạy nầy chính là lý; còn thể ấy đạt được ở chỗ thiêu mà chẳng thiêu, được an ổn ra khỏi. Cuối cùng rồi cũng phải hiểu là chỗ quyền, trí của Như Lai. Tức là từ chỗ cửa bị thiêu đốt, được ra khỏi. Nếu tự chung thật trí thể, đối với chỗ thiêu ấy an ổn mà ra; cho nên trước đó phải nương vào sự hướng dẫn để mà ra chẳng được. Sau đó do vô thường mà ra khỏi; tức là ở ý nầy vậy. Đắm say ưa thích. Dính mắc chỗ thấy gọi là mắc vào niềm vui và yêu mến; gọi đây là hí. Lại bị chìm đắm qua 4 cái thấy; gọi đây là niềm vui. Sách nhà Đường gọi đây là hí. Dính mắc vào tình ái cũng như vậy. Đắm chìm nơi ngũ trần thì gọi đây là vui. Chẳng có chỗ nào chẳng rộng mở; gọi là hí. Không sanh từ chỗ chết, mà chẳng rời bỏ, như kia vui với đứa bé, chẳng rõ biết, cả hai chẳng nói có lửa; gọi đây là chẳng biết. Chẳng rõ biết lửa đang đốt pháp; gọi đây là bất tri. Tức là chẳng rõ được sự đốt cháy của lửa. Chẳng sợ bị thương tật nơi thân; gọi đây là chẳng lo. Chẳng lo mất mạng; cho nên nói là chẳng sợ. Chúng sanh hoàn toàn chẳng rõ biết về ngũ ấm và tám sự khổ. Chẳng rõ 4 điên đảo và 3 độc; tức là chẳng biết hoặc làm lo lắng như thế nào. Hoặc ấy xâm phạm pháp thân, làm thương tổn đến huệ mệnh. Như vậy chẳng rõ biết về sự khổ. Sự chẳng biết ấy nhóm chứa lại; chẳng sợ làm thương tổn nơi đạo; chẳng sợ thất lạc mất mát. Vì chẳng nghe Tứ Đế dạy dỗ; cho nên chẳng nghe được huệ; gọi đây là bất giác. Chẳng được tư huệ; nên gọi đây là bất trí. Chẳng được kiến giải; nên gọi đây là bất giác. Chẳng được tư duy giải; nên gọi đây là bất tri. Thấy được chân lý tức là lo chỗ ngộ. Tư duy tức là tránh sự sợ, lại chẳng giác; nên hiện tại khổ. Bất tri thì cái khổ nằm ở vị lai. Cho nên câu văn tiếp theo nói rằng: Hiện tại thọ nhận những sự khổ và sau nầy sẽ thọ quả ở địa ngục cùng với những sự khổ khác; tức là ở nghĩa nầy. Bực bội thân nầy với ngũ thức. Tâm ấy tức là ý thức của tâm vương. Thân là chỗ bức bách của 8 khổ, mà tâm lại chẳng che giấu sự não phiền. Lại cũng nói rằng: Gặp gỡ những mầm mống công đức Đại Thừa, lấy pháp thân trí tuệ nầy làm thể. Thể ấy là chỗ bức bách của 4 sự điên đảo, mà chẳng hay chẳng biết. Tâm chẳng lo toan; chẳng sợ vô thường, khổ; chẳng lo đến sự chứa nhóm của sự não phiền; cũng không có ý cầu ra khỏi. Chẳng tu hành, cầu giải thoát. Bây giờ đây cái nhà lửa ấy là chỗ chính, dụ cho 5 trược. Vui ấy dụ cho kiến trược; mừng ấy dụ cho phiền não trược; chẳng rõ, chẳng biết, chẳng lo, chẳng sợ ấy dụ cho chúng sanh trược. Khi lửa đến bức bách thân khổ bịnh đau đớn dụ cho mệnh trược. Tâm nầy chẳng lo toan, chẳng cầu ra khỏi, dụ cho kiếp trược. Ở đây cùng với tướng của 5 trược như vậy v.v…

Từ „Vị Trưởng Giả nầy liền suy nghĩ như thấy nầy“ trở đi; đây là phần xả bỏ thứ hai dùng xe để thí dụ. Dụ bên trên là nhận lớn bỏ nhỏ. 6 hàng rưỡi phía trên làm rõ chỗ chờ đợi lớn chẳng được. Sau đó 11 hàng dùng sự chờ đợi nhỏ thì được. Bên trên không được lại có 3. Một là suy nghĩ chờ đợi; hai là chẳng đủ căn cơ; ba là liền hóa. Nay dụ ấy chia làm hai. Đầu tiên dùng khuyến môn để chờ đợi chỗ nghi. Hai là dùng huấn môn để chờ đợi việc như thế. Tựu chung sự khuyến, huấn ấy mỗi thứ có 3. Một là chờ đợi sự việc như thế; hai là chẳng nhận và ba là bỏ rơi. Khuyến môn ấy có ba. Một là từ „Trưởng Giả suy nghĩ về thân thể, tay chân có sức mạnh“ trở đi; dụ cho sự nhớ nghĩ bên trên dùng sự lo lớn để hóa nơi 21 ngày và sự suy nghĩ như việc nầy. Hai là từ „Lại suy nghĩ nữa“ làm rõ chỗ con cái chẳng chịu nhận. Dụ nầy nói về những chúng sanh không có căn cơ và bị đần độn, làm sao có thể độ được. Ba là từ „Hoặc bị rơi vào chốn lửa đốt cháy“; nghĩa là bỏ mất việc lành. Thí dụ trên đây nói với những kẻ không có căn cơ, ta đã hóa, chẳng thuyết pháp, bệnh tật và vào Niết Bàn. Trưởng Giả suy nghĩ như thế nầy dụ cho sự suy nghĩ 21 ngày bên trên. Còn tay chân ấy dụ cho những việc làm bên dưới, dụ ấy nói về việc thường dùng thần lực cũng như trí huệ lực; dùng sự giải thích về thí dụ nầy. Thân dụ cho thần thông mang vác. Tay dụ cho trí tuệ đề bạt; nương vào Tam Muội đoạn đứt, liền có thần thông. Nương vào trí tuệ trí đức, liền có sự thuyết pháp. Trí đoạn nơi lực, có thể thành pháp thân. Trí đoạn nầy trở lại từ sự khuyến, huấn hai cửa mà vào. Khuyến ấy là con người tất đàn (thành tựu); huấn ấy là sự đối trị của tất đàn. Đây là hai tất đàn. Vì đệ nhất nghĩa của tất đàn mà tạo ra phương tiện. Đức Như Lai đầu tiên muốn khuyến môn, rộng tuyên bày cho chúng sanh và khiến chúng sanh lành làm thành tựu Thập Lực, vô úy tất cả chủng trí, mà chúng sanh chẳng kham nổi. Thứ đến muốn dùng giới môn rộng nói, làm cho các việc ác không còn, chứng được Niết Bàn; nhưng chúng sanh chẳng kham nổi; không có cơ duyên để cảm hóa. Cho nên Ngài rõ biết dùng Đại Thừa chỉ để khuyên nhắc cả 2 Tất Đàn (thành tựu), thần thông trí đoạn; cho nên như câu văn ở trên nói. Định huệ lực trang nghiêm, lấy đây để độ chúng sanh; tức là ở nghĩa nầy vậy.

Phần đầu ca ngợi Trưởng Giả; nhưng sự già suy tức là dụ cho việc trí tuệ đoạn mất. Trí đoạn tức là sức mạnh của thân thể tay chân vậy. Nương vào người chỉ dẫn theo Tam Tạng Pháp Sư giải thích là sự nương tựa ấy ở ngoại quốc có một loại cây hoa đẹp, đem dâng tặng cho người quý tộc dùng để cất chứa. Xưa nói rằng: Y khâm ấy dụ cho cái nhơn của Đại Thừa. Người hướng dẫn đó dụ cho cái quả của Đại Thừa. Đầu tiên xiển dương cả nhân quả của Đại Thừa. Đây chính là không cơ duyên vậy. Ngày xưa lại nói rằng: Việc nầy dụ cho giới, định, huệ của Đại Thừa. Bảy ngày đầu tiên suy nghĩ về chỗ được pháp. Điều nầy giống như dùng áo mặc (y khâm); bảy ngày thứ hai suy nghĩ về căn duyên của chúng sanh như dùng con người. Bảy ngày thứ ba suy nghĩ về cây cối, đất đai và ân nghĩa, như dùng cách chỉ bày. Nghĩa nầy được nói ra trong kinh A Hàm. Nay thâu lại thí dụ nơi câu văn. Nếu ta hay dùng thần lực và trí huệ lực để tán thán trí kiến lực của Như Lai vô sở úy, thì chúng sanh chẳng thể lấy đây để độ. Thần lực chính là thân nầy. Huệ lực tức là tay nầy. Như trước đã nói. Tri kiến dụ cho mặc áo (y khâm). Vô úy dụ cho con người. Thập lực dụ cho sự hướng dẫn. Như Lai dùng thần thông phát động 3 pháp nầy, dùng trí tuệ để nói về 3 pháp nầy; kẻ không có cơ duyên biến mất. Mặc áo (y khâm); con người; hướng dẫn v.v… ở đây lược bớt.

Nói lược gọi là Như Lai tri kiến. Trí tức là tất cả chủng trí; kiến tức là Phật nhãn. Gọi là lược bớt nghĩa đen. Giống như phủ kín (y khâm) một chân, mà nhiều chỗ bao hàm. Ở trong ấy nói liền gọi là Tứ Vô Sở Úy, dùng để đối lại với Tứ Đế của con người. Đối với pháp thì có nhỏ, có rộng. Đối với vật nhỏ thì an ổn; hoặc tạo ra việc nói rộng; gọi đây là Thập Lực. Qua lại khái quát, như bàn nhiều chân, tức chẳng thể khuynh đảo được. Đối với pháp, vật rộng thì an ổn nhiều. Đối với sự suy nghĩ trong thất thứ ba muốn làm cho việc nầy rộng nói Phật Pháp, mà chúng sanh thì chẳng kham nổi; cho nên nói là mặc áo (y khâm), con người, chiếc bàn. Ở dưới sự suy nghĩ ấy, lần thứ hai làm rõ cho thấy đứa con chẳng thọ nhận; giống như trên chẳng có căn cơ. Duy chỉ có một cửa, mà lại cửa hẹp nữa. Cánh cửa như bên trên đã nói; nay lại làm rõ chỗ Thông, Biệt. Biệt đây chính là một nghĩa, một lý; một con đường thanh tịnh. Cửa đây nghĩa là chánh giáo. Thông ấy là chỗ thông. Nhỏ ấy chính là chẳng dung chứa được, đoạn thường bảy phương tiện v.v… Giáo lý ấy rộng rãi; nghĩa là chẳng phải nhỏ hẹp. Chúng sanh chẳng thể dùng cái lý nầy để tự thông. Nói chuyện với nhau chẳng hợp căn cơ; cho nên nói là nhỏ hẹp.

