TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 8

 

148. Thần tăng Địa Tạng

Thích Địa Tang, ngài dòng họ Kim, thuộc giòng dõi của Quốc vương nước Tân La. Tâm ngài hiền từ mà dáng mạo xấu ác, ngài thông minh dĩnh đạt. Đến lúc ngài xuống tóc xuất gia, bèn vượt biển du hành, chấn tích tham phương. Đến Trì dương thấy núi Cửu tử, lòng ngài rất vui thích ở đó, bèn trèo lên trên đỉnh mà dừng ở, ngài từng bị nọc độc của rắn rít, nhưng vẫn an nhiên đoan tọa không khởi niệm gì. Bỗng chốc có người phụ nữ đẹp đến lễ bái kính dâng thức ăn và thuốc chữa trị, thưa rằng:

– Con vì thơ dại không biết nay xin nguyện lưu xuất dòng suối để bù đấp lại lỗi lầm ấy.

Nói xong bèn không thấy nữa. Nhìn xem chung quanh tòa thì nước tuôn chảy tràn trề. Người thời bấy giờ gọi đó là Thần Núi Cửu Tử vì ngài mà khơi tuôn dòng suối để giúp ích cho mọi người.

Trong năm Chí Đức thứ nhất (76) đời tiền Đường có Gia Cát Tiết dẫn thân phụ từ chân núi lên cao đến chỗ cùng tột không có người, chỉ một mình ngài an nhiên nhắm mắt ngồi trong thạch thất. Trong Thất đó có chiếc đãnh gảy chân, trong đãnh có đất màu trắng hòa cùng một ít gạo rang mà ăn. Các lão già đều kinh hãi tán thán rằng:

– Hòa thượng khổ hạnh như thế. Bọn chúng ta có lỗi phơi bày dưới núi.

Bèn cùng nhau tạo dựng một thiền viện, không bao lâu đã thành một đại Già-lam. Trong nước nghe thế bèn cùng nhau vượt biển tìm đến. Đồ chúng rất đông, không lấy gì để chu cấp quanh năm. Ngài bèn phá đá, được đất sắc màu trắng sạch, không có sạn, chỉ như bột gạo, mà cung cấp cho chúng ăn. Đại chúng thỉnh ngài giảng pháp đề trấn tỉnh tinh thần, chứ không vì cầu ăn để nuôi mạng sống. Nam phương gọi đó là chúng khô cảo, mọi người đều tín ngưỡng tôn sùng. Ở bên cạnh Long đàm có hòn núi Mai bạch thiện, lấy nó không hết.

Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài gọi chúng vào để cáo biệt. Chẳng biết vụt qua, chỉ nghe đá rơi hang núi gõ vào chuông vèo vèo, ngài ngồi kiết già mà thị tịch, hưởng thọ chín mươi chín tuổi. An trí nhục thể ngài trong cái hòm, ba năm sau mở ra thỉnh đi nhập tháp, dáng mạo nhan sắc vẫn như lúc sinh tiền, lúc nâng lên cốt tiết như dính liền với vàng xiềng xích.

149. Thần tăng Giám Châu

Sa-môn Giám Chân, ngài dòng họ Thuần Vu, người huyện Giang dương, Quảng lang. Thuở nhỏ, ngài theo thân phụ đến chùa Đại vân, thấy tôn tượng Phật mà cảm động tâm niệm xa xưa, nhân đó, ngài xin phép thân phụ được xuất gia. Thân phụ ngài lấy làm lạ với ý chí ấy, liền hứa thuận. Sau, ngài đứng đầu làm Tông chủ ở một phương.

Bấy giờ, có các vị Sa-môn Vinh Duệ, Khổ Chiếu… ở nước Nhật Bản, từ phương Đông đến thỉnh bởi kính mộ chánh pháp, ngài hưa sẽ sang, bèn mua thuyền, từ Quảng lăng, mang chở kinh Luật Pháp lìa bờ đến Việt châu dừng bến nghỉ lại Phong sơn. Đến tối, ngài mộng thấy rất khác thường, vừa mới ra bể cả, gặp phải sóng gió dữ dội, người trên thuyền nghoảnh nhìn lại thấy sự ngập chìm, có người ném bỏ cây gỗ Tiên hương, bỗng nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

– Chớ nên vất bỏ.

Khi ấy thấy đầu đuôi nối liền nhau mỗi thứ có thần đem áo giáp lớn tháo trượng, bỗng chốc gió ngừng, thuyền trôi vào biển rắn. Loài rắn ở đó dài hơn ba trượng sắc màu gấm hoa. Sau, lại trôi vào biển cá, cá ở đó thân dài hơn cả thước, bay nhảy đầy giữa không trung. Kế nữa, đến một bể cả, toàn là chim bay nhóm tụ đậu trên lưng thuyền đè nặng dường như muốn chìm. Khi xa khỏi biển chim thì thiếu nước, trong chốc lát ghé vào một đảo nhỏ, ở đó có hồ nước sâu lắng trong, mọi người uống cảm thấy mát ngọt. Rồi cùng nhau tới được nước Nhật Bản. Nhà vua nước đó vui mừng nghênh đón ngài vào thành, thỉnh ngài an nghỉ trong một ngôi chùa lớn, tôn xưng là đại Hòa thượng.

Đến năm Quảng Đức thứ nhất (763) dưới thời vua Đại Tông, nhà Đường, không bệnh tật gì, tự nhiên ngài từ biệt chúng mà an tọa thị tịch, thân chẳng nghiêng ngửa mục rả, đến nay nhục thân ấy chẳng dùng chất hóa học để sơn phết. Bấy giờ, nhà vua và các nhà giàu sang các hàng tín sĩ ở nước Nhật Bản dùng các thứ hương báu thoa phết vào nhục thân ngài.

150. Thần tăng Vô Lậu

Thích Vô Lậu, ngài dòng họ Kim, là con thứ của Quốc vương nước Tân La. Thuở thiếu thời, ngài đi thuyền biển tới Trung Hoa, ngài lại muốn đến thăm xứ Ấn Độ, lễ bái tám vượt ngôi tháp thờ Đức Phật. Băng qua bãi sa mạc, vượt đến phía Tây nước Vu Điền, tới Thông lãnh vào trong một đại Già-lam. Các vị Tỳ-kheo ở đó không sao biết ngài là một vị Tăng, nên hỏi ngài về ý muốn vượt xa, sao chưa có kỳ tiết mà đến Thiên Trúc, có một vị Tăng bảo ngài:

– Trước chưa biết danh nên chưa thể đi liền, ở đây có hồ có rồng độc, nên đến giáo hóa, như có linh nghiệm, mới có thể đi được.

Ngài theo lời yêu cầu ấy, bèn lên bờ hồ. Ở đó chỉ thấy một chiếc giường của người Hồ, ngài bèn ngồi lên đó. Đến đêm, bỗng nhiên sấm sét đùng đùng, quái vật nhả khí, bồng bột các thứ biến hiện huyền diệu không thường, ngài mở mắt không giao động, giây lâu, có một con rắn lớn cất đầu tới gối chân ngài. Ngài thương xót, trao cho nó thọ pháp Tam quy rồi nó bỏ đi. Sau, lại hiện hình một người già đến bái tạ, thưa rằng:

– May nhờ ngài độ thoát, kiếp này không con sống lâu, ba ngày sau con sẽ xả bỏ loài vi vảy, nương đây được sinh về cõi tốt lành. Từ đây xoay về hướng Nam, có một tảng đá, đó là nơi đệ tử xả bỏ thân hình. Cũng mong ngài có thể dự tầm di cốt.

Ngài im lặng chấp thuận. Lại nói rằng:

– Hẳn phải nguyện đến Thiên Trúc ở đây có Thánh tướng Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu nguyện hẳn thành tựu không hư đối. Nên ngài có thể khấn cầu đó, có được điềm tốt lành thì ngài có thể đi, chớ nên nghi ngại!

Ngài bèn đứng trước Thánh tượng nhập đại Thiền định, như vậy trải qua bốn mươi chín ngày, thân mắc bệnh phù thủng, chung quanh có đàn chuột còn rút rỉa, cẳng chân trái nhiễu nước sắc vàng, mủ chảy tràn ra nhiều chén mới lành. Mãn hạn ngài có được ứng điềm. Chư Tăng nói với ngài rằng:

– Xét thấy sư Vô Lậu hợp duyên ở đất Đại Đường, định tâm hóa vật nhiều lợi ích, mỏi chân du phương chẳng để tâm, không thể cưỡng hóa. Sư có biết vậy chăng?

Trong tâm ý ngài cho đó là lời nói của Thánh hiền hẳn không phải nói rỗng, nên bèn khước từ. Lúc sắp lên đường, chư Tăng lại nói với ngài rằng:

– Gặp Lan tức dừng ở.

Trên đường trở về có ngọn núi tên Lan, nhớ lại lời nói trước, ngài bèn vào đó, có hang Bạch thảo, ngài liền kết cỏ tranh làm am mà nương náu, không sao an ổn vì sứ binh loạn. Vua Túc Tông (78–763), đời tiền Đường huấn binh Linh Vu, thường mộng thấy có người sắc da vàng ròng xưng danh hiệu Đức Phật Bảo Thắng ở trước cổ xe, sang ngày đem việc trong mộng hỏi các cận thần. Có người trả lời rằng:

– Có vị Sa-môn hành tích khác thường cư trú ở trong núi này, thường trì tụng danh hiệu Phật.

Túc Tông bèn dời đến và đích thân trông thấy, nói rằng:

– Thật là người đã thấy trong mộng!

Đến lúc thỉnh ngài về an trú tại chùa trong nội để cúng dường, qua nhiều lần dâng biểu chương xin trở về chỗ ẩn cũ. Song tâm ý nhà vua rất quý trọng ngài, nên ba cho ngài được toại ngyện trở về núi, bỗng nhiên ngài bảo là sắp viên tịch, một ngày nọ, bỗng ở trong cửa phía phải đóng lại, ở trên hóa thành hai chân, thân hình cách đất cả vài thước. Tên lính canh cửa thấy vậy báo trình vua Túc Tông nương kiệu bộ đích thân đến chỗ đó, thấy có di biểu của ngài xin được trở về an táng dưới chân núi mà ngài ẩn cư trước kia. Vua Túc Tông liền chấp thuận ý theo, bèn sai Trung sứ giám hộ dẫn đường tiễn đưa.

Trước kia, ngài hoằng hóa phần nhiều là ở huyện Hoài viễn, nhân đó thiết lập một dinh sở gọi là hạ viện dưa tang đến đó, thần tòa không thể nâng cử liền, mọi người bàn luận dời vào lập ngôi nhà riêng để an trí. Đến nay, chân thể của ngài vẫn đoan niên không biến hoại.

151. Thần tăng Bất Không

Thích Bất Không, ngài vốn tên tiếng Phạm là A-mục-khư-bạtchiếc-la, Hán dịch là Bất Không Kim Cang và chỉ xưng gọi đơn giản là Bất Không. Ngài vốn giòng dõi Bà-la-môn ở Bắc Ấn Độ, từ thuở bé thơ đã xa cách trời Ấn, theo người chú ruột Quán quan ở nước phương Đông, năm lên mười lăm tuổi, ngài phụng thờ ngài Kim Cang Tam tạng.

Ban đầu, ngài Kim Cang dùng các bộ Tất-đàm chương và thanh Minh Luận bằng bản Phạm chỉ dạy cho ngài, chỉ trong vòng mười hai ngày, ngài đều thông suốt. Sau, ngài cùng các đệ tử Xá Quang, Tuệ Biện… cả thảy ba mươi bảy người, từ Côn lôn, lên thuyền lìa biển Nam, đến biên giới nước Ha Lăng, gặp phải gió lớn, mọi người thương buôn lo sợ, mỗi tự hành trì theo Pháp của nước mình mà cầu đảo. Song, đều không ứng nghiệm. Họ lạy dài ai cầu khổ thiết, nguyện xin sự cứu hộ, các vị như Tuệ Biện… khóc oà, ngài bảo:

– Nay, tôi có pháp này, các ngươi chớ nên sầu lo!

