TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

 

32. Thần tăng Đàm-vô-sấm

Thần tăng Đàm-vô-sấm còn gọi là Đàm-ma-sấm. Ngài người nước trung Thiên Trúc. Năm lên sáu tuổi, chịu tang thân phụ, một mình cùng sống với mẹ. Ngài được Sa-môn Đạt-ma-da-xá nhận làm đệ tử, tập học Tiểu thừa. Sau, ngài gặp được Thiền sư Bạch Đầu, bèn thọ học Đại thừa. Năm hai mươi tuổi, ngài tụng các kinh điển Đại thừa lẫn Tiểu thừa hơn hai trăm vạn lần.

Anh của ngài giỏi hay chế ngự điều phục loài voi. Cởi mà giết chết voi lớn tai trắng của nhà vua. Vua tức giận giết chết anh ngài và ban lệnh:

– Kẻ nào dám nhìn nhận kẻ đó thì sẽ giết cả ba họ.

Bà con thân thích không ai dám đến nhìn. Ngài khóc mà đem chôn xác anh ngài. Vua tức giận muốn giết ngài, ngài bảo:

– Nhà vua về pháp luật giết anh tôi, còn tôi vì tình thân thích mà chôn cất. Đều chẳng trái với đại nghĩa, sao lại bị oán giận ư?

Mọi người chung quanh nghe thấy vậy mà đứng tim, còn ngài thần sắc vẫn tự nhiên. Nhà vua thấy ngài có chí khí khác thường, liền lưu giữ lại mà cúng dường.

Ngài thông hiểu chú thuật, phàm hướng việc gì đều có ứng nghiệm, ở Tây Vực đều xưng ngài là đại Chủ sư. Sau, ngài theo nhà vua vào núi, nhà vua khát nước mà tìm không được, ngài mới âm thầm trì chú, nước từ trong khe đá chảy ra. Nhân đó, ngài ca ngợi rằng:

– Do sự cảm ứng âm trạch của Đại vương bèn khiến đá khô sinh ra suối nước!

Các nước chung quanh nghe vậy đều tán thán ân đức của vua. Đến khi mưa thuận gió hòa, trăm họ đều ngợi ca, nhà vua rất vui thích đạo thuật của ngài và càng thêm sủng ái. Thời gian sau, nhà vua đổi ý, tiếp đãi ngài có phần lạnh nhạt. Hơn nữa, ở một nơi lâu ngày nên ngài cũng chán nãn, bèn từ biệt đi đến nước Kế Tân, muốn xiển dương giáo pháp Đại thừa, song không hợp với quần chúng nước đó. Ngài liền đi thẳng hướng Đông, đến nước Quy Tư, một thời gian sau, ngài lại đến xứ Cô tàng. Dừng ở tại nhà trạm, sợ mất kinh điển nên ngài gối đầu nằm ngủ, có người khuyên ngài để xuống đất, ngài kinh hãi cho là kẻ trộm. Như vậy liên tiếp ba đêm. Bỗng nhiên, ngài nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

– Kinh điển là kho tàng giải thoát của Đức Như Lai, sao đem để gối đầu nằm?

Ngài mới tạm ngộ nên mới đặt để ở chỗ cao. Đến tối, có kẻ trộm, qua vài lần nâng nhấc, trọn không động đậy. Sáng sớm, ngài mang kinh mà đi chẳng lấy làm nặng nề. Kẻ trộm thấy vậy cho là Thánh nhân, bèn chạy lại lễ bái tạ tội.

Bấy giờ, vua xứ Hà tây là Trở Cừ Mong Tổn chiếm cướp Lương Thổ. Ngài thường bảo Mông Tổn rằng:

– Có vào nơi tụ lạc, hẳn là có nhiều tai dịch.

Mông Tổn không tin, muốn được chính mắt thấy mới là thực nghiệm. Ngài liền dùng pháp thuật khiến Mông Tổn thấy mà khiếp sợ. Ngài bảo:

– Phải nên thanh khiết chí thành thọ trì trai giới trì tụng thần chú để dứt trừ nó đi.

Ngài trì chú ba ngày rồi bảo Mông Tổn rằng:

– Quỷ đã đi.

Bấy giờ trong địa vực có người thấy quỷ, bảo rằng:

– Thấy vài trăm dịch quỷ tuôn chạy thốt nhiên mà chết. Nên trong tụ lạc được an ổn.

Bấy giờ, Ngụy Lỗ Thác Bạt Đào nghe ngài có đạo thuật, sai sứ đến thỉnh đón ngài. Mông Tổn đã phụng thờ ngài lâu ngày nên không nhẫn nở để ngài đi. Sau lại đến nghênh đón, Mông Tổn đã tiếc ngài không ở lại. Lại bởi sự cưỡng bức của Ngụy Lỗ, đến tháng ba năm Nghĩa Hòa thứ ba (33), đời Trở Cừ Mông Tổn, ngài nhân đó xin đến phương Tây tìm lại phần sau của kinh Niết-bàn. Mông Tổn tức giận vì nói ngài muốn đi, mới kín bày mưu hại ngài, dối đem tư lương cung cấp khi đi, tặng các vật báo rất nồng hậu. Gần đến ngày ra đi, ngài rơi nước mắt, nói với mọi người rằng:

– Sấm tôi, nghiệp quả sắp đến, các bậc Thánh cũng không thể cứu vãn! Vì vốn có tâm thệ nguyện đại nghĩa chẳng dung dừng.

Lúc ra đi, quả thật Mông Tổn sai thích khách đón đường hại ngài. Ngài thọ được bốn mươi chín tuổi. Năm đó là năm Nguyên Gia thứ 10 (33), đời tiền Tống. Mọi người xa gần đều than tiếc!

Thế rồi, thường ngày Mông Tổn thấy chung quanh mình có quỷ thần dùng kiếm đánh Mông Tổn. Đến tháng tư, Mông Tổn lâm bệnh nặng mà chết.

33. Thần tăng Bôi Độ

Thần tăng Bôi Độ, không biết tên họ ngài là gì. Ngài thường cỡi chén gỗ để qua sông, mọi người nhân đó mà gọi ngài là Bôi Độ*.

Đầu tiên, ngài ở Kỷ châu, chẳng tu tế hạnh mà thần lực ngài thật trác việt, người đời chẳng thể suy lường nguyên do. Ngài thường ngủ lại tại một nhà nọ ở phương Bắc, trong nhà đó có một tôn tượng bằng vàng, ngài trộm lấy mang đi, chủ nhà biết được bèn đuổi theo, thấy ngài đi thông thả mà cỡi ngựa rượt theo không kịp. Đến sông Mạnh tân, ngài thả chén gỗ nổi trên nước, nương vào đó mà qua sông, không cậy nhờ gió hay bơi chèo mà nhẹ nhàng đi mau như bay. Chốc lát qua tới bờ kia rồi đi đến chốn kinh đô. Lúc ấy ngài khoảng bốn mươi tuổi. Ngài đeo mang lam lũ gần như chẳng vật che thân, nói năng úp mở, mừng giận bất thường. Hoặc đang lúc tiết trời rét lạnh mà gục đầu trong băng tuyết tắm rửa hay mang giày leo lên núi, hoặc đi bộ vào chợ. Chỉ mang theo một bồ cỏ lau, ngoài ra không vật gì khác. Ngài thường đến Sa-môn Pháp Ý ở chùa Diên hiền. Ngài Pháp ý dùng một phòng riêng để tiếp đãi ngài.

Sau, ngài muốn vượt qua sông, ở bờ sông, nói với chủ thuyền. Chủ thuyền bảo không chịu chở ngài đi. Ngài lại bước chân lên chén, ngoảy lườm nhìn, nói vịnh, tự nhiên, chén lướt dòng thẳng đến bờ phía Bắc. Ngài đi về hướng Quảng lăng, gặp nhà Thôn Xá Lý thiết hội Bát quan trai. Trước kia chưa từng quen biết, ngài đi thẳng vào trai đường mà ngồi, đặt để bồ cỏ lau ở giữa sân. Mọi người thấy ngài hình dáng xấu xí, nên không tỏ lòng cung kính. Xá Lý thấy bồ cỏ lau giữa đường muốn dời để bên cạnh bờ tường. Vài người nâng nhấc mà không lay động.

Ngài ăn xong, đứng dậy xách bồ cỏ lau mà đi, và cười bảo rằng:

– Tứ Thiên vương nhà Xá Lý.

Đến lúc có một người trông coi nhìn lén trong bồ, thấy có bốn đứa bé cao độ vài tấc, mặt mày đoan chánh, áo quần sạch đẹp, từ đó mới đuổi tìm, song, không biết ngài ở đâu!

Sau đó vài ngày, mới thấy ngài ở ranh giới phía Tây, mông lung ngồi dưới gốc cây. Xá Lý lễ bái thỉnh ngài trở về nhà, thường ngày cúng dường. Ngài không chuyên trì trai giới, uống rượu ăn thịt, đến cả nem cay, chẳng khác gì người thế tục. Bá tánh cúng dâng hoặc có lúc ngài nhận có lúc không nhận. Tại Bái Quốc có Lưu Hưng Bá làm thứ sử ở Duyên châu, sai sứ đến đón bắt, ngài mang bồ cỏ lại. Hưng Bá sai người nâng thử xem, hơn mười người nhấc không nổi, Hưng Bá tự đến xem chỉ thấy một chiếc áo nạp rách nát và một chén gỗ.

Sau, ngài trở về nhà Xá Lý được hơn hai mươi ngày. Một sáng sớm, bỗng nhiên ngài bảo:

– Ta muốn được chiếc áo ca-sa, đến trưa nay phải làm xong.

Xá Lý liền bảo người may sắm, đến trưa chưa xong. Ngài bảo:

– Ta tạm đi đây!

Đến tối không trở lại. Khắp trong khu vực nghe có mùi hương thơm khác lạ, nghi ngài bày điều quái dị, bèn tìm khắp nơi mà không thấy ngài, sau đó mới thấy chân núi cao ở phía Bắc, trải chiếc áo cà sa rách nát giữa đất, ngài nằm đó mà chết, trước đầu sau chân đều mọc hoa sen rất thơm đẹp, qua một đêm thì héo úa. Cả ấp cùng nhau an táng ngài. Sau đó vài ngày, có người từ hướng bắc đi lại bảo thấy ngài mang bồ cỏ lau đi ở hướng Bành thành, mọi người lại cùng nhau đào xới mở quan tài ra thì giày ủng hiện còn đó.

Đến Bành thành, ngài gặp cư sĩ Hoàng Hân, rất kính tin Phật pháp. Thấy ngài, Hoàng Hân đảnh lễ rồi thỉnh ngài về nhà. Nhà Hoàng Hân rất nghèo chỉ có cơm gạo tẻ mà thôi, ngài chấp nhận vui vẻ ở đó được nửa năm. Bỗng nhiên ngài bảo Hoàng Hân rằng:

– Ông có thể tìm kiếm ba mươi sáu cái bồ cỏ lau, tôi cần dùng đến thứ đó.

Hoàng Hân đáp:

– Lúc này chỉ có khoảng mười cái, nghèo không lấy gì để mua, sợ không có đủ.

Ngài bảo:

– Ông chỉ kiếm tìm trong nhà hẳn là có.

Hoàng Hân liền kiếm tìm khắp nơi, quả thật có được ba mươi sáu cái, đem bày nó giữa sân. Tuy có đủ số đó nhưng phần nhiều bị hư nát. Bỗng chốc, Hoàng Hân lần lượt xem kỹ lại thì đều là mới và nguyên vẹn. Ngài phong kín lại, nhân đó bảo Hoàng Hân mở ra, mới thấy tiền bạch đều đầy, có thể đến trăm vạn. Những người biết được khen rằng:

– Ngài phân thân đến cõi khác, chỗ đáng được cúng thí.