Thông ấy là cái lý đốn, chẳng tạp; cho nên nói là một; tức là lý ấy có thể thông; cho nên nói là môn (cánh cửa). Vi diệu khó rõ biết cho nên nói là nhỏ hẹp. Giáo ấy nghĩa là 10 phương chân lý cầu được chẳng dư thừa. Duy chỉ có một Phật Thừa cho nên nói là một. Lời dạy nầy có thể thông; cho nên nói là môn. Lời dạy nầy vi diệu, phàm phu chẳng thể rõ biết chỗ ra khỏi. Đây chính là chẳng rõ quyền, chẳng rõ nhập xứ. Đây chính là chẳng rõ thật. Nhị Thừa nhơn nghe đây, phát ra trí nhỏ; nên vĩnh viễn chẳng thể nhập vào trí. Bồ Tát tuy tự biết ra khỏi, lại chẳng thể biết vào. Đoạt 7 phương tiện, tất cả đều chẳng rõ biết chỗ vào ra.

Câu văn trên nói rằng: Nếu ta xưng tán Phật Thừa thì chúng sanh rơi vào chỗ khổ. Chẳng thể dùng giáo để tự thông.

Cùng nói chuyện với nhau nhưng chẳng đủ căn cơ; cho nên nói là hẹp, nhỏ. Hành giả theo cái nhơn tròn đầy, tự thực hiện. Đi trên đường lớn, đường ấy chẳng giữ lại sự khó khăn. Cho nên nói là một. Lành thay con đường Bồ Tát, đến thẳng đạo tràng; cho nên nói là cửa. Diệu hành, nan hành, phương tiện, vô cơ cho nên hẹp, nhỏ.

Xưa giải rằng: Người, Trời lành ít cho nên nói là ấu trĩ. Không có duyên lành nơi Đại Thừa cho nên nói là chưa có chỗ hiểu biết. Nay làm rõ 20.000 chỗ dạy dỗ về con đường vô thượng. Kẻ yếu đuối với căn lành Đại Thừa gọi là ấu trĩ. Nếu nghe Đại Thừa mà hay sanh hủy báng thì đây gọi là chưa rõ chỗ hiểu biết.

Luyến trước chỗ vui như trước đã làm rõ chỗ ít điềm lành; điều nầy chứng minh cho việc xấu ác mạnh lớn. Tức là cái nguyên nhân nầy sâu xa đắm trước về thấy, yêu. Quả ấy chìm sâu vào y, chánh (báo). Ở Dục giới thì đắm trước lục trần. Sắc giới thì đắm trước Thiền Vị. Vô sắc giới thì đắm trước ở định.

Câu văn trên nói rằng: Các căn của chúng sanh độn, đắc trước vui say, si mê tăm tối, nên chẳng kham nổi việc nghe Đại Thừa vậy. Hoặc đang bị đọa lạc vào nơi hầm lửa đang bị đốt cháy. Chỉ có 2 câu nầy gọi là từ bỏ việc lành hay. Đọa lạc ấy lại có hai. Một là ấu trĩ, nhớ nghĩ về chỗ vui ban đầu; cho nên bị đọa lạc. Hai là cả 2 đều chẳng nhận thức, chấp vào vật, chẳng chắc chắn; cho nên đọa lạc. Thí dụ cho biết đắm trước và ngũ dục thì sẽ đọa vào Tam Đồ (ba đường dữ). Hai là lành ít, chẳng suy nghĩ, hủy báng Đại Thừa; cho nên bị đọa vào Tam Đồ vậy.

Từ „vì nói sợ hãi“ trở đi; phần thứ 2 đối trị môn có 3. Một là cử tuyên đối trị. Chỉ bày chỗ sợ hãi để ra khỏi. Tướng của sự đối trị như trong Đại Phẩm có nói; Trí Niệm là Ma Ha Diễn (Đại Thừa); chẳng thể được vậy; khác xa đối với Tiểu Thừa; liền dính mắc vào chỗ vui khoái. Nói việc lo sợ là làm cho được khỏi ngũ trược bị đốt cháy cũng như ngôi nhà ngũ ấm; khuyên nên xa lìa. Nếu ở đó lâu dài đắm nhiễm, tất nhiên sẽ đoạn mất căn lành; cho nên nói rằng chẳng làm cho lửa đốt cháy được.

Từ „người cha tuy thương xót“ trở đi; thấy con lại chẳng nghe lời dạy bảo; chẳng lo chẳng sợ; chẳng tỏ ra nghe lời và suy nghĩ như trên đã nói; chẳng rõ biết 8 khổ, ngũ trược hay đốt cháy những căn lành, như chẳng hề rõ biết lửa; chẳng rõ biết ấm, giới, nhập, pháp là những chỗ chứa khổ; giống như chẳng rõ biết căn nhà ấy; chẳng lo bị mất pháp thân và chẳng rõ cái gì sẽ bị mất.

Rồi từ Đông Tây liền mau chạy đến người cha. Chỉ 2 câu nầy là nói việc rời bỏ cái nhà (cháy) khổ sở đó. Tất cả phía sau làm rõ cái hướng tối tăm phía Đông, Tây. Đó là việc sống chết tới lui mau chóng như việc chạy trốn vậy. Ở giữa đó khi thấy, khởi lên niệm yêu thương như niềm vui. Tuy dùng sự củng cố to lớn; chẳng phải từ lời dạy to lớn; cho nên nói rằng: người cha đã hài lòng.

Từ „Trưởng Giả liền nghĩ rằng nhà nầy đã bị lửa đốt cháy“ trở đi; liền sau đó phần thứ hai dùng xe để thí dụ. Thí dụ bên trên tìm về quá khứ chỗ Phật thực hành phương tiện lực gồm 11 hàng kệ. Câu văn trên lại chia ra làm 4. Nay lại thí dụ cũng có. Một là đưa ra thí dụ cho 3 xe; thí dụ bên trên tìm về Phật quá khứ lại cũng hóa ra 3 Thừa như vậy. Hai là người cha rõ biết tâm trước, thí dụ chỗ ưa thích. Thí dụ bên trên là tạo ra sự suy nghĩ về 10 phương chư Phật; tất cả đều hiện hữu. Ba là tán thán dụ cho 3 chiếc xe. Dụ ở bên trên nầy chỉ là cho Tam Thừa. Suy nghĩ việc nầy rồi liền đến Ba La Nại. Bốn là chính người con có nguyện như vậy. Dụ nầy là lãnh thọ, thực hành và ngộ nhập. Đây gọi là chuyển pháp luân. Đại

Thừa hóa hiện công phu như mệnh lệnh của người cha. Chúng sanh lành thay như đời sống của các con. Việc thiện lớn nầy nếu hết thì đời sống của các con cũng tận diệt. Mạng sống của các con mất đi tức là hóa công cũng hỏng, liền đó mạng sống của người cha cũng mất đi. Như trước đã nói về bịnh khổ bức bách, dụ cho việc chưa chết nầy. Nay nói bị đốt cháy tức là nghĩa chết vậy. Câu văn trên đối với nơi cửa bị cháy mà an ổn ra khỏi được. Nay lại nói nếu chẳng ra, liền bị thiêu đốt. Nghĩa nầy nói điều gì? Trước nói ra khỏi, tức là pháp thân ra khỏi. Nay nói nếu chẳng ra khỏi tức là ứng thân đồng với bệnh tật. Chúng sanh có điềm lành cùng với ứng thân ra khỏi. Nếu chúng sanh đoạn những việc lành thì chẳng thể cùng với pháp thân ra khỏi được. Liền đó bị thiêu đốt. Nay muốn ứng thân rộng mở cho ra khỏi.

Từ „Ta nay đang tạo ra phương tiện muốn giả làm quyền“ và từ „Rõ biết tâm con“ trở đi; phần thứ 2 làm rõ chỗ cơ duyên có thể độ được. Ở đây chứa nhóm những việc nhỏ, rõ biết tâm phía trước và tánh ưa muốn chẳng giống nhau. Cho nên biết rằng, mỗi mỗi đều có chỗ ưa thích. Lại rõ biết chúng sanh tích chứa điều to lớn. Nếu sự huân tập lớn ấy còn mỏng thì việc lớn ấy yếu. Chán cảnh già, bệnh, chết; cho nên dùng việc nhỏ để tiếp cận. Đây lại mạnh cho việc nhỏ. Như Thân Tử (Xá Lợi Phất) thoái lui giữa 6 tâm. Cái căn bản của sự hội tập lớn gọi là rõ biết tâm trước. Còn ở giữa thì chán lão, tử cho nên gọi rằng: mỗi mỗi đều có chỗ ưa thích.

Từ „mà nói lời rằng“ trở đi; phần thứ 3 là tán thán 3 xe khó có để thí dụ. Thí dụ ấy chính là việc chuyển pháp luân. Đây tức là 3. Nghĩa là quyền, thị và chứng. Từ „vui chơi hy hữu“ trở đi tức là quyền chuyển. Như „các loại ấy“ tức là chỉ cho việc chuyển đổi các ngươi nơi nhà lửa nầy khiến cho ra khỏi và đến cùng với ngươi. Đây chính là chứng chuyển.