Ngài liền dùng tay phải cầm lấy năm cổ Bồ-đề Tâm xử, tay trái năm lấy bản kinh Bát-nhã Phật Mẫu, tác pháp trì tụng kinh Đại Tùy Cầu một biến, tức thời gió dứt biển lặng. Lại gặp một con cá Kình lớn từ biển cả vọt lên, phun sóng cao như núi, nguy khốn hơn cả họa trước, các người thương buôn đều đành lòng phó mạng. Ngài lại tác Pháp như trước, bảo ngài Tuệ Biện trì tụng kinh Ta-kiệt-la Vương, dần dần các nạn lùi lại rồi đều chấm dứt. Thế rồi, tới được nước Sư Tử, Quốc vương nước ấy sai sứ nghênh đón ngài, cúng dường đủ thứ. Một ngày nọ, nhà vua mua vui bày trò điều phục voi dữ, mọi người đều leo lên chỗ cao để trông nhìn không ai dám đến gần, ngài đứng giữa ngã tư đường, miệng niệm tụng, tay bắt quyết ấn, tâm trú trong định. Vài con voi điên vội đều khều đá nơi chân. Cả nước đều lấy làm lạ. Tiếp đến ngài đi hết năm xứ Ấn độ, thường hiển hiện các điềm tốt lành.

Đến năm Thiên Bảo thứ năm (76) đời tiền Đường, ngài trở lại kinh đô nước Trung Hoa. Cuối mùa Hạ năm đó, trời nắng hạn gay gắt, vua Huyền Tông ban chiếu thỉnh ngài cầu mưa. Trong lời chế văn viết rằng:

– Thời gian không được lâu dài và mưa không nên quá lớn.

Ngài tấu trình nên lập đàn Khổng tước vương chưa đầy ba ngày mà mưa đã thấm khắp, nhà vua rất vui mừng. Sau, nhân có một ngày, gió lớn nổi dậy, Huyền Tông lại ban chiếu thỉnh ngài cầu dứt, ngài thỉnh một cái bình bạc, tác pháp gia trì, bỗng chốc đều yên tĩnh. Bỗng nhiên con ngỗng trong hồ nghiêng bình, gió lớn lại nổi dậy mạnh dữ hơn trước, vua Huyền Tông lại ban sắc thỉnh ngài cầu ngừng dứt, tùy ngừng nghỉ, tùy hiệu nghiệm, nên vua Huyền Tông ban tặng ngài với hiệu là “Trì Tạng”.

Đến năm Thiên Bảo thứ tám (79) vua Huyền Tông chấp thuận sự cầu xin trở về bổn quốc của ngài, ngài nương ngựa trạm năm đôi cỡi đến quận Nam hải, lại có chiếc sắc lưu giữ ngài lại. Đầu niên hiệu Trí Đức (76) đời tiền Đường, loan giá dừng ở Linh vũ, tiếng tăm vang khắp. Ngài thường kính phụng dâng biểu an trú bình thường. Vua Túc Tông (76–763) thường kín sai sứ đến cầu thỉnh pháp bí mật, gần đến ngày lấy lại kinh đô để tạo lập lại chính sự, mọi việc đều như điều đã định liệu. Cuối niên hiệu Thượng Nguyên (762) vua Túc Tông chẳng được yên, ngài dùng chân ngôn: Đại Tùy Cầu, để dứt trừ bảy lỗi, qua ngày hôm sau liền khỏi, nhà vua càng thêm kinh lễ khác thường.

Vua Túc Tông băng hà, vua Đại Tông lên ngôi kế vị, kính trọng sùng mộ ngài càng thêm nồng hậu. Nhân vì ở kinh đô từ mùa Xuân đến mùa Hạ không có mưa, nhà Vua ban chiếu thỉnh ngài cầu mưa. Và nếu như chỉ trong ba ngày mà có mưa thì đó là pháp lực của Hòa thượng. còn qua sau ba ngày mới mưa thì không phải là pháp lực vậy. Ngài vâng nhận sắc chỉ lập đàn, đến ngày thứ hai có mưa lớn, bảo là đã đủ.

Lại một năm nắng hạn gay gắt. kinh triệu Y Tiên Hân đến chùa thỉnh ngài vì kết đàn cầu mưa, ngài bào đệ tử lấy vỏ cây hoa chỉ hơn một thước, họa vẽ hình con rồng nhỏ lên trên, lấy một bát hương thau nước đặt ở trước, chuyển thổi, chấn lưỡi, gọi sứ chú nguyện, chỉ trong khoảng bữa ăn, xong rồi đem con rồng vẽ ấy trao cho Tiên Hân, bảo rằng:

– Nên đem rồng vẽ này ném vào trong khúc sông, ném xong phải kịp gấp trở về, không thì mạo hiểm bởi gió mưa!

Tiên Hân y theo lời ngài chỉ bảo mà ném vào sông. Vụt chốc có con rồng trắng dài hơn thước, vùng vẫy từ nước tuôn nhảy lên, chỉ chốc lát mà rồng dài vài trượng, tướng trạng như kéo tơ, bỗng nhiên phô bày đầy trời. Tiên Hân vội đánh ngựa chạy chưa được vài mươi thước, mây vật động mờ, mưa bảo tuôn xuống. Về đến Lý Vĩnh Sùng, nước ở trong Đệ Cù đã ngập lớn.

Niên hiệu Vĩnh Thái (76–766) đời tiền Đường, ngài tắm gội bằng nước hương, gối đầu về hướng Đông mà nằm, xoay mặt chiêm lễ hướng về cung quyết dùng Đại Ấn Thân trong định mà thị tịch. Sau khi trà-tỳ xong lửa tắt, thâu lượm xá-lợi vài trăm viên, cốt đảnh đầu không cháy, ở trong có một viên xá-lợi nữa ẩn nữa hiện. Vua Đại Tông ban sắc tại bổn viện dựng một bảo tháp riêng để phụng thờ.

Trước kia, vua Huyền Tông mời Thuật sĩ La Công Viễn cùng đấu pháp ở tại Tiện điện, La Công Viễn thường đưa tay xoay về trái để gãi lưng, ngài bảo:

– Giá mượn Tôn sư như ý.

Bấy giờ ở trên điện có một hoa đá, ngài khua đánh nát như ý trước, La Công Viễn hai ba lần muốn lấy như ý mà không được. Y vua Huyền Tông muốn đứng dậy lấy, ngài bảo:

– Hoàng thượng chớ đứng dậy.

Ngài liền đưa tay chỉ cho La Công Viễn, thì như ý hoàn phục như cũ ở trong tay.

Lại nữa, ở phía Bắc núi Mang có một con rắn lớn, những người lượm củi thấy nó ngẩn đầu nơi gò đồi, ban đêm thường hấp sương khí.

Thấy ngài vào, con rắn nói với ngài rằng:

– Đệ tử chịu phải ác báo, Hòa thượng làm thế nào để được độ? Và muốn vượt sông nước đến thành Lạc Dương để khoái hưởng sự hoài mong.

Ngài vì con rắn mà lãnh thọ các pháp quy giới, nói cho biết rõ nhân quả. Lại dạy thêm rằng:

– Ngươi vì sân tâm nên thọ quả báo như vậy. Đã thế sao lại còn phẩn hận, sức ta làm sao làm được? Phải như lời của thầy ta dạy bảo thì thân này chắc chắn sẽ xả bỏ được!

Về sau, có người lượm củi thấy rắn chết dưới khe suối, mùi hôi lan tỏa cả ngàn dặm.

Lại có một ngày mưa gió liên tục, ở trong phường chợ có những người trôi dạt hoặc đắm chìm, cay cối thì gãy ngã. Dân chúng vội thỉnh ngài cầu ngừng mưa, ngài ở trong sân chùa, nắn đất bùn làm hình năm sáu bà lão thả trôi trong dòng nước dùng tiếng Phạn mà thóa mạ nó, chỉ trong khoảnh khắc trời lại ngừng tạnh gió mưa.

Ngài từng ở Tây Thiên đại thạch khương tam quốc, binh lính vây quanh phía Tây vương phủ, nhà vua ban chiếu thỉnh ngài vào, đích thân nhà vua đến đạo tràng, ngài cầm nắm lò hương trì tụng mật ngữ Nhân vương mười bốn biến. Nhà vua thấy lính thần cả năm trăm người đến dưới sân điện, nên kinh ngạc thưa hỏi ngài, ngài bảo:

– Con của Tỳ Sa-môn Thiên vương thống lãnh binh lính đến cứu An tây, hãy nên dọn bày thức ăn gấp để phát khiển.

Đến ngày hai mươi tháng tư, quả thật có lời tấu rằng:

– Ngày mười một tháng hai ở phía Đông bắc thành cách ba mươi dặm, giữa khoảng sương mây thấy có lính thần lớn mạnh, trống nhạc đánh thổi rân trời, núi đất chấn động sụp đổ. Phiên bộ kinh hãi bỏ chạy tán loạn.

Trong doanh trại có một con chuột sắc màu vàng ròng gặp dấm cung tên dây đều đứt hết. Ở cửa lầu phía Bắc thành có tôn tượng Quanh Minh Thiên vương, tức giận trông nhìn lính soái Phiên bộ tuông chạy. Nhà vua xem xét rồi tấu trình cảm tạ ngài. Nhân đó, ban sắc các đường thành trên lầu cửu, an trí tôn tượng Thiên vương bắt đầu từ đó.

152. Thần tăng Đạo Chiêu

Sa-môn Đạo Chiêu, ngài tự xưng là người xứ Hàng châu, vốn dòng họ Khương. Thuở thiếu thời bị bệnh nên không được thông suốt, nói rằng:

– Đến Minh ty thấy việc Thiện ác báo ứng nên bèn phát nguyện xuất gia.

Ngài trú tại núi Thái hành bốn chục năm, giới hạnh rất tinh nghiêm khổ thiết.

Ngài thường nói việc sắp xảy ra của người đời, ban đầu như mờ ẩn nhưng sau thì rõ ràng ứng nghiệm. Có hai người khách đến, một người xưng là Diêu mạc, nêu rõ kinh, một người xưng là Trương Thị, dùng tư âm, ngài bảo Trương Thị rằng:

– Ông trao quan Tứ Chính phải thận trọng không nên ăn lộc của Phạm Dương. Ngày mùng tám tháng tư mà mắc bệnh thì sẽ không cứu được.

Kế đến, ngài nói với Diêu Mạc rằng:

– Ông không có lợi Trâm hất, nếu tòng quân thì sẽ ba mươi năm không thiếu, như có bệnh chớ bảo người Hồ trị liệu.

Năm đó, Trương Quan ở tại quận Tương, sau nhiều lần chọn lọc, thường cầu đến Nam châu, cũng đều như thế, sau lại tuyển chọn, quả thật được trao chức… Châu Lư thị huyện lệnh, đến nhậm chức mới hai ngày thì qua đời. Ngày mất đúng là ngày mồng tám tháng tư. Và sau đó mới biết rõ Phạm Dương chính là Lư Thị Vọng. Còn Diêu Mạc cử chẳng đệ tòng biết ở Dung châu gá danh quân thú ba mươi năm, nhiều lần chuyển đổi chức, sau lấy vợ cũng chỉ cầu sự giúp đỡ. Khi bị bệnh nên uống thuốc của Hoàng Thị chính là kẻ nô tỳ của động chủ thả ra vốn là người nữ họ Hồ.