Nên vội cùng nhau đem đến cúng thí Hoàng Hân, Hoàng Hân nhận rồi đều đem làm mọi việc công đức. Trải qua một năm thì ngài từ biệt ra đi. Hoàng Hân lo sắm mọi thứ lương thực. Đến sáng sớm, thấy lương thực vẫn còn đó mà chẳng biết ngài đã đi đâu.

Sau, ngài đi đến hướng Đông vào Ngô quận, trên đường đi thấy có người câu cá, nhân đó mà đến xin cá. Người đó cho một con cá đói, ngài đưa tay bắt lấy rồi quăng thả vào nước bơi lội mà đi. Lại thấy một người đang chài lưới cá, ngài cũng đến xin cá, người ấy tức giận mắng chửi không cho, ngài mới nhặt hai viên đá ném vào trong nước, bỗng chốc có hai con bò nước đấu đá nhau trong lưới, đến khi lưới rách nát thì không còn thấy bò và ngài cũng ẩn mất. Ngài đến sông Tùng bèn ngửa nón để trên nước, nương đó mà qua bờ, ngài vượt qua Cối kê, Diệm huyện, lên núi Thiên thai. Vài tháng sau ngài trở lại chốn kinh đô.

Thuở thiếu thời, ngài đi ở bất thường. Đàm Việt thỉnh mời nhưng có lúc đến lúc không. Bấy giờ ở Nam châu, có nhà họ Trần giàu có đầy đủ mọi tiện nghi. Ngài đến nhà ông ta, rất được cung kính đón tiếp. Nghe dưới thành đô lại có một vị cũng tên là Bội Đồ, cả năm cha con nhà Họ Trần đều không tin nên kéo nhau xuống Thành đô để xem thử, quả thật có một người hình tướng giống hệt Bôi Độ ở nhà. Trần bày một hộp mật gừng, cùng con dao, hương huân lục, khoan tay… Bôi Độ đều ăn mật gừng đến hết, còn các vật khác vẫn còn y nhiên ở dưới chân. Cả năm người sợ đó là Bôi Độ hiện ở nhà bèn phái hai người ở đó trông xem, còn ba người trở về lại nhà. Bội Đồ ở nhà vẫn như cũ, dưới chân cũng có hương, con dao… chỉ khác là không ăn mật gừng mà thôi. Ngài mới nói nhà họ Trần rằng:

– Con dao bị lụt, có thể mài nó đi.

Hai người kia trở về nhà bảo:

– Bôi Độ kia đã dời đi đến chùa Linh thứu.

Gia đình họ Trần tìm cầu hai bức giấy vàng viết thư, viết không thành chữ, trái hợp đồng ấy, bèn hỏi:

– Thượng nhân viết hợp đồng như thế nào?

Ngài không đáp. Cuối cùng cũng chẳng biết ra sao cả.

Bấy giờ, tại Ngô quận, có Chu Linh Kỳ đi đến Ca ly, lúc trở về, gặp gió thổi thuyền phiêu bạc đến chín ngày, đến một châu nọ, nơi ấy có núi cao lớn, bèn vào núi hái củi. Đi hơn mười dặm, nghe có tiếng khánh và khói hương, khi ấy mọi người cùng nhau xưng niệm Phật lễ bái. Bỗng chốc thấy một ngôi chùa rất trang nghiêm tráng lệ, phần nhiều toàn bằng thất bảo. Lại thấy có hơn mười người bằng đá, mới cùng lễ bái rồi trở lại. Đi khoảng một quãng đường, lại nghe tiếng xướng dẫn, liền dừng lại nhìn xem cũng chỉ là người đá, Linh kỳ…, cùng nhau bảo rằng:

– Đó là Thánh tăng, chúng ta là những kẻ có tội nên không thấy được!

Nhân đó, mọi người cùng nhau chí thành sám hối. Tàn canh mới thấy được người thật. Những vị đó là vì Linh Kỳ… bày các thức ăn. Thức ăn chỉ là rau quả mà mùi vị thơm ngon khác hẳn ở đời. Xong rồi cùng nhau cúi đầu lễ bái. Xin trở về cố hương. Có một vị Tăng bảo:

– Ở đây cách thành đô hơn hai mươi dặm, khiến mọi người chí tâm không lo không mau vậy, nhân đó hỏi Linh Kỳ rằng:

– Có biết đạo nhân Bôi Độ chăng?

Linh Kỳ đáp:

– Rất biết!

Vị Tăng đó chỉ ở vách tường phía Bắc có một cái Hồ treo tích trượng và bình bát, bảo rằng:

– Đó là trú xứ của Bôi Độ.

Và viết thư để trong hòm, lại có một gậy trúc xanh, vị Tăng ấy bảo Linh Kỳ:

– Chỉ cần ném chiếc gậy này vào trong nước trước mui thuyền rồi đóng cửa thuyền mà tĩnh tọa, không cần phải nhọc sức, hẳn khiến mau tới vậy.

Đến lúc từ biệt, lại bảo một vị Sa-di đưa đến trên cổng bảo rằng:

– Đường này chỉ đi bảy dặm là đến thuyền, chẳng cần đi theo đường trước kia nữa.

Quả thật đi về hướng Tây bảy dặm là tới thuyền, đúng như lời chỉ bày. Chỉ nghe thuyền đi trên núi cây cối mọc cao nên không thấy nước. Trải qua ba ngày thì đến hòn đá sông hoài rồi dừng lại, lại cũng không thấy gậy trúc ở đâu. Thuyền vào sông Hoài đến Chu tước, mới thấy Bôi Độ cỡi thuyền la lớn, vỗ vỗ vào thuyền bảo:

– Ngựa, ngựa sao chẳng đi?

Mọi người cũng đều trông thấy. Linh Kỳ cùng với những người trên thuyền đều từ xa kính lễ Bôi Độ. Ngài mới tự xuống thuyền lấy thư và bình bát. Mở thử ra xem, chữ viết không người nào biết. Ngài cười lớn, bảo:

– Muốn gọi ta về ư?

Ngài ném bình bát vào trong mây, rồi lại đón lấy, bảo:

– Bình bát này ta không thấy đã bốn ngàn năm.

Ngài thường xuyên ở chỗ ngài Pháp Ý, chùa Diên hiền, người thời bấy giờ cho rằng bình bát đó là vật hiếm lạ nên đua nhau đến trông xem. Có đứa tớ gái của Canh Thường thường trộm đồ vật mà trao đổi, tuy tìm khắp mọi nơi mà không bắt được mới hỏi ngài. Ngài bảo:

– Nó đã chết tại trong gò mã bên cạnh bờ sông Kim thành.

Qua xem quả thật đúng như ngài nói. Bấy giờ có Khổng Minh Tử làm Hoàng Môn thị lang, ở nhà bị bệnh lỵ, viết thư đến cầu thỉnh ngài, ngài chú nguyện xong bảo rằng:

– Khó lành khỏi.

Thấy có bốn con quỷ đều bị thương đón chận Ninh tử, khóc nói:

– Xưa kia Tôn Ân làm loạn, nhà bị quân người phá hoại, cha mẹ và người chú đều bị thống khổ khóc liệt.

Sau, thiết trai thỉnh chư Tăng cúng dường. Trong trai tòa có một vị Tăng khuyên thỉnh mời ngài Bôi Độ. Ngài đến chú nguyện một lần, người bệnh liền lành. Tề Hài kính phục thờ ngài làm thầy. Nhân đó mà viết truyện ký. Từ đó về sau mọi sự thần dị của ngài chẳng thể ghi lại hết. Tháng 9 năm Nguyên Gia thứ 3 (26), đời tiền Tống, ngài từ biệt Tề Hài đi về hướng Đông, để lại một vạn tiền và các vật nhờ Tề Hài làm trai pháp. Từ đó ngài đi mất biệt. Đi đến Xích sơn, thì bà mẹ vợ họ Hồ bị bệnh mà chết. Tề hài liền vì thiết lập trai hội, đồng thời đưa thi hài về an táng ở núi Phú chu, Kiến giang.

Năm Nguyên Gia thứ 0(27), Ngô Hưng Thiệu rất kính tin Phật pháp, lại mắc bệnh thương hàn, không người nào dám thăm, mới buồn khóc xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Bỗng thấy một vị Tăng đến bảo rằng:

– Tôi là đệ tử của ngài Bôi Độ. Người chớ buồn lo, lát nữa ngài sẽ tìm đến thăm!

– Ngài Bôi Độ viên tịch đã lâu, sao lại có thể đến ư?

Đạo nhân đáp:

– Đến đâu khó gì.

Liền sờ vào đầu y và lấy ra một hộp hứa tán cho Hưng Thiệu uống, bệnh liền lành hẳn. Lại có Cổ Tăng Ai ở tại Nam cương, ngày xưa đã từng kính phục thờ Bôi Độ, có đứa con dại mắc bệnh rất nặng, mới nghĩ nhớ ân hận không gặp được ngài để trì niệm thần chú cho. Song, sớm mai bỗng thấy ngài lại nói năng như thường, liền vì niệm chú, người bệnh liền lành.

Đến tháng 3 năm Nguyên Gia thứ 0(28), ngài trở lại nhà Tề Hài, Lã Đạo Tuệ nghe mà kinh ngạc, Đổ Thiêu, Tỳ Thủy, Khâu Hy… cũng thấy và đều kinh hãi, liền đứng dậy lễ bái. Ngài nói với mọi người rằng:

– Năm nay có hung tai lớn, phải siêng tu nghiệp. Đạo nhân Pháp

Ý là người rất có đức, nên đi đến đó tu sửa dựng lập lại chùa xưa để lấy đó mà cầu tiễn tai họa.

Bỗng chốc trên cửa, có một vị Tăng kêu gọi ngài, ngài liền từ biệt mà đi, bảo rằng:

– Bần Đạo phải đến xứ Giao châu, Quảng châu, không trở lại nữa.

Tề hài cùng mọi người lễ bái tiễn đưa rất ân cần. Từ đó, ngài vắng bặt. Khuynh Thế cũng nói lúc ấy có thấy ngài thật.

34. Thần tăng Đàm Đế

Thích Đàm Đế, dòng họ Khương. Tổ tiên ngài vốn người Khương cư. Khoảng thời vua Linh Đế(168-189), Đông Hán, dời đến ở nhờ đất Trung Quốc. Đến cuối thời vua Hiến Đế (190-220), Đông Hán, gặp loạn nên dời đến Ngô Hưng. Thân phụ ngài là Dung, từng làm Ký châu biệt giá. Thân mẫu ngài họ Hoàng, ban ngày nằm ngủ mộng thấy vị Tăng gọi bà là mẹ, gởi một mảy bụi vụn và chai Thiết lũ thư Trấn. Đến lúc tỉnh giấc thấy hai vật ấy hiện còn bên mình, nhân đó mà mang thai, sinh ra ngài.

Năm lên năm tuổi, mẹ ngài đem những thứ đó chỉ cho ngài. Ngài bảo đó là vật của vua Tần tặng cho. Mẹ ngài hỏi:

– Con để nơi nào?

Ngài đáp:

– Không nhớ.

Đến năm mười tuổi, ngài xuất gia. Học chẳng phải theo thầy, ngộ tự thiên phát. Sau, ngài theo thân phụ đến Phiền Đặng, bỗng thấy Samôn Tăng Lược ở Quan trung, liền gọi tên ngài Tăng Lược, Tăng Lược bảo:

– Gả đồng tử sao gọi tên Lão Túc ư?

