TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 1

 

LỜI TỰA

Do vua Thành Tổ đời nhà Minh Ngự Chế Thần tăng là những vị có sức Thần thiên biến vạn hóa vượt trội hơn hẳn mọi người. Nhưng đều có truyện rải rác trong kinh điển. Người xem rất mong được khảo cứu nhưng văn từ trong Tam tạng lại rộng lớn mênh mông, khó thể hiểu được, cho nên ở đời phần nhiều không thể biết hết được ý sâu xa và cũng không thể thấu hiểu cặn kẽ nguyên do, vì các vị đó chính là Thần. Nhân đó mà cố gắn góp ghi lại các truyện gom thành chín quyển, để người xem khỏi nhọc công tốn sức tra cứu tìm tòi. Một lần xem qua thì có thể biết tất cả, như vào kho báu thì thấy tất cả tốt đẹp đều có đủ, liền đem khắc bảng in để lưu truyền, bày rõ chứng cứ trong khoảng đất trời, khiến mọi người đều biết đó là Thần tăng, đều ghi đủ chứng cứ. Nên nay đem ghi lời này để ở đầu sách.

Vĩnh Lạc năm thứ 1 (118), ngày mồng 6 tháng giêng.

 

 

1. Ma Đằng:

Thích Ma Đằng, người trung Thiên Trúc, tánh cách phong thái nghĩa khí, thông hiểu các kinh điển Đại, Tiểu thừa, thường lấy việc du hóa làm chính. Đến Thiên Trúc nương vào một nước nhỏ, giảng kinh Kim Quang Minh. Gặp lúc có nước cừu địch xâm lăng, Ma Đằng nghĩ: “Trong kinh nói: Pháp này là chỗ Địa thần ủng hộ, khiến ở được an lạc. Nay giặt dã mới bắt đầu, ta làm sao bỏ mặc?” Mới quyết bỏ thân mạng này, cùng đến khuyên hóa, do đó mà tiếng tăm vang lừng.

Đến niên hiệu Vĩnh Bình (8-76), đời Hậu Hán, vua Minh Đế nằm mộng thấy người vàng bay giữa không trung đến, liền nhóm họp quần thần cùng nhau đoán mộng ấy. Thông nhân Phó Nghị tâu rằng:

– Kẻ bề tôi nghe ở Tây Vực có thần, tên gọi là Phật, mộng của bệ hạ quả là vậy!

Nhà vua cho vậy, liền sai Lang Trung Thái Âm, Tần Cảnh đệ tử Bát Sĩ… đến Thiên Trúc tìm hỏi Phật pháp, Thái Âm… đến đó gặp được Ma Đằng, muốn mời về đất Hán, với ý nguyện hoằng thông Phật pháp, Ma Đằng không sợ gian khổ, mạo hiểm vượt qua Lưu sa đến ở Lạc ấp. Vua Minh Đế rất vui mừng cung kính nghênh tiếp, dựng lập tịnh xá ở ngoài cửa phía Tây thành thỉnh Ma Đằng ở đó. Đất Hán có Sa-môn, từ Ma Đằng là tiếng gọi đầu tiên. Chỉ vì đại pháp mới truyền đến nên chưa có mấy ai quy hướng kính tin, nên lịch sử hiểu biết thâm sâu của Ma Đằng không cũng chưa ghi chép nhiều. Về sau, Ma Đằng viên tịch tại Lạc dương.

Có ghi rằng: “Ma Đằng phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, 1 quyển, gian phòng thứ mười bốn là nơi Ma Đằng ở cũng là nơi đầu tiên ngài bế quan trong thạch thất tại Lan đài. Ngày nay là chùa Bạch Mã ngoài cửa Tây ung thành Lạc dương. Lại có tương truyền rằng: “Ở ngoại quốc có vua thường hủy phá các chùa, chỉ có chùa Chiêu Đề chưa kịp phá hủy, ban đêm có con ngựa trắng đi nhiễu quanh tháp kêu tiếng bi ai, liền đem việc ấy tâu vua. Nhà vua liền cấm việc phá hủy các chùa. Nhân đó, đổi tên Chiêu Đề thành Bạch Mã.

2. Pháp Lan

Trúc Pháp Lan người trung Thiên Trúc, tự nói tụng đọc kinh luận vài vạn chương, là bậc thầy của các học giả ở Thiên Trúc.

Lúc Thái Âm đã đến nước ấy, Trúc Pháp Lan cùng với Ma Đằng đồng kết ước du hóa, cùng Thái Âm đến Trung Hoa, khi đã đến Lạc dương ngài ở cùng với Ma Đằng. Thuở thiếu thời, Pháp Lan đã khéo giỏi Hán ngữ nên các kinh điển được Thái Âm thỉnh ở Tây Vực, phiên dịch cả thảy là năm bộ. Đó là Thập Địa đoạn kết, Phật Bổn Sinh, Pháp Hải Tạng, Phật Bổn Hạnh, và Tứ Thập Nhị Chương. Gặp lúc phải dời đô bởi giặc loạn nên bốn bộ đã bị thất truyền, tại Giang tả chỉ còn kinh Tứ Thập Nhị Chương được lưu giữ đến ngày nay, có thể hơn hai ngàn lời. Các kinh hiện còn tại đất Hán, chỉ có kinh Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên. Thêm nữa, Thái Âm lúc ở tại Tây Vực họa được tôn tượng Đức Phật Thích-ca dựa vào tượng gỗ Chiên-đàn do bốn thầy trò vua Ưu-điền kiến tạo, khi về đến Lạc dương, vua Minh Đế liền sai thợ vẽ đồ vẽ và an trí tại trang đài Thanh lương và phóng to cao lớn trên lăng, tượng cũ xưa nay đã không còn giữ lại.

Lại nữa, xưa kia, Hán Vũ Đế đào hồ Côn minh, thấy dưới đáy có tro đen, đem hỏi Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc bảo:

– Có thể đem hỏi Phạn Nhân ở Tây Vực.

Lúc Pháp Lan đến, mọi người liền tìm tới hỏi. Pháp Lan bảo:

– Thế giới đến đời kiếp tận, động lửa thiêu đốt là tro tàn.

Pháp Lan nói có chứng cớ, mọi người tin rất đông.

Về sau, Pháp Lan viên tịch tại Lạc dương, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi.

3. Thế Cao

An Thanh tự là Thế Cao, là vương tử nước An Tức. Thuở nhỏ, hiếu hạnh song toàn, lại thêm chí nghiệp thông mẫn, khắc ý ham học. Các điển tịch ngoại quốc cũng như Thất Diệu Ngũ hành y phương dị thuật, cho đến tiếng của các loài cầm thú, tất cả đều thông đạt. Từng đi đó đây, thấy bày chim yến, liền nói với chim yến rằng:

– Sẽ có người đưa thức ăn đến.

Trong phút chốc quả thật có điều này, mọi người rất lấy làm lạ. Tiếng thơm tài giỏi khác thường sớm vang cùng Tây Vực. Thế Cao nhường ngôi vua, xuất gia tu đạo, hiểu rộng kinh tạng, rất tinh thông giáo học A-tỳ-đàm. Đã vậy lại thích du phương, đi khắp các nước.

Năm Kiến Hòa thứ 2 (18) vua Hoàn Đế, đời Đông Hán, Thế Cao đến Trung Hoa, học thông Hoa ngữ, tuyên dịch các kinh, có nhiều thần tích. Thế Cao tự xưng đời trước đã từng xuất gia, có một người bạn đồng học, tánh hay sân hận, được phân việc canh giữ, gặp thí chủ không được ngợi khen, mỗi lúc như vậy liền nổi sân giận. Thế Cao luôn can gián, song vẫn không thay đổi. Như vậy hơn hai mươi năm, Thế Cao mới từ biệt với bạn đồng học, bảo rằng:

– Tôi phải qua Quảng châu để đáp trả hoàn tất việc đời trước. Ông thấu rõ kinh điển, tinh cần chỉ tại vì sau tôi mà tánh nhiều nóng nảy sân hận, sau khi mạng chung sẽ phải nhận chịu thân hình xấu xí. Nếu tôi đắc đạo hẳn sẽ cứu độ.” Nói xong, đi đến Quảng châu, gặp phải giặc loạn, trên đường đi gặp một gã thiếu niên, chàng ta vung tay đao, bảo:

– Thật, đã được ngươi vậy!

Thế Cao cười, bảo:

– Ta đời trước mắc nợ nhà ngươi, nay từ xa đến để đền trả đây. Sự phẫn nộ của ngươi là ý của đời trước.

Thế Cao bèn đưa cổ dài ra chịu nhận, sắc mặt không hãi sợ. Gã thiếu niên ấy giết chết Thế Cao. Mọi người nhìn thấy bèn chôn lấp, không ai chẳng kinh hãi sự kỳ dị của Thế Cao.

Sự việc xong rồi, thần thức trở lại sinh Thái tử vua nước An Tức, du hóa khắp Trung Quốc, gặp cuối thời vua Linh Đế (189), đời Đông Hán, Quan Lạc nhiễu loạn, Thế Cao mới chấn tích đến Giang nam, bảo rằng:

– Ta phải qua Lô sơn để độ bạn đồng học ngày xưa.

Đi đến miếu hồ Cung đình. Ở miếu đó xưa có uy linh, các thương buôn cầu đảo, hay phân gió đưa thuyền lên xuống, mỗi không lưu dừng ứ đọng. Thường có vị Khất thần bóng dáng người Tây Trúc, chưa hứa khả bèn lấy, thuyền cập mạn liền lật úp, Thần ấy trở về chỗ cũ. Từ đó, người đi thuyền rất kính sợ, không ai chẳng nép bóng. Thế Cao cùng đoàn hơn ba mươi thuyền hiến dâng muôn sinh cầu phước, Thần mới giáng chúc rằng:

– Thuyền có vị Sa-môn, có thể cùng gọi lên.

Khách đều kinh ngạc, Thần mời Thế Cao vào miếu, Thần nói cùng Thế Cao rằng:

– Tôi xưa kia ở nước ngoài cùng ngài xuất gia tu đạo, ưa thích làm việc bố trí mà tánh có lắm sân hận, ngày nay làm Thần ở miếu Cung đình, chung quanh trong vòng ngàn dặm đều là chổ tôi cai trị. Vì nhân bố trí nên các thứ trân quý có rất nhiều, mà cũng bởi vì sân mà phải đọa chịu quả báo làm thần như thế này! Nay thấy bạn đồng học buồn vui có thể cùng nói. Mai đây tuổi thọ sẽ hết mà thân hình xú lậu lớn dài, như đến lúc xả bỏ thân mạng này hẳn dơ bẩn sông hồ, nên phải qua ở trong đầm Sơn tây. Sau khi mất thân này lại sợ phải đọa vào địa ngục! Tôi có ngàn xấp lụa và nhiều thứ vật báu, có thể vì lập pháp tạo dựng tháp để khiến được sinh về chỗ an lành.