Từ „Lúc bấy giờ các con nghe cha nói“ trở đi; phần thứ 4 là dụ cho sở nguyện của các con. Dụ nầy là thọ nhận việc thực hành việc ngộ nhập. Kệ phía trước vốn đã lược; nay thí dụ sự việc rộng rãi hơn. Riêng xác nhận việc tu nhơn cho đến quả là nương vào 6 câu để giải thích. Một là như lời nguyện. Do căn cơ dạy dỗ, tương xứng. Đây chính là văn huệ vậy. Dũng duyên tức là tư huệ. Tâm suy nghĩ làm động sự yên tĩnh; tư ấy là huệ phương tiện. Hỗ tương bỏ ra; đưa ra 4 chân lý và bài bỏ kiến hoặc. Tà chánh chưa rõ; nên gọi là hỗ tương. Điều nầy khi vào tu huệ, thuộc noản đảnh vị. Cạnh (tranh) ở đây có nghĩa là giữ lại cái lý hơn. Đây chính là nhẫn pháp vị sánh với cái lý của Thủ Thắng. Đầu tiên quán 32 đế sánh với chỗ chơn đạo. Sau đó liền quán nơi pháp nhẫn khổ. Cùng với có nghĩa là ở đời thuộc đệ nhất pháp vị. Cùng quán một chân lý tức là cùng với khổ pháp nhẫn, 4 điều quán chẳng khác biệt. Chạy khỏi nghĩa là nhập vào thấy được con đường của 15 tâm. Liền được thấy lý. Dụ bên trên liền có âm hưởng của Niết Bàn. Phần giữa thấy được đạo là được Niết Bàn. Tranh ra khỏi nghĩa là con đường suy nghĩ, tranh ra khỏi 3 cõi, thành quả Vô Học (A La Hán). Đoạn lìa biết sự suy nghĩ, mới ra khỏi nhà lửa, tức là những câu kệ thí dụ bên trên cùng với tên gọi sai biệt của các pháp thuộc A La Hán.

Quán Tâm giải thích rằng: Trung Đạo chánh quán, quán thẳng thật tướng; tâm pháp tương xứng gọi đây là tùy theo sự mong cầu. Cảnh lại vô biên; cho nên quán cũng lại vô cùng; nên gọi là dũng (từ dưới vọt lên). Cảnh ấy nghiên tầm tâm; nên gọi là duyên (mềm mại). Tâm cảnh cùng nghiên tầm; gọi đây là hỗ tương thôi bài (đưa ra sự bài bác). Tâm vương, tâm số mau duyên vào với cảnh; gọi đây là cùng chạy theo bên nhau, trải qua tất cả các ấm giới và nhập vào vô phi thật tướng; gọi đây là ra khỏi nhà lửa v.v…

Từ „lúc ấy Trưởng Giả thấy các con“ trở đi; đây chính là biệt dụ. Lần thứ 3 hứa cho các con xe lớn. Dụ bên trên nầy hiển được tướng chân thật. Câu văn nầy lại chia làm 4. Một là người cha thấy con khỏi nạn nên vui mừng. Dụ bên trên về „ta liền nghĩ rằng: sở dĩ ra đời cho đến nay ta hoan hỷ chẳng lo lắng“ gồm 2 hàng và lấy một câu kệ làm căn bản. Hai là các con dụ cho chiếc xe hư. Dụ bên trên là căn cơ Đại Thừa đã phát, ta thấy các Phật Tử có chí cầu Phật đạo; hoặc dùng tâm cung kính; tất cả đều đến nơi ta. Ở đây có 2 hàng kệ làm căn bản. Thứ ba là dụ cho các con xe lớn. Dụ bên trên nầy nói về các Bồ Tát, xả bỏ ngay phương tiện để nói đạo vô thượng, gồm có 3 câu làm căn bản. Thứ 4 là các con được xe liền hoan hỷ. Dụ bên trên cho biết khi các Bồ Tát nghe pháp, lưới nghi tất cả đều hết, gồm 1 bài kệ làm căn bản.

Phần thuyết pháp bên trên, trước là làm rõ chỗ căn cơ bộc phát. Sau đó nói các chướng tiêu trừ, Phật vui vô úy. Nay trong thí dụ nầy trước làm rõ chỗ khỏi nạn. Sau đó làm rõ chỗ xe xấu. Nếu muốn luận đủ phải gồm 4 câu. Trước trừ hết những chướng ngại, sau đó căn cơ mới phát. Giống như Tứ Đại Thanh Văn đối với ba tạng các chướng đều trừ.

Cuối Đại Phẩm, đầu Pháp Hoa, cơ lớn bắt đầu phát hiện. Hai chướng chưa trừ, căn cơ Đại Thừa phát. Như trong Hoa Nghiêm và trong Pháp Hoa, những phàm phu được vào trí huệ Phật. Ngoài ra có 2 câu nói như bên trên. Nếu đại cơ, trước động (loạn) và sau đó chướng trừ; như trong phẩm Phương Tiện nói. Nếu trước trừ chướng, sau căn cơ động thì như nay nói. Cơ động chướng trừ hỗ tương trong hiện tại, cùng chung với nhau thành một ý vậy. Lại nữa phẩm Phương Tiện làm rõ chỗ Phật hoan hỷ việc chẳng sợ. Ở đây chính là những người con hoan hỷ. Dùng niềm vui của con; cho nên người cha cũng vui. Đây cũng lại là việc hỗ tương với nhau trong hiện tại, trở thành một ý chung. Tựu chung trong sự khỏi nạn ấy có 2 ý nghĩa. Đó là ra khỏi nạn; nên vui. Nếu các con chưa khỏi các nạn; thì người cha liền lo rầu. Nếu rời được khỏi lửa thì tâm lại thư thái. Cho nên việc khỏi nạn, vui mừng là một thí dụ. Dùng sự vui mừng của con, người cha nầy cũng vui lây, được dụ cho sự hoan hỷ của Phật vậy.

Bốn vệ đường ngày xưa gọi là bốn chướng dơ đã trừ khử như 4 phía đường tốt, liền được trừ một chỗ dơ, như ngồi trên đất; nay chẳng như vậy. Ngũ trược ngay đó là pháp cấu chướng, chưa luận về việc giữ đường; chẳng nên thí dụ cho lề đường. Lề đường chính là dụ cho 4 chân lý. Quán Tứ Đế khác, gọi là Tứ Vệ. Tứ vệ đồng nghĩa với thấy được chân lý. Như ở đầu đường thấy có ngăn trở tuy trừ; nhưng suy nghĩ chẳng giống; gọi là lộ địa. Ba cõi suy nghĩ tận cùng, gọi là lộ địa (đất trống). Trụ ở quả ấy chẳng tiến lên; cho nên gọi là ngồi. Chẳng thấy cần suy nghĩ chỗ ấy; cho nên nói là thư thái. Sanh, diệt qua khỏi, tưởng nhớ đến sự an ổn; cho nên nói là hoan hỷ. Mỗi mỗi đều thưa với người cha.

Phần thứ hai thí dụ cho xe rách. Câu văn nói: Nguyện cho chúng con 3 loại xe. Câu văn nầy chẳng có chữ nào nghĩa là hư nát. Nương vào đây để tìm từ chứng minh cho xe nát ấy. Có người nói rằng: Nhị Thừa là xe nát, còn Bồ Tát thì chẳng hư. Tạo 10 nạn ấy thật khó.

Thứ nhứt nói rằng: Nhị Thừa khi ra khỏỉ cõi; cho đến hứa đến nơi xe và sự hư ấy là cái quả của xe. Bồ Tát chưa đến nơi ấy thì làm sao có xe hư.

Thứ hai bảo rằng: Theo kinh Đại Thừa thì chẳng có Bồ Tát sai nơi quả của Tiểu Thừa; cho nên rõ biết việc chẳng hư ấy.

Thứ ba nói rằng: Các hóa Bồ Tát từ chỗ sơ phát tâm cho đến cuối cùng là Bổ Xá, tất cả đều là phàm phu, chẳng ra khỏi 3 cõi. Nghĩa đây tức là chẳng phải hư nát. Có thể các hóa Bồ Tát ở tâm thứ 33, thấy khoảng suy nghĩ chưa cùng. 34 tâm mới là Phật. Phật từ ai mà hư?

Bốn là cái quả của Nhị Thừa ở ngay tại cửa bên ngoài. Còn Phật quả thì ở tại tập khí, chẳng rõ bên ngoài cửa. Nhị Thừa đoạn chánh làm cho tận diệt; nên chẳng thấy xe; cho nên nói là hư nát. Còn Bồ Tát chưa đoạn tập, cùng với vô trí sao lại hư được.

Thứ năm là làm rõ chỗ phương tiện; cho nên nói là hư nát. Câu văn nói, duy chỉ có một sự thật; ngoài 2 thì chẳng có chơn thật. Dùng ở đây để đưa ra 2 việc hư nát một, mà lại chẳng hư.

Sáu là từ Đại Phẩm trở đi, cho đến Pháp Hoa phía trước, nhơn Phật thì quả Phật đều là phương tiện. Cuối cùng thì cho gã cùng tử các tài sản quý báu. Tất cả cũng đều là phương tiện. Nếu cho tài sản chơn thật; tức là Đại Phẩm đã làm sáng tỏ Phật Thừa. Đây chính là những việc chơn thật, nào có gì là hư dối.

Bảy là trong bài kệ của phẩm Phương Tiện ngày xưa cho rằng nhỏ ấy là phương tiện; chẳng phải lớn ấy là phương tiện. Nên biết rằng Phật Tử Đại Thừa chẳng phương tiện thì sao lại có chuyện sai quấy.

Thứ tám nói rằng: Nếu cả 3 đều hư nát thì cái gì chẳng thể rõ được. Sự lãnh hội giải bày không; cho nên sự biết ấy cũng chẳng hư nát.

Chín là cuối cùng cho xe. Câu văn nói: Thấy chúng sanh ra khỏi 3 cõi khổ, được Niết Bàn an lạc; cho nên cho xe lớn. Bồ Tát chẳng chứng Niết Bàn.

Mười là các con ngồi yên cho nên cuối cùng người cha lại hư nát. Nhị Thừa vui với quả chẳng tu hành; cho nên ngồi yên đó, do vậy mà có việc hư thối. Bồ Tát việc làm chưa xong, không an ngồi, thì nghĩa nầy sao lại bị hư thối được?

Ta dùng sự tổng, biệt để nói sự hư hại ấy chính là việc cầu thỉnh tên riêng. Cái ý là cầu sự hư hoại. Ở miệng gọi là thỉnh sự sai trái; ở thân gọi là xin ăn trái phép. Như kẻ mông lung cầu rõ biết; như người đói muốn cầu việc ăn uống; như người mê hỏi đường. Kẻ phàm chẳng đạt đến chốn, sao lại có lý của việc chẳng sai. Do sự hư nát ấy mà hứa khả cho vậy. Hứa cho nên vui vẻ. Nay trong câu văn lại đầy đủ sự thỉnh cầu hoan hỷ. Trong pháp hội ấy có 1.200 người, Thân Tử (Xá Lợi Phất) đứng đầu, đã ba lần thưa thỉnh. Trong các Bồ Tát thì có Di Lặc đứng đầu. Nơi miệng Phật sanh ra các con, nhiều khoảng 80.000 người chắp hai tay với tâm cung kính, muốn nghe đầy đủ đạo. Thí dụ nói lần đầu. Thân Tử vì những người trung căn mà thưa thỉnh, lại cùng với tứ chúng mà thỉnh, rồi vì những người hạ căn mà thỉnh.