Ngài nói:

– Trước kia đã từng thế, nên bỗng gọi. À, trước kia Sa-di Đàm Đế tôi đã từng vì chúng Tăng đi hái rau bị heo rừng làm tổn thương, bất chợt mà mất tiếng vậy. Tăng Lược từng là đệ tử của Hoằng Giác, vì chúng Tăng đi hái rau bị heo rừng hại tổn thương.

Ban đầu, Tăng Lược không nhớ, mới hỏi cùng thân phụ ngài. Thân phụ ngài nói rõ đầu đuôi, và chỉ bày cho thấy thư Trấn; mãy bụi vụn… Tăng Lược bèn sực ngộ mà khóc, nói rằng:

– Vậy đây quả đúng là tiên sư của tôi, Pháp sư Hoằng Giác. Thầy từng giảng kinh Pháp Hoa cho Diêu Trành, bần đạo là Đô Giảng. Diêu Trành tặng thầy hai vật, nay hiện còn đây.

Tuy tính lại ngày Pháp sư Hoằng Giác xả bỏ báo thân tức là ngày gởi vật. Và nhớ lại sự việc hái rau, càng thêm bi ngưỡng.

Ngài thích ở chốn suối rừng. Sau, trở về lại Ngô Hưng vào núi cũ Chương côn, nhàn cư uống dùng nước suối hơn hai mươi năm. Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (), ngài viên tịch tại trong núi, thọ hơn sáu mươi tuổi.

35. Thần tăng Cầu-na-bạt-ma

Cầu-na-bạt-ma, Hán dịch là Công Đức Khải. Ngài vốn giòng Sát đế lợi. Gia tộc đã nhiều đời làm ma cai trị tại nước Kế Tân. Năm mười bốn tuổi ngài thấy rõ căn cơ, thông đạt sâu sắc, nhân ái rộng khắp, kính sùng tài đức chuyên tâm làm lành. Thân mẫu ngài thường muốn ăn thịt các loài dã thú nên bảo ngài làm. Ngài bảo:

– Phàm các loài có sinh mạng không loài nào chẳng ham sống, cắt đứt mạng sống của chúng tức là người bất nhân!

Năm hai mươi tuổi, ngài xuất gia thọ giới, thông suốt chín bộ loại kinh giáo, hiểu rộng khắp (?), tụng kinh hơn trăm vạn lời, thân đạt luật tạng, khéo vào yếu chỉ Thiền tông. Người thời bấy giờ đã tôn xưng ngài là Tam tạng Pháp sư. Đến năm ngài 30 tuổi, đại vương nước Kế Tân băng hà, không có người nối ngôi, mọi người cùng bàn với nhau rằng:

– Cầu-na-bạt-ma là giòng giỏi hoàng gia, thêm nữa ngài có đủ tài trí thông minh, đức hạnh cao trọng, có thể thỉnh ngài hoàn tục để tiếp nối ngôi vị đế vương.

Quần thần khoảng vài trăm vị hai ba lần có thỉnh cầu. Song, ngài không ưng thuận, mới từ biệt thầy trái chúng, gá mình chốn hang cốc, độc thân chốn sơn dã, ẩn dấu nơi dân gian. Sau đó ngài đến nước Xàbà, trước đó một ngày, hoàng thái hậu nước Xà-bà ban đêm mộng thấy có một đạo sĩ dùng thuyền bay mà tới. Sáng sớm mai quả thật là ngài đến đó. Hoàng thái hậu rất kính trọng dùng lễ thánh nhân mà phụng thờ ngài, đồng thời cầu xin thọ từ ngũ giới. Nhân đó, hoàng thái hậu khuyên nhà vua rằng:

– Do nhân duyên đời trước nay được cùng làm mẹ con. Nay ta đã thọ giới mà con không kính tin Tam bảo, e rằng nhân đời sau hoàn toàn dứt tuyệt từ quả ở đời nay!

Nhà vua vội vã vâng theo lời dạy của hoàng thái hậu, liền phung mạng thọ giới. Dần dần lâu ngày, chuyên tinh có phần thuần thục. Bỗng có quân lính nước lân cận xâm lấn lãnh thổ, nhà vua bèn thưa cùng ngài rằng:

– Quân giặc bên ngoài cậy sức mạnh muốn xâm chiếm nước nhà, nếu cùng đánh nhau, hẳn giết hại rất nhiều, còn bằng không chống cự lại thì nguy vong sắp đến. Nay chỉ nương nhờ Tôn sư, chứ chẳng biết suy tính sao cả.

Ngài bảo:

– Quân giặc bạo ngược công kích, ta nên phải bảo vệ giữ gìn. Nhưng chỉ nên bảo vệ và khởi tâm Từ bi, chớ dấy niệm giết hại.

Nhà vua tự thân thống lãnh binh lính phỏng theo đó mà thực hành, cờ trống mới nổi lên, quân giặc tự lui tan. Nhà vua bị vấp phải mũi tên rơi lạc nên bị thương ở chân, ngài liền vì chú nguyện trong nước để tẩy rửa vết thương, qua hai đêm thì bình phục. Sau nhà vua vì ngài mà tạo dựng tinh xá, đích thân nhà vua bào chuốc cây gỗ nên bị thương ở tay chân. Ngài lại vì thế mà chú nguyện điều trị, chỉ khoảng thời gian ngắn bèn bình phục.

Bấy giờ, tại kinh đô (nước Trung Hoa), có vị Sa-môn danh đức như ngài Tuệ Quán, Tuệ Thông… từ xa nghe phong phanh nên muốn được tham kiến bẩm thọ. Tháng 9 năm Nguyên Gia thứ nhất (2), đời tiền Tống, các ngài dâng biểu khải tấu trình vua Văn Đế xin được đón thỉnh Cầu-na-bạt-ma. Nhà vua bèn ban sắc Giao châu thứ sử ra lệnh đưa thuyền đi thỉnh mời, Sa-môn Tuệ Quán… lại bảo các Sa-môn Pháp Trường, Đạo Xung, Đạo Tuyển… đến nước Xà-bà để cầu thỉnh ngài, vua Văn Đế biết ngài đã đến Nam Hải, lúc đó lại ban sắc các Châu quận chuẩn bị phát xuất từ hạ kinh và đường đi là ngang qua Thỉ hưng, dừng nghỉ độ một năm. Tại Thỉ hưng có núi Hổ thị, hình dáng cao vót, đứng trơ trọi, đỉnh núi cao tuyệt, ngài cho rằng hình dáng phảng phất tương tợ núi Kỳ-xà-quật, mới đổi tên là núi Linh Thiếu. Ở ngoài chùa núi lập riêng một Thiền thất, cách chùa vài dặm, không nghe tiếng khách. Mỗi lúc tiếng chùy vang lên là ngài đã đến, hoặc xông mưa không thấm ướt, hoặc lội đạp bùn sình mà không hề dơ, kẻ Tăng người tục thời bấy giờ không ai ai cũng tôn sùng kính trọng. Tại chùa có điện Bảo nguyệt, ở tường phía Bắc điện tự tay ngài đắp họa tượng ngài La Vân và hình Định Quang Nhu Đồng Bố Phát. Sau khi đắp họa hoàn thành, hằng đêm tôn tượng phóng ánh sáng rất lâu mới hết.

Thỉ hưng thái thú Thái Mậu Chi rất kính ngưỡng ngài, lúc Mậu Chi sắp chết, ngài đến thăm và giảng pháp an ủi. Sau, người nhà mộng thấy Mậu Chi tại trong điện cùng chúng Tăng giảng pháp.

Tại núi đó, trước kia tai họa vì hổ rất nhiều. Từ lúc ngài đến ở đó,

ngày qua đêm lại, có khi gặp hổ phải dùng gậy đè đầu để gỡ nạn mà đi. Ngài thường nhập thất tọa thiền nhiều ngày. Chư Tăng trong chùa bảo một vị Sa-di đến hầu ngài. Thấy một con sư tử trắng tựa trụ mà đứng, khắp thất mọc đầy hoa sen xanh, vị Sa-di ấy kinh sợ kêu lớn, mọi người đến xem thì bỗng nhiên không thấy sư tử nữa.

Sau, trước lúc viên tịch, ngài để lại bài văn di chúc bằng kệ tụng gồm 36 ba mươi sáu hàng. Tự nói kệ nhân duyên là đã chứng nhị quả, tự tay ngài phong dán lấy rồi giao cho đệ tử A-sa-la, bảo:

– Sau khi ta tịch, có thể đem bài văn này về trình bày cùng chư Tăng ở Tây Trúc và cũng nên trình bày với chư Tăng ở xứ này. Đến khi viên tịch, ngài ngồi riết già trên giường dây, nhan sắc dáng mạo chẳng đổi khác, tợ như đang nhập định. Tăng tục kéo đến hơn cả ngàn người đều nghe mùi hương thơm phảng phất, và đều thấy một vật hình dạng như rồng rắn dài khoảng một thất xuất hiện bên cạnh nhục thể ngài và bay thẳng lên trời, chẳng thể bảo ban gì. Đại chúng y theo pháp ngoại quốc, cử hành lễ trà-tỳ nhục thể ngài trước giới đàn nam lâm, ngài hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi.

36. Thần tăng Tăng Lượng

Ngài Tăng Lượng, chưa rõ là người ở đâu. Ngài hành trì giới hạnh mà hiển danh. Muốn tạo một tôn tượng có trượng sáu bằng vàng. Nghe nói ở miếu Ngũ tử tư tại Tương châu có nhiều đồ đồng, nghe ngài bảo thứ sử Trương Thiệu cho nhờ mượn một trăm người mạnh khỏe và mười chiếc thuyền lớn. Trương Thiệu nói:Ở miếu đó rất linh nghiệm, ai phạm đến hẳn là chết, vả lại người mang giữ gìn, há có thể lấy được ư?

Ngài bảo:

– Nếu quả thật có phước đức thì cùng Đàn-việt cùng làm, còn như có sai trái thì tự thân phải gánh chịu!

Trương Thiệu bèn cung cấp người và thuyền, đi ba ngày đến miếu. Trước miếu có hai cái vạt dung chứa khoảng hơn trăm hộc, trong vạt có rắn lớn dài hơn mười trượng ra ngăn chặn đường. Ngài mới cầm tích trượng chú nguyện vào đó, rắn liền lánh ẩn đi. Bỗng chốc thấy có một người cầm hốt đi ra, bảo:

– Nghe ngài đạo nghiệp rất tùy hỷ!

Khi đó bảo người kéo xe lấy đồng trong miếu. Nhiều đến mười phần chỉ lấy một mà thuyền đã đầy, kịp lúc trở về gặp gió nước rất thuận tiện, nên bọn người mau bảo nhau cùng đuổi bắt không kịp. Về đến kinh đô, chú đúc tôn tượng đã hoàn thành, chỉ thiếu ánh sáng, vua Văn Đế(2-) làm vầng hào quang bằng vàng mỏng, an trí tại chùa Bành thành. Khoảng trong niên hiệu Thái Thỉ(6- 72), đời tiền Tống dời tôn tượng đến chùa Tương cung.

37. Thần tăng Đạo Sinh

Thần tăng Trúc Đạo Sinh, vốn dòng họ Ngụy, người xứ Cư lộc. Vừa mới sinh mà ngài đã dĩnh ngộ thông thiết, thân phụ biết ngài chẳng phải người phàm nên vô cùng mến thương mà lấy làm lạ. Sau, gặp Samôn Trúc Pháp Thải ngài bèn cải tục quy y. Đến tuổi có chí học hành, ngài liền đến giảng tòa, nói năng nghe nhận, biện hỏi ngôn từ trong trẻo như châu ngọc. Tuy sớm trông mong cầu học mà chư Tăng danh sĩ ở đương thời đều lo khuất nhục cùng lời, chẳng dám đảm nhận răn dạy. Đến năm thọ giới Cụ túc thì tài năng soi sáng ngày càng một sâu đậm.