Thế Cao bảo:

– Tôi từ xa lại để cùng độ, sao chẳng xuất hiện hình?

Thần thưa:

– Hình hài tôi rất xấu xí khác lạ, mọi người hẳn sợ hãi.

Thế Cao chỉ bảo:

– Nên xuất hiện mọi người chẳng quái ngại gì.

Thần từ sau sàng lò đầu ra, mới là một con trăn lớn, không biết đuôi nó ngắn dài, đến bên đầu gối Thế Cao. Thế Cao hướng đến nó, nói tiếng Phạn vài lần, bái tán vài lời. Con trăn buồn rơi lệ như mưa, phút chốc ẩn lại. Thế cao bèn lấy lụa và các vật rồi từ biệt mà đi. Khách thuyền căng buồm, gió thổi nhanh. Con trăn lại xuất hiện thân lên núi mà ngóng nhìn, mọi người đưa tay khoát chào, sau đó mới biệt mất. Trong chốc lác, thuyền đã đến Dự chương, Thế Cao bèn đem các vật ở miếu tạo dựng chùa Đông.

Sau khi Thế Cao đi rồi, thần liền mạng chung. Đến chiều tối có một gã thiếu niên vừa mới đến tức là Thần ở miếu Cung đình, đã được thoát kiếp xấu xí. Từ đó, miếu ấy hết thần và sự linh nghiệm không còn nữa vậy. Sau đó, có người đến trong đầm Sơn tây có một hình hài con trăn chết, đầu đuôi nó dài đến vài dặm. Ngày nay, ở quận Tầm dương có thôn Rắn.

Thế Cao sau đó lại đến Quảng châu, tìm người thiếu niên đã giết hại thân mình kiếp trước. Bấy giờ người thiếu niên đó vẫn còn, Thế Cao đi thẳng vào nhà người đó nói lại sự việc ngày trước đền trả và đầu mối duyên xưa. Vui vẻ cùng nhau, Thế Cao nói rằng:

– Tôi còn dư báo, nay phải qua Cối kê đề đền trả cho xong. Mọi người khách ở Quảng châu biết được Thế Cao chẳng phải là người phàm, bỗng nhiên hiểu ý, ăn năn lỗi trước, cùng nhau góp sức cúng dường trọng hậu, rồi theo Thế Cao đi đến hướng Đông. Vừa tới Cối kê, liền vào chợ, gặp lúc trong chợ có người ẩu đả lẫn nhau, đánh lầm vào đầu Thế Cao, tức liền mạng chung.

Mọi người ở Quảng châu đã từng chứng kiến hai lần Thế Cao đền trả quả báo, bèn tinh cần tu tập Phật pháp nói đủ mọi sự duyên, mọi người ở xa gần nghe biết, ai ai cũng đều tán thán là Thần dị.

4. Tăng Hội

Thích Tăng Hội vốn dòng họ Khương, tổ tiên là người nước Khương Cư, nhiều đời đến sống ở Thiên Trúc. Thân phụ của Tăng Hội vì việc buôn bán nên dời đến ở đất Giao chỉ. Năm Tăng Hội hơn mười tuổi, song thân đều qua đời, Thế Cao giữ lòng chịu tang, hiếu mãn, phát chí xuất gia, chuyên cần tu tập. Là người cao nhã, có hiểu biết nhiều lại dốc chí chuyên tâm học hành nên hiểu rõ Tam tạng, xem cùng sáu kinh, Thiên Văn Đồ Vĩ, không gì chẳng biết. Lại thêm khéo văn chương, tài giỏi giảng nói.

Bấy giờ, Tôn Quyền, đời Đông Ngô đã chế định ở Giang tả, mà Phật pháp chưa được lưu hành xứ đó. Năm Xích ô thứ 10 (27), lúc mới đến Kiến nghiệp, Tăng Hội dựng lập am thanh, thiết bày tượng Phật hành đạo. Khi ấy, người nước Ngô vì mới thấy Sa-môn, chỉ thấy hình mà chưa hiểu đạo, nghi là lập dị. Có vị quan tâu rằng:

– Có người Hồ mới đến ở ngụ, tự xưng là Sa-môn, ăn mặc khác thường, vì thế nên tra xét.

Tên Quyền bảo:

– Ngày trước, ở đời Hậu Hán, vua Minh Đế (8-76) mộng thấy Thần xưng hiệu là Phật, đạo mà người ấy tôn thờ há là Di Phong của Phật ư?

Liền mời Tăng Hội đến tra hỏi:

– Đạo ông có gì linh nghiệm?

Tăng Hội đáp:

– Đức Như Lai ẩn dấu đã hơn ngàn năm. Di cốt xá-lợi thần diệu vô cùng. Xưa kia, vua A-dục xây dựng tám mươi bốn ngàn bảo tháp. Phàm tạo lập chùa tháp là để hiển dương chánh pháp của Như Lai.

Tôn Quyền cho là hư dối bèn bảo Tăng Hội rằng:

– Nếu có thể cầu được xá-lợi, ta sẽ vì tạo tháp cúng dường, còn bằng không thì phải y theo luật nước gia hình.

Tăng Hội xin kỳ hạn bảy ngày, rồi nói cùng các đệ tử rằng:

– Sự hưng phế của Phật pháp chỉ tại đây, ngày nay nếu không chí thành về sau hối tiếc cũng không kịp.

Tăng Hội cùng Đệ tử trai tịnh, vào tĩnh thất, lấy một bình đồng đặt trên bàn, xông đất hương trầm, lễ thỉnh. Đã mãn hạn bảy ngày, vẫn lặng lẽ không gì ứng nghiệm. Tăng Hội lại xin thêm bảy ngày, cũng lại như thế. Tôn Quyền nói:

– Đây chỉ là việc khinh thường hư cuống.

Lúc sắp gia hình, Tăng Hội lại xin thêm bảy ngày nữa. Tôn Quyền lại đặc ân chấp thuận cho. Tăng Hội nói với đồng đạo rằng:

– Khổng Tử nói: “Văn Vương đã băng hà, Định Chế Lễ Nhạc chẳng còn nơi ta ư?” Phép linh đã ứng giáng, chỉ bởi chúng ta không thành cảm, thì cần gì phải mượn phép vua? Chỉ nên nguyện chết làm kỳ hạn.”

Đến chiều ngày thứ hai mươi mốt, còn không thấy gì, không ai chẳng lo sợ. Vào khoảng canh năm, bỗng nghe trong bình có tiếng rổn rảng. Tăng Hội đến xem, quả thật đã có xá-lợi. Sáng sớm mai, Tôn Quyền tự tay nắm bình đổ xá-lợi ra chiếc mâm đồng, nơi xá-lợi chạm đến, mâm Đồng liền vỡ vụn. Tôn Quyền kinh ngạc nói:

– Thật là điềm hi hữu!

Tăng Hội bước đến, bảo:

– Sức oai linh của xá-lợi đâu chỉ có phóng ánh sáng mà thôi, cho đến lửa của kiếp thiêu cũng không thể đốt cháy, chày Kim Cang cũng không thể đập nát.

Tôn Quyền bảo đem thử nghiệm. Tăng Hội lại phát lời nguyện rằng: “Mây pháp vừa trùm khắp, chúng sinh mong đượm nhuần, xin lại hiện thần tích để hiển bày oai linh!” Nói xong, Tăng Hội bảo người đặt xá-lợi lên đe sắt, sai một lực sĩ dùng chày sắt đập mạnh, nhưng chày và đe đều hư khuyết mà xá-lợi không hề hư hại gì. Tôn Quyền vô cùng thán phục, liền dựng tháp cúng dường. Vì mới có chùa Phật nên đặt hiệu chùa là Kiến Sơ, và tên của chỗ đất đó là thôn Phật-đà. Từ đó, Phật pháp tại Giang tả rất hưng thạnh.

Sau này, Tôn Hạo lên ngôi (26-280), sử dụng chính sách hà khắc, phá bỏ dâm tế, hủy hoại chùa tháp. Ngày nọ, sai binh lính vào hậu cung sửa sang vườn tược, bỗng nhiên được một tôn tượng vàng cao khoảng vài thước, đem dâng lên Tôn Hạo. Tôn Hạo bảo đem để nơi chỗ bất tịnh, lấy nước nhơ uế rưới lên, cùng với quần thần đùa cười lấy làm vui. Bỗng chốc khắp mình Tôn Hạo sưng lớn, ở chỗ kín đau đớn, kêu la thấu trời. Quan Thái Sư đoán rằng:

– Bởi do xúc phạm đến một vị thần lớn mà sinh vậy.

Tôn Hạo liền sai người đến các miếu Thần cầu phước. Các thể nữ liền nghênh tôn tượng đặt vào trên điện, lấy nước thơm tẩy rửa vài mươi lần, rồi đốt hương sám hối. Tôn Hạo lạy quỳ cuối đầu trên gối, tự 62 tỏ bày tội lỗi, bỗng chốc đỡ đau. Tôn Hạo sai sứ đến chùa thỉnh Tăng Hội về thuyết pháp.

Tăng Hội liền theo vào cung. Tôn Hạo hỏi về nguyên do của tội phước nghiệp báo, Tăng Hội phân tích giảng giải lời lẽ rất tinh yếu. Tôn Hạo lãnh hội thông suốt nên vô cùng vui vẻ. Nhân đó, Tôn Hạo xin được xem giới pháp của Sa-môn, Tăng Hội cho rằng: “Giới Văn là pháp Kiêm Khen, không thể khinh xuất giảng nói.”, bèn phân một trăm ba mươi bảy điều nguyện trong kinh Bản Nghiệp làm hai trăm năm mươi việc, đi đứng nằm ngồi đều nguyện vì chúng sinh. Tôn Hạo thấy nguyện từ rộng lớn, nên càng tăng thêm ý thiện, cầu xin Tăng Hội trao truyền ngũ giới. Mười ngày sau, bệnh lành hẳn, Tôn Hạo sai người đến tu sửa trang nghiêm chùa Tăng Hội đang ở. Đồng thời ban lệnh mọi người trong tôn thất đều phải kính tín Tam bảo. Tại thời nhà Ngô, Tăng Hội luôn giảng dạy chánh pháp, vì tánh tình của Tôn Hạo rất hung hăng thô tháo, không thể hiểu đươc diệu nghĩa, nên Tăng Hội chỉ dùng các việc báo ứng để khai hóa mà thôi.