153. Thần tăng Huyền Tông

Thích Huyền Tông, ngài dòng họ Ngô, người xứ Vĩnh Gia. Thuở thiếu thời, ngài đã xuất trần, khí đạt khoan dụ ở tại viện Bảo thọ, núi Vinh định trong bổn bộ, nương ngài Thường Tĩnh tôn xưng làm thầy. Sau khi đắc giới, ngài bèn du phương tham học. Đến Giang lăng, tham yết Thiền sư Lãng, để hiểu rõ mối nghi ngờ, ngài lại chống tích trượng đến phương khác. Thấy xứ Tử Kim trong lòng vui vẻ, ngài bèn lưu lại tại đó hành trì thiền quán. Núi ấy trước kia có nhiều hổ dữ, hoặc giết người đi buôn, hoặc tổn thương kẻ lượm củi. Từ khi ngài đến dừng ở đó, thì âm ba gầm gừ dường như mất hết. Người vào núi không còn phải lo sợ nữa. Một ngày nọ những người tham học thiền pháp tụ hội, thấy một người già đến trước tòa của ngài, quỳ lạy kính cẩn, ngài hỏi: – Ông là người gì?

Đáp:

– Tôi vốn là hổ ở trong núi này, ăn nuốt chúng sinh, nhân Đại sư đến giáo hóa ở đây, âm thầm hồi phục tâm tôi, nên được thoát nghiệp thân hổ đã sinh lên cõi trời, nên lại đây báo tạ.

Trong khoảnh khắc không còn thấy người già nữa.

Năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời tiền Đường, ngài phó chúc từ biệt môn đồ, bỗng chốc an nhiên thị tịch, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi. Trong hai tháng cử hành lễ nhập tháp và lập văn bia phụng thờ, nay vẫn còn.

154. Thần tăng Tuệ Trung

Thích Tuệ Trung, ngài dòng họ Vương, người xứ Thượng nguyên, Nhuận châu. Ban đầu, thân mẫu mang thai ngài, bỗng gặp một vị Tăng khác lạ bảo rằng:

– Bà hẳn sinh quý tử và sẽ làm thầy của trời, người!

Từ sau khi sinh ra, nuôi dưỡng trở lại, ngài chẳng ăn dùng các thứ tanh nồng. Có tướng người già khác thường, bẩm tánh đôn hậu, năm hai mươi ba tuổi, ngài đem tất cả sự nghiệp để cứu giúp. Năm đó tức năm Thần Long thứ nhất (70) đời tiền Đường, ngài bèn đến chùa Trang nghiêm, nghe ở núi Ngưu đầu có Thiền sư Oai, ngài liền tìm đến núi tham yết. Thiền sư Oai thấy ngài, liền bảo:

– Chủ núi đã đến!

Nhân đó vì ngài mà giảng pháp, ngài thường sớm tối tinh cần, hành hạnh Đầu-đà, ở nơi rừng đầm, uống nước suối, nằm chiếu cỏ, ăn ngày một bữa suốt thời gian dài, thường dùng một cái chỏ cho các thứ vào nấu, dùng xong treo móc trên cành cây, rồi ngồi trên giường dây trọn ngày như chiếc ghế, y phục chẳng thay đổi, nóng lạnh chỉ có một áo nạp. Suốt bốn mươi năm bèn hiển hiện linh ứng. Châu mục Minh Hiền từng đến núi tham lễ yết kiến. Lại thỉnh ngài đến quận thí pháp giáo hóa kẻ Tăng người tục.

Đầu niên hiệu Thiên Bảo (72) ngài đến trú tại chùa Trang nghiêm, ngài cho rằng:

– Trong thời nhà Lương xưa kia chùa Trang nghiêm rất thạnh, nay trải qua năm tháng đã phai mờ nên muốn tu sửa lại.

Bèn ở phía Đông điện, ngài phỏng nghĩ tạo dựng một ngôi Pháp Đường. Tại đó có cây cổ thọ, trên đỉnh có ổ chim Thước, các người làm công thợ muốn chặt đốn, ngài bảo:

– Hãy dừng đã, đợi chim Thước dời đi mới nên chặt!

Nhân đó ngài đến nơi gốc cây cầu chúc rằng:

– Chỗ đất này tạo dựng Pháp đường, nên mau dời đi chỗ khác!

Nói xong, chim Thước ấy liền chuyển sang ở cây khác, kẻ Tăng người tục thấy thế thảy đều thán phục. Thêm nữa, đổ móng chưa quyết định chỗ dựng lập, bỗng nhiên có hai vị Thần nhân chỉ cho địa điểm, nhân đó mới quyết định. Tuy cấp không phế, thần khoáng chẳng nhiểu. Đạo bạn bốn phương nương nhau ngày một kéo đến đông nhiều.

Năm Đại Lịch thứ ba (768) đời tiền Đường, trước thạch thất ở cửa núi có treo dãi áo của ngài, đến tháng nhất trong mùa Hạ năm đó bỗng nhiên khô rụi, Linh Chi Tiên khuân không sinh tự nhiên mọc lại. Đến tháng chín, ngài đang giảng Pháp trên tòa cao, vô cớ nước tuôn chảy chung quanh tòa. Đến ngày rằm tháng sáu năm sau (769) nhóm chúng bố tát. Chiều tối, ngài bảo thị giả cạo tóc rồi tắm rửa thân mình. Đêm đó mây lành phủ khắp chùa, nhạc trời vang vọng giữa không trung, tới sáng sớm ngày mười sáu, ngài an nhiên đoan tọa thị tịch. Khi ấy, gió mưa chấn động, cây cối đổ ngã, chim thú trong núi kêu tiếng buồn thương, khắp trong xó rừng trong hóc núi, vang rền tiếng khóc gào vài ngày mới thôi dứt, ngài hưởng thọ tám mươi bảy tuổi.

155. Thần tăng Sùng Tuệ

Thích Sùng Tuệ, ngài dòng họ Chương, người xứ Hàng châu, từ tuổi bé thơ, ngài đến núi lễ kinh làm đệ tử Thiền sư Quốc Nhất. Lại phát thệ nguyện nên trốn đến chùa Lạc vân ẩn giấu vết tích. Trong một thời gian có vị Thần đến nói với ngài rằng:

– Sư hành trì Phật đảnh mà tóm kết hai chữ Sa-ha, khiến mật ngữ không được viên mãn. Sa-ha có nghĩa là thành tựu. Nay tại kinh thất, Phật pháp bị ngoại đạo lăng nhục chèn ép, nguy ách ấy tợ như ngăn cấm cờ đầu, đang chờ đợi Sư giải cứu đó.

Ngài bèn rảo bước đến trình Tây thượng.

Năm Đại Lịch thứ ba (768) đời tiền Đường, Thái thanh cung Đạo sĩ Sử Hoa trình tấu triều đình, xin cùng các bậc danh Tăng nổi tiếng ở đương thời trong nhà Phật so tài Phật lực và Đạo pháp xem thử ai hơn ai kém. Bởi thời bấy giờ, vua Đại tông khâm phục kính ngưỡng Phật giáo, nên hàng dị đạo tức giận sự thiên trạng ấy mà sinh tâm cầu thỉnh như thế. Ở Đông minh quán, tại trước đàn giá đao thành tầng ấp, Đạo sĩ Sử Hoa dẫm bước lên đi trên từng cấp như bình thường. Bấy giờ, chư Tăng cùng nhau đưa đẩy không ai dám bước lên, ngài nghe thế đến tham yết cùng khai phủ Ngư Triều Tư, Ngư Triều Tư tấu trình xin dựng rộng tầng cấp giá mũi nhận nhọn như sương tuyết tại chùa Chương tín, cao đến trăm thước, tầng cấp ở Đông Minh Quán rất thấp và bé nhỏ. Bấy giờ cả triều đình Công Quý, cho đến dân chúng ở chợ phường đều cùng nhau chen chân kề vai mà trông ngóng, ngài đi chân không, lên cấp xuống tầng như trên đường bằng phẳng, không biểu lộ khó khăn gì, lại đạp lên trên lữa dữ, đưa tay thử vào dầu sôi nóng, ăn lá sắt mà gọi là bánh bột, cắn đinh sài bảo là giòn ngọt… Đạo sĩ Sử Hoa khiếp sợ, xấu hổ kinh hoàng, che tay áo màt rốn lui. Khi đó mọi người khảy móng tay tán thán tiếng vang như sấm nổ. Vua Đại Tông sai Trung Quan cùng Đình Ngọc tuyên ủy hai ba lần, bèn mang tặng một bức tử bào phương.

156. Thần tăng Linh Thản

Thích Linh Thản, ngài dòng họ Vũ, người xứ Văn thủy, Thái nguyên, là cháu chắc của thái hậu Võ Tắc Thiên. Thân phụ ngài là Tuyên lạc dương lệnh, thân mẫu ngài dòng họ Hạ Hầu. Ban đầu, lúc mang thai ngài, thân mẫu ngài mộng thấy vị Thần tăng trao cho gươm báu trong ngoài đều sáng ngời, và bảo rằng:

– Tôi gởi người vật này, khéo giữ gìn đó. Đến lúc ngài trưởng thành, đến tham yết Thiền sư Thần Hội.

Năm Đại Lịch thứ tám (773) đời tiền Đường, ngài hành hóa lên Lương Viên, bấy giờ Tướng Quốc Điền Công Thần Công men theo bên vệ cúng dường, đến Duy dương lục hợp ngài mới than Đại pháp khóc liệt, bổng nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

– Mở tâm địa tức thấy Bồ-tát như tượng Văn-thù nói trao cho ngươi ấn nghiệm.

Trên đảnh đầu, dùng tay mà đè xuống, bỗng xem thấy có sẹo bốn ngón tay đỏ bừng, dấu ấn đó thường hiện.

Ngài lại dừng ở núi vàng tại Nhuận châu, phía Bắc núi đó có hang rồng, thường nhả khí độc như mây, những người ở gần phần nhiều mắc bệnh hoặc đến nổi chết, ngài đến đó ở, mây độc liền mất dấu. Ngài lại dựng am ở Giang âm, Định sơn, bỗng có tiếng tán thán, đến xem thì là hai con rùa màu trắng, ngài vì nó mà cho thọ Tam quy. Lại thấy hai con rắn sắc trắng thân lớn dài đến vài trượng, ngài cũng vì nó mà cho thọ giới, sám hối. Cứ như thế, ngài lại đi đến đất Thục dựng lập một A-lannhã, có ba bậc trượng phu mặc áo kim tử từ từ đi bộ đến xưng tán đạo tràng.

Đến năm Nguyên Hòa thứ (810) đời tiền Đường ngài trú tại chùa Hoa lâm. Trong đất chùa có phần mộ đại tướng quân Trương Liêu, chư Tăng trong chùa hay bị quỷ vật hoặc loạn, ngài đến chùa thì không thấy gì. Lại ở tại Dương châu, dân chúng thường bị Sơn yêu mộc quái

làm mê hoặc, ngài đều ngăn cấm cả. Đến năm Nguyên Hòa thứ mười (81), bỗng nhiên có hai người Hồ tự xưng là ở nước Quy Tư lại, ở nước đó không có người hoằng giáo nên từ xa đến thỉnh ngài phu diễn. Đến ngày mười ba tháng năm sau (816), ngài báo cùng chúng Tăng biết là ngài sắp đap lại sự thỉnh cầu ở phương xa. Đến ngày mồng tám tháng chín, ngài thị tịch, hưởng thọ một trăm lẻ tám tuổi, tám mươi bốn Tăng lạp.