Đầu tiên, ngài vào Lô sơn ở ẩn bảy năm, thường lấy yếu chỉ của sự nhập đạo Tuệ Giải làm chính, nên ngài nghiên cứu các kinh điển, muôn dặm theo thầy. Chẳng sợ khổ nhọc. Sau, ngài đến Trường an theo ngài La-thập để thọ học, Tăng chúng ở Quan trung cho là Thần ngộ. Ngài trở về trú ở chùa Thanh viên. Vua Vũ Đế (20- 23), vua Văn Đế (2- ), đời tiền Tống đều rất ngợi khen kính trọng. Sau, vua Vũ Đế thiết cúng trai hội, thỉnh mời Tăng chúng đến dự trai diên, vào trai đường đã quá lâu, đại chúng đều nghi là đã xế chiều. Nhà vua bảo: – Mới chỉ là buổi trưa.

Ngài nói:

– Mặt trời sáng rực giữa trời, đại vương bảo chỉ mới là trưa, sao được chẳng phải là giữa trưa?

Liền bưng bát thọ thực, khi đó cả chúng đều theo ngài. Không ai chẳng khen ngài là then chốt ở giữa.

Thời bấy giờ, phẩm sau kinh Niết-bàn chưa truyền đến Trung Hoa, ngài nói:

– Hàng Nhất-xiển-đề đều sẽ thành Phật. Chỉ bởi kinh ấy truyền đến chưa đầy đủ hết.

Lúc đó, các vị Sa-môn thiên chấp văn tự, vu khống ngài là tà đạo nên mặc tẩn rồi trục xuất ngài đi, ngài bạch cùng đại chúng, phát lời thệ nguyện rằng:

– Nếu điều tôi giảng nói chẳng hợp với lý kinh thì hay xin hiện thân này chịu phải quả báo xấu ác, còn nếu thật khế hợp với tâm Phật thì nguyện lúc xả bỏ báo thân là đang ngồi trên tòa sư tử.

Nói rồi, ngài liền phất áo vào núi Hổ khâu ở Đất thục, dựng đá làm đồ chúng để giảng kinh Niết-bàn. Đến chỗ nói: “Xiển-đề có Phật tánh”, ngài hỏi:Như điều tôi giảng nói có khế hợp với tâm Phật chăng?

Tất cả các viên đá đều gục đầu chấp thuận.

Mùa hạ năm đó, sấm sét nổ vang nơi điện Phật chùa Thanh viên, rồng bay lên trời, ánh sáng phản chiếu ở bức tường phía Tây. Nhân đó đổi tên chùa là chùa Long quang.

Người thời bấy giờ ca ngợi rằng:

– Rồng đã bay đi, hẳn ngài Đạo Sinh sẽ hành đạo!

Bỗng chốc mà theo vết Lô sơn tiếu cảnh hang cùng chót vót, chư Tăng trong núi đều cùng nhau kính phục. Sau, đại bản kinh Niết-bàn truyền đến Nam kinh, quả thật có nói:

– Xiển-đề hẳn có Phật tánh.

Giống như điều giảng nói của ngài Đạo Sinh rất tương phù khế hợp. Ngài có được bản kinh đó, liền giảng nói.

Năm Nguyên Gia thứ 11(3), đời tiền Tống, tại Lô sơn, ngài lên pháp tòa giảng kinh Niết-bàn. Đến lúc gần xong, bỗng thấy mảy bụi lẫn lộn tự nhiên rơi vải, ngài đoan tọa, dung mạo nghiêm trang tựa ghế mà tịch.

38. Thần tăng Đàm-ma-mật-đa

Đàm-ma-mật-đa, Hán dịch là Pháp Tú. Ngài người nước Kế Tân. Năm bảy tuổi, thần minh trong sáng, mỗi khi gặp pháp sự, ngài liền vui mừng nhảy nhót. Song thân ngài mến thương mà lấy làm kỳ lạ, bèn cho ngài xuất gia. Tại Kế Tân thời bấy giờ có nhiều bậc Thánh tăng xuất hiện, nên ngài thường gặp minh sư. Ngài thấu suốt các kinh, thâm đạt thiền pháp, các yếu chỉ đạt được đều vô cùng vi diệu sâu mầu. Ngài là người trầm lắng hài hòa có tuệ giải, nghi quỷ rõ ràng đoan chánh. Thuở bình sinh, lông my ngài liền nhau, nên người đời gọi ngài là My Hòa thượng.

Thời niên thiếu, ngài thích du phương, phát chí nguyện tuyên hóa, đi khắp các nước rồi đến Quy Tư. Trước đó một ngày, Quốc vương nước đó mộng thấy có vị thần bảo:

– Có người đại phước đức ngày mai sẽ đến nước này, ông nên cúng dường.

Sáng sớm nhà vua liền ban lệnh cho ngoại ty:

– Nếu có người khác lạ vào cửa ải hẳn phải gấp báo cho ta biết.

Bỗng chốc thì ngài đến. Nhà vua đích thân ra đền bang giao nghênh đón, thỉnh ngài vào cung, nhà vua bèn theo ngài để thọ giới pháp, giữ lễ cung kính cúng dường tứ sự. Ngài tuy an túc mà hay đổi dời chẳng câu nệ bởi lợi dưỡng, ở đó được vài năm, ngài có tâm ý muốn ra đi, Thần lại giáng mộng báo cho nhà vua biết rằng:

– Người phước đức đó sắp bỏ nhà vua đó mà đi!

Vua kính sợ tự nhiên kinh giác. Thế rồi vua tôi cố lưu giữ ngài, mà ngài không chấp thuận. Bèn vượt qua Lưu sa, đi đến Đôn hoàng, nơi địa thế nhàn tĩnh rộng rãi dựng lập tịnh xá, trồng ngàn gốc táo mở vườn rộng trăm mẩu, phòng nhà hồ rừng rất là nghiêm tịnh. Một thời gian sau ngài lại đến Lương châu, dừng trú tại một chùa xưa nơi Công phủ, tu bổ sửa sang lại phòng ngài nhà. Học chúng đông đúc thực hành hiền pháp rất thạnh ngài thường vì Vương kỳ ở Giang hữu có trí muốn hoằng truyền giáo pháp.

Năm Nguyên Gia thứ nhất (2), đời tiền Tống ngài lần lượt đến đất Thục, bỗng chốc mà ra khỏi mỏm núi, dừng trú tại Kinh châu, ở chùa Trường sa tạo dựng thiền các, Kiều Thành khẩn thiết cầu thỉnh xá-lợi. Hơn mười ngày, bèn cảm ứng một viên va chạm vào bình phát ra âm thanh và phóng ánh sáng khắp thất. Môn đồ kẻ Tăng người tục thảy đều tăng tiến dũng mãnh, đồng tâm trí có đến trăm người. Một thời gian sau, ngài lại men theo dòng thẳng hướng Đông đến chốn kinh đô. Ban đầu ngài trú tại chùa Trung hưng. Về sau, ngài dừng nghĩ tại chùa Kỳ-hoàn. Tiếng tăm hoằng đạo của ngài vang khắp liên bang, ngài đến kinh phủ, mọi người nghiên thành lễ kính, từ Tống Văn Viên cho đến hoàng hậu thái tử công chúa thảy đều thiết trai ở quế cung, thỉnh răn tiêu dịch. Kẻ sứ tham hầu mười ngày cùng trông ngóng ở tại chùa Kỳ-hoàn, ngài phiên dịch các bộ kinh thiền; Thiền Pháp Yếu, Phổ Hiền Quán… Ngài thường dùng đạo thiền để giảng dạy truyền trao hoặc ngàn dặm cầu học bổn chúng. Xa gần mọi người đều tôn xưng ngài là Đại Thiền Sư.

Cối kê thái thú Bình Xương Mạnh Khải dốc lòng tin chánh pháp, lấy việc Tam bảo làm việc của chính mình, vốn ưa thích thiền vị, tâm kính cẩn quan trọng. Kịp lúc sang phía hữu sông chiếc, thỉnh ngài cùng đi, đến núi huyện mậu, vì ngài mà dựng lập chùa tháp. Tại phương Đông, xưa cũ có thói quen xu hướng đồng bóng cầu đảo. Đến lúc diệu pháp hoằng hóa, thảy đều bỏ tà quy chánh. Từ Tây đến Đông không lo chẳng phục.

Năm Nguyên Gia thứ 10 (33), đời tiền Tống, ngài trở lại kinh đô, dừng chân ở chùa dưới Định lâm tại Chung sơn. Ngài vốn thiên tánh lắng động trầm tĩnh thanh nhã, ưa thích sơn thủy. Nhân vì Chung sơn núi lớn mạch suối đẹp nhiều hoa, ngài thường than chùa dưới xây dựng khe suối thấp nghiêng, từ đó chở đất đắp ngang bằng, đo đốc thế núi. Năm Nguyên Gia thứ 12(3) chặt cây phá đá xây dựng chùa trên. Nhân dân sĩ thứ khâm phục phong quang nên phụng cúng chất chồng. Thiền phòng điện vũ xây dựng thành tầng. Từ đó những người muốn lắng lòng từ muôn dặm tìm đến. Phúng tụng túc ung trông dáng vẻ mà thành chuyển hóa. Thiền sư Đạt ở chùa Định lâm là đệ tử thần túc của ngài, xiển dương phong giáo của ngài, tiếng tăm chấn động cả kẻ Tăng người tục. Nên hay tịnh hóa lâu dài mà chẳng đổi, thấy nghiệp mãi tôn sùng mà không thay. Bởi vì di phong của ngài vô cùng mãnh liệt, nên từ Tây Vực cho đến đất Nam, phàm những chỗ đi qua không đâu mà chẳng tạo lập đàn hội, phu diễn giáo pháp.

Xưa kia, lúc đầu, ngài khởi hành đi hoằng hóa là từ nước Kế Tân, có Thần vương Ca-tùy là hộ vệ đưa đường, giữa đường đến nước Quy Tư, thần muốn trở lại nên hiện hình cáo từ ngài, nói rằng:

– Ngài thần lực thông biến, tự tại đi lại mọi nơi. Đến lúc tôi không cùng với ngài đi tới phương Nam!

Nói xong liền thâu ẩn hình dáng, xa theo đến thành đô. Tức nay ở chùa trên có bức tượng đắp họa ở tượng vách, đến ngày nay vẫn còn ứng nghiệm qua thanh cảnh. Những người thanh khiết chí thành cầu phước, không ai chẳng được hưởng như ý nguyện.

Năm Nguyên Gia thứ 19 (2), đời Tiến Tống ngày mồng 6 tháng 7, ngài viên tịch tại chùa trên, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi.

39. Thần tăng Cầu-na Bạt-đà-la

Cầu-na Bạt-đà-la, Hán dịch là Công Đức Hiền, người xứ trung Ấn Độ. Vì ngài học giáo pháp Đại thừa nên thời bấy giờ tôn xưng ngài là Ma-ha diễn. Ngài vốn giòng dõi Bà-la-môn, thời thơ ấu tập học ngữ minh, và các luận, sau gặp được luận A-tỳ-đàm tạp tâm, vừa đọc bèn tỉnh ngộ, mới kính sùng Phật pháp. Gia đình ngài đời thờ phụng ngoại đạo, cấm tuyệt Sa-môn, ngài bèn bỏ nhà trốn đi phương xa tìm thầy học đạo, vứt bỏ trâm cài xuống tóc xuất gia, chuyên chí tinh học kịp đến lúc thọ giới Cụ túc, ngài thông suốt Tam tạng. Ngài đến các nước Sư tử… đếu có trạm dừng, tưa tiễn cúng dường tư lương. Ngài có duyên với phương Đông, theo thuyền nổi trôi giữa biển không một chút gió, đạm khí lặng im, mọi người trên thuyền đều lo sợ. Ngài bảo:

– Nên đồng tâm hiệp lực cầu niệm mười phương chư Phật, xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, đừng lo không cảm ứng!