Câu văn nói rằng: Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì Tứ chúng mà nói nhơn duyên nầy, hứa khả nói pháp cho, rồi nói: Ngươi đã ân cần thưa thỉnh 3 lần há chẳng nói sao. Thí Dụ ấy sẽ nói: nói thí dụ ấy làm rõ cho nghĩa nầy. Nhơn duyên hứa nói và ta sẽ vì các ngươi mà nói về nhơn duyên của đời trước. Ta nay sẽ nói. Pháp được nói rồi, Thân Tử vui vẻ. Thí dụ ấy nói rồi. Ca Diếp cũng hoan hỷ. Chuyện đời trước nói rồi, Phú Lâu Na hoan hỷ. Lại chắp tay nói rằng: Làm cho chúng con ngày đêm, kiếp số thường được vui đùa, cùng với Bồ Tát Thừa là thừa (xe) quý báu để đi thẳng đến đạo tràng. Dùng niềm vui để biết vậy. Cùng với sự thưa thỉnh nên rõ biết. Ba lần 3 nghĩa, làm rõ câu văn chỗ đốt cháy. Vì sao lại nói khác; nói hai hư mà một chẳng hư. Riêng chỉ một nầy. Nơi Tam Tạng làm rõ Bồ Tát chẳng đoạn trừ hoặc; nương vào Pháp Hoa có 4 câu. Nghĩa là chướng trừ, đại cơ động; chướng chưa trừ, đại cơ động; cơ động nên rõ biết sự hư hại.

Việc thứ 2 nói rằng: Kinh Đại Thừa nói chẳng có Bồ Tát hư hại ở quả của Tiểu Thừa. Đại Phẩm nói rằng: Người của Tam Thừa đồng với việc nói đạo không có lời nào; đoạn trừ phiền não, vào Niết Bàn. Đoạn phiền não giống vào Niết Bàn vì sao lại chẳng hư hại?

Điều thứ ba nói rằng: 33 tâm ấy gọi là Bồ Tát. 34 là đoạn tận sự suy nghĩ tức là thành Phật. Phật từ ai mà hư hại? Điều nầy dụ cho nghĩa của Tam Tạng. Thấy chướng chưa trừ, đại cơ sao động; huống là 33 tâm lại chẳng động sao? Động ấy tức là rõ biết sự hư nát.

Việc thứ tư là Bồ Tát chưa đoạn tập khí, chẳng rõ biết; nên chẳng hư hoại. Đoạn hết thành Phật. Phật từ ai mà hư hại. Đây là nghĩa của 3 thừa thông giáo. Đều cột chặt nơi chướng; nên đại cơ động; huống nữa là sự huân tập còn mà chẳng biết sao?

Điều thứ 5 là tuy chỉ một sự thật nầy, mà thật ấy chính là chơn thì sao lại hư hại được. Bị gặp chỗ tuyệt đối duy nhất ấy; ngoài một chẳng có pháp. Xưa chờ đợi nơi hai, mà duy chỉ có một. Ngoài một ấy lại có pháp; một ấy là giống nhau mà thể thì khác nhau, Trong bóng tối nhầm thấy ngói gạch là mắt con cá; nghĩa là ánh sáng tạo ra hình mặt trăng. Người ngu há có trí mẫn tiệp sao? v.v…

Phần thứ 6 nói về từ Bát Nhã đến Pháp Hoa cho tài và pháp giống nhau, chẳng có gì sai quấy. Ngươi chẳng nghe cùng và chẳng cùng Bát Nhã; chẳng cùng nên chẳng hư hại. Cùng ấy tức là chẳng sai quấy v.v…

Điều thứ 7 ở phần đầu của phẩm Phương Tiện nói về việc nhỏ ấy là phương tiện; chẳng nói việc lớn là phương tiện. Lớn chẳng phải là phương tiện; cho nên chẳng dư thừa. Ngươi chẳng nghe thấy trong phẩm Lượng Thọ rằng: Ta lúc nhỏ xuất gia được Tam Bồ Đề; cho đến khoảng giữa hoặc nhỏ, hoặc lớn; hoặc ta; hoặc người. Tất cả đều là phương tiện. Chư Phật lại cũng như vậy, sao lại chẳng sai?

Điều thứ 8 nói rằng: Nếu Bồ Tát sai quấy thì Bồ Tát nên lãnh thọ giải bày. Lãnh giải liền không; cho nên biết rằng chẳng sai quấy. Ngươi đã chẳng nghe pháp rồi – trời, rồng 4 chúng đều lãnh thọ. Đây chẳng phải là Bồ Tát thì nghĩa là gì? Lại nữa trong phẩm Pháp Sư nói: Ba Thừa đều cùng ghi nhớ. Nếu chẳng lãnh thọ giải bày thì nhớ làm sao?

Điều thứ 9 là ra khỏi khổ tam giới thì được an ổn vui thú, lại cho, lại sai. Bồ Tát chưa ra khỏi, chưa chứng; cho nên chẳng hư nát. Giống như nghĩa của Tam Tạng vậy.

Điều thứ 10 nói về các con ngồi yên cũng như việc cho xe. Việc thực hành hai thừa tức là ngồi yên. Bồ Tát hạnh thì chẳng ngơi nghỉ và chẳng ngồi yên thì sao lại có xe xấu, hư. Dụ nầy là nghĩ ở phía trước. Tự có thực hiện, liền có hư nát, sai quấy; chưa thực hiện thì chưa hư nát, sai quấy.

Lại nữa Bồ Tát hạnh là thực hành. Tức là thừa ấy lên xe. Xe ấy do xấu hư thì sao lại chẳng có nghĩa là xấu. Xem sự quỷ quyệt nầy làm nhọc Ba Tạng; cho nên tạo ra 10 sự khó khăn nầy. Gồm chung thấy một, cả hai đều chẳng là thể lớn. Nay vì như thế, phân biệt mà nói. Tự có chẳng đoạn lìa hoặc; chẳng phải xe xấu. Tam Tạng Bồ Tát chính là có việc đoạn hoặc, xe hư. Còn Thông, Giáo Bồ Tát chính là tự hữu cũng có đoạn hoặc; lại cũng chẳng đoạn hoặc; lại cũng chẳng xấu, lại cũng chẳng phải chẳng xấu. Biệt giáo Bồ Tát là tự, là tự hữu chẳng đoạn hoặc; chẳng phải chẳng đoạn hoặc; chẳng phải hư; chẳng phải chẳng hư. Viên Giáo Bồ Tát thì phải trải qua 5 mùi vị của sữa gồm 2 ý. Một là lại đoạn, lại chẳng phải chẳng đoạn. Hai là chẳng đoạn; chẳng phải chẳng chẳng đoạn. Chẳng hư, chẳng phải chẳng hư. Lạc vị là một ý, chẳng đoạn, chẳng hư. Sanh tô gồm 4 ý. Thục tô lại có 3 ý. Đề hồ có 1 ý. Nói nghĩa rộng của việc nầy bao hàm như thế. Đối với mỗi một câu là mỗi một ý. Lại mỗi mỗi có 4 câu. Nghĩa là chướng trừ cơ động; chướng chưa trừ, cơ động; chướng lại trừ và lại chưa trừ, cơ động. Chướng chưa trừ; chưa phải chưa trừ, cơ động. Các Tông chẳng thấy đó mà chấp một chẳng phải là 3. Sự sâu xa ấy là do lòng bi mẫn. Người đời chấp vào số xe, chẳng giống nhau. Nói thể của xe chẳng giống nhau. Hoặc đầu tiên nói 3 xe; nhưng sau đó nói hai, rồi lại quy về một. Hoặc đầu tiên nói có 3. Sau đó nói 3 và quy về một; hoặc đầu tiên nói có 4 và sau đó nói 3 quy về một. Cho nên hãy xem nơi kinh, chớ tin nơi lời nói của người. Câu văn nầy dẫn lại tích xưa, Phật vì các vị Thanh Văn mà nói pháp Tứ Đế. Vì người Duyên Giác mà nói pháp 12 nhơn duyên. Phật vì người tu theo Bồ Tát mà nói pháp lục Ba La Mật. Nay Phật nói số 3 lại cũng như đây vậy.

Hoa Nghiêm phẩm thứ 8 nói rằng: Những kẻ thấp kém chìm đắm; cho nên chỉ cho con đường Thanh Văn.

Căn độn, vui với nhơn duyên, vì đó mà nói con đường Duyên Giác. Lợi căn, có lòng từ bi, vì đó mà nói Bồ Tát đạo. Vui vô thượng với việc lớn, nói đủ loại Phật Pháp và quyển thứ 36 lại nói rằng: Pháp 3 giải thoát, làm cho ra khỏi Thanh Văn Thừa. Vô tránh pháp, ra khỏi Duyên Giác Thừa. Lục độ, tứ nhiếp làm cho ra khỏi Đại Thừa. Rõ biết tất cả pháp, ra khỏi Phật Thừa. Lại nữa ở đệ cửu địa nói về Thanh Văn Thừa cùng với Bích Chi Phật Thừa, cùng với Bồ Tát Thừa và cùng với Như Lai Thừa. Trong Địa Luận giải thích về địa thứ hai rằng: Quán 10 điều chẳng lành thì rơi vào 3 cõi; 10 điều lành lại sanh lên cõi Trời. Trên thập thiện cùng với Tứ Đế quán sát, rõ biết thì hợp thành Duyên Giác. Lại nữa trên thập thiện cùng với việc đầy đủ thanh tịnh, quán rõ hợp lại, thành Bồ Tát địa. Lại nữa trên thập thiện cùng với tất cả loại, tất cả Phật pháp hợp thành Phật.