157. Thần tăng Tuệ Văn

Thích Tuệ Văn, ngài người xứ Tín an, ngài thường khuyên dạy Đàn-việt tu tạo phước nghiệp là hơn cả, ngài từng ở tại ??? Giang, chú đúc tôn tượng kim thân cao trượng tám. Cả châu chưa ai đoán định được đồng từ đâu đến. Ngài bảo:

– Đợi đại thí chủ.

Bỗng nhiên có hai vợ chồng người nọ từ huyện Thanh khê mang tấm kiếng vốn liếng lúc lấy chồng đến thí xả, ngài vì họ lập nguyện cầu chúc rằng:

– Tấm kiếng này bỏ vào khuôn đúc, nếu sẽ nằm ngay trước tim Phật, đó mới là sự phát tâm rất mực chí thành của hai vợ chồng.

Khi phá vỡ khuôn lộ bày tôn tượng thì tấm kiếng nắm ngay trước tim Phật.

Ngài từng đến Dự chương khuyên hóa, được vài giậu vàng rồng, bỗng chốc gặp giặc muốn cướp lấy. Sự việc nguy cấp, ngài bèn xuống nước bảo:

– Lo mất phước điền quân tử, xin tự lặn lọc lấy.

Ngài đi rồi, bọn giặc bèn xuống nước tìm kiếm mà không được. Kịp đến lúc ngài về tới châu thì số vàng ấy đã âm thầm nằm ở viện. Bấy giờ đường núi có loài hổ báo, ngài gặp nó, bèn dùng gậy gõ lên đầu, bảo:

– Các ngươi chớ hại đến người, ta tạo công đức, cớ sao không kết duyên?

Ngày hôm sau, hổ ngậm con heo rừng đến để trước mặt ngài rồi chuôi đuôi mà đi. Phàm ngài muốn làm mọi việc đều thành, mọi người quy hướng như dòng nước chảy, có làm sự khác lạ.

158. Thần tăng Nan-đà

Thích Nan-đà, vốn là tiếng Phạm, Hán dịch là Hỹ, không rõ ngài thuộc dòng tộc gì, người ở nước nào, ngài là người lạ lùng khác thường, cung kính có, khinh mạn có, bất định.

Niên hiệu Kiến Trung (780–78) đời tiền Đường, không thể nào đến đất Mân thục, Trương Nguỵ Công mời rước ngài đến Thành đô, ngài tự nói:

– Ta đắc pháp Như huyễn Tam-muội, vào được trong nước lửa xuyên qua cả vàng đá, biến hiện không cùng.

Ban đầu mới đến đất Thục, ngài đi cùng ba cô Ni trẻ tuổi, hoặc có lúc say sưa hát cuồng, tướng lính sắp cấm đoán, kịp lúc ngài đến, lại nói:

– Ta gởi vết ở tạng môn riêng có dược thuật.

Nhân đó, chỉ ba cô Ni, bảo đó là những người khéo tài ca nhạc, tướng lính trở lại kính ngưỡng, bèn quyến luyến không nở dứt đi. Bày tiệc rượu thịt, ban đêm nhóm tụ khách lại chung cùng ngài uống quá lắm. Kịp lúc ba cô Ni đến ngồi, mọi người đưa mắt trông nhìn, tỏ vẻ tuyệt đời, uống sắp hết, ngài bảo cô Ni rằng:

– Có thể làm, sở đạp khúc ta.

Nhân đó, từ từ đến cùng đội múa kéo bày hồi tuyết, nhanh chóng chạy đến xoa mài mu chân lại là nghề nghiệp tuyệt luân. Giây lâu, khúc nhạc đã mà đội mà múa vũ chưa dừng. Ngài hét:

– Phụ nữ phong ư?

Bỗng đứng dậy bắt lấy tướng lính, cầm dao dọa, mọi người cho rằng ngài cuồng say nên kinh hãi bỏ chạy, ngài bèn đặt dao chặt vào lưng, ngã chết giữa đất, máu me lai láng cả vài thước. Tướng lính khiếp sợ, bảo mọi người chung quanh bắt trói ngài lại. Ngài cười, bảo:

– Không sao!

Từ từ cử cô Ni ba cây gậy mà chống đỡ, máu huyết đó là rượu.

Ngài lại từng đang trong cuộc hội uống rượu, bảo người chặt đứt đầu mình, đỉnh tai vào trụ cột mà không chảy máu. Thân ngồi trên chiếu, rượu mang đến thì chốc vào dưới cổ trong vết sẹo, mặt đỏ bừng mà ca hát, tay lại tự để tiết. Tiệc bãi thì tự đứng dậy lấy đầu gắn liền lại như lúc đầu không vết sẹo gì cả.

Ngài thường nói việc hung suy của người đời, đều như là câu đố, sự việc qua rồi mới hiểu. Tại Thành đô, bá tánh phát tâm cúng dường vài ngày, ngài không muốn ở lại. Song, mọi người đóng cửa ải cố lưu giữ ngài. Nhân đó ngài chạy vào vách tường rồi trám bịt lại. Mọi người dẫn nhau vội tìm vào thì chỉ sót lại góc áo ca-sa, trong khoảnh khoắc cũng không còn thấy nữa. Ngày hôm sau, trên tường vách có bức họa hình của ngài, tướng tương tự như sắc màu nhật nguyệt, dần dần mờ tản đến bảy ngày giữa không có dấu vết đen, qua ngày thứ tám, vết đen cung biến mất. Ngài đã ở lại Bành châu. Về sau, không biết ngài như thế nào.

159. Thần tăng Hòa Hòa

Ngài Hòa Hòa, không rõ là người thuộc dòng tộc gì, ngài là một vị Tăng có vẻ cuồng loạn, phát ngôn có nhiều điều trúng, nên người thời ấy gọi ngài là Thánh.

Có công chúa nước Việt là vợ cả của vinh dương Trịnh Vạn Quân, đã vài năm mà không có con, Vạn Quân đến cầu thỉnh, thưa ngài rằng:

– Tôi không người nối dõi, muốn xin có được một đứa con. Chỉ có ngài là ban ân, có được chăng?

Ngài bảo:

– Mang đến cho ta ba trăm xấp lụa, công chúa sẽ sinh hạ hai trai.

Vạn Quân y theo lời ngài dạy mà cúng thí, ngài đem lụa đến chùa nói tu tạo công đức và nói với Vạn Quân rằng:

– Công chúa có thai. Ta bảo hai người trời xuống làm con công chúa.

Ngài lại nói:

– Công chúa bụng nhỏ có thể cùng lúc mang hai trai chăng? Ta sẽ khiến nó cùng một năm nhưng mà đứa trước đứa sau vậy!

Công chúa liền mang thai, đầu năm và cuối năm mỗi lần sinh một người con. Đứa lớn đặt tên là Tiền Diệu, đứa bé đặt tên là Hối Minh, đếu xinh đẹp đủ tướng trượng phu, hiểu biết thông bác.

160. Thần tăng Nghĩa Sư

Thích Nghĩa Sư, không biết ngài là người xứ nào. Tướng tạnh như phong cuồng, nói năng đảo loạn.

Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (78) đời tiền Đường, ngài qua lại Ngô Uyển làm kẻ ăn xin, mọi việc phần nhiều biết trước. Người thời bấy giờ rất nghi ngờ ngài. Trong chợ quán có vài gian nhà của bá tánh, ngài nắm lấy búa phát tề mái hiên, ngăn cấm vẫn không dừng. Trong đó có số người biết ngài là Thần dị, bèn kính lễ mà thưa ngài rằng:

– Đệ tử nương giá sinh sống ở đây, xin ngài chớ hủy hoại nhà con!

Ngài xoay lại bảo:

– Ngươi tiếc ư?

Rồi ném búa, bỏ đi. Đêm đó, trong chợ bỗng nhiên lửa kéo dài

cháy lan, chỉ có vài gian nhà ngài cắt phá mái hiên còn lại.

Trong chùa, bất kể mùa Đông hay mùa Hạ, ngài thường phế bỏ tích chứa các thứ pha, lọng, tượng Phật… bằng gỗ, dùng thay cho than củi. Lại ở trong lò lửa, ngài nướng cá Lý, mà phần nhiều nó tuôn nhảy trong tro bụi càng luông tuồng, ngài vỗ tay cười lớn nói cười đủ bảy sọt mà ăn, mặt mày nhơ bẩn mà không rửa thì liền có mưa phủ. Dân chúng đất Ngô cho là chiêm hầu.

Đến lúc sắp tịch, ngài uống vài mươi hộc nước hòa với bụi tro, nèn niệm Phật mà ngồi, các hàng Sĩ thứ cùng đến trông xem, mãn bảy ngày thì ngài thị tịch. Khi đó, đang lúc nắng nóng gay gắt, mà nhan sắc không biến đổi, các chi vẫn không thương tổn, bá tánh nghinh thỉnh ra ngoài bang giao mà trà-tỳ.

161. Thần tăng Đại Bệnh

Thích Đại Bệnh, ngài dòng họ Trần, người xứ Thiên thai. Trong buổi sáng ngài chào đời có ánh sáng tốt lành soi chiếu khắp nhà, mọi người trong thôn xóm vô cùng kinh dị. Năm lên bảy tuổi, ngài chịu tang thân phụ, buồn hủy diệt tánh, ngài bèn xin phép thân mẫu cho xuất gia, mẹ ngài vừa mới bày điều khó khăn mà cản trở, ngài liền chặt một ngón tay. Bà con thân thích đôn đốc khuyên hóa riêng thân mẫu ngài và liền đưa ngài đến chùa Quốc thanh. Sau khi đã đăng đàn thọ giới viên mãn, ngài bèn phát chí nguyện tham phương du quán.

Ban đầu, ngài đến dừng ờ tại Đông kinh, kế tiếp, ngài đến Hà dương vì dân chúng cứu giúp nắng hạn. Ngài căn cứ theo kinh điển mà học vẽ tượng tám Long vương, thiết lập đạo tràng, khải chúc xong, ngài ném tất cả xuống sông, mọi người đều thấy các tượng họa vẽ hoặc lặng chìm hoặc nhảy vọt khác nhau. Bỗng chốc mây nổi lờ mờ cả tấc, sấm sét tuôn mưa ngoài ngàn dặm đều báo đã đủ. Từ đó, mọi người hướng tâm nương tựa về ngài rất nhiều. Trước kia, khoảng ba thành phần nhiều hay bị gió bão mưa đá, tổn hại lúa mạ non trên tường thành, mọi người cho đó là do rồng độc làm hại. Ngài vì thế, trì tụng mật ngữ, sau trải qua nhiều năm tường tự đều không còn tai hoạn ấy, mọi người cùng nhau tạo lập Đường vũ như sinh từ.

Năm Đại Lịch thứ nhất (766), đời tiền Đường, ngài leo lên Thái hành, tham quan núi Hoắc, bèn vào chỗ sâu xa dựng lập am tranh mà ở. Có kẻ trộm chén bát của ngài, bỗng chốc bị hai con hổ ngăn chặn đường, gặp được ngài, kẻ trộm liền cúi đầu tỏ bày hối quá, ngài ủy dụ xong, nhân đó đưa tay xoa đầu hổ, nhiều lần ngài đã nhiếp phục thú dữ như thế. Trong núi đó, có miếu thần, có lúc bị truyền bệnh sâu độc dưới bẹn háng. Ngài vào miếu khuyên thần thọ trì quy giới, dứt tuyệt sự nấu nướng sinh lao. Tượng đá thần miếu luôn luôn gật đầu vâng mạng theo sự khuyên dạy của ngài. Do đó, Đàn-việt tín thí kề vai chen chân tìm đến. Có người bỏ chất độc vào trong rượu rồi đút lót người nữ nghèo khổ mang đến cúng thí ngài. Ngài đã dự biết trước. người nữ mang đến thưa rằng:

– Nhà con ủ rượu thấy men tốt lành, nên chiết lấy đem đến cúng dâng Hòa thượng để cầu phước, huống gì Phật chẳng trái ngược ý nguyện của chúng sinh!