Rồi ngài mật tụng kinh chú chí thành lễ sám. Bỗng chốc có tin gió bão đến, mây nhóm rưới mưa, cả thuyền đều được cứu giúp.

Thời tiền Tống, thừa tướng Tiêu Vương nghĩa tuyên trấn tại Kinh châu, tạo dựng phòng điện, thỉnh ngài giảng các kinh Hoa Nghiêm… mà ngài tự nghĩ chưa thông, thạo tiếng Trung Hoa nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Ngài liền sớm tối lễ sám. Thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm cầu xin minh ứng, khi ấy liền mộng thấy có một người mặc áo trắng cầm kiếm vác đầu một người đi lại trước mặt ngài hỏi:

– Cớ sao lo buồn vậy?

Ngài bèn thuật lại đầy đủ sự việc. Vị ấy bảo:

– Không gì phải lo lắm!

Bèn dùng kiếm đổi đầu và thay lại đầu mới, bảo ngúc ngắc xoay chuyển rồi hỏi:

– Có đau không?

Ngài đáp:

– Không đau!

Bỗng nhiên ngài cảm thấy tâm thần vui mừng. Sáng sớm thức dậy ngài nói năng và hiểu nghĩa tiếng Trung Hoa rành mạch. Từ đó ngài giảng nói các kinh.

Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (9), đời tiền Tống, Tiêu vương thường mộng thấy điềm lạ, đem hỏi ngài, ngài đáp:

– Kinh đô sắp có họa hoạn, chưa đến một năm thì Nguyên Hung có ý đồ tạo phản, đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến (), Tiêu Vương âm mưu nghịch tiết. Ngài lộ vẻ buồn thảm chưa kịp mở lời, Tiêu Vương hỏi ngài về nguyên do. Ngài khẩn thiết can ngăn, mới rơi lệ mà nói rằng:

–Hẳn không mong mỏi gì. Bần đạo chẳng thể đi theo!

Tiêu Vương vì tình hình mọi sự vật nên ép bức ngài cùng đi theo. Tại Long sơn bị bại trận nên thuyền càng trở nên gấp rút, cách bờ càng lúc càng xa, lại bị phân chia hoàn toàn không được cứu giúp, ngài chỉ nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, tay nắm dây cung, gieo mình xuống dòng sông, nước ngang tới đầu gối, dùng gậy chích nước, nước chảy xiết. Thấy một đồng tử từ xa chạy lại đưa tay dẫn đi.

Ngài ngoảnh lại nói với đồng tử rằng:

– Ông bé nhỏ làm sao cứu tôi được?

Trong khoảnh khắc hốt hoảng tưởng chừng mới đi hơn mười bước nhưng phút chốc đã lên bờ. Ngài liền cởi áo nạp muốn thưởng cho đồng tử, quay lại tìm kiếm thì không thấy nữa, khắp mình ngài lông dựng đứng.

Bấy giờ, Vương Hiền mô đóng quân tại Long sơn. Vua Thế Tổ (-6, đời Tiền Tống) ban lệnh trong quân phải tìm được Ma-ha Diễn, khéo xử lý đưa tin về đài. Bỗng chốc triệu được ngài, liền bảo thuyền lớn đưa ngài về đô. Vua Thế Tổ liền ra diện kiến, vặn hỏi quanh co, bảo:

– Mong ngóng đã nhiều ngày, nay đay có tìm mới cùng gặp.

Ngài bảo:

– Đã nhiễm máu lệ, phận đáng thành tro bụi, nay được tiếp kiến, thật đội ân!

Sắc lệnh hỏi đều chuẩn định ngài là giặc. Ngài bảo rằng:

– Người xuất gia không dự vào việc quân trận, song Trương Xương, Tống Linh Tú… đều là ép bức bần đạo, rõ ràng chẳng có mưu đồ chỉ bởi túc duyên mà gặp việc như thế!

Nhà vua bảo:

– Không gì phải lo.

Ngay ngày đó liền ban sắc ngài trú tại hậu đường, cùng dường các thứ y vật, cung cấp người hầu hạ, kịp đến lúc chùa Trung hưng xây dựng hoàn thành thì ban sắc ngài dời đổi nơi cư trú.

Sau, ở tại biên giới Mạc lăng, phía Tây lầu phụng hoàng, ngài dựng lập ngôi chùa. Thường đến nữa đêm có tiếng gõ cửa kêu gọi, ra xem chẳng thấy có người, chúng Tăng thường thấy ác mộng. Ngài đốt hương chú nguyện rằng:

– Các người túc duyên ở tại đây, nay tôi tạo lập chùa, phàm hạnh đạo lễ sám, thường vì các người. Nếu ở thì phải thiện thần ủng hộ chùa chiền, nếu không thể thì mỗi vị hãy tùy tìm nơi an trú!

Thế rồi kẻ tăng người tục đồng một đêm mộng thấy quỷ thần đông đến hàng ngàn đều khiên vác rời đi, từ đó chúng Tăng trong chùa được an ổn.

Năm Đại Minh hứ 06(63), tiết trời hạn hạn, cầu đảo khắp núi sông nhiều tháng mà chẳng ứng nghiệm. Vua Thế Tổ thỉnh ngài để để cầu mưa hẳn có cảm ứng nếu không được thì chẳng thấy nhau nữa. Ngài nói:

– Nương nhờ Tam bảo và y thiên của bệ hạ để mong cầu ắt hẳn sẽ ba giáng ân trạch. Nếu không thành tựu thì chẳng phải gặp nhau nữa.

Ngài liền đến Bắc hồ điếu đài đốt hương cầu thỉnh, chẳng đoái hoài ăn uống, im lặng tụng kinh, gia trì mật chú, gặp ngày hôm sau, đến buổi quá trưa, từ phía Tây bắc mây nổi lên, ban đầu chỉ như lọng xe, đến lúc mặt trời xế bóng cành dâu thì gió chấn động, mây ùn kéo lại, liền ngày mưa đổ. Ngài vẫn cầm nắm lò hương chưa từng nghỉ tay. Mỗi lúc ngài thọ thực thì chim muôn bay nhóm nơi tay ngài mổ lấy thức ăn. Đến đời vua Thái Tông (Minh Đế, 6-73, đời tiền Tống), càng cúng dường lễ kính rất mực chí thành.

Tháng giêng năm Thái Thỉ thứ (68), ngài cảm thấy trong thân thể bất an, bèn cùng vua Thái Tông và các công khanh… cáo biệt. Trước lúc viên tịch ba ngày, ngài trì hoảng hồi lâu mà trông ngóng, bảo:

– Thấy hoa trời và Thánh tượng.

Gần trưa thì tịch, ngài hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi.

40. Thần tăng Tuệ Đạt

Thích Tuệ Đạt, vốn dòng họ Lưu, tên là Tất Hòa. Vốn người xứ Định dương Khể Hồ phía Đông bắc ba thành Hàm dương. Đầu tiên, ngài không biết phụng thờ Phật pháp, sau nhân uống rượu mắc bệnh, chết ngất thấy đủ tướng các thứ khổ của chốn địa ngục, nhân đó mà xuất gia làm Tăng, trú tại Quận văn thành.

Đến năm Thái Diên thứ nhất (3), đời vua Thái Vũ Đế; thuộc Bắc Ngụy, ngài du hóa sắp xong, tiện việc trở lại phương Tây, đi đến phía Đông bắc huyện Phan hòa; Lương châu, ngóng trông ngự cốc mà từ xa kính lễ. Mọi người chẳng ai hiểu gì cả, mới hỏi nguyên do. Ngài bảo:

– Núi này sẽ có tôn tượng xuất hiện. Nếu linh tướng viên mãn hoàn bị thì đời an lạc thời vận khương thái, còn như có bị sứt khuyết thì đời loạn lạc dân chúng thống khổ.

Sau đó tám mươi bảy năm, đến đầu niên hiệu Chính quang (20), bỗng trời nổi gió mưa, sấm sét nổ vang chấn động khắp núi, tự nhiên xuất hiện một tượng đá toàn thân trượng tám, hình tướng đoan nghiêm chỉ không có đầu. Bèn leo lên chọn đá bảo thợ chạm trổ một đầu tượng riêng biệt, đem đặt lên rồi bèn rơi xuống. Nhân đó bèn để như vậy. Ngụy Đạo Lăng chờ đợi kiểm nghiệm lời ngài nói vậy. Đến thời Bắc Chu năm thứ nhất (7) thống trị Lương châu, tại một khe suối cách phía Đông thành bảy dặm tự nhiên có phát ra ánh sáng soi chiếu khắp cùng, mọi người trông thấy lấy làm lạ, thì ra đó là đầu tôn tượng, liền thỉnh đến đỉnh núi Nham an, quả thật rất phù hợp, tướng hảo tròn đầy. Kể từ đó nước nhà thái bình. Đến năm Bảo Định thứ nhất (61), đời Bắc Chu, đặt làm chùa Thụy tượng. Các hàng học giả tri thức mới biết sự soi xét trước của ngài.

Sau, ngài đi đến huyện Tửu tuyền ở Túc châu, viên tịch trong một khe suối cách thành bảy dặm về hướng Tây. Hài cốt ngài đều nát vụng như Quý Tử Đại có thể xuyên thủng. Nay phía Tây thành trong một nơi chùa cổ, tôn tượng đắp vẽ về ngài hiện đang còn.

41. Thần tăng Lặc-na-mạn-đề

Ngài Lặc-na-mạn-đề là Tăng sĩ Thiên Trúc, trú tại chùa Vĩnh ninh ở thành Lạc dương trong triều đại Bắc Ngụy (386-3). Ngài tinh thông ngũ minh khéo biết đạo thuật.

Bấy giờ, mẹ của Tín Châu thứ sử Kỳ là bà Hoài Văn khéo lo nghĩ hiểu biết nhiều, thiên trình lắm nghề, bà có quan hệ với quốc gia xây dựng cung thất khí giới, lợi ích công tư tối ưu một thời. Bà lại ban lệnh tu sửa chùa Vĩnh ninh, thấy ngài có dị thuật, thường đưa tặng cầu nương mong có tiếng tăm, mà ngài xem đó là bình thường, ban đầu không định tiếp nhận. Bà sinh lòng tức giận ngài. Bấy giờ, ở phía Nam Lạc dương tại quán Huyền vũ có một người khách tên Nhu Nhu, xưa đã từng ở với ngài tại Tây Vực trao đổi áo da ngựa. Đến lúc tạo dựng chùa, hai người cùng cười nói vỗ tay, ngày ngày không biếng lười. Bà Hoài Văn đứng bên cạnh nghe nói không hiểu nên đi lại, nói với ngài rằng:

– Đệ tử là người có việc tốt, gần lại cúng dường trông mong ngài ban ý mà toàn chẳng cho một lời. Đó là kẻ Bắc địch lòng thú mặt người, giết hại sinh mạng uống máu ăn thịt sao ngài lại mến chuộng? Bất kỳ lúc nào đối diện, liền thành bỉ thử.

Ngài bảo:

– Nhà ngươi chớ khinh lờn người ấy. Giả sử có đọc muôn quyển sách để dùng việc chưa hẳn hơn được người ấy vậy.