Phẩm Anh Lạc thứ 13 nói rằng: Mười phương Phật nói ba thừa. Trong mỗi một thừa lại khai 3 và hợp lại thành 9 thừa. Chín thừa ấy tất cả đều gặp ở bình đẳng đại huệ. Thánh nói như vậy, chẳng thể chẳng hiểu. Hỗ tương với nhau là chẳng phải chẳng phi pháp, mà con người đi quá xa và chưa thành lớn. Nay nói về giáo phân biệt. Hoặc nói về 3 thừa pháp môn khác, mà giống với chơn đế, chính là 3 tạng giáo vậy. Hoặc nói 3 thừa pháp môn cùng với chơn đế và tất cả đều giống với Thông giáo. Hoặc nói 3 thừa gồm 3 x 3 là 9 thừa. Hay nói tứ thừa ít sâu sắc, thứ lớp mỗi mỗi chẳng giống nhau, mà cùng vào chỗ bình đẳng đại huệ là Biệt giáo vậy. Hoặc nói tam thừa, cửu thừa, tứ thừa mỗi mỗi đều bình đẳng; đại huệ tương ưng; chẳng hai chẳng khác là Viên giáo vậy. Lại nữa trải qua 5 vị phân biệt như nhũ vị hay làm sáng tỏ cho Bồ Tát Thừa; Phật Thừa. Lạc vị hay làm sáng tỏ cho khác Tam Thừa. Sanh Tô vị làm sáng tỏ cho Tam Thừa, Tứ Thừa, Cửu Thừa; mỗi mỗi phân chia nhỏ nhiệm chẳng giống nhau. Thục Tô vị, chỉ trừ khác Tam Thừa. Ngoài ra như Sanh Tô vậy. Trong Đề Hồ nói gọn về Phật Thừa; ngoài ra chẳng có thừa nào khác. Hoặc rõ biết ý nầy nói khác, chẳng phương hại; hay chẳng rõ biết; chỉ tăng thêm sự tranh luận mà thôi.

Người đời làm sáng tỏ Phật Thừa, thừa thể ấy có khác. Quang Trạch thì chấp Phật quả cứu cánh; cuối cùng chẳng sanh ra hai trí. Vì xa thể, ra khỏi 500 do tuần; ở bên ngoài đối lại với chiều cao của ngày xưa. Đầy đủ vạn đức để đối lại với chỗ rộng kia. Trang nghiêm chấp lấy nguyên nhơn, chung cả vạn hạnh làm thể. Cầu bên trên gọi là cao; bên dưới hóa độ, gọi là rộng. Ngày xưa chẳng chấp lấy công đức. Công đức cùng với phàm phu cộng lại, duy chỉ chấp có trí tuệ làm thể. Ngày xưa lại chấp cùng với phước huệ làm thể.

Lại nói rằng: Thừa ấy là 3 xe. Dùng vô lậu căn lực, giác đạo thiền định, giải thoát tam muội mà tự được vui, há phải là trí tuệ sao. Lại có vị Thầy chấp vào giải để làm thể. Không giải, không động; cho nên chẳng chấp thủ. Tận vô sanh trí thì liền có giải. Lại nữa Tiểu Thừa chấp vào không huệ làm thể của xe. Câu văn nói rằng: „Chúng ta tu tập không pháp lâu dài v.v…“. Đại Thừa lại dùng chơn huệ phương tiện làm xa thể. Xa thể ấy dụ cho có; có ấy là có vận động vậy. Riêng mỗi Thầy giải thích về cái thể của Phật Thừa, cạnh tranh nhau để chỉ trích thì có khác gì chúng mù mờ húc nhau như voi tranh với ngà và đuôi. Nương vào Thiên Thai Trí Giả làm rõ các pháp thật tướng, đúng là xa thể của tất cả chúng bảo, trang hoàng cho đẹp đẽ trang nghiêm. Cho đến việc cho xe, trong câu văn có những điểm hiện ra. Xưa giải thích rằng: Xe nhỏ thì quả nhỏ. Quả ấy lại có hữu vi và vô vi công đức. Chánh ấy là giữ lấy hữu vi để dụ cho xe chuyên chở; chở vào chỗ Vô Dư vậy. Trong quả hữu vi ấy lại có đầy đủ phước huệ. Dùng huệ ấy làm phước chánh để độ tất cả. Huệ nầy có 10, mà 8 trí đã thông nhơn quả. Tận vô sanh trí, duy đó mới là quả vị. Lại chấp vào nhị trí dùng để dụ cho quả của xe. Dùng ý nghĩa nầy; cho nên xe ở bên ngoài cửa. Nếu nương vào Đại Phẩm để nói thì Thừa nầy từ 3 cõi ra khỏi, đến được Tát Bà (nhất thiết trí) và ở lại nơi ấy. Lúc chưa ra khỏi thì thừa nầy thừa kia tranh nhau ra khỏi nhà lửa. Sao lại nói xe ở bên ngoài cửa? Hoặc nói trước đó xe ở bên ngoài, sao lại phải ra? Mà thừa (xe) ấy thông qua nhơn quả; đoạn trừ kiến, tư hoặc ở 37 phẩm. Tất cả đều là nhơn thừa. Tận vô sanh trí, tất cả gọi là quả thừa. Nhơn cần yếu, đoạn nguyên nhơn của thừa, trừ hoặc hết, thì mới được quả, thừa tận vô sanh trí. Cho nên nói rằng: Xe ở bên ngoài cửa. Hay cái quả là chánh; còn nguyên nhơn bên cạnh. Tựu chung cái quả ấy là nói việc xe để bên ngoài cửa. Hoặc giả cái nguyên nhơn bên trong đoạn trừ cái nghĩa kết vận thì gọi đây là thừa. Ngoài cái quả chẳng vận thì sao lại có tên là thừa. Tuy nhiên quả không đoạn cái vận của hoặc. Điều cần yếu là phải tận vô sanh trí, nhập vô dư Niết Bàn thì mới gọi là vận tốt. Hoặc từ nguyên nhơn của Thừa cho đến quả, với ý gì mà lại hư xe? Ngày xưa bảo rằng: Cơ duyên xấu, thì tình hình xấu. Cơ duyên xấu có thể giải thích được; còn tình xấu ấy Phật nói tận vô sanh giáo. La Hán chứng được quả nầy, rồi dùng thần thông thiên nhãn, xem qua vị lai; giống như thấy sự biến hóa dễ dàng, sanh tử hạo nhiên. Tự nghi chỗ được tận vô sanh chứng. Nếu thật vô sanh, thì nói thấy có cái gì? Như việc hạo nhiên nầy, ngày xưa chẳng phải cứu cánh. Từ trong tình ấy, trước tiên Phật làm hư chỗ hứa khả; do vậy mà tình hư. Nếu tìm đến kinh văn thì văn ấy chẳng có lời nầy. Nếu đưa ra ý nghĩa hư thì nghĩa ấy cũng chẳng phải như vậy. Văn ấy chẳng thể giải được. Đưa ra như câu văn dưới đây nói rằng: Tự nơi chứng được; sanh diệt qua sự tưởng tượng; liền dùng thiên nhãn để thấy có sanh tử. Vì sao lại khởi lên tư tưởng diệt độ? Đây chính là tự tướng tự thấy. Lại nữa sau khi Phật diệt rồi, các vị A La Hán chẳng gặp được Phật; nên chẳng thể quyết đoán; liền tự mình dùng thiên nhãn để thấy nơi sanh tử, làm sao có thể thấy Phật mà quyết đoán? Lại nữa sơ thiền thiên nhãn thường chẳng thấy được nhị thiền, hà huống là thấy sự biến đổi dễ dàng, lại cùng với người gìn giữ Đại Thừa. Lại nữa La Hán được vô lậu nghiệp. Dùng thiên nhãn thấy biến đổi dễ dàng vị lai sanh tử quả báo. Liền đó tu 5 giới, thập thiện; nên tự thấy được vị lai quả báo. Rõ biết được cảnh giới bên ngoài quả báo; há dùng thiên nhãn để thấy được ư? Chẳng dùng đến điều phê phán về tình ấy hư cấu. Nay nói tình tan tác. Ngày xưa nương vào mặt trời để dạy; nghĩa là tận vô sanh, hay nhập vào vô dư, mà đối với Phương Đẳng, thấy Bồ Tát thật là bất tư nghì. Nghe thanh tịnh, gọi là đuổi theo thiền. Nếu ta chỗ đắc được như thật thì Đại Sĩ chẳng bền bẻ gãy. Nếu ta chẳng thật thì Phật chẳng nên nói chơn; cho nên nói mờ mịt chẳng rõ chỗ nói. Cho nên trong Đại Phẩm thấy lãnh rõ biết Đại Pháp; nghe niềm vui nầy thì tâm lớn khởi lên; rồi mới tiến tu Đại Thừa, mà chẳng nên rõ được cùng với chẳng được. Những điều nầy tất cả đều là trong tình cảm sai quấy về cái ý nghĩa của Đại Thừa. Cho nên Thân Tử (Xá Lợi Phất) lãnh giải, đưa ra cái nghi tình ngày xưa. Thấy các Bồ Tát được thọ ký làm Phật, chẳng do dự về việc nầy. Hà huống là tự bảo rằng dùng sự ưa thích để hỏi Đức Thế Tôn. Vì sự mất hay việc chẳng mất; tức là chỉ cho Phương Đẳng ngày xưa có cái tình sai trái nầy vậy. Nay thêm vào cái miệng sai trái nữa. Nhơn nghe phương tiện phẩm; bài kệ đầu lược bớt, nghe Phật nói cùng với phương tiện; tức là lại chấp vào phương tiện ngày nay và nghi xưa chưa rốt ráo. Cho nên nói rằng: Ta nay chẳng rõ nghĩa nầy và nơi chốn. Động túc nghi tình cho nên nói lên 3 lần thỉnh. Sai quấy cầu ngày xưa chỗ nói thật, căn cơ ở Đại Thừa và tình thì cầu ở cái thật của ngày xưa. Lại nữa tình cầu nơi Đại Thừa, miệng hỏi về cái thật của ngày xưa. Lục độ, thông, giáo cũng giống như thế.