Ngài bảo:

– Ngươi cũng là Phật.

Người nữ khốn khổ ấy sợ lại phải uống, nên đem tình thật mà tỏ bày. Ngài bưng lấy chén nếm thử, bỗng chốc hơi rượu bốc cùng hai cẳng chân, đất vì thế mà phân biệt. Mọi người nghe vậy đều kinh lạ. Và rượu được cúng dường từ đó. Tại sông phần ẩm thấp xứ Hà tây, có người mắc bệnh, ngài chỉ cấp cho nước sạch, người đó uống vào, bệnh lành hẳn.

Khoảng niện hiệu Trinh Nguyên (78-80), đời tiền Đường, ngài an nhiên ngồi kiết già mà thị tịch.

162. Thần tăng Quảng Lăng Đại Sư

Ngài là một vị khách Tăng lãng quên tên ở Quảng lăng, tự gọi là Đại sư, mọi người ở Quảng lăng nhân đó dùng hai chữ Đại sư mà kêu gọi ngài. Dung mạo của ngài rất là xấu xí, ưa thích ăn uống rượu thịt, thường mặc áo vải thưa lông cừu, mùa nắng nóng vẫn không cởi ra. Các loài rệp kiến nhỏ bé thường tụ nương náu. Ngài đến ở nhờ tại chùa Hiếu cảm, riêng trong một căn phòng, thường đêm đóng cửa mà ngủ, khinh suất là thường.

Ngài sống với tánh cuồng điên trái ngược, ưa thích giết hại chó, heo nái, thường ngày cùng đấu ẩu với tiếu niên ở Quảng lăng, hoặc say nằm bên vệ đường. Dân chúng ở Quảng lăng do vậy mà chán ghét ngài. Có một gã thiếu niên cậy ỷ sức lực, có ngày, thiếu niên ấy cùng đánh cờ với người, ngài tức giận, dùng tay đập nát hết quân cờ. Gả thiếu niên ấy cười bảo:

– Con nít lần thần sao dám trái ngược với tráng sĩ?

Ngài lại mắng nhục, thóa nhổ lên mặt nó. Khi đó, ngài cùng gả thiếu niên ấy đánh đấu, người xem có đến vài ngàn. Cuối cùng gả thiếu niên ấy không thắng được ngài bèn trốn đi. Từ đó, dân chúng Quảng lăng cho rằng ngài có sức thần. Ngài cũng tự phụ sức lực đó, thường luôn vào trong chợ cướp bóc vàng tiền y vật, mọi người ở đều sợ dũng khí của ngài nên không ai dám chống cự lại.

Sau, có một vị lão Tăng kêu gọi ngài đến mà bảo rằng:

– Phàm người xuất gia làm Tăng phải nên Từ tâm vâng phụng giáo giới, cớ sao lại ăn uống rượu thịt giết hại chó heo, cướp bóc tiền vật của người trong chợ, lại cùng bọn thiếu niên đánh đấu. Vậy đâu là đạo lý của kẻ Tăng?

Một sáng sớm, quan lại bắt đem ngài đến cửa quan mắng nhục rằng:

– Ông chẳng xấu hổ với trời ư?

Ngài tức giận quát mắng lại:

Bọn ve ruồi ham thích mùi tanh hôi, sao có thể biết được tâm của Rồng hạc ư? Nhưng mà, ta nói cũng chẳng phải chỗ ngươi biết vậy. Vả lại, ta bên trong thanh tịnh mà hỗn tạp bên ngoài, đâu như các ông hẹp hòi không độ lượng ư?.

Lão Tăng cuối cùng không thể chiết phục lời ngài.

Sau, một ngày nọ, ngài từ đâu bên ngoài trở về chùa, vào phòng đóng cửa. Qua lỗ hỏng có người trông nhìn vào, thấy ngài ngồi trên chiếu, có ánh sáng kì lạ từ chân mây phóng ra soi chiếu khắp cùng cả Thất, người trông xem thấy kì lạ báo cùng chư Tăng cùng lại trông xem ánh sáng ở chân mày của ngài. Cùng chỉ mà nói rằng:

–Tôi nghe giữa chân mày của Phật có bạch hào tướng quang, nay ngài cũng có như thế tức quả thật là Phật vậy.

Liền cùng nhau kéo đến lễ bái. Đến sáng sớm hôm sau, chư Tăng đều nhóm tụ nơi sân, đợi hầu tham yết ngài, tới lúc mở cửa thì ngài đã thi tịch. Mọi người lại càng kinh lạ sự việc ấy, nhân đó tôn xưng ngài là Đại sư Phật.

163. Thần tăng Linh Mặc

Thích Linh Mặc, ngài dòng họ Tuyên, người xứ Tỳ lăng. Ban đầu, ngài đến Dự chương tham yết Đại sư Mã… nhân đó, ngài ở lại đạo tràng Bạch sa, trải qua hai năm, Hổ dữ quen thuần, sinh con gần bên cạnh rừng, tùy ý nương náu. Sau ngài lại trú tại Đông đạo tràng, đất hẹp người hiếm. Thần núi mỗi đêm làm chấn động sấm sét mưa bão. Sướn núi cao dốc đều sụp đổ, vứt bỏ cây lớn đến sát bên cạnh am. Cành cây xen quấn lẫn nhau, các loài cỏ mao Thiêm, gây không ít tổn hại. Mọi người xa gần nghe thế, đều lại trông xem ca ngợi. Sau, ngài đến núi Đông bạch, bỗng nhiên trúng độc mà không tìm cầu thầy thuốc chữa trị, đóng cửa yên tọa, sau đó không lâu chất độc hòa thành mồ hôi nhỏ đổ mới bình phục lại.

Đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806-…), đời tiền Đường, trời nắng hạn lâu ngày, dân chúng đều khiếp sợ, ngài men theo khe suối, thấy một con yêu Thanh xà ngẩn đầu trừng mắt như nhìn người đi lại không giao động. Ngài quát la nó rằng:

– Thiên hạ khô khát, lúa mạ đều chết, sao ngươi không làm mưa để cứu dân chúng?

Đến đêm đó quả thật có mưa lớn, khắp nơi đều bảo đã đủ, dân chúng mong đợi ân ngài ban tặng như thế.

Sau đó, ngài tắm rửa rồi đốt hương, đoan tọa trên thằng sàn mà thị tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi mốt pháp lạp.

164. Thần tăng Trừng Quán

Thích Trừng Quán, ngài dòng họ Hạ hầu, người xứ Sơn âm, Việt châu. Năm vừa mới mười một tuổi ngài nương theo Thiền sư Bái ở chùa Bảo lâm mà xuất gia, trì tụng kinh Pháp Hoa. Năm mười bốn tuổi, ngài gặp ân được độ, bèn nương ở chùa ấy.

Ngài thông minh siêu tuyệt, không thể đem việc thường của người xuất gia để bó buộc ngài. Sau, lúc sắp soạn sở giải kinh Hoa Nghiêm, trong lúc ngủ mộng thấy một người vàng, đang đứng tên đỉnh đưa tay đón lấy, không thể nào nắm bắt được, tỉnh giấc, mồ hôi tuông chảy, tự mừng, ánh sáng chiếu soi khắp cùng.

Ngài khởi sự từ tháng giêng năm Hưng Nguyên thứ nhất (78) đến tháng 12 năm Trinh Nguyên thứ 3 (787), đời tiền Đường là hoàn thành xong sở nguyện, cả thảy hai mươi quyển, ngài liền thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng để lạc thành bộ sớ giải ấy. Bấy giờ, ở trước giảng đường, trong hồ mọc lên một hoa sen năm cánh hiệp hoan, đều có ba đốt, mọi người trông thấy đều thán phục. Ngài thường lo nghĩ đến việc trao truyền phú chúc, bỗng một đêm nọ, mộng thấy thân hóa thành rồng, đầu ngẩn cao đến năm đài, đuôi cuộn tới Bắc sơn, ép tháp ngọc bích rãi rác, râu vẫy sáng ánh như mặt nhật, bỗng chốc rắn bò ngoằn ngèo hóa làm hàng ngàn con rồng nhỏ vọt nhảy thanh minh phân tán mà đi. Chuộng lấy cảnh tượng ấy, giáo pháp phân phái lưu bổ vậy. Ngài bèn đến trú tại chùa Thê nham ở trong núi Trung điều. Trong chùa ấy có một thiền khách cuộn lông mày, cắt tóc, tự là “si nhân”, mặc áo vải thô ngắn, tay cầm cây roi dài, cuồng hát nói tạp. Phàm những gì mà si nhân chỉ trích bài bác phần nhiều có ứng nghiệm. Trước lúc, ngài (Từng Quán) chưa đến đó, si nhân thúc dục Tăng chúng trong chùa lo quét dọn, bảo rằng:

– Không bao lâu nữa, có vị Bồ-tát đến sứ này.

Niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), đời tiền Đường, ngài thị tịch, hưởng thọ trên bảy mươi tuổi.

165. Thần tăng Ẩn Phong

Thích Ẩn Phong, người dòng họ Đặng, xứ Thiệu võ, Kiến châu. Từ thuở thơ bé, ngài như ngu cuồng không vâng lời song thân, mà xuất gia thọ pháp.

Niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), đời tiền Đường, ngài nói đi đến núi Ngũ đài. Giữa đường đi ra Hoài tây, trông thấy Ngô Nguyên Tế cậy binh lính chống cự Vương mạng. Quan quân cùng giặc giao đánh lẫn nhau chưa quyết định hơn thua. Ngài bảo:

– Ta phải đến giải trừ sự giết hại này.

Bèn nắm lấy tích trượng, bay mình giữa không trung từ từ mà đi, quanh qua giữa ra quân trận. Chiến sĩ mọi người đều thấy vị Tăng bay vọt, bất giác rút mác hộp giao.

Thế rồi, ngài đi khắp các linh tích, bỗng nhiên đến trước hang Kim cang xoay người mà tịch, sừng sững thẳng đứng như trồng. Mọi người thời bấy giờ bàn với nhau đào một linh huyệt trước rồi sẽ khiêng đến để thiêu, song nhục thân ngài cao vút cứng định như núi, hợp lực vẫn không lay động, mọi người xa gần đến chiêm ngưỡng kinh hãi thán phục. Ngài có một người em gái xuất gia làm cô ni. Cô đến Ngũ đài trừng mắt quát rằng:

– Lão huynh ngày trước chẳng tuân theo pháp luật, nay chết lại huyền hoặc mọi người. Bây giờ mọi người đã biết. Em tuy cùng cốt nhục, đâu dám sai lầm, xin lão huynh nên theo độ!

Bèn đưa tay đẩy nhẹ, tự nhiên ngã nằm, rồi cử hành lễ trà-tỳ, thâu lượm xá-lợi nhập tháp, đề hiệu là Đặng Ẩn Phong. Để lại một bài tụng rằng:

Độc Huyền Cầm, gãy tiếng vì anh
Tùng Bách đông lạnh mãi thường xanh
Vàng quặng hòa chung, tánh tự khác
Tùy ý cùng anh thử lấy xem!

166. Thần tăng Viên Quán

Thích Viên Quán, không biết ngài là người xứ nào, ngài cư trú tại Lạc đô, bản tánh sơ sài đơn giản.