Hoài Văn nói:

– Nếu kẻ ấy có biết thì nên cùng so tài đánh ngựa.

Ngài bảo:

– Ngươi có tài gì ư?

Hoài Văn đáp:

– Khả năng toán thuật bất kể là nhìn núi, trông nước so lường cao sâu, đo bồ, đạp hố, chẳng lẫn lộn thăng hợp.

Ngài cười mà nói:

– Đó là chỉ là trò đùa của trẻ thơ.

Trước sân có một cây táo rất lớn, quả rất nhiều trĩu cành, bấy giờ là đầu tháng bảy đều đã chín mùi. Ngài ngửa mặt nhìn lên cây táo, bảo:

– Ngươi biết trên cây có bao nhiêu trái táo ư?

Hoài Văn lấy làm lạ, cười bảo:

– Chỗ biết của toán hẳn y cứ câu cổ làm tiêu chuẩn thì thiên văn địa lý cũng có thể suy lường. Cây có thêm bớt có hình tượng gì mà tính ư? Thật là lời nói khinh dối.

Ngài đưa tay chỉ và Nhu Nhu bảo:

– Người này thì biết được điều đó.

Hoài Văn càng tức giận không tin, liền lập khế ước đánh ngựa. Chư Tăng; các bậc lão túc trong chùa đều đến xem, đứng một bên làm chứng. Ngài nói rõ đầy đủ cùng Nhu Nhu rằng:

– Bà Hoài Văn cười mà nhận đó.

Hoài Văn lại yêu cầu rằng:

– Hẳn là phải biết bao nhiêu để kết thành hạt, bao nhiêu bị ứ chết không thành hạt.

Quyết định chấp thuận sẽ xong, Nhu Nhu lấy trong đảy da ở lưng ra một vật tợ như cái lân ngày nay, xâu chỉ ngũ sắc, chỉ xỏ riêng viên ngọc trắng, dùng nó mà ước tính về cây, hoặc trên hoặc dưới, hoặc bên cạnh hoặc độ nghiêng, kéo chỉ gần nhau xoay quanh hồi lâu rồi hướng về ngài Lặc-na-mạn-đề lay đầu mà cười, thuật lại số tính, mới sai người đập rơi trái thật xuống hết, mọi người đều xem qua. Bởi nghi ngờ nên Hoài Văn vạch ra tự xem kiểm hiệu số lượng trái có thật chăng. Cuối cùng không thiếu không dư. Nhân đó Nhu Nhu được thắng, lấy ngựa mà về.

Mỗi lúc ngài thấy người từ dưới Lạc thành xa đến Thiếu Thất Cao tung chặt lấy củi, tự bảo rằng:

– Mọi người tợ như đất gánh chịu tất cả mọi sự khổ. Ta muốn dùng hai núi gối đầu xuống nước. Đợi người chặt đủ mới hoàn lại như cũ chẳng lấy làm khó. Đây chỉ là số thuật vậy. Chỉ bởi những người không biết mới cho ta là bậc Thánh. Vì vậy mà không dám!

Đến lúc sắp tịch, ngài nói cùng đệ tử rằng:

– Ta chỉ trụ ở đây độ năm ba ngày nữa thôi rồi đi đến một xứ khác, các ông phải nghĩ nhớ tu tập chánh đạo, chớ ôm hoài quyến luyến!

Bèn đóng cửa phòng đến giường mà nằm, đệ tử đứng ở cửa lén nhìn qua lỗ hỏng, thấy ngài thân chẳng đặt trên giường mà nằm ngửa lơ lửng giữa khoảng không, vội cùng bảo đồng bạo nhìn xem, bỗng nhiên một vị Tăng ho ra tiếng, ngài nằm lại xuống giường như cũ. Từ xa bảo rằng:

– Ai đang đứng ngoài cửa sao chẳng lại vào?

Vì giường nóng nên ta cố tìm chút mát vậy, các ông chớ lấy làm lạ!

Sau đó vài ngày, ngài thị tịch.

42. Thần tăng Tăng Ý

Thích Tăng Ý, không biết ngài là người ở đâu. Thần lực rất uy nghiêm, mỗi lúc ngài lên tòa giảng nói, liền có hoa trời rải xuống nơi pháp tòa. Trong thời Bắc Ngụy (386-3), ngài trú tại chùa Cốc sơn của Lãng Công ở Thái sơn. Trong chùa có bảy tôn tượng Cao Ly… đều bằng vàng đồng, tôn trí tại pháp đường của chùa, cửa chùa thường mở và chim thú chẳng dám vào. Ngài phụng pháp tự nuôi dưỡng, kiểm thúc tự thân cúng dường. Trước khi viên tịch một đêm có một vị Sa-di qua đời đã lâu hiện hình về lễ bái, nói với ngài rằng:

– Con xa lìa phụng thờ ngài đến nay thường vì Thiên đế Khu Sử vội vàng không rãnh rỗi phế tu đạo nghiệp. Không bao lâu nữa, Thiên đế sẽ thỉnh ngài giảng kinh. Nguyên nhân một lời mà được khỏi hình khổ!

Ngài liền tắm rửa đốt hương đoan tọa trong tỉnh thất, chờ đợi đến thời. Tới lúc đúng kỳ hạn quả thật có vị trời đến chùa vào phòng ngài, áo mũ bằng lông đẹp lạ đặc thù. Chư Tăng lúc đầu thấy thế chỉ cho rằng đó là người giàu sang quý phái ở đời vào núi tham yết, chẳng sinh kinh dị. Đến lúc, cũng ngay ngày ấy, ngài không bệnh mà thị tịch mới biết là linh cảm.

43. Thần tăng Đạo Phong

Thích Đạo Phong, chưa rõ ngài là người thuộc dòng tộc gì, người đời tôn xưng ngài là hàng đắc đạo. Ngài cùng ba người đệ tử sống trong núi cổ; Tương châu, chẳng cầu lợi dưỡng. Các thứ nghệ thuật ở đời, không thứ gì chẳng hiểu.

Đời Nam Tề, vua Cao Đế (79-83), tới lui đất Nghiệp thường qua hỏi thăm ngài, ngài ứng đối chẳng nghĩ ngợi, tùy sự mà nêu bày. Vua từng bảo mang rượu và chưng thịt để trước mặt ngài mời ăn dùng, ngài chẳng từ nhượng cứ ăn no, vua cười lớn cũng chẳng cùng nói với ngài một lời. Sau khi vua lên xa giá đi rồi, ngài bảo đệ tử:

– Vất bỏ vật ở đầu giường!

Và lúc nhấc giường thì thấy chưng thịt vẫn còn đều chẳng như chỗ đã nhai cắn.

Bấy giờ, tại chùa Thạch quật có một vị Tăng tọa thiền, mỗi ngày đến ở phía Tây trông nhìn về đỉnh núi phía Đông có một tượng vàng trượng tám hiển hiện. Vị Tăng đó vui mừng riêng cho đó là thấy được điềm linh nên ngày lễ bái, như vậy có thể trải qua hai tháng. Sau tại trong phòng nằm, bỗng nghe nơi gối có tiếng nói, hỏi vị Tăng đó rằng:

– Trong thiên hạ, ở đâu có Phật. Ông nay thành đạo tức là Phật. Ông phải khéo tạo thân Phật chớ tự khinh thoát.

Vị Tăng đó nghe rồi, bèn khởi trì trọng, nhìn chư Tăng chung quanh còn như cỏ rác. Ở trước đại chúng, đưa tay chỉ vào ngực, bảo:

– Các ông có biết chân Phật chăng? Khám bùn họa tượng nói chẳng ra lời, biết nghĩ làm sao? Các ông thấy được chân Phật mà chẳng biết lễ kính, còn làm bổn mục khinh ta, thảy đều đọa địa ngục A-tỳ.

Thêm nữa, tròng mắt đã đỏ ngầu kêu gọi thất thường. Cả chúng đều biết đó là kinh thiền, kịp trước lúc chưa phát, bèn khiêng đến chỗ ngài Đạo Phong. Ngài bèn đến hỏi:

– Hai tháng trở lại đây, ông thường thấy trên đỉnh núi phía Đông có hiện ra tượng vàng ư?

Vị Tăng ấy đáp:

– Thật có thấy.

Ngài lại hỏi:

– Ông nghe nơi gối có tiếng bảo khiến ông làm Phật ư?

Đáp:

– Thật đúng vậy.

Ngài bảo:

– Đó là gió động làm thất tâm, nếu chẳng sớm trừ, thì hoặc sẽ cuồng tẩu khó mà cấm chế.

Ngài dùng kim châm ba nơi, nhân đó liền chẳng còn phát.

Đến lúc sắp tịch, ngài bảo đệ tử rằng:

– Ta ở tại núi lâu nay, khiến các ông khổ nhọc múc nước hang đá. Nay ra đi không có gì để lại, nên sẽ để lại cho một dòng suối, các ông khỏi phải trèo lên tuột xuống khổ nhọc. Gắng nổ lực siêng tu đạo nghiệp.

Liền ở bên cạnh khám các một thạch vuông bèn có dòng suối huyền, lắng ánh không đầy không giảm, đến nay hiện còn.

44. Thần tăng Tăng Điều

Thích Tăng Điều, ngài dòng họ Tôn, vốn xuất hiện cuối thời Xương lê(?), trú tại Anh đào; Cự lộc. Ngài có tánh độ lượng thuần hòa, mỗi lần xem qua kinh Phật tự nhiên thấu suốt mọi lý lẽ, ngài xuống tóc làm Sa-di từ tuổi bé thơ. Bây giờ, mỗi lúc nhàn rỗi, đồng bạn ngài thường so lực làm vui, mà ngài thì ốm yếu nên hay bị khinh thường, ngài sinh tâm hổ thẹn. Bèn vào trong điện, đóng cửa ôm chân tên tượng thần Kim Cang mà phát thệ nguyện rằng: “Tôi vì suy nhược nên bị đồng bạn thường khinh thường, nghe ngài có đại năng lực, nên giúp đỡ tôi. Tôi nguyện ôm bưng chân ngài bảy ngày thì ngài sẽ ban cho tôi sức lực. Nếu không ban cho thì chết chứ không thoái chí!” Như vậy, đến ngày thứ 6, lúc sắp mờ sáng, thần Kim Cang hiện hình, tay cầm một bát cân (gân cốt), nói với ngài rằng:

-Này ông nhỏ! Muốn có sức lực phải ăn bát cân này.

Ngài khước từ, tự cho rằng mình giữ trai giới nên không muốn ăn.

Thần bèn dùng chày mà khủng bố, ngài sợ mà ăn. Ăn xong, Thần bảo:

– Ông đã có sức lực, song, phải khéo gìn giữ; cố gắng đấy.

Thần ẩn đi thế trời sáng. Ngài trở lại chỗ ở, đồng bạn lại cười đùa khinh thường, ngài bảo:

– Tôi đây đã có sức lực, sợ e các bạn không kham nỗi đó.

Chúng bạn thử dắt cánh tay ngài, gân cốt cứng mạnh khác hẳn mọi người, mới sợ nghi, ngài bảo:

– Các bạn cùng tôi thử sức xem?

Nhân đó, vào trong điện, đạp ngang vách tường mà đi từ Tây tới Đông khoảng vài trăm bước. Lại nhảy cao, đầu đến đòn tay thứ tư, nắm tay nhanh nhẹn; mạnh khỏe lay động mọi vật nghe. Nên chúng bạn đều kính phục.