Từ „Xá Lợi Phất lúc bấy giờ“ trở đi; có 3 lần cho xe lớn. Có 2 chương giải thích rộng. Một là các con và hai là các xe. Dùng những người con ấy tức là tâm nầy, dụ cho tất cả chúng sanh cùng có Phật tánh. Phật tánh giống nhau như các con vậy. Phần thứ 2 là các xe, dùng pháp để so sánh; cho nên không có cái gì chẳng phải là Phật Pháp. Dụ cho tất cả pháp đều là Ma Ha Diễn (Đại Thừa). Ma Ha Diễn giống như những chiếc xe lớn ấy. Nói mỗi mỗi đều cho; nghĩa là mỗi mỗi tùy theo sự huân tập căn bản của Tứ Đế, Lục Độ và vô lượng các pháp. Mỗi mỗi theo sự huân tập xưa là: Khai thị chơn thật. Xưa sự huân tập chẳng giống; cho nên nói là mỗi mỗi. Tất cả đều là Ma Ha Diễn; cho nên nói là xe lớn. Xe nầy cao thấp và xe rộng chia làm hai. Một là xe ấy hình thể lớn. Kế đến giải thích lý do có xe và thể hình của xe trước tiên là cao rộng. Kế đến làm rõ về xe trắng sau đó làm rõ chỗ theo sau. Giả gọi là xe, có tướng cao rộng; dụ cho tri kiến của Như Lai sâu xa, bao trùm hết tất cả pháp giới. Tận cùng gốc gác của 3 chơn lý; cho nên nói là cao rộng. Các đồ quý giá bao bọc dụ cho vạn hạnh tu hành, lấy đó làm đồ trang sức. Chung quanh lan can dụ cho tổng trì, giữ gìn vạn điều lành, kế đến là những việc ác. Bốn phía đều có treo linh, dụ cho 4 loại giáo hóa. Bên trên có trên những lọng che, dụ cho Tứ vô lượng, gồm các đức; từ bi tối cao, phổ nhiếp tất cả. Trân quý, tạp bảo đều nghiêm sức nghĩa là chơn thật vạn thiện giữ gìn lòng từ bi nầy.

Đại Kinh nói rằng: Từ ấy là đầy đủ 10 lực vô úy. Gọi Như Lai là từ. Từ ấy ở trong hạnh bố thí v.v… Bảo quy giao cách là dụ cho 4 thệ nguyện kiên cố với tâm đại bi; cùng với các hoa là dụ cho 4 nhiếp thần thông để duyệt qua những động tác của chúng sanh; lại cũng còn dụ cho thất giác, diệu phát. Chồng chất đủ loại là dụ cho việc quán sát luyện tập huân tu tất cả các loại thiền đã thuần thục mềm mại. An trí trên đó dụ cho xe và trục vận chuyển, tùy nơi mà đến. Đầy đủ như chi mão dụ cho động mà tịnh; tịnh mà động. Hoặc trong xe gối đầu nghĩa là chỗ nghỉ của thân mình dụ cho một hạnh tam muội; tức là tất cả trí, tất cả hạnh. Đau ấy là màu đỏ sáng dụ cho pháp chẳng phân biệt. Giá ấy dùng bò trắng là dụ cho vô lậu bát nhã. Có thể hướng dẫn chân lý và nhân duyên để qua tất cả vạn hạnh, đến được Tát Bà Nhược (Nhất thiết trí). Màu trắng ấy là màu căn bản, tức là cái gốc thanh tịnh, vô lậu tương ưng. Thể ấy gồm đủ vạn đức như ở phía bên ngoài. Phiền não chẳng nhiễm như màu sắc thanh khiết. Lại nữa Tứ Niệm Xứ lấy làm bò trắng. Tứ Chánh Cần trong 2 đời lành đầy đủ như bên ngoài da. Hai đời ác hết, như màu thanh khiết. Tứ như ý túc gọi hạnh ấy là tâm. Như hình thể đẹp đẽ. Gân ấy dụ cho 5 căn đứng vững, có thể sanh ra nghĩa. Lực ấy dụ cho ngũ lực, dùng sức mạnh của cán là nghĩa ý nầy. Đi bộ ngay ngắn, dùng dụ nầy để chỉ cho hạnh huệ quân bình. Lại dụ cho thất giác (chi) điều độ bình thường. Bệnh tật nầy như gió; nghĩa là khi thực hành Bát Chánh Đạo, liền đến được Tát Bát Nhược (Nhất thiết trí). Những người theo giúp đỡ dụ cho phương tiện Ba La Mật có thể khó khăn, tùy theo người mà chu cấp, chờ đợi mệnh lệnh. Chúng ma ngoại đạo , nhị thừa thực hành việc nhỏ. Tất cả đều tùy theo phương tiện trí dụng. Tịnh ấy nói rằng: Tất cả ta đã chờ. Lại cái quả địa là thần thông, vận chuyển tùy ý; tức là người theo phụ giúp.

Kế tiếp từ „Vì sao thế“ trở đi; giải thích về việc do có xe; do giàu có chứa nhóm, để dụ cho quả địa phước huệ viên mãn. Gọi của cải giàu có vô lượng khi chứa đầy đủ. Hành tạng lý tạng là tất cả các pháp như: Đàn, thi, nhẫn v.v… đều là những điều chẳng sai, thì hành nầy sánh với Như Lai Tạng. Tất cả các ấm nhập, giới, căn, trần v.v… là chỗ chẳng thể sai. Tức là cái lý làm sáng tỏ cho Như Lai Tạng. Tự thực hành việc làm nầy, cái lý ấy gọi là đầy đủ. Giúp cho kẻ khác gọi là lợi ích. Thật trí đầy đủ gọi là sung (mãn); quyền trí dụng gọi là đầy tràn; nhập vào trung đạo gọi là sung. Song chiếu cho nên gọi là dật (đầy tràn); chẳng phải hay chứa nhiều mà tất cả đều sung dật (đầy đủ). Pháp nào chẳng phải là Ma Ha Diễn Đại Thừa ? Cho nên Đại Thừa vô lượng vậy, mà tạo ra sự suy nghĩ như sau; tức là rộng làm cho rõ tâm nầy.

Câu văn đây chia làm 2. Một là quảng tâm và hai là giải thích. Quảng tâm nghĩa là tài phú vô lượng; con cái thì vô biên. Đây chính là tâm nầy. Nếu giàu mà không có con; hay có con mà nghèo; tức là chẳng được như vậy. Nay thì xe thất bảo to lớn nhiều vô lượng. Hoặc giáo, hoặc hạnh, đều là Ma Ha Diễn Đại Thừa; tức là tài sản của cải nhiều. Mỗi mỗi đều chẳng nghi ngờ sai biệt; chẳng thay đổi cái gốc mà dùng để chỉ cho sự chơn thật. Như Thân Tử (Xá Lợi Phất) đối với trí tuệ, khai mở Phật tri kiến, đầy đủ tất cả Phật pháp. Ngài Mục Liên đối với Thiền Định khai mở Phật tri kiến, đầy đủ tất cả Phật pháp. Ngoài ra đối với người, thí dụ cũng như vậy. Lại nữa Phương Đẳng Bát Nhã; Niệm xứ, Chánh cần, Căn lực, Giác đạo, đủ loại khác nhau, gọi tất cả là khai thị thật tướng. Trải qua tất cả pháp, lại cũng như vậy. Cho nên nói là vô lượng.

Từ “Vì sao vậy? Ta dùng” trở đi; giải thích 2 điều nầy. Đầu tiên giải thích về tài sản nhiều. Có thể cho một nước, huống hồ gì là các con. Thí dụ nầy dụ cho sự viên mãn hoàn toàn to lớn bao trùm cả thiện ác; huống hồ là tri kiến của Phật sao? Kế đến giải thích về những đứa con. Ngay cả không phải con mà còn đầy đủ, huống hồ là con của mình. Điều nầy dụ cho kẻ vô duyên Phật còn độ cho, huống hồ là những người đệ tử của mình. Nương theo câu văn có thể giải thích như vậy.

Từ “Lúc bấy giờ các con mỗi người đều lên xe lớn” trở đi; phần thứ 4 nầy nói về việc thích hợp với điều mong muốn; nên vui vẻ. Điều nầy dụ cho bên trên thọ nhận việc ngộ nhập. Căn bản của việc cầu xe dê, xe hươu, xe trâu đã ra khỏi. Nay được xe bạch ngưu một cách dễ dàng, quá chỗ mong cầu, há chẳng vui sao?

Từ “Vì sao vậy” trở đi; phần thứ 4 dụ cho việc chẳng hư vọng. Đây là dụ cho vua pháp ấy chẳng hề hư dối. Một là hỏi; hai là đáp và ba là thuật lại việc hân hoan. Hỏi thì như câu văn.

Từ “Xá Lợi Phất nói“ trở đi; phần thứ 2 là đáp lại có 2. Một là khỏi khó chẳng hề hư dối. Lại cũng còn gọi là dùng nặng đoạt nhẹ, chẳng hề hư vọng. Hai là chẳng phải con người, mà bổn tâm ấy chẳng hư vọng. Lại còn nói rằng: Quá cái căn bản ấy, vọng kia lại chẳng hư. Mỗi mỗi lại chia ra làm 3. Nghĩa là chương chính giải thích, huống là phần cuối. Điều chính yếu là không gặp nạn, như câu văn nói.

Từ “Hà dĩ cố” trở đi; phần thứ 2 giải thích về mệnh thì trọng, thân thì khinh, toàn thân miễn được khỏi lửa. Nhận được tài bảo quý báu là trọng mệnh, há có hư vọng chăng? Cuối cùng miễn gặp 8 nạn khổ của lửa; toàn thân 5 phần được như của quý. Hà huống là nơi hai vạn Đức Phật nơi chỗ huệ mệnh Đại Thừa viên mãn nhơn duyên, thành tựu Phật tri kiến, khai mở cho, há đây là điều hư vọng?

Kế đến “Thế Tôn nếu là” trở đi; phần thứ hai là chẳng phải bản tâm của người. Phần đầu là chương nói về: Chẳng phải bản tâm người. Gốc ấy rõ biết chẳng có 3 ý, làm cho chẳng hủy báng. Chẳng hủy báng, được chẳng phải bản tâm người. Giải thích rằng: Gốc ấy rõ biết không nhỏ; ý ấy làm cho chẳng bị rơi vào đường ác. Tức là không hủy báng nguyên nhơn; nên quả chẳng rơi vào chốn ác. Chẳng cùng với xe nhỏ; chẳng phải là bản ý của con người. Đoạn kết nói rằng: Tự rõ biết giàu có vô lượng; nên muốn giúp đỡ các con. Với một xe lớn kia, qua ý mong cầu đó; cho nên chẳng phải là chỗ hư vọng. Trước phần kết 2 chương, nói về phương tiện giúp đỡ; giống như thí dụ bỏ mất cái lực của thần thông, do đoạn mất phước đức. Phần kết ở chương sau nói về của cải vô lượng giống như dụ cho cái lực của trí, đức, biện tài. Phía trước như các con chẳng hư vọng, thì phía sau của cải cũng chẳng hư vọng.