Bấy giờ, ngài cùng Lý Nguyên kết bạn quên mình cùng nương tựa tại chùa Tuệ lâm, chỉ thường ngày cung cấp vật dụng, theo chúng Tăng ẩm thực mà thôi, như vậy suốt ba năm. Một ngày nọ, bỗng nhiên Lý Nguyên hẹn cùng ngài đi đến thành Thục thanh, núi Nga my… vào các hang động tìm cây thuốc. Ngài muốn đi đến Trường an theo đường Gia cốc, còn Lý Nguyên muốn từ Kinh châu vào Hạp châu, phân tranh hai đường suốt nữa năm mà chưa quyết định, Lý Nguyên nói rằng:

– Tôi đã chẳng thờ Vương hầu, hạnh chẳng muốn.

Ngài bảo:

– Hạnh vô cố, hẳn xin theo lời bạn!

Bèn từ Kinh châu lên Hạp châu, đi đến Nam Phổ, ghé thuyền. Thấy vài người phụ nữ điều đạt quần gấm, mang bình mà múc nước, ngài cúi đầu khóc, bảo:

– Tôi không muốn đi qua nơi này, sợ thấy phụ nữ ấy!

Lý Nguyên hỏi về nguyên cớ, ngài nói rằng:

– Người phụ nữ đang mang thai đó, người giáng họ vương, là chỗ tôi gá thân. Đã trải qua ba năm mà chưa sinh nở, chỉ vì tôi chưa lại. Nay đã thấy vậy, mạng có chỗ tựa. Trong đạo Phật gọi đó là tuần hoàn. Xin bạn hãy dùng phá chủ khiến người ấy giáng sinh, vả lại, xuôi thuyền trở về thì đem thân xác tôi vùi chôn trong hang núi. Người nhà phụ nữ ấy khi tắm rửa cho đứa bé cũng mang bạn nên đến viếng thăm, nếu cùng xoay lại mỉm cười tức là còn biết về bạn vậy. Sau hai mươi năm, vào đêm trăng sáng giữa mùa thu, riêng ở ngoài chùa Thiên trú tại tiền Đường, đó là kì hạn gặp lại bạn!

Lý Nguyên hối hận một chuyến đi ấy, bèn gọi người phụ nữ mang thai ấy đến nói rõ sự việc này. Người phụ nữ ấy vui mừng nhảy nhót trở về. Chỉ trong khoảng khắc, Lý Nguyên đi sang trao cho phù thủy. Còn ngài thề tắm rửa mà tịch! Người phụ nữ ấy sinh một bé trai, ba ngày sau Lý Nguyên sang thăm xem, quả nhiên vừa mới đến, đứa bé liền mỉn cười. Ngày sau, Lý Nguyên trở thuyền xoay về chùa Tuệ lâm, dò hỏi các đệ tử mới biết là đã an táng nhục thân ngài rồi.

Lý Nguyên thường nghĩ nhớ ước hẹn đến Hàn châu. Đến kỳ hạn thì đến chùa Thiên trúc. Đêm đó trăng sáng tỏ, bỗng nghe bên bờ giếng cát hồng có tiếng mục đồng ca hát khúc nhạc Trúc chi, đang cỡi trâu gõ sừng, trên đầu lọn hai búi tóc, mặc áo ngắn, từ từ đi đến trước chùa trông xem. Lý Nguyên chạy lại bái chào, hỏi:

– Quan Công mạnh khỏe chăng?

Mục Đồng đáp lại:

– Lý Công kẻ sĩ thật tin! Tôi cùng bạn khác đường, cẩn thận xin chớ cùng gần. Bạn bận bịu duyên trần chưa hết, chỉ nên chuyên cần tu trì, không sa đọa tức bèn cùng gặp nhau.

Lý Nguyên chẳng do đâu để nói năng rõ lời, chỉ trông nhìn mà rơi nước mắt. Mục đồng (Hậu thân của ngài Viên Quán) lại tiếp tục ca hát khúc Trúc chi trước mà đi. Ngôn từ tha thiết, âm điệu cao vời! Không biết cuối cùng như thế nào.

167. Thần tăng Trí Biện

Thích Trí Biện, không rõ ngài là người xứ nào. Thuở nhỏ đã anh minh tuấn tú, đến lúc trưởng thành lại chuyên cần tập học Phạm ngữ. Ngài mang hòm sách đi khắp các danh sơn, đến chùa Hoành nhạc dừng nghỉ hơn một tháng, thường ở chùa Nhàn trai, riêng tự tìm dịch giải nghĩa sớ. Lại tự trách lầm lỗi của mình rằng:

– Chỗ giải nghĩa lý chẳng trái ý?

Ngài đang trầm tư suy nghĩ, bỗng nhiên ngẩn đầu, thấy một vị lão Tăng chống tích trượng vào, bảo rằng:

– Sư tụng đọc kinh gì? Luận cùng nghĩa lý gì?

Ngài nghi vị lão Tăng ấy là bậc khác thường, bèn tự thuật lại bổn duyên, nhân đó lại thêm sự hối trách. Lại nói rằng:

– Mong hiền đạt chỉ nam, xin cam tâm nhận lãnh, khóa miệng cứng lưỡi, không còn trở lại mở bày diễn giảng!

Lão Tăng cười, bảo:

– Sự hiểu biết của sư rộng rãi, há không biết nghĩa ấy? Các bậc Đại thánh còn không thể cứu độ người vô duyên, huống gì là người sơ tâm ư? Sư chỉ vì vô duyên với chúng sinh vậy!

Ngài hỏi:

– Há trọn đời này như vậy hay sao?

Vị Tăng ấy nói:

– Tôi thử vì Sư mà kết duyên!

Bèn hỏi ngài rằng:

– Nay, sư hiện có được bao nhiêu tiền của lương thực?

Ngài nói:

– Từ Nam đến Bắc, rách cả quần bọc chân. Đã trải qua vạn dặm, các vật mang theo đều hết sạch. Hiện tại chỉ đang thọ trì pháp y cửu điều mà thôi!

Lão Tăng bảo:

– Vậy được rồi, hẳn nên đem bán hoặc đổi lấy trị giá rồi đều sắm các vật cháo nhừ, bánh bột, dầu ăn… Ngài bèn y theo lời dạy mà làm, ứơc chừng đủ hai mươi người ăn, rồi cùng lão Tăng đến trong đồng trống, rải nhặt bột bánh, đốt hương, ngài quỳ dái, cầu chúc rằng:

– Ngày nay những ai thọ thực vật tôi cúng thí, nguyện ở đời sau cùng tôi làm pháp thuộc. Tôi sẽ chỉ dạy, được đến Bồ-đề!

Ngài nói xong, bỗng nhiên chim quạ bay xà tán loạn xuống mổ lượm trên đất, các loài ếch, kiến, ve, chấy rận chẳng biết số lượng đến là bao nhiêu …

Lão Tăng bảo:

– Hai mươi năm sau, Sư mới có thể trở về khai mở giảng tịch, nay nên đi lại đó đây khắp mọi nơi, chưa nên giảng nói!

Nói xong bèn bỏ đi.

Từ đó, ngài chuyên cần miệt mài cùng sách đèn, nghĩ vị thấm đượm cành nhiều, chỉ nguyện vẫn ôm hoài truyền giáo. Đến hai mươi năm, ngài khước bỏ, trở về Hà bắc, mở mang hoằng hóa thạch hành trong Nghiệp đô. Chúng đông đến số ngàn người đều là độ tuổi dưới hai mươi còn người già chỉ vài ba người thôi.

168. Thần tăng Tố Công

Hòa thượng Tố, ngài ở chùa Hưng thiện tại Trường an. Trong sân viện có bốn cây ngô đồng xanh tốt, đều do chính tay ngài trồng. Trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), đời tiền Đường, các quang thần khanh tướng phần nhiều hay đến viện ấy. Vào mùa hạ, các cây ngô đồng nhỏ mồ hôi dơ áo người tợ như dầu mỡ, không thể tẩy giặt, chiêu quốc Trịnh Tướng đã cùng với Thừa Lang và vài người khác tránh nắng, ghét cái mồ hôi làm dơ bẩn đó, nên nói với ngài rằng:

– Đệ tử xin Hòa thượng cho chặt các cây ngô đồng này và mỗi nơi trồng lại một cây tùng.

Đến chiều ngài đi dạo, đến bên cạnh cầu chúc các cây ngô đồng rằng:

– Ta gieo trồng các người đã hơn hai mươi năm, chỉ vì các ngươi mà mồ hôi dơ bẩn nên mọi người không ưa thích, năm tới nếu còn có mồ hôi. Ta hẳn chặt các ngươi mà làm củi vậy.

Từ đó về sau các cây ngô đồng không còn đổ mồ hôi nữa.

Ngài không bao giờ ra khỏi viện, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa

đến ba vạn bảy ngàn bộ, ban đêm thường có con Hạc (tợ như con chó) đến nghe kinh. đến lúc thọ trai thì có chim quạ sà vào lòng bàn tay ngài lấy thức ăn.

Đầu niên hiệu Trường Khánh (821-…) đời tiền Đường, có Sa-môn Huyền U đề thơ kệ tại viện ấy rằng:

Ba mươi năm tụng trì Diệu pháp
Nửa đời chẳng dẫm mấy trần dơ.

Người thời bấy giờ lấy đó làm những câu hay đẹp.

169. Thần tăng Hoằng Đạo

Thích Hoằng Đạo không biêt ngài là người xứ nào, ngài trú tại chùa Thiên phước. Mọi người nói ban ngày đóng cửa để ngủ, đêm thì trông coi việc ở âm phủ. Mười sự khẩn cầu thì hết tám, chín sự cự tuyệt.

Bấy giờ, Hà Trung Thiếu y Trịnh Phục lễ, ban đầu ứng thi Tiến sĩ mười lần cất nhắc chẳng đậu, mới cho là khó khăn nên tức giận hãi hùng, bèn chọn ngày thiết trai tắm gội mong hầu. Bất giác rất tỏ vẽ hòa nhã, thủ bảo:

– Ta chưa từng quên giờ thẩm đối với người, nay người tài giỏi lại tán thán ôm chất củi. Vả lại từ lâu không thể nhẫn. Gắng nên tiến thủ, trọn thành mỹ danh. Nhưng sự việc ấy rất lạ thường nên không thể vậy.

Trịnh bái xin ước mong ấy.

Ngài bảo:

– Ước mong của ông phải hội đủ bốn sự kiện sau đó mới toại chí. Trong bốn kiện mà thiếu một thì trở lại mang oan. Như vậy tức là trong cốt nhục phải tương tục tiếp nối ba bảng yết thị, trước ba bảng còn khó như thang cấp lên trời, sau ba bảng thì dễ như trở tay.

Trịnh ngạc nhiên trông nhìn mà không thể hiểu, thì lại bái xin danh mục của bốn sự kiện. Ngài chần chù giây lâu rồi bảo:

– Phải cẩn thận, chớ nói với mọi người về vấn đề thành danh của ông có bốn sự kiện, cũng có thể lấy làm lạ.

  1. Phải lúc quốc gia cải đổi niên hiệu qua năm thứ hai.
  2. Lễ bộ Thị Lang phải trở lại trong việc xem tiến cử.
  3. Phải là người thứ hai thuộc dòng họ Trương.
  4. Đầu năm đó phải có Quách Bất Lang.

Trong bốn sự kiện mà khuyết một thì công thiếu một sọt. Như thế tức Hiền đệ, cháu chắt ba bảng yết thị nhất định phải y như vậy.

Trịnh tuy rất nghi lời nói ấy, nhưng chỉ tỏ vẽ bực bội không vui, vì cho là không còn có hi vọng gì nữa, ben kính lễ bái tạ mà lui.