Đến năm Thiên Kỷ thứ tư (280), Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn. Tháng 9 năm đó, Tăng Hội ngã bệnh rồi viên tịch. Và năm đó cũng là năm Thái Khang thứ nhất; niên hiệu thứ ba của vua Vũ Đế thuộc đời Tây Tấn.

Khoảng niên hiệu Hàm Hòa (326-33), vua Thành Đế, thuộc đời Đông Tấn, Tô Tuấn làm loạn, thiêu đốt ngôi tháp do Tăng Hội đã tạo dựng, sau đó, quan Tư Không Hà Sung trùng tu lại. Bấy giờ, có Bình tây tướng quân Triệu Dụ, ở đời không tin thờ Phật pháp, khinh báng Tam bảo. Một hôm, Triệu Dụ vào chùa nói với các Sa-môn rằng:

– Từ lâu, nghe ở tháp này thường phóng ánh sáng, thật là điều hư dối, chưa thấy không thể tin, nếu hẳn chính mắt thấy thì không gì phải bàn luận.

Nói xong, từ tháp phóng ra luồng ánh sáng năm sắc chiếu soi khắp nơi, Triệu Dụ vô cùng kinh hãi, do đó mà kính tin Tam bảo, xây dựng một ngôi tháp nhỏ ở phía Đông chùa.

Đến niên hiệu Vĩnh Huy (60-66), đời vua Cao Tông nhà Đường, lại thấy Tăng Hội đến đất việt, tự xưng là vị Tăng du phương, nhưng thần khí đặc dị, người thấy phải run sợ, không biết đã chứng đắc nào. Lúc ấy, vị Duy Na ở chùa Vĩnh Hân ra vấn nạn về hành tung rồi mắng chưởi đuổi đi. Vừa bước đến cửa, Tăng Hội xoay lại bảo rằng:

–Tăng Hội chính là Khương Tăng Hội đây. Nếu có thể lưu giữ được chân thể của ta ở đây thì sẽ tạo phước cho chùa Viện của ngươi Thoáng chốc, Tăng Hội đứng yên thị tịch, trong dáng vóc hai mắt hơi nhắm lại nhưng nét hào sang vẫn không mất, hai tay đưa lên như vái chào, chân bước như sắp đi. Mọi người bàn luận nếu an táng trong nghĩa địa thì sợ sức người không thể nào di chuyển được Linh thân, xin dời đến thắng địa lập riêng một linh đường để phụng thờ. Mọi người xứ Việt tranh nhau đem hương hoa đèn nến, phan lọng đủ màu, y phục khí vật đến cầu xin, thảy đều thỏa nguyện.

Lúc đầu, Quân đội xứ Việt phần nhiều đóng tại chùa Vĩnh hân, binh lính ăn uống rượu thịt còn vợ của họ thì sinh sản làm ô uế chùa viện, khiến mọi người không chịu nỗi, Tăng Hội hóa hiện hình đến yết kiến Mân Liêm Sứ Lý Nhược Sơ, nói rằng:

– Ngày sau, quân hầu sẽ làm thứ sử xứ Việt, tôi nhờ người hãy dời quân đội đi nơi khác.

Nói xong bèn khoát tay mà đi, liền mất tung tích. Lý Nhược Sơ vừa mừng vừa sợ, ghi nhớ lời nói ấy. Về sau, quả nhiên Nhược Sơ đến xứ Việt. Nhậm chức xong, liền đến lỗ bái linh tích mới nhận ra người nói lúc trước chính là vị Tăng này. Lý Nhược Sơ liền ban lệnh triệt thoái quân đội trở về bổn doanh. Lại có một sản phụ lúc sắp sinh mà không đèn dầu, chung quanh không một ánh sáng, bỗng có một vị tăng cầm đuốc từ cửa bước vào. Sáng hôm sau, người chồng vào chùa Vĩnh Hân, nhận ra hình dạng Tăng Hội tức là vị Tăng đã trao cây đuốc để cứu sản phụ đêm qua. Từ đó, dân chúng thường đến cầu sinh con trai, con gái.

Thêm nữa, Tăng Hội từng đến nhà thường dân xin giày cỏ, vì thế đến nay, người dân xứ Việt phần nhiều thường dùng giày cỏ và tràng phan bằng vải dầu để dâng cúng. Nơi nơi, Tăng Hội thường đến nhà người để giáo hóa, không thể thuật lại hết các Linh tích, nên chỉ tôn xưng Tăng Hội là Thiền sư Siêu Hóa.

5. Chu Sĩ Hành

Chu Sĩ Hành người xứ Dĩnh xuyên, xuất gia từ thuở niên thiếu, chuyên học kinh điển, thường giảng kinh đạo hành, cảm thấy văn ý u ẩn hẹp hòi, liền phát chí nguyện đi xa tìm cầu Đại bổn. Đến nước Vu Điền ở phương Tây, được chánh bản bằng Phạm văn. Đến lúc sắp trở về Lạc dương, các học chúng nước đó tấu trình cùng vua rằng:

– Có vị Sa-môn ở đất Hán muốn đem sách của Bà-la-môn để nhiễu loạn kinh điển chánh giáo, nếu không ngăn cấm vị ấy sợ rằng sẽ làm mê muội mọi người ở đất Hán.

Vua nước Vu Điền liền không cho Chu Sĩ Hành mang kinh đi.

Chu Sĩ Hành rất đau xót tâm can, bèn xin lấy lửa thiêu đốt kinh để làm chứng. Nhà vua chấp nhận ý kiến đó, khi ấy, Chu Sĩ Hành chất củi trước điện để thiêu đốt kinh. Đến lúc nhóm lửa, Sĩ Hành phát thệ nguyện rằng: “Nếu như đại pháp cảm ứng, đáng nên lưu truyền đến đất Hán thì kinh sẽ không cháy, như kỳ không hộ mạng vậy.”

Nói xong, đưa kinh vào lửa, lửa tắt, mà kinh không tổn hoại một chữ. Đại chúng vô cùng kinh sợ kính phục, đều gọi đó là có sự thần cảm. Và Sĩ Hành được đưa kinh đến Trung Quốc.

Về sau, Chu Sĩ Hành viên tịch tại nước Vu Điền, thọ tám mươi tuổi. Sau khi trà-tỳ lửa đã tắt hết mà thi thể vẫn còn nguyên vẹn, mọi người đều lấy làm kinh lạ, mới cầu nguyện rằng: “Nếu thật đắc đạo, theo pháp nên hủy bại.” Chu Sĩ Hành ứng theo lời cầu xin ấy mà vỡ vụn tất cả. Mọi người nhân đó mà lượm nhặt di cốt xây dựng tháp cúng dường.

6. Ha-la-kiệt

Ha-la-kiệt, không rõ là người thuộc dòng họ gì. Xuất gia từ thuở thiếu thời, tụng kinh đến hai trăm vạn lời. Tánh rỗng rang tĩnh lặng, giữ giới thanh tiết, giỏi trù biện, đẹp dung sắc. Thường hành hạnh Đầu-đà, riêng ở một mình trong núi rừng hay đồng nội.

Năm Thái Khang thứ (288), thời vua Vũ Đế, nhà Tây Tấn, Hala-kiệt tạm đến Lạc dương. Bấy giờ, gặp lúc dịch bệnh, người chết liên tục, Ha-la-kiệt chú nguyện chữa trị, mười phần lành được tám, chín phần. Đến năm Nguyên Khang thứ 1 (291) đời vua Tuệ Đế cũng thuộc Tây Tấn, mới đi Tây Vực, Ha-la-kiệt dừng ở núi tại một thạch thất, thường luôn tọa thiền. Ở thất đó cách nước rất xa, người thời bấy giờ muốn khai mở khe suối, Ha-la-kiệt bảo rằng:

–Không cần phải cùng khổ nhọc.

Bèn tự đưa chân trái ấn vào vách đá phía Tây của thất, vách đá lỏm mất chừng ngón tay. Chân vừa cất khỏi, nước từ trong tuông theo ra, trong mát ngọt thơm, chảy suốt bốn mùa không dứt. Mọi người đều đến lấy dùng được hết sự đói khát, dứt trừ được bệnh tật.

Đến năm Nguyên Khang thứ 8 (298), Ha-la-kiệt đoan nhiên an tọa thị tịch, chúng đệ tử y theo quốc pháp mà cử hành lễ trà-tỳ. Qua nhiều ngày thiêu đốt mà nhục thể vẫn còn ngồi trong lửa trọn không cháy hết, mới xin thỉnh trở về lại tôn trí trong thạch thất.

7. Kỳ-vực

Kỳ-vực vốn người Thiên Trúc. Đi khắp các vùng từ Trung Hoa đến Nhung địch, không có chỗ nhất định, thần kỳ không ai bó buộc được, nhậm tánh thoát tục, hành tích chẳng thường. Người thời bấy giờ ai cũng biết đến.

Kỳ-vực phát xuất từ Thiên Trúc đi đến Phú nam trải qua các bờ biển, ven vượt giao chỉ Quảng châu, đâu đâu cũng có linh dị. Khi đến Tương dương, muốn nhờ chở qua sông, thuyền chủ thấy Kỳ-vực là Phạm Sa-môn ăn mặc tệ lậu nên khinh thường mà không chở. Khi thuyền tới bờ phía Bắc, thì Kỳ-vực cũng đã đi qua trước. Thấy hai con hổ. Hổ vãnh tai quẫy đuôi, Kỳ-vực đưa tay xoa đầu nó, hổ liền bước xuống đường mà đi. Người hai bên bờ thấy vậy đi theo thành đoàn.

Khoảng cuối thời vua Tuệ Đế, (317), nhà Tây Tấn, Kỳ-vực đến Lạc dương. Mọi người đều kính lễ, Kỳ-vực quỳ dài an nhiên, dung nhan chẳng động. Bấy giờ, nói cùng mọi người về sự đổi thay đời trước. Bảo rằng Chi Pháp Uyên là từ trong loài dê mà lại, Trúc Pháp Dữ từ trong loài người mà lại. Lại quở trách các chúng Tăng là ăn mặc y phục hoa lệ không ứng hợp với pháp của người xuất gia. Nhìn thấy cung thành Lạc dương, Kỳ-vực nói rằng:

– Phảng phất tợ như cung trời Đao-lợi, chỉ không đồng ở điểm tự nhiên và nhân sự vậy.

Kỳ-vực nói với Sa-môn Kỳ-xá-mật rằng:

– Người thợ tạo dựng cung thành này là từ trời Đao-lợi đến, khi làm xong liền trở lại trời. Ở nóc nhà, phía dưới ngói nên có một ngàn năm trăm tạo vật.

Mọi người thời bấy giờ đều nói:

–Nghe nói ngày xưa người thợ này quả thật có đem tạo vật đặt ở dưới mái ngói.