Chúng Tăng thường trú tại chùa Tung nhạc có đến trăm vị, nước suối chỉ mới vừa đủ dùng, bỗng thấy một phụ nữ mặc áo dơ xấu ôm chổi bỏ ngồi trên thềm cấp nghe chư Tăng tụng kinh, chúng không lường biết đó là thần nhân bên mắng trách đuổi đi. Phụ nữ trong lòng tức giận, đưa chân đạp lấy dòng suối, nước bèn khô kiệt và thân cũng chẳng hiện. Chúng Tăng đem việc đó báo cùng ngài, ngài gọi:

– Ưu-bà-di!

Gọi ba lần mới hiện ra, ngài bảo:

– Chúng Tăng hành đạo, nên gia tâm ủng hộ!

Phụ nữ đưa chân khêu nơi suối cũ, nước liền vọt ngược lên, chúng Tăng hết lời tán thán.

Sau, ngài đến phía Tây Hoài châu ở núi Vương ốc, tu tập pháp trước, nghe hai con hổ giao đấu với nhau gầm thét cả núi non, ngài đưa tích trượng ra giữa để giải hòa, mỗi con tự tan ra mà đi. Một thời gian nọ, bỗng có hai quyển kinh Tiên nằm ở đầu giường, ngài tự nói:

-Ta vốn tu theo Phật đạo, đâu bó buộc trong giới hạn trường sinh ư?

Nói xong, trong khoảng khắc tự nhiên kinh biến mất. Sau đó, ngài lại dời đến ở núi Thanh la, thọ nhận sự cúng dường của các người bệnh dịch, thương tín; ngài chẳng sợ nó vỡ mũ lây lan, cam lòng chịu nhận như là vị thuốc. Ngài ngồi lâu đau mỏi nên duỗi chân trước giường, có vị thần nâng đỡ chân trở lại tư thế ngồi kiết già. Nhân đó, mà ngài thường nhập định, mỗi lần lấy bảy ngày làm kì hạn. Nghe có chiếu sắc thỉnh mời, ngài nhất quyết không vâng mạng, khổ cúng đôn đốc dẫn dụ, ngài mới hứa khả. Ngay ngày rũ áo sắp ra cửa núi, bỗng nhiên hai ngọn núi cao chấn động âm vang buồn thảm, rối nhiễu người vật, cầm thú bay chạy như thế suốt ba ngày. Ngài xoay lại bảo:

– Mộ Đạo, hoài nhân xúc chạm mọi loại loại ở đây như thế. Há chẳng ái tình dễ giữ, phóng đãng khó gìn ư!

Mới không ước sự lưu lại gậy roi tại Chương phủ. Lại thường có khách Tăng mang tích trượng mới đến, sắp muốn có được chỗ ở, hỏi ngài về bổn hạ. Ngài đáp:

– Tôi thấy trong đây có ba ngôi Già-lam!

Nói xong liền ẩn. Thế rồi, ngài đào đất làm giếng, quả thật được hai mép cú tai mèo. Thêm nữa, trước hang tọa thiền có một vực thẳm, thấy người khác lạ mình đầy lông lá, dáng mạo như người hồ đặt phủ đốt lửa, nước sắp tuôn vọt lên, bỗng chốc có một con trăn lớn từ trong nước bò ra, muốn vào trong phủ. Ngài đưa chân khều lấy, con trăn bèn trở lại trong nước và người đầy lông lá ấy cũng ẩn mất. Đêm đó, có một vị thần Nam tử lại lễ bái, thưa ngài rằng:

– Đệ tử có các con thơ, hàng năm bị ác thần ăn lấy, các con của đệ tử tiếc mạng chẳng dám đương đầu. Đệ tử nay đã già suy sắm chết, nên tự bày ăn, mong chờ sức lực của ngài để thoát khỏi nạn ấy!

Ngài cầu nước rưới vào đó, bỗng thành sương mây.

Bấy giờ có người dèm pha ngài, nhạo báng bất kính đối với vua Tuyên Đế *. Nhà vua rất tức giận đích thân đến gia hình. Ngài biết được điều đó, từ trước đến giờ chưa bao giờ ngài đến nhà trù, bỗng nhiên không duyên cớ gì mà đến bảo rằng:

–Sáng mai có đại khách đến phải nên sắm dọn nhiều thức ăn để tiếp đãi.

Đêm đó, khoảng canh năm, ngài chuẩn bị sẵn xe bò một mình đến cửa cốc, cách chùa hơn hai mươi dặm. Một mình ngài đứng bên vệ đường, giây lát sau, nhà vua đến, lấy làm lạ hỏi ngài về duyên cớ. Ngài đáp:

– Sợ thân thể máu thịt làm ô uế chốn Già-lam, nên đến đây đợi hầu bệ hạ!

Văn Đế nói với thượng thư lệnh Dương Tuân Ngạn rằng:

– Người thật như thế, sao có thể phỉ báng ta.

Nhân đó hỏi ngài rằng:

– Trẫm chưa thấy sự khác lạ phi thường của Phật. Vả lại có thể được thấy chăng?

Ngài bảo:

– Đó không phải điều đáng làm của bậc Sa-môn.

Văn đế vẫn cố cưỡng nài, ngài mới tung áo ca-sa xuống đất, Văn Đế bảo vài mươi người nâng nhấc lên mà chẳng thể lay động. Ngài bảo vị Sa-di nhặt lượm lại, vốn chẳng nặng nhọc gì.

Tại Tung dương, người vợ của Đỗ Xương vốn dòng họ Liễu tánh rất tật đố ghét ganh. Có kẻ tớ là Kim Kinh, lúc Đỗ Xương tắm, bảo cắt tóc, Liễu bèn chặt hai tay của Kim Kinh, bỗng nhiên bất cứ việc gì Liễu làm cũng bị loài cáo đâm nọc độc rơi rụng hai tay. Lại có một kẻ tớ tên là Bảo Liên, có tài năng ca hát xướng vịnh, Đỗ Xương mến thương mà ngợi khen tài nghệ của Bảo Liên, Liễu bèn cắt lưỡi của Bảo Liên. Sau, Liễu bị thương bỏng lưỡi cấp sự, vội đến ngài cầu sám hối. Ngài trước đã biết việc đó, bèn nói với Liễu:

– Phàm người có tánh tật đố, trước kia chặt tay kẻ tớ, đã bị hậu quả mất cả hai tay, lại cắt lưỡi kẻ tớ, nay lại sắp bị đứt lưỡi vậy. Phải chí tâm ăn năn lỗi quá mới có thể khỏi được.

Liễu đãnh lễ ai cầu khẩn thiết, qua sau bảy ngày, ngài bảo há miệng rộng ra và chú nguyện vào đó, có hai con rắn từ trong miệng Liễu bò ra dài hơn một thước, ngài liền chú nguyện, rắn bèn rơi xuống đất và lưỡi cũng bình phục lại được.

Ngay giờ ngài viên tịch, hương lạ thoảng khắp chùa, người ngửi nghe sợ thần, thế rồi, định ngày, y theo lời dặn mọi người từ bốn phương đều đổ dồn về núi, người gần vài vạn, hương củi tính đến hàng ngàn. Đúng giữa trưa, dùng lửa để trà-tỳ. Không ai chẳng buồn thương rống khóc, lệ chảy thành dòng. Trong khoảnh khắc lại có chim trắng bồi hồi trên khói, kêu buồn thảm thiết, qua giờ mới bay đi.

45. Thần tăng Bảo Công

Sa-môn Bảo Công, người xứ Tung sơn Cao tế sĩ. Một sáng sớm

theo Lâm Lự đến núi Bạch lộc mãi nhìn cảnh nên lạc đường, mặt trời gần đứng bóng, bỗng nghe có tiếng chuông bèn tìm theo âm vang mà đến, núi cao hiểm trở leo trèo mà lên, mới thấy một ngôi chùa riêng lẻ trong rừng sâu, ba cửa xoay hướng chánh Nam sáng đỏ rực. Trước tiên, ngài đến chỗ cửa, xem biển ngạch đề là chùa Linh ẩn, phía ngoài cửa có năm, sáu con chó, thân hình lớn như bò, lông trắng mỏm đen, nhảy nhót hoặc nằm, đảo mắt lườm nhìn ngài. Ngài sợ, liền trở lui, trong phút chốc, thấy vị Tăng từ ngoài đi lại. Ngài gọi mà vị đó chẳng ứng đáp cũng chẳng quay lui, đi thẳng vào trong cửa, đàn chó cũng vào theo. Lát sau ngài thấy người lần lượt bước vào, cửa nhà bốn phía, cửa phòng đều đóng. Ngài đến giảng đường, chỉ thấy giường sập tòa cao nghiễm nhiên. Ngài vào gốc sáng ở phía Đông nam bước lên tòa, chốc lát bỗng nghe phía Đông có tiếng động, ngửa mặt nhìn lên thì thấy lỗ hỏng như giếng, có các vị đại Tỳ-kheo trước sau theo lỗ hỏng ấy mà bay xuống có đến năm, sáu mươi người, theo thứ lớp ngồi xong họ tự hỏi nhau:

– Hôm nay giờ thọ trai thức ăn từ đâu đến?

Có người nói:

– Dự chương thành đô, Trường an, Lãng hữu, Kế bắc, Lãnh nam, năm xứ Thiên Trúc… xứ nào cũng đến.

Động hơn muôn ngàn dặm. Cuối cùng có một vị Tăng từ không trung mà xuống, mọi người đua nhau hỏi:

– VÌ sao đến chậm vậy?

Vị Tăng đó đáp rằng:

– Ngày nay tại chùa Bỉ ngạn ở phía Đông thành Tương châu, Thiền sư Giám đang giảng hội, mỗi câu đều thụ nghĩa. Có một hậu sinh thông minh tuấn tú khó hỏi, ngôn từ nhạy bén rất là khả quan, tự nhiên lại đến trễ.

Ngài Bảo Công vốn tôn sùng Thiền sư Giám làm hòa thượng, đã nghe lời ấy rồi, muốn cùng được đàm luận. Nhân đó, ngài chỉnh trang y phục, đứng dậy bạch cùng chư tăng rằng:

– Thiền Sư Giám là Hòa thượng của Bảo Công tôi.

Chư Tăng nhìn thẳng về ngài. Trong khoảnh khắc chùa Linh ẩn biến mất. Ngài ngồi một mình dưới gốc cây tạc, không thấy gì cả, chỉ thấy toàn là núi non hang động, chim muông bay liệng náo động ồn ào.

Vừa lúc ngài ra khỏi núi, đem sự việc ấy hỏi Pháp sư Thượng Thống. Ngài Thượng Thống bảo:

– Chùa đó là Pháp sư Phật Đồ Trừng tạo lập trong thời Thạch

Triệu. Năm tháng đã lâu, chỉ có bậc Hiền thánh trú tại đó, chẳng phải chỗ ở của kẻ phàm. Hoặc trầm hoặc ẩn, dời đổi không nhất định. Ngày nay, người vào núi ấy vẫn còn được nghe tiếng chuông.

46. Thần tăng A Ngốc Sư

Thích A Ngốc Sư, không biết ngài xuất thân từ dòng họ nào, quê quán ở đâu. Bấy giờ, trước lúc nhà Chu chưa diệt, ngài đã từng ở Tấn dương chu du ở các quận ấp. Chẳng ở chùa xá, chỉ vào ra trong dân gian. Nói năng lung tung nhưng có chứng cứ. Mỗi lúc ngài đi vào chợ, dân chúng trong làng vây quanh ngài, nhân đó, ngài la lớn, đưa tay chỉ vào ngực bảo:

– Thật thương cho trăm họ các ngươi không chỗ biết. Không hay biết A Ngốc Sư ở Tinh châu!

Mọi người đều lấy đó mà gọi tên ngài.