Năm Trường Khánh thứ 2 (822) đời tiền Đường, có người nói tên họ ở Chu Văn, Trịnh cho đó chẳng phải là người trở lại trông coi việc tiến cử, trong ý rất nghi ngờ, quả thật không đỗ đạt. Cho đến lúc cải đổi niên lịch năm thứ 2(826), mới đề xướng Dương Công trở lại Ty văn Bính. Trịnh riêng tự mừng sự việc ấy, nhưng chưa dám tiết lộ một lời, qua mùa Xuân năm sau, quả thật là đỗ đạt. Và người thứ hai dòng họ Trương tên là Tri. Thật là đồng năm đó Quách Bát Lang danh tiếng lừng lẫy. Trịnh lấy làm kỳ lạ, than thời gian lâu dài. Nhân đó ghi sao vào sách nhỏ. Riêng tự cho rằng:

– Ngài nói ba bảng yết thị nhất định phải như vậy. Một đây đã khác lạ, có thể dẫn đến thứ hai, thứ ba chăng?

Kế đến, nhân Thượng thư Hữu Thừa húy là Hiến ứng cử trong năm Thái Hòa thứ hai (828) đều có sổ sách danh dự ghi đầy đủ. Về chủ Văn chẳng trở lại trông coi việc tiến cử, nên ngày thi quả thật có sự giúp đỡ khắp cùng. từ đó ứng đến năm Thái Hòa thứ 9 (836) cử bại ở Thùy Thành. Cho đến lúc đổi niên hiệu Khai Thành năm thứ 2 (837), Cao khai trở lại Ty Văn Bính Hữu Hạt. Trịnh riêng lấy làm lạ việc ấy, quả thật năm sau đỗ đạt cao. Người thứ hai tên dòng họ Trương tên là Đường, đồng năm đó Quách Bát Lang tên là Thực, nhân đó lại phụ ở cuối sách nhỏ. Ba bảng yết thị tuy khuyết một, hai bảng vả lại không ít sai. Tại trong khúc môn, riêng tự nói rằng “Há ấy vậy ư”.

Bấy giờ, không biết ngài đã đi đến xứ nào. Năm sau, nhân phụ Mã đô úy cảnh ứng cử, bấy giờ danh dự càng chuyển hợp. Đến khi đổi niên hiệu Hội Xương năm thứ 2 (82), lễ bộ liễu thị lang Hoàn trở lại ty Văn Bính, đô úy đỗ đầu Trạng nguyên, người thứ hai dòng họ Trương, tên là kinh. tật điều nói của ngài không sai.

170. Thần tăng Thanh Công

Thích Thanh Công, không biết ngài là người xứ nào, trú tại góc eo của Ba sơn. Ngài thường im lặng không nói, bỗng nhiên mà nói thì lúc nào cũng trúng.

Bấy giờ ở Tây xuyên, Tiết soái đoàn Văn Xương phụ ngạc làm làm Chi giang Tể tướng, sau nhận làm đốc trách ở Giang lăng. Thuở thiếu thời Văn xương khéo tiếp nối văn chương, lúc trưởng thành tự chử cung khốn khổ nơi bụi đất. Khách đến thành đô thăm hỏi Vĩ Nam Khang Cao, Cao cùng tấu Thích họa, đạo không được lưu hành rộng. Thường vì sự nghiệp mà tự phụ, những người cùng đi đều là các kẻ sĩ cao minh bèn bỏ phủ của Nam Khang. Kim Ngô tướng quân Bùi Bân đến trấn Lương xuyên, vời làm tùng sự, chuyển mượn đình bình phẩm Bùi Công phủ xong, Bùi Công từ phủ đi, nghe ngoài có các sự kỳ đặc bèn sang cầu dừng ở qua đêm, xin biết được mọi việc đã qua trước kia. Từ đầu đêm cho đến sáng sớm, ngài không nói một lời bỗng nhiên hỏi:

– Khoảng giữa rất thạnh cờ rủ xuống mà đến là ai?

Bùi Công đáp:

– Há chẳng phải là Cao Sùng Văn?

Ngài bảo:

– Không phải, nói lại đi!

Bùi Công đáp:

– Đại Tông Văn là Vũ Hoàng Môn.

Ngài bảo:

– Đoàn thập cửu Lang Phi Nhật tức là người ấy. Rất thạnh, rất thạnh.

Bùi công tìm chứng cứ đó, bèn nói:

– Hại Phong hư dối, A sư chẳng biết.

Nhân đó cười mà lớn. Do vậy càng thêm tự phụ.

Hộ bộ viên ngoại Vĩ Xử Hậu ra nhậm khai châu Thứ Sử, bấy giờ đoàn Văn Xương nhận việc đô quan viên ngoại Phản Cổ Thiết án công đưa ra Đô môn. Vĩ Xử Hâu vốn thân tín Phật giáo, thừa lúc đến Hộc Minh thăm hỏi trước. Ngài vui mừng đón tiếp Xử Hậu. Xử Hậu nhân đó hỏi về thời gian trở lại. Ngài bảo:

– Một năm rưỡi, một năm rưỡi!

Lại hỏi:

– Cuối cùng dừng nghỉ ở chỗ nào?

Ngài đáp:

– Tể tướng phải là Giang biên đắc?

Lại hỏi:

– Cuối cùng dừng nghỉ ở xứ nào?

Ngài không đáp. Lại hỏi:

Đoàn thập cửu lang thế nào?

Ngài bảo:

– Đã nói rồi, gần đấy, gần đấy.

Kịp đến lúc Vĩ Xử Hậu trở về triều chính lại nói điều nghiệm về một năm rưỡi.

Đầu niên hiệu Trường Khánh (821-…) đời tiền Đường, đoàn Văn Xương tự cùng vị tiết chế Tây Xuyên, quả phù hợp lời nói của ngài. Vĩ Xử Hậu chỉ không hiểu Giang Biên đắc làm Tể tướng, nên rộng cầu hỏi các bậc trí giả giải chỉ, hoặc có người nương tựa chứng nghĩa cho rằng Vĩ Xử Hậu hẳn từ Chiết tây, Hạ khẩu mà vào bái.

Kịp đến lúc Văn Tông Hoàng đế lên ngôi (826-836), Tự Giang để thủ mạng Vĩ Xử Hậu làm tướng, đến đó mới chứng nghiệm, cùng Châu Bình Công Đồng sai sứ đi sửa bảo tháp của thanh công, nhân khắc bia đá ghi lại việc ấy, liền lấy giấy viết ghi lại hai câu thơ:

Hoa lê mới nở, đầu hoa hạnh

Phương Nam điện ấp mừng có thừa.

Tông nho vội khảo cứu đó, ngài chỉ nói là:

– Hại Phong A sư lấy câu kế.

Tháng hai năm sau trừ kiểm hiệu, Hữu Bộc Xạ Trịnh Dư Khánh thay tước vị đó.

171. Thần Tăng Duy Anh

Sa-môn Duy Anh không rõ là người xứ nào, đã hay khéo thanh sắc lại hay biêt thuật số. Sĩ nhân Lục Vân Ngô ứng cử tiến sĩ, tại kinh đô thường qua lại. Mỗi lúc ngài thường nói về các việc nhỏ, không điều gì chẳng ứng nghiệm.

Mùa Xuân năm Bảo Lịch thứ hai (826), đời tiền Đường, Tân Ngô muốn ngừng thi cử để trở về đất Ngô, bảo cùng ngài để thực hành kế sách. Ngài giữ lại một đêm sáng sớm mai ngài bảo với Tân Ngô rằng:

– Năm sau ông sẽ thành danh, chẳng cần phải trở về, chỉ lấy Kinh Triệu tiến đưa, hẳn ở thứ bậc cao.

Tân Ngô nói:

– Tôi từng ba lần đến kinh Triệu chưa bao giờ được vị. Việc năm nay cảm thấy rất khó!

Ngài bảo:

– Không hẳn vậy, việc thành danh của ông hẳn do từ Kinh Triệu tiến đưa, những xứ khác không thể được. Đến ngày mồng sáu tháng bảy, nếu ăn loài thủy tộc thì đỗ đạt và ở thứ bậc đặc thù.

Tân Ngô bèn viết lên khung cửa sổ Tấn Xướng Lý để hằng ngày trông xét. Vài tháng sau, nhân đến cửa Bắc tĩnh cung thăm quan Nhất lang. Vừa gặp Triều khách bèn trở về dừng nghỉ qua đêm ở nhà người cháu là Nhân Lễ. Vừa mới vào, Văn Lễ mừng đón nói:

– Nhân có người mới cho cặp cá Lý, bèn muốn nấu đãi ông.

Tân Ngô vốn ưa thích cá, chỉ bảo làm canh thôi và người nhà bưng lên đều ăn hết.

Ngày hôm sau nhân nhìn lên khung cửa thì thấy ghi là ngày mồng sáu tháng bảy. Vội xa giá tìm đến ngài, bày chuyện lừa dối nói rằng: – Sắp đến Bồ quan nên đến từ biệt.

Ngài bảo:

– Đã ăn loài thủy tộc rồi, còn đi Bồ quan làm gì.

Tân Ngô bèn tin tưởng sâu đậm thêm. Nhân lấy kinh triệu phủ, quả nhiên được cấp bậc đặc thù. Năm sau vào thi tuyển hoàn tất, lại đến hỏi ngài. Ngài bảo:

– Ông đã có tên trong sổ thi đậu rất cao, đang ở tại hạng ngoài mười lăm người trạng nguyên dòng họ Lý tên Cáp Dục Cước. Bấy giờ có quảng văn sinh Chu Cầu. Khi bàn luận đáng đỗ đạt, Quan Giám Ty đưa tên chưa đăng khoa. Tân Ngô nhân đó hỏi: – Người ấy không phải là dòng họ Chu ư?

Ngài bảo:

– Trong ba mươi ba người không có ai là dòng họ Chu. Đến ngày 2 tháng giêng, Tân Ngô nói đến Tùng phủ. Phủ chỉ cho bảng thạch chúc mừng viết ở vách tường. Hơn tháng sau treo bảng, thì người đỗ đầu trạng nguyên là Lý cáp, tên của Tân Ngô ở thứ 16, tức ba mươi người. Ngài lại nói với Tân Ngô rằng:

– Sau khi ông thành đạt danh vọng, sẽ ăn lộc thuộc phần ở Ngô việt, có một việc rất nhanh chóng.

Sau, Tân Ngô đến làm việc tại xứ Việt, được nửa năm thì đột nhiên qua đời.

172. Thần tăng Văn Sảng

Thích Văn Sảng, không biết ngài là người xứ nào, sớm mở giải bụi trần phá bỏ lưới ái, theo thầy học đạo. Tự nhiên chẳng ngủ, những lúc mỏi mệt khốn cùng chỉ ngồi kiết già. Sau riêng một mình, ngài đến dừng ở tại Khâu Lũng, gặp lúc mưa dầm cả tuần, bên cạnh không người hầu hạ. Có một con rắn vào cuộn nằm trong tay ngài. Bấy giờ có người thỉnh ngài để thiết trai cúng dường, người ấy lấy làm lạ đã đến giờ mà người không tới, bèn lại sang cầu thỉnh. Thấy con rắn nên kinh hãi la thất thanh, con rắn mới từ từ bò xuống. Người ấy cố thỉnh ngài sang thọ thực, nhưng ngài khước từ cho rằng đã quá giờ trưa nên không ăn. Ngày hôm sau, có con chó sói nhe răng há mồm, nhảy cắn đôi ba lần như muốn nhai cắn. Ngài thương nó đói khát, lại tự suy nghĩ rằng:

– Hình hài ta là một đãy dơ uế không nên lẫn tiếc, ta sẽ thí xả cho ngươi một bữa ăn, cầu nguyện sớm được thành tựu thân hình kiên cố, còn ngươi thọ nhận sự cúng thí của ta đồng được trở về thiện hội.