Bấy giờ, Hành Dương thái thú Nam Dương Tất Vĩnh Văn ngụ trong chùa Mãn Thủy tại Lạc dương, cả hai chân co quắp không thể đi lại, Kỳ-vực đến thăm, bảo:

– Ông muốn lành bệnh ư? Sao không đem một chén nước sạch và một cành dương liễu?

Kỳ-vực liền lấy nhành Dương phết nước đưa tay về hướng Vĩnh Văn mà chú nguyện, ba lần như vậy. Nhân đó, đưa tay xoa bóp đầu gối Vĩnh Văn rồi bảo đứng dậy. Vĩnh Văn tức thời đứng dậy bước đi như cũ. Cũng tại chùa đó, có vài mươi gốc cây bị khô chết Kỳ-vực hỏi Vĩnh Văn:

– Các cây đó khô chết bao lâu rồi?

Vĩnh Văn nói:

– Đã nhiều năm rồi vậy.

Kỳ-vực liền hướng về các cây chú nguyện như pháp chú nguyện cho Vĩnh Văn vậy. Cây bỗng đâm mầm phát triển đều nhau tươi tốt. Trong mùa nắng nóng, có một người mắc bệnh Hòn sắp chết, Kỳ-vực đem bình bát đặt trên bụng người bệnh, lấy vải trắng phủ kín lên trên, chú nguyện vài ngàn lời, liền có mùi hôi xông khắp trong nhà, người bệnh nói:

– Tôi được sống.

Kỳ-vực sai người lấy vải ra, trong bình bát có như bùn nhơ khoảng vài thăng, hôi không thể đến gần, người bệnh liền lành mạnh.

Đến tại Lạc dương binh lính nhiễu loạn, từ giã trở về Thiên Trúc. Sa-môn thành Lạc dương khoảng vài trăm người, mọi người đều thỉnh mời Kỳ-vực cúng dường ngọ trai, Kỳ-vực đều hứa khả. Sáng hôm sau, ở năm trăm nhà đều có một Kỳ-vực, ban đầu cho rằng Kỳ-vực riêng đến nhà mình, đến cuối cùng nhau thăm hỏi mới biết Kỳ-vực phân thân đến nhà. Trai Phạm xong, các Sa-môn đưa tiễn Kỳ-vực đến thành Hà nam, Kỳ-vực đi thong thả mà mọi người đuổi theo không kịp. Kỳ-vực mới dùng gậy viết trên đất rằng: “Đến đây là từ biệt!” Ngày đó, có người từ Trường an trở lại nói thấy Kỳ-vực ở trong một chùa kia. Về sau, có khách buôn từ Hồ thấp lên nói chiều tối hôm đó gặp Kỳ-vực ở Lưu sa. Tính ra đã hơn chín ngàn dặm.

Sau khi đã trở về Tây Vực, không biết cuối cùng Kỳ-vực như thế nào và đã đi đâu!

8. Pháp Lãng

Thích Khương Pháp Lãng đến học ở Trung sơn. Khoảng niên hiệu Vĩnh Gia (307-313) đời Tây Tấn cùng với một vị Tỳ-kheo đi đến Tây Vực vào Thiên Trúc, đi qua Lưu sa, hơn ngàn dặm đường, thấy hai bên đường Phật đồ bại hoại, lại không điện đường, có bồng cỏ ngải cao phủ mắt. Pháp Lãng,… cùng xuống dừng chân chiêm lễ, thấy có hai vị Tăng, mỗi vị ở một phòng riêng. Trong đó, một vị đang đọc kinh, còn một vị bị bệnh lỵ nhơ uế đầy phòng. Vị đọc kinh hẳn là không trông xem chăm sóc. Pháp Lãng… khởi niệm thương xót vì vị bị bệnh mà nấu cháo nhừ, quét dọn tẩy rửa, đến ngày thứ sáu, người bệnh hơi mỏi mệt, đi ngoài như suối chảy, Pháp Lãng… chăm lo chữa trị. Đêm đó, Pháp Lãng… đều cho rằng người bệnh hẳn không qua khỏi đêm ấy. Đến sáng sớm, qua thăm người bệnh nhan sắc tươi sáng hẳn ra, bệnh trạng chống lành và tự nhiên các vật nhơ uế trong phòng đều xinh đẹp thơm tho. Pháp Lãng… mới rõ ra rằng đó là bậc đại sĩ đắc đạo dùng để thử người. Người bệnh bảo:

– Vị Tỳ-kheo ở cách phòng bên cạnh là Hòa thượng của tôi, đắc đạo tuệ đã từ lâu, các vị có thể sang đảnh lễ hầu thăm.”

Trước đây, Pháp Lãng… rất ghét vị Sa-môn đọc kinh đó bởi không tâm Từ ái, giờ đây nghe vậy rồi bèn liền đảnh lễ sám hối lỗi lầm. Vị Sa-môn đọc kinh bảo rằng:

– Các vị chân thành và đồng chỉ hướng sẽ được nhập đạo. Pháp Lãng đời trước học nghiệp thiển cạn, đời nay chưa thể thành tựu ý nguyện. Còn bạn của Pháp Lãng là Tuệ Nhã đã gieo trồng căn sâu nên ở đời nay sẽ thành đạt ý nguyện.

Nhân đó, mà lưu giữ lại.

Về sau, Pháp Lãng trở lại Trung sơn, làm vị đại Pháp sư, kẻ Tăng người tục vô cùng tôn kính.

9. Phật Đồ Trừng

Phật Đồ Trừng vốn dòng họ Bạch, người xứ Tây Vực, xuất gia từ thuở thiếu thời, trong sạch chân chất chuyên học, tụng kinh vài trăm vạn lời.

Năm Vĩnh Gia thứ (310), đời Tây Tấn, Phật Đồ Trừng đến Lạc dương với chí nguyện hoằng dương đại pháp. Đã giỏi trì niệm thần chú lại có tài năng sai sử quỷ vật. Phật Đồ Trừng dùng dầu mè và các chất mỡ béo bôi xoa lòng bàn tay thì mọi sự việc vài ngàn dặm đều thấy suốt trong lòng bàn tay như đang đối diện, và cũng khiến người trong sạch trai tịnh cùng thấy. Ngài muốn tạo lập chùa tại Lạc dương, nhưng gặp lúc Lưu Diệu cướp đánh Lạc đài; Đế Kinh nhiễu loạn nên chí nguyện lập chùa của Phật Đồ Trừng không thành tựu, mới tiềm ẩn thân ở đồng quê cỏ nội để nhìn xem sự đời biến đổi.

Bấy giờ, Thạch Lặc đóng binh tại Cát pha, chuyên lấy việc giết hại để ra oai, các Sa-môn bị hại rất nhiều, Đồ Trừng khởi niệm thương xót muôn loài, muốn đem đạo để giáo hóa Thạch Lặc, khi đó liền chống gậy đến trước quân lính. Đại tướng của Thạch Lặc là Quách Hắc Lược dâng biểu muốn kính phụng pháp, Đồ Trừng bèn thẳng đến nhà Hắc Lược. Hắc Lược liền theo cầu thọ ngũ giới, kính lễ tôn sùng nguyện làm đệ tử. Sau đó, Hắc Lược theo Thạch Lặc đi đánh chiếm trừng phạt, thường dự biết hơn thua. Thạch Lặc nghi ngờ, hỏi:

– Quả nhân không biết khanh có mưu trí xuất chúng nào mà mỗi lần hành quân đều biết sự việc cát hung như vậy?

Hắc Lược nói:

– Tướng quân tư chất trội vượt khác thường nên được sự hổ trợ từ thần võ u linh. Có vị Sa-môn biết rõ pháp thuật khác thường bảo rằng tướng quân sẽ lấy được khu hạ và tôn làm thầy. Mọi điều tấu trình trước sau của thần đều do vị ấy nói vậy.

Thạch Lặc mừng bảo:

– Thật là trời ban!

Bèn mời Phật Đồ Trừng đến hỏi:

– Phật Đạo có gì linh nghiệm?

Đồ Trừng biết Thạch Lặc không thể thấu hiểu được nghĩa lý sâu mầu, nên chỉ dùng đạo thuật mà giáo hóa. Nhân đó, bảo:

– Chỉ đạo tuy xa nhưng cũng có thể lấy việc gần để chứng minh.

Liền lấy cái chén đựng đầy nước, đốt hương chú nguyện vào đó, phút chốc mọc lên một đóa sen xanh, màu sắc sáng rỡ hoa mắt, Thạch Lặc do đó mà tin phục. Phật đồ Trừng cũng nhân đó mà khuyên can rằng:

– Phàm là bậc quân vương phải nên dùng đức để hóa trị mọi người thì tứ linh sẽ hiển hiện điềm tốt. Còn lấy chính sách tệ ác, đạo đức tiêu mòn, thì sao chổi sẽ hiện trên trời, pháp thường hiển hiện, tai họa theo đó mà hoành hành. Đó là lý thường của xưa nay, là giới sáng của trời người.

Thạch Lặc rất vui mừng với lời răng dạy đó. Phàm mỗi lúc chuẩn bị đánh chiếm nhờ lợi ích đó mà mười phần có được tám, chín phần. Từ đó, người Hồ ở Trung châu đến nguyện phụng Phật. Có mắc bệnh cố tật, ở đời không ai có khả năng chữa trị. Đồ Trừng vì luyện phương thức chữa trị, đúng thời nên chóng lành mạnh.

Thạch Lặc từ Cát pha trở lại Hà bắc đi qua phương đầu. Đên đó có người muốn phá doanh trại, Đồ Trừng nói cùng Hặc Lược rằng:

– Chốc nữa sẽ có giặc đến nên báo cho ông biết.

Quả thật như lời Đồ Trừng nói, do có chuẩn bị nên không thất bại. Thạch Lặc muốn thử Phật Đồ Trừng. Đêm đến, đội mũ trụ, mặc áo giáp nắm. Nhận mà ngồi, sai người đến nói với Đồ Trừng rằng:

– Từ tối đến giờ không biết đại tướng quân ở đâu!

Kẻ sứ mới đến, chưa kịp mở lời, Đồ Trừng hỏi ngược rằng:

– Đang bình an không giặc cướp, cớ sao hồi đêm chuẩn bị nghiêm mật vậy?

Thạch Lặc càng thêm kính trọng Đồ Trừng.

Sau, nhân sự tức giận, Thạch Lặc muốn hại các Sa-môn và muốn làm khổ Đồ Trừng. Đồ Trừng lánh đến nhà Hắc Lược. Trước khi đi, dặn các đệ tử:

– Nếu kẻ sứ của tướng quân đến hỏi ta ở đâu, nên bảo là không biết.