Từ “Phật bảo Xá Lợi Phất rằng” trở đi; phần thứ 3 là hân hoan thuật lại. Có 2 điều lành thay! Thuật lại 2 điều nầy chẳng hư vọng.

Hỏi: Phật sao chẳng tự nói việc chẳng hư vọng?

Đáp: Phật hứa cho 3; nhưng tự nói một là khó. Thân Tử nói chẳng vọng; giữ lấy niềm tin là dễ.

Từ “Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như vậy” trở đi; phần thứ 2 gồm những thí dụ chung lại. Quang Trạch mở ra 10 thí dụ; nhưng chỉ gồm 7; còn 3 kia chẳng hợp. Trong 7 ấy đúng ra chỉ gồm có 5; kiêm cả phần thứ 5 và thứ 8. Chẳng gồm phần thứ 7 và thứ 9. Cho nên rõ biết 10 dụ kia nhiều, mà chẳng hội đủ. Nay hợp lại tổng, biệt chia ra làm 2 thí dụ. Trong tổng ấy lại có 6. Nay câu văn tất cả đều hợp lại nhỏ, chẳng theo thứ tự. Nay ban đầu phần một, hợp bên trên, phần thứ nhất. Trưởng Giả gọi là Hành Vị hiệu là Đức Nghiệp. Hợp lại nói rằng: Như Lai cũng lại như thế. Trước tiên là hợp vị hiệu; Như Lai vô lượng đức hiệu, lược nói chỉ 10 hiệu như bên trên đã nói. Tất cả thế gian, mọi nơi đều định danh là hạnh. Như bên trên nói về quốc ấp, tụ lạc, hợp lại nói chung là tất cả thế gian cùng ở chung với nhau. Tất cả đều là những nơi do quả báo của diệu tâm, diệu sắc. Như Lai hóa hiện ra 3 nơi ấy; tức là tất cả thế gian, giống như tại quốc ấp, tụ lạc vậy.

Đối với những việc sợ hãi như trên ca ngợi cái đức của trong và ngoài; bên trong thì tuổi cao, suy giảm; rõ biết nhiều; giống như Như Lai trí đoạn; đối với những việc sợ hãi vô minh không còn nữa. Bên trên hợp lại về việc suy thoái là hiển bày đoạn trừ của đức. Thành tựu vô lượng tri kiến, hợp lại người tuổi cao ấy hiển thị trí đức cùng với lực vô úy v.v… Hợp lại bên trên về cái đức bên ngoài là của cải rất nhiều. Thần lực sâu tu thiền định, hay được thần thông; hợp chung lại như đất đai. Trí huệ lực là trí ấy tất nhiên chiếu cảnh, như thân ấy thác nơi nào. Hợp bên trên thành nhà cửa. Đầy đủ phương tiện Ba La Mật, hợp cùng bên trên với kẻ ăn người ở.

Từ “Đại từ đại bi” trở đi; phần thứ 2 hợp bên trên thành 4. Từ bi là sự ban cho căn bản; tất cả trong 5 đường; hằng vì từ bi mà gia bị. Hợp lại bên trên có 500

người, mà sanh vào nhà lửa của 3 cõi; nên phần thứ 3 hợp lại bên trên của phần 2 là nhà cửa. Vì muốn độ chúng sanh; nên phần 4 hợp lại bên trên thành 6. Chúng sanh có duyên gần gũi, thân cận đã được độ trước; hợp lại bên trên gồm 30 người con. Sanh, lão, bệnh, tử là phần thứ 5, hợp thượng của phần 5 là bị lửa đốt cháy cho nên mới đưa ra thí dụ; giáo hóa làm cho được tam Bồ Đề. Phần thứ 6 hợp thượng thành 3. Sự dạy dỗ ấy có thể rõ biết cái lý; rồi tìm cái lý khởi lên việc làm; tức là được Bồ Đề vậy. Cho nên rõ biết giáo lý cùng có công dụng chung. Hợp lại bên trên dụ cho chỉ có một cửa. Nếu giảng thuyết làm cho trước sau có thể giải được; mỗi mỗi ở nơi phẩm dụ Phương Tiện làm căn bản đến được. Sau đó đi khỏi cũng như vậy.

Từ “Thấy các chúng sanh” trở đi; phần thứ 2 hợp lại thành biệt dụ. Biệt dụ nầy có 4. Nay hợp lại thấy dụ về lửa đầu tiên. Dụ nầy có 3 ý. Câu văn nầy lại có 4, hợp lại cũng thành 4. Trong dụ ấy sự lo lắng có trước. Các con luyến tiếc vui mừng có sau. Hợp lại thì thấy trong ấy chẳng rõ; chẳng sợ nằm ở trước; làm cho tránh xa sự khổ cùng với niềm vui nằm ở sau. Hỗ tương với hiện tại biện nói về điều nầy chẳng nhất định. Nay chỉ dùng một chữ thấy. Phần thứ nhất hợp với phần thứ nhất bên trên có thể thấy bằng mắt, tức là Như Lai hay chiếu trí nhãn, có thể thấy được.

Chúng sanh vì sanh già; phần thứ 2 hợp lại bên trên phần 2 là chỗ thấy lửa bốc lên từ 4 phía. Trong nầy làm sáng tỏ tám nạn khổ vì lửa; bốn nạn khổ như câu văn. Tham trước truy cầu, cầu chẳng được nên khổ. Sau đó đọa vào địa ngục, làm trời, làm người, thì 5 ấm khổ. Ái ly; oán hội như câu văn. Đây là 8 nỗi khổ. Từ 4 điên đảo ở 4 phía nổi lên vậy.

Từ “Chúng sanh chìm ở trong nầy” trở đi; phần 3 hợp với bên trên phần 4 là chỗ thấy lực, dụ cho các con chẳng hay chẳng biết. Chẳng quán khổ, tập; cho nên chẳng xa lìa. Chẳng quán đạo, diệt; cho nên chẳng cầu giải thoát. Chỉ khi gặp khổ lớn, chẳng vì đó mà xung đột. Hợp lại với tâm bên trên là chẳng lo sợ, chẳng có ý cầu ra khỏi.

Từ “Phật thấy điều nầy rồi liền suy nghĩ rằng”: Phần thứ 4 hợp với bên trên của phần thứ 3, khởi lên sự lo sợ. Ta tuy có thể ở nơi cửa bị đốt cháy ấy an ổn ra được. Muốn cứu khỏi khổ nạn nầy, liền dùng lực đại bi cùng với vô lượng an lạc; tức là lực đại bi to lớn vậy.

Từ “Như Lai lại suy nghĩ như thế nầy” trở đi; hợp với phần 2, xả bỏ đồ dùng của xe, dụ nầy khuyên nên giữ giới; nay hợp lại khuyên chẳng cùng hợp lại giữ giới. Trong khi thuyết pháp lại khuyên việc lành; chẳng làm rõ chỗ giữ giới ác. Cho nên khuyên tu là chánh; giữ giới ác là bên cạnh. Lại nữa khuyên việc lành tức là giữ giới ác. Giữ giới ác tức là khuyên làm việc lành. Nay hợp lại khuyên làm lành; tức phải rõ biết hợp lại việc giữ giới ác. Câu văn khuyên bên trên có 3. Nghĩa là căn cứ vào kẻ không có cơ duyên liền tiêu; căn cứ vào kẻ có tay, thân nương vào đây và hay dùng thần lực để hợp chung lại thân lực và trí lực cũng như hợp chung với lực của tay. Tán thán tri kiến của Như Lai hợp lại với sự nương tựa. Lực ấy vô sở úy, hợp lại với đồ đạc. Nếu đầu tiên Phật xuất hiện, tức là dùng việc căn cứ nầy vào chúng sanh. Chẳng thể dùng cái nầy để được độ. Vì sao vậy? Giải thích về việc chẳng được độ, hợp bên trên lại với phần 2 thí dụ cho người con chẳng nhận sự khuyên bảo. Điều căn bản là do ngũ trược chướng nặng nề, chưa thể ra khỏi sự chết sống của lửa; nên chỗ Đại Thừa vi diệu chưa thể vào được. Cho nên nói rằng lý do nào có thể giải được trí huệ của Phật. Đây là một câu liền hợp lại với bên trên; tuy có một cửa mà lại còn nhỏ hẹp nữa. Vì nhỏ cho nên chẳng thể giải được trí tuệ kia. Chẳng thể giải trí tuệ; nên liền có ý đi đến cửa. Như vị Trưởng Giả kia tuy lại có sức mạnh của thân thể và tay chân, mà chẳng dùng đến được. Hợp lại với việc thứ 3 bên trên thì buông bỏ điều lành; cho nên chẳng thể có cơ duyên để có được. Hoặc bị rơi vào hầm lửa bị thiêu đốt. Câu văn nầy nói không lìa bỏ là dụ cho lời thệ nguyện căn bản. Ý nghĩa chữ tức hóa sâu xa rõ ràng. Tức hóa theo câu văn nầy có 2. Trước lời văn ấy trước sau có 3 thí dụ. Kế đến chánh thức hợp tức hóa. Lời văn phía trước có một thí dụ, chánh thức chiếm hợp tức hóa. Lời văn sau có 2 thí dụ, bên cạnh thành tức hóa. Tuy lại có lực của thân thể, tay chân mà chẳng thể dùng đến được. Câu văn nầy trước nói về tay chân, thân thể dụ cho việc cứu con mà chẳng được; rồi dùng hợp tức hóa. Như Lai lại tẩm đại hóa; thường hay dùng sự khuyến khích. Câu văn ấy thí dụ cho việc cho 3. Tựu chung sau đó mỗi mỗi đều giống. Câu văn lần thứ 3 dụ cho việc cho xe lớn. Như Lai lại cũng như vậy. Trong 16 chữ ấy chính thức hợp lại thành 3 tức hóa.

Từ “Thường dùng trí tuệ phương tiện” trở đi; là thí dụ hợp các xe lại dùng để cứu. Câu văn trên lại có 4. Trong nầy lại cũng có 4; hay dùng trí tuệ; hợp phần một lại để rộng tuyên cho 3 xe. Vì đó mà nói 3 thừa. Hợp bên trên, phần 2 là rõ biết tâm của con mình trước, mà nói lời rằng: Hợp thượng phần ba ca ngợi 3 xe khó có. Bên trên có sự khuyên bảo, chỉ bày, chứng nhập; nay lại làm cho đầy đủ; chẳng cần theo thứ lớp. Phần thứ nhất hợp với phần bên trên của phần 2 là: Các ngươi chưa được vui ở nơi 3 cõi. Đây chính là chỉ chỗ vô sanh vậy. Ba cõi ở đây chỉ cho khổ đế; chớ có tham luyến để sinh ra yêu mến. Chỉ bày cho tập đế. Xa lìa 3 cõi chỉ bày cho diệt, đạo nầy; tức là chỉ bày ngoài 3 cõi nầy có cái quả của trí đoạn tam thừa. Cho nên làm cho ra khỏi 3 cõi thì sẽ được Tam Thừa (3 xe). Tam Thừa ấy chính là giữ cái thể của đạo và diệt.