Bỗng chốc, con chó sói chuôi tai mà đi. Đến ngày ngài thị tịch, giữa không trung có tiếng chung khánh giao hòa lẫn nhau, kéo dài một thời gian lâu mới dứt.

173. Thần tăng Giám Không

Thích Giám Không, ngài dòng họ Tề, người xứ Ngô quận, thuở thiếu thời ít nghèo khổ, tuy siêng năng học tập mà ít ghi nhớ. Đến lúc tráng niên, thường luôn khốn khổ, ngài đi khắp các xứ Ngô việt và tuổi đã bốn mươi lăm.

Niên hiệu Nguyên Hòa (806-…)thời tiền Đường, gặp lúc tiền Đường hoang sơ thiếu thốn, ngài bèn nghĩ đến chùa Thiên trúc cầu xin thọ thực. Vừa đến phía Tây chùa Cô sơn, đói quá không thể đi tới nữa, bèn dựa bên dòng tuyết, buồn khóc rên rĩ mới vài lời, bỗng có một vị Phạm tăng cũng ghé vào bên dòng mà ngồi, ngoái nhìn ngài cười bảo rằng:

– Pháp sư tú tài trải qua vị ngon nào chưa?

Ngài đáp:

– Trải qua vị ngon thì có, nhưng tiếng gọi Pháp sư nghe sao trái ngược sai lầm quá.

Vị Phạm Tăng bảo:

– Ngài không nhớ giảng kinh Pháp hoa ở chùa Đồng đức?

Ngài nói:

– Đời nay tôi đã bốn mươi lăm tuổi, chỉ vòng quanh xứ Ngô sở, chưa từng ngẫm đến kinh khẩu, sao lại nói ở Lạc trung ư?

Phạm Tăng bảo:

– Ngài đang bị lửa đói thiêu đốt chưa rảnh để nhớ lại việc xưa.

Bèn lấy từ trong đẫy ra một quả táo lớn bằng nắm tay, bảo:

– Quả này trồng ở xứ đất nước tôi, vậy ngài ăn nó, nếu bậc thượng trí thì biết được mọi sự ở quá khứ và tương lai. còn kẻ hạ trí thì chỉ biết việc trước mắt mà thôi.

Người quá đói, bèn ăn quả táo, vốc nước suối mà uống, bỗng nghiêng mình nằm trên phiến đá mà ngủ, khoảnh khắc tỉnh giấc nhớ lại việc giảng kinh ở chùa Đồng đức như là mới ngày hôm qua. nhân đó càng thêm gào khóc hỏi vị Phạm Tăng rằng:

– Hòa thượng Chấn hiện tại ở đâu?

Đáp:

– Ngài chuyên tính chưa đến, lại là Sa-môn đất Thục, nay thì đoạn tuyệt phan duyên vậy.

Lại hỏi:

– Pháp sư ngộ ở đâu?

Đáp:

– Há không nhớ đùa phát đại nguyện tại trước tượng đá ở Hương sơn sao?

Nếu chẳng chứng Vô thượng Bồ-đề, hẳn nguyện làm quỷ thần hùng dũng. Hôm qua, nghe đã đạt được đại tướng quân. Năm người mây nước thời bấy giờ, nay chỉ một mình tôi được người giải thoát, Riêng ông là kẻ sĩ đói lạnh. Người khóc bảo:

– Tôi bốn mươi năm nay.

Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, hơn ba mươi năm chỉ mặc một chiếc áo vải thô mọi việc phù phiếm ở thế gian đều quyết dứt tuyệt cội nguồn, cớ sao cầu mong phước không hoàn bị ư? Mãi bị đói lạnh! Vị Phạm bảo:

– Do ngài ngồi trên tòa sư tử, rộng giảng lắm điều lạ lùng khiến những người học sinh tâm nghi hoặc. Giới châu từng khuyết mẻ, mùi tanh hôi còn sót lại, tiếng hỗn độn, âm hưởng trong trọn không có được, hình cong bóng vẹo, báo ứng hẳn nhiều.

Ngài hỏi:

– Vậy làm sao giờ?

Vị Phạm tăng bảo:

– Sự việc đời nay thì tôi không cùng tính, song việc đời khác thì cũng cảnh tỉnh với ông.

Bèn dò tìm trong bình bát lấy ra một gương soi, trước mặt sau lưng thảy đều sáng suốt, nói với ngài rằng:

– Cần biết được phần sang hèn tu sửa trong thời hạn dài ngắn. Phật pháp hưng tán, đạo tu thạnh hay suy, nên xem qua gương này.

Ngài soi nhìn giây lâu rồi cảm tạ rằng:

– Mọi việc báo ứng với lý thạnh suy, chỉ biết như thế vậy.

Vị Phạm tăng nhận lấy lại gương bỏ vào trong đấy, bèn mang mà đi. Đi chừng mười bước liền không thấy đâu nữa.

Đêm đó, ngài vào chùa Linh ẩn cầu xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sau, ngài đi khắp các danh sơn, càng cao tiết khí khổ hạnh. đầu niên hiệu Thái hòa (827-…) đời tiền Đường, ngài đến Lạc dương. Tại Long môn chùa Thiên trúc gặp Liễu Trình người ở Hà đông bèn cùng tỏ bày nguyên do ấy. Liễu Trình nghe điều ngài nói đều là khác thường, vả lại rất khác lạ. Ngài bảo:

– Đời này tôi sống được bảy mươi bảy tuổi, ba mươi hai hạ lạp, như vậy là còn mang bình bát khất thực ở đời chín nữa. Ngày tôi xả bỏ báo thân là lúc Phật pháp suy khốn.

Liễu Trình hỏi vặn lại, ngài im lặng không đáp bèn đòi mượn bút nghiên đề vài hàng lên phía Bắc tường kinh tạng mà đi. Ngài biết rằng:

– Hưng dấy một hạt cát, suy bại như số cát sông Hằng, thỏ mà giăng lưới, chó mà đuổi bắt, trâu hổ đấu nhau cùng sừng răng, Hoa đàm báu trọn không thể phá diệt hoa ấy.

174. Thần tăng Vô Trước

Thiền sư Vô Trước Văn Hỷ vào núi Ngũ đài mong cầu được thấy Bồ-tát Văn-thù bỗng thấy ông núi. Ngài ghi lại rằng:

– Nguyện muốn được thấy Đại sĩ Văn-thù.

Ông núi nói:

– Đại sĩ chưa thể thấy được. Ông đã ăn cơm chưa?

Ngài đáp:

– Chưa.

Ông núi bèn dẫn vào trong một ngôi chùa đến trong nhà bảo ngài ngồi. Có một đồng tử bưng dâng một cái chén bằng đồi mồi, vật đựng trong chén tợ như Tô lạc, ngài uống vào, cảm thấy tâm thần trong lắng sáng suốt. Ông núi bảo:

– Ở phương Nam, Phật pháp hiện tại như thế nào?

Ngài đáp:

– Các Tỳ-kheo trong thời mạt pháp ít phụng trì giới luật.

Lại hỏi:

– Chúng Tăng có được bao nhiêu?

Ngài đáp:

– Khoảng ba trăm đến năm trăm vị.

Ngài lại hỏi:

– Ở đây Phật pháp hiện nay như thế nào?

Ông núi đáp:

– Rồng rắn hỗn tạp, Thánh phám đồng ở với nhau.

Ngài lại hỏi:

– Chúng được bao nhiêu?

Ông núi đáp:

– Trước ba ba sau cũng ba ba.

Bèn cùng nhau bàn luận đến chiều, ông núi bảo đồng tử dẫn đưa ngài ra. Đi chưa bao xa, ngài xót thương tỏ ngộ ông núi tức là Bồ-tát Văn-thù, không thể trông thấy lại được, bèn cuối đầu bái chào đồng tử xin một lời từ biệt. Đồng tử nói:

– Vô cấu vô nhiễm tức là chân thường.

Nói xong, đồng tử và ngôi chùa đều ẩn mất, chỉ còn thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi con sư tử lông vàng qua lại trong ráng mây năm sắc rồi tự nhiên mây trắng phủ khắp không còn thấy nữa.

175. Thần tăng Tri Huyền

Ngài Tri Huyền, Ngộ Đạt quốc sư tình cờ gặp một vị Tăng ở tại chốn kinh đô. Bấy giờ, vị Tăng ấy mắc bệnh Ca-la-ma. Mọi người không biết ấy là Thần dị nên đều nhàm gớm, chỉ mình ngài chăm sóc hầu hạ không tỏ vẻ mệt mỏi. Sau, đến lúc từ biệt, vị Tăng ấy nói với ngài rằng

– Ông sau này gặp nạn, nên đến núi Trà lũng, Bành thành, Tây thục đế cùng gặp, nơi có hai cây tùng làm dấu.

Sau đó, ngài trở lại chùa An quốc, vua ý Tông thời tiền Đường đích thân đến nơi Pháp tịnh nghe ngài giảng pháp ban tặng ngài một Pháp tòa bằng gỗ trầm hương, ân sủng sâu đậm. Bỗng nhiên trên đầu gối ngài sinh ra mụt nhọt mặt người có đủ mắt mày răng miệng, mỗi lúc đút thức ăn thì mở miệng nuốt lấy như người thật không khác. tìm cầu các danh y trị liệu song không hiệu nghiệm gì. Nhân đó, nhớ lại lời nói năm xưa, ngài bèn vào núi cùng tìm thấy hai cây tùng ở giữa khoảng mây khói, ngài tin điều ước hẹn không sai, liền đi đến đó, thấy chùa Phật sáng ngời nghiêm lệ, vị Tăng trước kia đang đứng ở cửa, ngoái trông tiếp đón ngài rất vui vẻ. Trời đã sẫm tối, nên dừng ở qua đêm, ngài đem tất cả nỗi thống khổ nói cùng vị Tăng ấy. Vị Tăng ấy bảo:

– Không thương hại gì. Tại núi này có dòng suối, sáng sớm mai ra tẩy rửa hẳn sẽ lành.

Đến sáng, có đồng tử dẫn người đến chỗ suối, vừa mới vốc nước, bỗng nhiên mụt nhọt nói tiếng người, bảo rằng:

– Xin khoan tẩy rửa. Ngài đã từng đọc bộ Tây hán thư chưa?

Ngài đáp:

– Đã từng đọc.

Mụt nhọt lại hỏi:

– Đã từng đọc sao không biết Viên án giết Triệu Thố ư?

Ngài chính là Viên án, tôi đây tức là Triệu thố. Triệu thố bị chém ở phía Đông chợ. Nỗi oan ấy biết làm sao ư? đã nhiều đời, tôi cố tìm ngài để báo thù, mà ngài đã mười đời xuất gia làm Tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi không tiện báo thù. Nay ngài thọ dụng sự ban tặng quá sức xa xỉ. Tâm danh lợi mong khởi, nên tôi mới có thể đến hại may nhờ Tôn giả Ca-nặc-ca dùng nước pháp Tam-muội để tẩy rửa cho tôi, từ đây không còn phải bị oan nữa. Khi ấy, tâm thần ngài không trú tại thể vội vốc nước để tẩy rửa đi, nỗi đau nhức thấu cả cốt tủy, ngài ngất đi rồi sống lại, mụt nhọt ất cũng liền lành hẳn. Ngoáy đầu nhìn lại thì chùa Vũ tự nhiên không thấy, nhân đó, ngài dựng am tranh tại đó rồi biến thành ngôi Đại tự.

Ngài cảm sự kỳ dị ấy nghĩ rằng oan khiêng nhiều kiếp, nếu không gặp được Thánh hiền thì chẳng do đâu mà được cởi mở. Nhân đó thuật lại sáu văn ba quyển. Bởi lấy nghĩa dùng nước Tam-muội để tẩy rửa oan nghiệp nên gọi là Thủy Sám.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9