Kẻ sứ đến tìm không thấy Đồ Trừng, bèn trở về báo cùng Thạch Lặc. Thạch Lặc kinh hải, nói:

– Ta có ác ý đối với Thánh nhân, Thánh nhân liền bỏ ta mà đi!

Suốt đêm mà ngủ, nghĩ muốn được thấy Đồ Trừng. Đồ Trừng biết Thạch Lặc có ý hối lỗi, sáng sớm đi đến chỗ Thạch Lặc.

Thạch Lặc hỏi:

– Hôm qua đi đâu?

Đồ Trừng bảo:

– Bởi ông có tâm tức giận, nên hôm qua tạm lánh mặt. Nay ông đã đổi ý, nên mới dám lại đây.

Thạch Lặc cười lớn, bảo:

– Đạo nhân nói lầm rồi!

Hào nước ở thành Tương quốc, bắt nguồn từ phía Tây bắc thành cách xa năm dặm nhỏ tròn như hòn đạn ở dưới đền, nên nước ở đó mau hết. Thạch Lặc hỏi Phật Đồ Trừng:

– Làm sao để dẫn nước?

Đồ Trừng bảo:

– Nay nên bảo Rồng dẫn.

Thạch Lặc tự là Thế Long nên cho rằng Đồ Trừng giễu cợt mình, đáp:

– Chính vì Rồng không có khả năng dẫn nước nên mới hỏi”.

Đồ Trừng bảo:

– Đó là nói chân thật, đâu phải là đùa giỡn. Nguồn nước suối hẳn có Thần rồng ở đó, qua dùng sắc chỉ cáo cầu, hẳn có thể được nước.

Mới cùng đệ tử là Pháp Thủ… vài người đến trên nguồn suối. Chỗ cũ nguồn đó từ lâu đã khô tao vết nứt như lằn bánh xe. Những người đi theo sinh tâm nghi ngờ sợ nước khó được. Đồ Trừng ngồi trên giường dây đốt hương An tức, chú nguyện vài trăm lời, ba ngày như thế, nước ứa rỉ ra dòng nhỏ, có một con rồng nhỏ dài khoảng năm, sáu tất, theo nước mà ra. Các Sa-môn đua nhau lại xem nó, Đồ Trừng bảo:

– Rồng có độc tố chở lại gần trên đó.

Trong khoảnh khắc nước lớn tràn đến khắp cả ao hồ đều đầy. Đồ Trừng nhàn tọa than rằng:

– Hai ngày nữa sẽ có một tiểu nhân kinh động dưới đây.

Xong Bệ Hiệp người Tương quốc có hai người con đã nhỏ lại kiêu ngạo, khinh chê kẻ tớ là Tiên Tỳ. Kẻ tớ tức giận tìm dao giết chết người em, bắt người anh vào nhà dùng dao trấn áp:

– Nếu người vào nhà tu sẽ ra tay.

Bèn nói với Bệ Hiệp rằng:

– Đưa ta trở về nước, ta sẽ tha sống cho con ngươi, bằng không thì nó sẽ chết.

Ở đó, trong ngoài đều kinh ngạc không ai dám qua xem. Thạch Lặc tự mình qua xem, nói với Bệ Hiệp rằng:

– Đưa kẻ tớ trở về, để an toàn tánh mạng con khanh, đó là việc tốt. Cách thức này một khi nghe qua mới là hậu họa, khanh tạm thả khoan tình. Nước thường có chuyện hiến dâng mạng người để lấy kẻ tớ, kẻ tớ giết con mà chết.

Tiên Tỳ Đoàn Ba công kích Thạch Lặc, bọn chúng đông mạnh, Thạch Lặc lo sợ đến hỏi Đồ Trừng, Đồ Trừng bảo:

– Tiếng linh ở chùa hôm qua kêu rằng. Sáng sớm mai, giờ ăn sáng sẽ bắt được Đoàn Ba.

Thạch Lặc leo lên thành, trông nhìn quân của Đoàn Ba, chẳng thấy đâu là đầu đuôi, đổi sắc mặt, bảo rằng:

– Quân lính đi nghiêng đất, há có thể bắt được Đoàn Ba, Đồ Trừng chỉ nói lời an ủi ta thôi.

Lại sai Quỳ An đến hỏi Đồ Trừng, Đồ Trừng bảo:

– Đã bắt được Đoàn Ba rồi.

Bấy giờ, ở phía Bắc thành phục binh đi ra gặp Đoàn Ba và bắt lấy nó. Đồ Trừng khuyên Thạch Lặc vâng theo, cuối cùng cũng đạt được thành tựu.

Bấy giờ, Lưu Tải đã chết. Em họ của Lưu Tải là Lưu Diệu soán cướp ngôi, xưng là Nguyên Quang Sơ. Năm Quang Sơ thứ 8 (), Lưu

Diệu sai em họ là Trung Sơn Vương Nhạc đem binh công kích Thạch Lặc. Thạch Lặc sai con là Thạch Hổ dẫn binh vừa chạy bộ vừa chống cự lại. Đại chiến ở Lạc tây. Lưu Nhạc thất bại giữ lấy đất Thạch lương. Thạch Hổ kiên quyết ngăn đón bắt. Đồ Trừng cùng đệ tử từ chùa Quan đến chùa Trung. Mới vào cửa chùa than rằng: “Lưu Nhạc thật đáng thương!”, đệ tử là Pháp Tộ hỏi nguyên cớ. Đồ Trừng bảo:

– Hôm qua, giờ Hợi, Lưu Nhạc đã bị bắt!

Quả thật đúng như lời nói đó.

Năm Quang Sơ thứ 11, Lưu Diệu tự dẫn binh đánh chiếm Lạc Dương. Thạch Lặc muốn tự mình chống cự. Quan liêu tướng tá trong ngoài đều can ngăn. Thạch Lặc đem hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng bảo:

– Tiếng linh tướng luân kêu rằng: Tú Chi giúp đỡ bạo ngược không tôi tớ cùng đường bắt kẻ ngốc là đáng. Tú Chi giúp đỡ bạo ngược không ra, tôi tớ cùng đường như Lưu Diệu đâu có ngôi vị, bắt kẻ ngốc đáng bắt. Với lời đó làm cho quân tức mới bắt được Lưu Diệu.

Bấy giờ, Từ Quang nghe Đồ Trừng nói lời ấy, liền khuyên Thạch Lặc thực hành.

Thạch Lặc để con trưởng là Thạch Hoằng lại, cùng với Đồ Trừng trấn tại Tương quốc, còn tự mình dẫn trung quân vừa chạy bộ vừa chống trả thẳng đến thành Lạc dương. Hai trận mới giao chiến, quân lính Lưu Diệu chạy tán loạn, ngựa của Lưu Diệu đắm chìm trong nước. Thạch Kham Sinh bắt được Lưu Diệu dâng nạp Thạch Lặc. Bấy giờ, Đồ Trừng dùng vật bôi tha vào tay. Xem xét vào đó, thấy đại chúng bắt trói một người, dây tơ đỏ bó thắt khủy tay. Nhân đó nói với Thạch Hoằng biết. Ngay thời gian đó là Thạch Kham Sinh bắt đươc Lưu Diệu. Sau khi đã khống chế được Lưu Diệu, Thạch Lặc mới tự xưng Triệu Thiên Vương thực hành việc Hoàng đế. Đổi lại là Nguyên Kiến Bình. Năm đó là năm thứ Hàm Hòa thứ (330), đời vua Thành Đế; nhà Đông Tấn.

Từ khi lên ngôi trở về sau, Thạch Lặc càng dốc lòng phụng thờ Đồ Trừng. Đến lúc Thạch Thông phản nghịch. Năm đó, Đồ Trừng khuyên Thạch Lặc rằng:

– Năm nay trong rau hành có sâu, ăn hẳn hại người, nên ban lệnh cho bá tánh không nên ăn rau hành.

Thạch Lặc liền ban bảo khắp nơi mọi người cẩn thận chớ ăn dùng rau hành. Đến tháng 8, quả nhiên Thạch Thông bỏ chạy. Thạch Lặc càng thêm tôn trọng. Mỗi lúc có việc gì là hỏi trước sau mới thực hành, tôn xưng Phật Đồ Trừng là đại Hòa thượng.

Thạch Hổ có người con tên là Thạch Bân. Sau, Thạch Lặc nhận nó làm con. Thạch Lặc mến thương và quý trọng nó. Bỗng nhiên Thạch Bân mắc bệnh dữ mà chết, qua hai ngày, Thạch Lặc bảo rằng:

– Trẫm nghe Quắc Thái tử chết mà biển thước có khả năng cứu sống. Đại Hòa thượng là thần nhân của nước nhà, có thể ban phước cho.

Đồ Trừng dùng nhành dương để chú nguyện, trong phút chốc liền cử động, khoảng thời gian ngắn được bình phục. Do đó, các trẻ con của Thạch Lặc phần nhiều là được nuôi dưỡng ở tại chùa. Mỗi năm, đến ngày mồng 8 tháng , Thạch Lặc đích thân tự đến chùa, vì các con thơ mà phát nguyện làm lễ tắm Phật.

Đến năm Kiến Bình thứ (). Trong tháng tư, bầu trời tĩnh lặng không gió mà một chiếc linh trên tháp bỗng nhiên tự kêu. Đồ Trừng nói cùng đại chúng:

– Tiếng linh nhắc nhở: Nội trong năm nay, nước nhà có đại tang!

Qua tháng 7 năm đó, Thạch Lặc băng hà.

Thái tử Thạch Hoằng tiếp nối ngôi vị. Một thời gian ngắn, Thạch Hổ phế Thạch Hoằng mà tự lập, dời đô đến đất Nghiệp xưng là Kiến Vũ. Thạch Hổ dốc lòng phụng sự Phật Đồ Trừng quý trọng như Thạch Lặc.

Lúc Đồ Trừng dừng ở chùa Trung trong thành Nghiệp, sai đệ tử là Pháp Thường đến Tương quốc ở phương Bắc. Trong khi đó, Pháp Tá cũng là đệ tử của Đồ Trừng từ Tương quốc trở về, hai người gặp nhau và cùng ở lại đêm tại thành Lương cơ. Hợp xe cùng nói chuyện trong đêm, bàn đến Hòa thượng. Đến sáng sớm, đường ai nấy đi, Pháp Tá đến, vừa mới vào hầu Đồ Trừng, Đồ Trừng quay lại cười, bảo:

– Hồi đêm, ông cùng Pháp Thường giao xe nói chuyện của thầy các ông ư? Người xưa có nói: Chẳng gọi là kính, ở chỗ tối tăm mà không sửa đổi. Chẳng gọi là thận trọng, riêng một mình mà không biếng lười. Nơi tối tăm ở riêng một mình là gốc của kính và thận trọng. Các ông không biết ư?