“Ta nay vì người mà giữ gìn việc nầy cho đến cùng chẳng hư dối”. Đây là phần thứ 2 hợp với bên trên của phần thứ 3; tất nhiên sẽ chứng được chỗ chẳng hư. Lại còn nói rằng: “Các ngươi nên biết”. Phần thứ 3 hợp với bên trên của phần thứ nhứt tán thán hy hữu. Như 3 thừa nầy là phương tiện của chư Phật; là nghi thức dẫn dụ; cho nên là chỗ xưng tụng của bậc thánh; được vô sanh trí và tự tại; được tận trí, không có chỗ ràng buộc. Ta sanh đã hết; chẳng thọ thân sau; gọi là chẳng có chỗ nương tựa. Chỗ làm đã xong, biện tài, phạm hạnh đã lập; gọi đây là vô sở cầu.

Từ “Nếu có chúng sanh bên trong có trí tánh” trở đi; phần nầy dụ cho sở nguyện của đứa con hợp với phần thứ 4. Bên trên có chơn tợ sánh với Tứ Vị. Nay hợp ấy lại có 4. Thường là bên trên tổng và nay thì biệt. Tam Thừa gọi đây là 4. Tất cả đều dẫn theo ví dụ trên, lại chiếm cứ chỗ hợp lại. Bên trong có trí tánh tức là chứa nhóm Tam Thừa lạc dục thành Tam Thừa trí tánh. Cho nên Phật thí cho Tam Thừa giáo vậy. Bên trong thì rõ biết; cho đến từ Phật nghe pháp rồi tin nhận, thọ trì. Hợp lại khi nghe người cha nói những vật sở thích để chơi là đúng với sự mong cầu. Hợp bên trên nầy thuộc về Văn Huệ; khuyến khích ân cần hợp với tâm bên trên, mỗi mỗi dũng mãnh thuộc về Tư Huệ. Tinh tấn hợp với phần trên của phần thứ 2 để bác bỏ. Đưa cái lý để bài bác là bài bác việc ác. Việc ác ấy đi khỏi, siêng năng là do cái lý ấy sáng tỏ ra; cho nên gọi là tấn (tinh). Hợp lại bên trên, gọi là Tu Huệ. Muốn mau ra khỏi, hợp với bên trên phần 3 cùng cạnh tranh chạy ra khỏi. Đây gọi là Thanh Văn Thừa. Hợp với bên trên phần thứ 4, tranh nhau ra khỏi nhà lửa. Ba thừa tu hành; tất cả đều có 4, mà Bích Chi Phật thì cầu tự nhiên huệ. Bích Chi là pháp của người thực hành. Từ sự nghe pháp ít kia, tự rõ nghĩa nhiều; cho nên dụ cho con hươu. Con hươu chẳng nương tựa vào người, sống tự nhiên. Từ 12 cửa nhơn duyên mà vào. Cửa nầy vốn đã sẵn có; chẳng phải Phật hay Trời, Người tạo ra. Gọi là huệ tự nhiên, chẳng từ việc nghe kia. Lại còn gọi là tự nhiên huệ. Bồ Tát gọi là tất cả trí. Chẳng giống với Nhị Thừa sánh với Phật trí. Bồ Tát muốn tu nhơn nầy; tức là Đại Thừa ý nguyện.

Như vị Trưởng Giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi vậy. Gặp nhau với phần thứ 3 và dụ cho xe lớn. Câu văn trên lại chia làm 4. Một là ra khỏi; hai là xe xấu, hư; ba là đem cho; bốn là vui vẻ. Nay lược bớt, chẳng hợp với phần thứ 2 và phần thứ 4. Hay gặp với nghĩa ra khỏi cùng với xe xấu, hư. Gặp nhau lại với việc cho xe cùng sự vui vẻ. Nay câu văn ra khỏi; cho xe là 2 thí dụ. Sau đó gặp lại 2 thí dụ. Như vị Trưởng Giả kia, câu văn nói là ra khỏi, rồi tự nhớn về tài sản. Câu văn nói cho; cũng giống như Đức Như Lai vậy. Gặp nhau ra khỏi cửa và cửa ấy có 3 nghĩa. Đó là nghĩa vào, nghĩa ra và nghĩa riêng biệt. Ba cõi là nhà, ngũ ấm là phòng. Do mê sắc tâm mà nhập vào sắc tâm; tức là vào trong nhà. Vào ra cửa sống chết. Muốn ra khỏi, thì lên xe, từ đây ra khỏi Tam Giới. Đây có nghĩa là qua Thông, Giáo của Đức Phật kia chỉ bày nơi cửa. Biệt nghĩa tức là biệt giáo kia giải thích rõ ràng về cái cửa ấy. Nay nói Phật chỉ cho cửa ấy tức là chính thức tạng nầy thông cả hai giáo ấy. Cái lý của giáo là cùng với cánh cửa, được ra khỏi 3 cõi mà được miễn nạn.

Như Lai lúc bấy giờ liền suy nghĩ rằng: Gặp lại để cho chúng; cho đồ tốt nhất; phía trước có chương ví dụ về cánh cửa; hai là nói rộng; ba là giải thích ra khỏi. Nay gặp lại; lược bớt cái khuyết của câu văn, nhỏ ấy chẳng thể theo thứ tự. Như Lai lúc bấy giờ liền suy nghĩ như thế nầy: “Ta có vô lượng trí huệ lực”. Phần thứ nhất hợp với bên trên của phần thứ 4, giải thích về nguyên do của việc có xe. Bên trên nói về sự giàu có vô lượng, xa khố đầy dẫy. Đây là ý nói: Tất cả những chúng sanh ấy đều là con của ta. Phần thứ hai gặp với bên trên của phần thứ 5 nói về tâm rộng lượng.

Bên trên nói: Ta có của cải rất nhiều, chẳng nên dùng xe yếu, xe nhỏ. Chẳng làm cho có người riêng được diệt độ, mà tất cả sau khi Như Lai diệt độ thì mới diệt độ. Há chẳng hợp với ý nghĩa của tâm nầy sao? Đây chính là chúng sanh thoát ra khỏi 3 cõi. Phần thứ 3 hợp với phần bên trên của phần thứ nhứt so sánh tâm ấy với chương nói về cánh cửa.

Bên trên nói rằng: Mỗi mỗi đều cho các con. Chư Phật thiền định, giải thoát cùng với phần thứ 4 hợp với bên trên của phần thứ hai điểm chính nói về xe và chương nói về cửa. Tất cả đều là một tướng, một loại. Phần thứ 5 hợp với bên trên của phần thứ 3 chính thức rộng nói về xe lớn.

Bên trên gặp lại với việc cao rộng, cho đến kẻ ăn người ở v.v… một tướng ấy là thật tướng. Tức là pháp thân vậy. Một loại ấy là chủng trí. Bát Nhã có thể sanh được tịnh diệu, vui thích. Niềm vui ấy chính là không có khổ; gọi đây là giải thoát. Ba đức cao rộng đầy đủ trang nghiêm, thâu nạp tất cả các đức; gọi đây là Ma Ha Diễn (Trí) (hay Đại Thừa?). Dụ bên trên về xe lớn là sự tập hợp nầy. Như vị Trưởng Giả kia dùng 3 xe. Hợp với phần thứ 4 là dụ cho việc chẳng hư vọng.

Bên trên đáp có 2. Một là toàn thân mệnh; hai là chẳng phải người có tâm căn bản. Mỗi mỗi đều có 3 riêng biệt. Nay hay gặp lại, chẳng phải là tâm căn bản của con người, kiêm luôn toàn thân. Sao ý căn bản của Phật là trừ đi ngũ trược? Ngũ trược ấy hết thì việc thiện tự hoàn toàn.

Bên trên chẳng phải tâm người lại có 3. Một là lấy tiêu điểm lần lượt giải thích về 3 tình huống. Nay gặp lại giải thích, hợp lại tình huống. Câu văn đầu tiên dẫn đến việc của 3 xe. Sau đó dụ cho xe lớn. Kế đến gặp Đức Như Lai, đầu tiên nói ba thừa để hướng dẫn, sau đó mới dùng đến Đại Thừa. Điều hợp lại và giải thích nầy chẳng phải là tâm gốc của con người.

Bên trên nói rằng: Trước tạo ra ý nầy là ta dùng phương tiện để làm cho những người con ra khỏi. Vì sao vậy? Gặp lại bên trên phần thứ ba, tình huống ra khỏi chẳng phải hư vọng. Tức là Trưởng Giả tự rõ biết của cải vô lượng, muốn làm lợi ích cho con cái cho nên hứa cho 3; nhưng thật ra chỉ một. Chẳng phải là điều hư vọng.

Điều nầy giải thích việc nhỏ nầy khác với trước. Ý trước là làm cho các con được ra khỏi; ý ấy chẳng phải ở 3 nơi. Liền ra khỏi,chẳng cùng lại chẳng phải hư vọng. Nay làm rõ việc Như Lai ra đời đầu tiên muốn nói việc lớn. Tuy nhiên trí nhỏ, vui đắm nơi 3 cõi; cho nên dùng phương tiện để dẫn dụ ra khỏi. Khi ra khỏi được rồi, dùng Đại Thừa để gọi cho bổn tâm. Cho nên nói rằng có thể làm cho chúng sanh pháp Đại Thừa, hằng chẳng tận có thể thọ dụng vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm thì có thể thọ, liền cùng với Đại; chẳng khai một mà làm ba. Chẳng thể thọ là dùng phương tiện lực đối với một Phật thừa phân biệt để nói làm ba. Ba ấy là do chúng sanh chứ chẳng phải là bản hoài của chư Phật. Cho nên dùng sự giải thích nầy thành chẳng phải bổn ý của con người cũng là điều chẳng hư vọng vậy.

 

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Hết quyển 5 (Phần dưới)

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10