Pháp Tá ngạc nhiên, hổ thẹn sám hối. Từ đó, mọi người trong nước mỗi lúc cùng nhau nói chuyện, thường bảo nhau rằng:

Chỗ khởi ác tâm, Hòa thượng đều đó.

Chỗ ở của Đồ Trừng, không ai dám hướng mặt về phía đó khạt nhổ hay đại tiểu tiện.

Bấy giờ, Thái tử Thạch Thúy có hai người con đang ở tại Tương quốc, Đồ Trừng nói với Thạch Thúy rằng:

– Tiểu A-di-tỷ đang bị bệnh, nên sang đón nó.

Thạch Thúy liền vội đưa tin đến xem sao, quả thật là đã mắc bệnh. Quan thái y Ân Đằng và các đạo sĩ ngoại quốc tự nói có thể chữa trị.

Đồ Trừng bảo cùng đệ tử là Pháp Nha:

– Ngay như Thánh nhân có xuất hiện cũng không thể cứu được bệnh ấy, huống gì những người ấy ư!

Sau ba ngày, quả thật nó chết. Thạch Thúy hoang đảng rượu chè sắp mưu làm phản, bảo cùng Nội Thụ rằng:

– Hòa thượng có Thần thông, ắt sẽ phát hiện được mưu to, sáng mai người lại nên trừ diệt đi.

Đến ngày rằm, Đồ Trừng sắp vào thăm Thạch Hổ, nói cùng đệ tử là Tăng Tuệ rằng:

– Hôm qua Thiên thần gọi ta và bảo: Sáng mai nếu vào khi trở lại chớ qua người, vì như ta có chỗ qua, người phải dừng tan lại.

Đồ Trừng thường vào, hẳn là qua Thạch Thúy, Thạch Thúy biết Đồ Trừng vào cần phải hầu rất khổ.

Đồ Trừng sắp lên Nam đài, Tăng Tuệ dẫn y, Đồ Trừng bảo:

– Việc chẳng được dừng, ngồi chưa an nên đứng dậy.

Thạch Thúy cố giữ lại, song, Đồ Trừng không đồng ý, nên có mưu đồ sai lầm. Trở về chùa, Đồ Trừng than rằng:

– Thái tử làm loạn, sự việc sắp thành, muốn nói khó nói, muốn nhẫn khó nhẫn”. Nhân sự việc ấy, Đồ Trừng khuyên ngăn Thạch Hổ, Thạch Hổ vẫn không hiểu gì. Bỗng dưng sự việc phát ra mới tỏ ngộ được lời Đồ Trừng nói.

Sau, Quách Hắc Lược đem binh chinh phạt giặc Khương ở Bắc sơn, Trường an, rơi lạc vào trong Đọa Khương địch. Bấy giờ, Đồ Trừng ngồi tại Đường thượng, đệ tử Pháp Thường đang ở bên cạn, Đồ Trừng tự nhiên thảm thương đổi sắc mặt, bảo:

– Hắc Lượt bị lọt vào lưới địch.

Bảo chúng Tăng chú nguyện, chốc lát lại bảo:

– Nếu tìm hướng Đông nam mà ra thì sẽ sống, còn các hướng khác thì khốn cùng.

Lại chú nguyện tiếp, khoảng thời ngắn lại bảo:

Đã thoát rồi!

Sau hơn một tháng, Quách Hắc Lược trở về, nói:

Bị lạc vào vòng vây của Đọa Khương, theo hướng Đông nam mà chạy. Trong lúc ngựa mỏi mệt, gặp được một người đứng dưới trướng đưa đổi ngựa cho và bảo:

–Tướng công cỡi ngựa này, còn tiểu nhân xin cỡi ngựa của tướng công. Cứu giúp hay không cứu giúp hẳn là tùy mạng.

Hắc Lược có được ngựa đó, nên thoát khỏi. Xét ngày giờ lúc ấy chính là Đồ Trừng chú nguyện.

Ngụy Đại Tư Mã Yên Công Thạch Bân, Thạch Hổ cho đến Mục trấn U châu. Bọn hung hăng nhóm tụ, nhân đó phóng túng bạo ngược. Đồ Trừng khuyên Thạch Hổ rằng:

– Đêm qua, Thiên thần nói phải nhóm gấp ngựa trở về. Đến mùa  thu, đều sẽ bị tan tác.

Thạch Hổ không hiểu lời đó, liền ban lệnh khắp các nơi thâu tóm ngựa đưa về. Mùa thu năm đó, có người dèm pha Thạch Bân đến tai Thạch Hổ. Thạch Hổ liền gọi Thạch Bân đến, đánh ba trăm roi, giết chết mẹ ruột của Thạch Bân vốn dòng họ Tề. Thạch Hổ nắm cung rút tên, tự xem hành phạt Thạch Bân, phạt nhẹ; Thạch Hổ mới trị tay giết năm trăm người, Đồ Trừng can ngăn rằng:

– Tâm không thể thao túng, đã chết thì không thể sống. Lễ không đánh giết thương tổn ân từ. Sao có vị Thiên tử tự tay hành phạt ư?

Thạch Hổ mới dừng đánh.

Sau, quân Tấn đánh chiếm tràn lan, Hoài tứ, Lũng bắc, Ngõa thành đều bị xâm lấn. Ba phương báo gấp, nhân tình nguy hiểm. Thạch Hổ mới sân giận bảo:

– Ta phụng Phật mà đến nỗi giặc ngoài xâm lược. Phật không Thần linh.

Sáng sớm mai, Đồ Trừng vào, Thạch Hổ đem việc đó hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng nhường nhịn bảo Thạch Hổ rằng:

– Đại vương đời trước đã từng làm vị đại thương chủ, thường đến cúng dường ở chùa Kế Tân trong một đại hội có sáu mươi vị La-hán, chính tôi cũng có dự trong hội đó. Bấy giờ có một người đắc đạo nói với tôi vị thượng chủ này sau khi mạng chung sẽ trở lại làm thân gà sau đất vua Tấn. Ngày nay đại vương làm vua há chẳng là phước ư? Còn Cương Trường quân cướp là việc thường của nước nhà. Sao mà lại tức giận phỉ báng Tam bảo? Hồi đêm dấy khởi niệm độc ư?

Thạch Hổ mới tin hiểu, quỳ lạy sám tạ.

Thạch Hổ thường hỏi Đồ Trừng:

– Trong Phật pháp dạy răn không giết hại, trẫm làm chủ thiên hạ, không hình phạt đánh giết thì chẳng biết lấy gì để gạn lọc nghiêm túc trong bờ cõi. Đã trái phạm giới sát sinh, tuy có phụng Phật há được phước ư?

Đồ Trừng bảo:

– Bậc Đế vương phụng thờ Phật phải cung kính tâm tùy thuận, hiển dương Tam bảo, chẳng làm điều bạo ngược không hại người vô tội. Đến như loài hung bạo vô lại, cũng chẳng cải đổi phong hóa. Đối với kẻ có tội không thể không đánh giết, có xấu ác không thể không hình phạt. Song chỉ đánh giết với kẻ đáng đánh giết, chỉ trừng phạt kẻ đáng trừng phạt. Nếu bạo ngược tự ý giết hại kẻ không tội, tuy có dốc hết của cải phụng sự Phật pháp cũng không giải nổi ương họa. Xin bệ hạ hãy khởi đức từ cùng khắp tất cả, thì Phật giáo sẽ mãi mãi hưng thạnh và vận phước mới lâu dài.

Thạch Hổ tuy không vâng theo tất cả, nhưng lợi ích cũng được không ít.

Các quan thượng thư của Thạch Hổ như Trương Ly, Trương Lương… nhà cửa giàu có, phụng thờ Phật, mỗi nhà tạo dựng một tháp lớn. Đồ Trừng bảo:

– Phụng thờ Phật là nơi thanh tịnh vô dục, tâm thương xót mọi loài. Đàn-việt tuy phụng thờ đại pháp, mà lòng tham chưa dứt, săn bắn vô độ, tích chứa không cùng. Mới chịu tội của đời hiện tại, sao có thể hy vọng được phước báo ư?. Về sau, Trương Ly… đều bị giết chết.

Bấy giờ, thời hạn hán đã lâu, từ tháng giêng đến tháng sáu, Thạch Hổ sai Thái tử đến cửa sông Phủ phía Tây Lâm Chương cầu mưa, nhưng mãi vẫn chưa mưa. Thạch Hổ liền cầu thỉnh Đồ Trừng cứu giúp, ngay khi đó có hai con rồng trắng giáng xuống đền, ngày đó mưa lớn khắp nơi, năm đó được mùa. Bọn Rợ Nhung Mạch trước không biết Phật pháp, nghe Đồ Trừng có thần nghiệm, đường xá xa xôi đều về lễ bái kính phục.

Đồ Trừng thường sai đệ tử đến Tây Vực mua hương, vị đó đã đi rồi, Đồ Trừng nói cùng các đệ tử khác là nhìn ở bàn tay thấy vị đi mua hương… đó bị cướp sắp chết. Nhân đó, đốt hương chú nguyện, từ xa hướng đến cứu độ. Sau, vị đệ tử đó trở về nói:

– Ngày đó tháng đó, ở tại chỗ đó, bị giặc cướp, sắp bị giết, bỗng nghe mùi hương phảng phất, tự nhiên bọn giặc kinh hãi bảo lính cứu đã đến, bỏ chạy đi.

Thạch Hổ tu sửa tháp nhỏ Thừa Lộ Bàn ở Lâm chương, Đồ Trừng bảo:

– Trong thành Lâm chương xưa có tháp của vua A-dục, trong đất có Thừa Lộ Bàn và tượng Phật, phía trên là rừng cây xanh tốt, có thể đào xới để lấy lên.

Bèn vẽ sơ đồ để đưa cho sứ, y theo lời chỉ mà đào lấy, quả thật có được Thừa Lộ Bàn và tượng Phật.

Thạch Hổ mỗi lần muốn đánh phạt nước Yên, Đồ Trừng thường cản ngăn, bảo:

– Nước Yên chưa hết thời vận khó mà chế phục được.

Thạch Hổ thường hành quân bại trận nhiều lần mới tin lời khuyên răn của Đồ Trừng.

Trong Hoàng hà xưa chẳng có con ba ba, bỗng nhiên có được một con, liền dâng đến Thạch Hổ. Đồ Trừng thấy thế than rằng:

– Hoàn ôn nó vào sông chẳng lâu.

Ôn tự là Nguyên Tử, quả đúng như lời nói.

Bấy giờ, tại huyện Ngụy có một người lưu lạc, chẳng biết là dòng họ gì, thường mặt áo cánh vải gai và mang xiêm vải bố ở trong chợ huyện Ngụy xin ăn. Người thời bấy giờ gọi đó là Ma nhu (áo cánh vải gai). Ăn nói trác việt tương trạng như bệnh cuồng xin được các thứ gạo thóc, chẳng chịu ăn mà tung rải tứ phía, gặp đường lớn, bảo:

– Cho ngựa trời ăn.

Triệu Hưng Thái Thú bắt đưa đến Thạch Hổ. Trước kia, Đồ Trừng nói với Thạch Hổ rằng:

– Ở phía Đông nước nhà cách hai trăm dặm, vào ngày đó tháng đó, sẽ đưa đến một người phi thường. Chớ giết hại người ấy.

Kỳ hạn giả thật đã đến. Thạch Hổ nói chuyện cùng với người đó rất trùng hợp ý với nhau và vị ấy còn chỉ bảo rằng:

– Bệ hạ cuối đời sẽ ở dưới cột trụ của điện hạ!

– Thạch Hổ không hiểu lời nói đó, bảo mọi người thỉnh Phật Đồ Trừng.

Ma Nhu nói với Phật Đồ Trừng rằng:

– Ngày xưa trong hội Nguyên Hòa, lâu đến ngày nay, Dậu Tuất thọ huyền mạng, trải qua hết, cuối cùng cũng có kỳ hạn, vàng lìa nơi giàu sang, bên hoang sơ không thể tôn quý, trừ hết dấu vết hoài mong linh nghiệm.

Đồ Trừng bảo:

– Trời đất cùng vận sao tướng không phải là cây chín cành, nước làm khô không thể dùng làm thuật ư? Dẫu huyền triết tuy ở đời cũng chẳng thể hiểu. Nhưng nền móng đã sụp đổ từ lâu ở Diêm-phù. Lợi nhiễu, nhiễu lắm hoạn, đi lên lớp mây vũ hội như ở khoảng hư du.

Đồ trừng cùng với Ma Nhu giảng luận cả ngày, không ai có thể hiểu được. Có người nghe trộm, nghe được vài lời như thế, cũng như bàn luận sự việc của vài trăm năm trước.

Thạch Hổ dùng ngựa trạm để đưa Ma Nhu trở về huyện cũ, khi đã ra khỏi ngoài thành, liền từ tạ và nói có thể đi bộ, bảo rằng:

– Ta có chỗ qua không tiện, đến tại cầu Hiệp khẩu Ma Nhu đã có ở trên cầu, xét về đi bộ của Ma Nhu tợ như bay vậy.

Thách Hổ thường ngủ ngày, mộng thấy bày dê mang cá từ Đông nam lại, lúc tỉnh giấc liền hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng bảo:

– Đó là điềm bất tường vậy. Tiên Tỳ có tại Trung nguyên ư? Về sau, quả thật dòng họ Mộ Dung cũng đến đó.

Đồ Trừng cùng với Thạch Hổ lên Trung đường, bỗng nhiên Đồ Trừng kinh ngạc bảo:

– Ở U châu đang có hỏa hoạn.

Liền lấy rượu để rải, giây lát sau người bảo:

– Đã cứu được rồi.

Thạch Hổ sai người đến U châu thử nghiệm, trở về bảo:

– Vào ngày đó lửa ở bốn cửa thành đều bốc cháy từ phía Tây nam nhưng lại có mây đen kéo lại nhóm mưa dập tắc, trong nước mưa phảng phất như có mùi rượu.

Tháng 7 năm Kiến Vũ thứ 1 (), trong thời Thạch Hổ, Thạch Tuyên, Thạch Thao bày mưu cùng giết hại nhau. Bấy giờ, Thạch Tuyên đến chùa, cùng Đồ Trừng ngồi trên Phù đồ, bỗng nhiên linh kêu lên, Đồ Trừng hỏi Thạch Tuyên:

– Có hiểu âm thanh của linh nói gì chăng? Tiếng linh nói: Hồ Trể lạc độ.

Thạch Tuyên đổi sắc mặt nói:

– Vậy là nói sao?

Đồ Trừng nói lãng rằng:

– Lão Hồ làm đạo không thể ở núi, không nói quý trọng đem chiếu mỹ phục, há chẳng phải lạc độ ư?

Thạch Thao đến sau, Đồ Trừng nhìn kỹ giây lâu, Thạch Thao sợ bèn hỏi, Đồ Trừng bảo rằng:

– Quái lạ, ông có máu xấu, nên cũng nhìn kỹ!

Đến tháng tám, Đồ Trừng bảo mười vị đệ tử cùng ăn chay tại thất riêng. Bấy giờ, Đồ Trừng tạm vào Đông các, Thạch Hổ cùng Hoàng hậu họ Đỗ đến thăm hỏi, Đồ Trừng bảo:

– Dưới sườn (hông) có giặc, nội trong mười ngày, từ Tôn tượng Phật này hướng về phía Tây; từ chánh điện này hướng về phía Đông sẽ có đổ máu, cẩn trọng chớ đi về hướng Đông. Hoàng hậu bảo:

– Hòa thượng già vậy, nơi nào có giặc?

Đồ Trừng bèn dịch nghĩa, bảo:

– Chỗ thọ nhận của sáu tình thảy đều là giặc, lão tự đã già, khiến bọn tuổi trẻ chớ mê lầm.

Nhân tiện dùng ngụ ngôn chẳng đáp lại. Sau đó hai ngày, quả thật Thạch Tuyên sai người giết hại Thạch Thao ngay trong chùa Phật, Thạch Tuyên muốn nhân đó mời Thạch Hổ đến dự tang để mưu đồ đại nghịch. Thạch Hổ vì trước nhờ Đồ Trừng đã khuyên răn nên được thoát khỏi. Đến lúc sự việc của Thạch Tuyên bại lộ nên bắt được, Đồ Trừng khuyên răn Thạch Hổ:

– Đã là con của bệ hạ, sao lại chồng chất thêm họa? Bệ hạ xả bỏ hận thù mà trải lòng Từ thì còn có thể sống ngoài sáu mươi tuổi, còn quyết giết Thạch Tuyên, thì nó sẽ làm sao chổi xuống quét sạch nghiệp cung vậy.

Thạch Hổ chẳng vâng theo, dùng dùi sắt đâm xuyên cổ Thạch Tuyên, chất củi, khiên để lên trên mà thiêu đốt, bắt các quan thuộc của Thạch Tuyên hơn ba trăm người, đều cắt xé phân chia ném xuống sông Chương. Đồ Trừng bảo đệ tử dẹp bỏ trai pháp tại thất riêng.

Sau, hơn một tháng, có một con yêu mã lông tóc đuôi đều có tướng trang bị thiêu cháy, chạy vào cửa Trung dương ra cửa Hiển dương, Đông Thủ Đông Cung đều không được vào, chạy theo hướng Đông bắc, bỗng chốc không thấy nữa. Đồ Trừng nghe thế, than rằng:

– Tai họa ấy đã đến rồi!

Đến tháng 11, Thạch Hổ thết đãi quần thần trước điện Đại vũ, Đồ Trừng ngâm rằng:

– Điện ư! Điện ư! Cây gai thành rừng, sắp hoại áo người!

Thạch Hổ lật đá dưới điện để xem, quả thật có gai có mọc. Đồ Trừng trở về chùa, nhìn tượng Phật tự bảo: “Buồn hận không được trang nghiêm”. Nói riêng một mình rằng: “Được ba năm ư?”

Tự đáp: “Chẳng đước! Chẳng đước!” Lại nói: “Được hai năm ư? Một năm, trăm ngày, một tháng ư?” Rồi tự đáp “Không được”. Và không nói nữa, trở lại phòng, nói cùng đệ tử Pháp Tợ rằng:

– Năm Mậu Thân (38), họa loạn sắp dấy khởi, năm Kỷ Dậu (39), họ Thạch sẽ bị diệt mất. Ta nên đi trước lúc họa loạn chưa đến.

Bèn sai người đến từ biệt Thạch Hổ rằng:

– Vật lý hẳn đổi đời, thân mạng khó bảo toàn, thân mang đạo soi sáng đổi thay thời kỳ ra đi đã đến. Đã mang đội ơn sâu nặng nên ngược lại tạ từ ngưỡng mong xét biết.

Thạch Hổ buồn thương bảo:

– Nghe Hoàng thượng có bệnh, mới vội bảo người đến cáo chung.

Liền tự ra chùa cung an ủi thăm hỏi, Đồ Trừng nói cùng Thách Hổ:

– Vào ra sinh tử là việc thường của đạo vậy. Tu phận ngắn đã định, chẳng phải chỗ có thể kéo dài ra. Phàm đạo trọng ở hạnh được chu toàn, khách quý ở điều không biếng nhác. Nếu hạnh nghiệp tiếc tháo không khuyết thiếu thì tuy mất mà vẫn như còn. Trái lại mà được lâu dài thì đó chẳng phải điều ước nguyện. Nay đây ý thật chưa cùng tận, vì nước nhà tâm còn Phật lý, phụng pháp không luận tiếc, tạo lập chùa miếu phùng kính phô hiển nghiêm lệ. Xứng với đức đó vậy nên hưởng phước chỉ. Còn bổ chánh mãnh liệt, xử hình thì lạm, phô bày trái với thánh điển, đen tối ngược với giới pháp, nếu chẳng từ răng thay đổi lo nghĩ ân tuệ cùng với muôn dân thì vận nước sẽ lâu dài và kẻ tăng người tục đều mừng tri ân. Đến lúc mạng tận nhắm mắt lìa đời, không để lại ân hận.”

Thạch Hổ buồn khóc nghẹn ngào, biết rằng Đồ Trừng sẽ viên tịch. Liền đục đá xây dựng mộ phần, đến tháng 12 ngày mồng 8, Đồ Trừng viên tịch tại chùa Nghiệp cung, hưởng thọ 117 tuổi. Năm đó nhằm năm Vĩnh Hòa thứ (38), đời vua Mục đế, nhà Đông Tấn. Tất cả quan dân sĩ thứ buồn thương khóc thảm thiết khắp nước. Lễ hạ quan an táng tại Tử mạch phía Tây Lâm chương, tức chỗ mà Thạch Hổ đã tạo lập phần mộ.

Bổng chốc Lương độc tác loạn, năm sau Thạch Hổ băng hà. Nhiễn Mẫn soán diệt dòng họ Thạch đều hết. Mẫn thưa nhỏ tự là gai nô, trước kia Đồ Trừng nói: Cỏ gai thành rừng” cũng chính là đó.

Bên cạnh vú trái của Đồ Trừng từ trước có một lỗ hổng chu vi khoảng năm, sáu phân suốt thông trong ruột. Có lúc ruột già từ trong ra, hoặc dùng bông bít lỗ lại, đến tối đọc sách liền gỡ bông ra thì đó là một cái thất rỗng sáng. Đến ngày trai thì đến bên nước dẫn ruột già ra tẩy rửa, xong rồi đặt trở lại bên trong. Đồ Trừng thân cao tám thước, dáng dấp rất đẹp, giỏi hiểu kinh sâu, bên cạnh đó, tinh thông thế luận. Hằng ngày giảng nói nêu bày chính tông, khiến lời văn trước sau tỏ rõ dễ hiểu. Lại thêm, lòng từ rải khắp quần sinh, cứu giúp nguy khổ. Đương thời, Thạch Lặc, Thạch Hổ hai người hung tàn, bạo ngược, ác hại phi đạo. Nếu không cùng thời có Phật Đồ Trừng thì ai có thể khuyên răn! Chỉ vì trăm họ đôi bên, hằng ngày giao tiếp mà không ai hay biết. Các vị Phật Điều, Tu-bồ-đề… vài mươi danh Tăng xuất phát từ Thiên Trúc, Khương Cư, chẳng xa vài dặm đường, lội bộ vượt qua Lưu sa tìm đến Đồ Trừng để lãnh thọ giáo huấn. Thích Đạo An ở Phiền miện, Trúc Pháp Nhã ở Trung sơn đều băng sông vượt ải, đến nghe Đồ Trừng giảng đạo. Và thảy đều diệu đạt tinh lý nghiên cứu suốt cùng áo nghĩa. Phật Đồ Trừng tự nói: “Từ chỗ sinh ra cách đất Nghiệp hơn chín dặm, bỏ nhà vào đạo một trăm lẻ chín năm. Rượu chưa từng dính răng, quá giờ ngọ không ăn, trái giới không hưởng, vô dục vô cầu. Những người thọ học tìm theo thường có vài trăm trước sau khoảng chừng một vạn. Trải qua các châu huyện dựng lập chùa Phật có tám trăm mười ba ngôi”. Sự thạnh hành của việc hoằng pháp từ trước chưa ai bằng Đồ Trừng.

Khi Đồ Trừng mới viên tịch, Thạch Hổ đem tích trượng và bình bát của Đồ Trừng liệm theo trong quan. Sau, Nhiễm Mẫn soán ngôi, khai quật mộ phần mở quan ra chỉ thấy bình bát và tích trượng chứ không có thi thể. Có thuyết nói rằng: “Tháng mà Phật Đồ Trừng viên tịch, có người thấy Đồ Trừng ở Lưu sa, Thạch Hổ nghi Đồ Trừng chẳng viên tịch, nhân đó phá mộ mở quan để xem thì chỉ thấy một viên đá.

Thạch Hổ bảo:

– Đá tức là trẫm vậy! Đồ Trừng vùi chôn ta mà đi!

Sau đó không lâu, Thạch Hổ qua đời. Sau nữa Mộ Dung Tuyển đến Nghiệp đô, xử Thạch Hổ tại trong cung, bỗng thấy Thạch Hổ cắn vào cánh tay, ý cho rằng Thạch Hổ là quý trọng, mới rộng tìm thấy thi thể của Thạch Hổ ở Đông minh quán, đào bới được thây chết khô cũng chẳng hủy rã, Tuyển Nhẩm đạp lên thây chết, mắng chửi rằng:

– Mày đã chết sao dám khủng bố Thiên tử đang sống? Ngươi làm thành cung điện mà bị con ngươi bày mưu phá hại, huống hồ người khác ư?

Mộ Dung Tuyển đánh roi hủy nhục rồi ném sông Chương, thây xác bắn vào trụ cầu không trôi đi. Tướng nhà Trần là Vương Mãnh mới lượm nhặt mà chôn cất. Đó là điều mà trước kia Ma Nhu đã nói là “Dưới một cột trụ của điện hạ” là vậy. Sau, Tần Phú Kiên Chinh phạt đất Nghiệp, con của Mộ Dung Tuyển làm đại tướng của Phú kiên xây thành Thần Hổ chấp thật chiêm nghiệm trước mộng về Thạch Hổ.

10. Phật Điều

Trúc Phật Điều, chưa rõ là người thuộc giòng tộc nào, phụng thờ Phật Đồ Trừng làm thầy, trú tại chùa Trường sơn nhiều năm, chuyên cần thuần phát chẳng phô bày nói năng. Người thời bấy giờ rất lấy đó làm cao quý.

Tại Trường sơn, trong những người kính trọng Phật pháp, có hai anh em nhà nọ nhà ở cách xa chùa cả trăm dặm. Vợ của người anh bị ốm nặng, chở đến ở cạnh chùa để gần gủi thầy thuốc chữa trị. Người anh đã tôn thờ Trúc Phật Điều làm thầy, nên sáng sớm thường ở trong chùa học hỏi hành đạo. Một ngày nọ, bỗng nhiên, Phật Điều đến nhà của hai anh em nhà đó, người em hỏi thăm bệnh tật của chị dâu ra làm sao và người anh có được yên ổn chăng. Phật Điều bảo:

– Bệnh chỉ đơn sơ thôi, còn anh của ngươi cũng như thường.

Phật Điều đi rồi, người em cũng đánh ngựa đi tiếp, nói với người anh là hồi sáng sớm, Phật Điều có lại nhà. Người anh kinh ngạc bảo:

– Hòa thượng từ sáng sớm chưa ra khỏi chùa, sao em thấy được tôn dung của người?

Hai anh em tranh cãi nhau, đem hỏi Phật Điều. Phật điều chỉ cười mà không đáp, mọi người đến lấy làm lạ.

Phật điều thương một mình vào rừng sâu một năm hay nửa năm, mang theo vài đấu cơm khô, đến lúc trở về thường còn lại. Có người thử theo Phật Điều vào rừng khoảng vài trăm dặm, chiều tối tuyết phủ xuống, Phật Điều vào trong hang đá trú ẩn qua đêm tại hang cọp, lúc trở về cọp nằm trước cửa hang, Phật Điều nói với cọp:

– Ta chiếm chỗ của ngươi, thật hổ thẹn làm sao!

Cọp bèn cụp tai bỏ xuống núi. Người đi theo thấy vậy rất sợ hãi.

Sau, Phật Điều tự biết ngày sắp viên tịch, mọi người xa gần đều đến, Phật Điều nói với họ rằng:

– Trời đất lâu dài còn có lúc băng hoại, huống gì người vật mà mong cầu trường tồn vĩnh cửu sao? Nếu thường tẩy trừ ba thứ cấu bẩn, chuyên tâm chân tịnh thì thần số tuy trái nghịch nhưng thần hội ắt cũng hợp nhau.

Mọi người đều rơi lệ cố thỉnh cầu, Phật Điều bảo:

– Thân mạng sinh tử ai có thể thỉnh cầu?

Nói xong, Phật Điều trở về phòng, an nhiên tĩnh tọa, dùng y mà phủ lên đầu mà thị tịch. Sau đó vài năm, có tám vị đệ tử tại gia của Phật Điều vào Tây sơn đốn củi, bỗng nhiên thấy Phật Điều ở trên đỉnh núi cao, y phục mới đẹp sáng rỡ, dung nghi vui vẻ, mọi người vừa sợ vừa mừng cúi đầu đảnh lễ, thưa:

– Hòa thượng vẫn còn trụ thế ư?

Phật Điều bảo:

– Ta vẫn thường còn vậy!

Hỏi đủ biết mọi việc cũ chăng, giây lâu mới đi. Tám người đều bỏ công việc trở về nhà, đến nói với những người đồng đạo. Mọi người không biết lấy gì để nghiệm xét, bèn cùng nhau quật tháp mở quan tài, không thấy có thi thể, chỉ có y và giày tại đó thôi.

11. Pháp Tuệ

Trúc Pháp Tuệ vốn người xứ Quan trung, ngay thẳng, có giới hạnh, vào Tung Cao Sơn phụng thờ Phù Đồ Mật làm thầy.

Năm Kiến Nguyên thứ nhất (33), đời vua Khang Đế, nhà Đông Tấn, đến Tương dương, dừng ở tại chùa Dương thúc tử, chẳng thọ biệt thỉnh, thường ngày chuyên đi khất thực. Thường mang theo giường dây, tùy chỗ đường rộng rãi tự bày ra mà ngồi, nếu gặp lúc trời mưa, dùng áo choàng dầu tụ che trùm, đến lúc mưa tạnh, chỉ thấy giường dây, không biết Pháp Tuệ ở đâu, mọi người hỏi thăm chưa dứt lời thì Pháp Tuệ đã có mặt tại giường.

Ngày nọ, Pháp Tuệ nói với đệ tử Pháp Chiếu rằng:

– Ở đời trước, ông bẻ gãy chân con gà, ương báo đó nay đang tìm đến.

Bỗng chốc, Pháp Chiếu bị người đánh, nên chân bèn thành cổ tật. Sau, nói cùng các đệ tử:

– Trong cánh đồng mới, có cụ già sắp qua đời, ta muốn cứu độ ông ta.

Liền đi đến bên bờ ruộng, quả thật thấy một ông già đang dắt trâu cày ruộng. Pháp Tuệ tìm đến bên ông già ấy xin trâu. Ông ta không cho, Pháp Tuệ bước tới trước, tự nắm lấy mũi trâu, ông già hoảng sợ việc làm khác thường đó, bèn hứa cho trâu. Pháp Tuệ vừa dẫn trâu đi vừa chú nguyện, đi bảy bước rồi dẫn trâu trả lại ông ta. Sau đó ít ngày, cụ già ấy qua đời.

Sau, chinh Tây Canh Trỉ cung trấn tại Tương dương, vốn đã không kính phụng chánh pháp, nghe Pháp Tuệ có các sự tích phi thường, càng rất ganh ghét. Pháp Tuệ nói cùng các đệ tử:

– Ta nghiệp xưa của ta đang tìm đến!

Răn khuyên quyến thuộc, phải chuyên cần tu tập phước thiện. Quả thật sau đó hai ngày, Pháp Tuệ bị bắt và hành xử. Pháp Tuệ hưởng thọ năm mươi tám tuổi.

Đến lúc sắp tịch, Pháp Tuệ nói cùng các đệ tử:

– Sau ba ngày ta chết, trời sẽ mưa lớn.

Đến kỳ hạn, quả thật mưa lớn như thác đổ, khắp các cửa thành nước sâu một trượng. Cư dân bị chìm đắm, có nhiều người chết.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9