Sau khi Tề Thần Vũ (?) dời nghiệp đô, lấy đất của binh mã Tấn dương làm cơ sở Vương Nghiệp. Bấy giờ, ngài đến Nghiệp đô. Phàm các việc binh dị quốc gia đại sự chưa nói ra ngoài màn trướng thì ngài trước đã tiếc lộ ngoài dân chúng. Đến cuối năm, sắp đặt trong thành sai người phòng giữ không cho ra vào thường xuyên. Nếu có người phạm tội trái vượt thì đưa đến cửa giam. Thường ngày ở ba cửa thành tại Tinh châu, mỗi nơi đều có một A Ngốc Sư ẩn hiện vào ra, ngăn bắt mà không thể nào được. Sau đó không lâu, có người từ Bắc châu đi lại, nói:

– Ngày mồng 8 tháng A Ngốc Sư chết trong chợ ở quận Nhạn môn, gia đình Quách Hạ đem hương hoa đưa đến thi hài chôn tại ngoài thành.

Có người ở Tinh châu nghe nói thế lấy làm lạ, cười nói:

– Ngày mồng 8 tháng A Ngốc Sư từ cầu sông Phân đi về hướng Đông, một chân mang giầy một chân đi không, nhưng không biết đi vào ngõ tắt phương nào. Mọi người đều thấy như thế. Sao lại nói A Ngốc Sư chết ở Nhạn môn?

Người đó trở lại Bắc châu nói cùng khắp xóm làng, mọi người cùng nhau đào mồ để xem, thì chỉ thấy một chiếc giày mà thôi, sau đó lại trở về Tinh châu. Tề Thần Vũ chẳng tin theo lời đồn đãi, chẳng dứt sự lo động dân chúng, bèn dùng yêu hoặc để trừ giết ngài, bằng cách thấy Sa-môn không có tóc* thì dùng dây móc đầu. Đến ngày hình phạt, dân chúng khắp Châu kéo nhau đến chợ xem. A Ngốc Sư mỉm cười chẳng nói năng gì. Sau sáu, bảy ngày xử hình, có người từ bộ lạc Hà tây đi lại Tinh châu, nói:

– Giữa đường gặp A Ngốc Sư hình trạng vẫn như cũ, chỉ khác là có mang sợi dây thong lòng ở đầu. Kêu gọi mà ngài chẳng ứng đáp, mà đi vội về hướng Tây.

47. Thần tăng Tăng Lạt

Thích Tăng Lạt, ngài dòng họ Lý, người xứ Thượng cốc. Xuất gia năm mười lăm tuổi, đến tham học ở Bắc đại, chuyên tinh thuật tập, đầu tiên ngài đến tạo lập chùa ở núi, sắp bước vào cửa hang, có hổ ngồi ở trước cản đường, ngài mới cầu chúc rằng:

– Ta muốn dựng lập một ngôi chùa, gieo nhân phước lợi khắp cả quần sinh. Nếu đồng ý thì nên vì tránh đường.

Nói xong, hổ liền tránh đi. Đến lúc tạo dựng chùa hoàn thành, ngài trở lại Nghiệp kinh. Đêm đó có thần hiện đến thân mặt y phục màu vàng, vái lạy rồi quỳ xuống thưa:

– Đệ tử là Đái Sơn Hồ. Nhà vua và Tam Cốc đều cúng dường đủ thứ. Xin ngài hãy trở về.

Ngài bảo:

– Ở tại núi lợi ít mà ở kinh đô thì lợi nhiều, bần đạo quán xét căn cơ mà khởi động, mong rằng chớ ngăn dừng ở.

Lại trải qua ít đêm tĩnh lặng, có người đến gõ cửa xưng là vợ của thần núi, thưa với ngài rằng:

– Ban ngày không rảnh nên nay đến tham bái.

Và dâng cúng gạo và một sọt bánh ngọt, đến mà thưa lại rằng: – Ngài không riêng gì lúc lễ Phật, xin ngài gọi tên của đệ tử.

Ngài bảo:

– Có thể mang bánh trở về, sau nay tôi sẽ xưng tên lúc lễ Phật.

Nhân đó, thông thường lúc lễ Phật, thêm một bái kiêm xướng tên thần. Ngài bảo đệ tử là Đạo Sảng vì thần núi mà tụng kinh Kim Quang Minh. Hơn một tháng sau, hổ đến đánh cắp con chó đi mất, ngài nghe vậy, nói rằng:

– Đâu hẳn là do ông Đạo nhỏ này lười biếng chẳng vì đàn việt mà tụng kinh.

Ngài bèn hỏi xem sao. Quả thật vị ấy đáp rằng:

– Từ ngày mồng một tết đến giờ chỉ tụng kinh Duy-ma.

Ngài liền đốt hương lễ Phật, khẩn cáo rằng:

– Mấy hôm nay tuy tụng kinh khác, song, phước ấy cũng thuộc về Đàn-việt. Nếu có linh giám thì xin thả chó về lại.

Đến sáng sớm thì chó trở về, xem trên đầu chó thì có dấu răng vấu lấy.

Một ngày nọ, ngài biết thân thể không được khỏe. Ngài đoan tọa trên giường dây, tụng kinh Bát-nhã, hình khí điều hòa trầm lắng. Bèn viên tịch ở chùa núi Hồng cốc, ngài hưởng thọ tám mươi hai tuổi.

48. Thần tăng Huyền Sướng

Thích Huyền Sướng, ngài dòng họ Triệu, người ở Hà tây kim thành. Thuở thiếu thời, gia đình ngài bị giặc Rợ Hồ giết chết, họa sắp đến thân ngài, tên tù trưởng thấy ngài mà dừng tay, bảo:

– Đứa trẻ này mắt chiếu sáng ra bên ngoài hẳn không phải là trẻ con phàm tình.

Nhân đó, ngài được thoát khỏi, mới đến Lương châu, phát tâm xuất gia. Sau đó, giặc thù bạo ngược phá diệt Phật pháp tàn sát Sa-môn, chỉ mình ngài chạy khỏi. Năm Nguyên Gia thứ 22 (), đời tiền Tống, ngày 17 tháng nhuận, xuất phát từ Bình thành, theo đường Thượng cốc quân đại, thẳng về hướng Đông. Ngài đến Thái hành, trên đường vượt qua U châu ký, ngài chuyển về hướng Nam đi gần tới Mạnh tân. Trên tay ngài chỉ nắm một bó dương chi kèm theo một số lá hành, giặc tù cỡi ngựa đuổi bắt muốn gần tới kịp, ngài mới dùng nhành dương phảy cát, cát tung tóe lên mịt trời, người ngựa bọn giặc không thể tiến lên được. Đến lúc cát lắng dứt, bọn giặc cưỡi ngựa đuổi gần đến sát. Khi ấy ngài lao mình xuống sông, đến ngày mồng một tháng 8 thì ngài tới Dương châu.

Ngài rất thông hiểu kinh luật, thâm nhập thiền yếu, bói điềm tốt xấu, quả thật rất linh nghiệm. Mãi đến gần cuối thời tiền Tống (…-79), ngài lên thuyền đi xa, đến thành đô, ngài dừng ở chùa Đại thạch, tự tay đắp họa mười sáu tượng thần Kim Cang Mật Tích… Năm Thăng Minh thứ 3, năm cuối cùng thời tiền Tống (79), ngài lại đi về phía Tây biên giới ngắm xem Mân Lãnh, thấy núi Tề hậu ở huyện Quảng dương thuộc Bắc bộ quận Mân sơn, ngài liền có ý định chung thân ở đó, nên dựa sườn núi cao kết cỏ làm thảo am. Đệ tử Pháp Kỳ thấy thần nhân mặc áo đơn màu xanh cỡi ngựa đi nhiễu quanh núi một vòng rồi trở lại chỉ chỗ tạo dựng tháp.

Ngày 23 tháng năm Kiến Nguyên thứ nhất (79), đời Nam Tề, dựng lập chùa đã xong, ngài đặt hiệu là Tề Hưng. Sau đó, thái tử Tuệ Sai sử đến nghênh đón ngài, ba phen ban sắc, ngài khước từ không khỏi, nên theo thuyền xuống hướng Đông, giữa đường mắc phải tật dịch, mang bệnh về tới kinh đô, mọi người lo liệu cản ngăn mong đợi, một thời gian ngắn thì ngài viên tịch, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi.

49. Thần tăng Đàm Siêu

Thích Đàm Siêu, ngài dòng họ Trương, người xứ Thanh hà, thân cao tám thước, dung mạo đoan chánh khả quan, ngài chỉ ăn dùng rau quả, thân mặc áo vải, giữa ngày một bữa mà thôi. Đầu tiên, ngài ở tại chùa Long hoa; thành đô, khoảng cuối niên hiệu Nguyên Gia (…-), đời tiền Tống, ngài đi về hướng Nam; đến Thỉ hưng, xem khắp núi sông, đêm đến ngủ dưới gốc cây tùng. Các loài hổ không làm tổn thương ngài. Niên hiệu Đại Minh (7-6), đời tiền Tống, ngài trở lại thành đô. Đến sau khi vua Thái Tổ* lên ngôi (79), ban sắc ngài trú tại Hoằng tán thiền đạo ở Liên đông. Ngài dừng ở đó hai năm, xiển dương đại pháp. Cuối niên hiệu Kiến Nguyên (83), thời Nam Tề, ngài trở lại kinh đô. Bỗng chốc, ngài lại đến tiền đường núi Linh ẩn, ngài nhất định ở đó trong một thời gian dài. Bỗng thấy một người đến đảnh lễ và thưa rằng:

– Đệ tử ở xứ đất vui nước cách đây bảy dặm, vì người ở huyện Phú Dương đục đá dưới chân núi nên hư hại đến nhà của loài rồng. Đầu rồng cùng nhau tức giận, phát lời thề: Suốt ba trăm ngày không phun mưa. Đến nay đã hơn trăm ngày, đất ruộng đều khô cạn hết. Muốn nhờ đạo đức của ngài ban đến hẳn có thể cảm cách mà phun mưa, đượm nhuần cho muôn dân, công đức ấy có chỗ kết quy!

Ngài bèn hứa khả, thần mới biến đi. Ngài đến phương Nam, đi năm ngày đường thì tới núi Xích thành, vì loài rồng mà chú nguyện. Đêm đến, loài rồng hóa làm người đến đảnh lễ ngài. Ngài lại vì nói pháp. Nhân đó, loài rồng cầu xin thọ trì Tam quy. Ngài bảo rồng nên ban giáng phun mưa. Loài rồng nhìn nhau không nói. Đêm đó, báo mộng, nói với ngài rằng:

– Nhân và tức giận mà phát lời thề. Ngài đã dùng Thiện pháp để chỉ dạy cho, chúng con không dám trái mạng.

Ngày mai, qua khỏi giờ trưa sẽ giáng mưa cho đến lúc thấm nhuần đủ cả. Năm đó, nhân dân được mùa rất lớn.

Đến năm Vĩnh Minh thứ 10 (93), đời Nam Tề, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi.

50. Thần tăng Pháp Độ

Ngài Pháp Độ, người xứ Hoàng long. Đầu thời Nam Tề (79), ngài đến Kim lăng. Có cao sĩ ở quận Tề tên là Tăng Thiệu ẩn cư tại Nhiếp sơn; Lung Tà quan tâm đến ngài, cho là người thanh chân nên lấy tình thầy bạn mà tiếp đãi. Đến lúc Tăng Thiệu qua đời để lại chỗ trên núi cho ngài lập chùa Thê hà. Đầu tiên có vị Đạo sĩ muốn lấy đất chùa làm quán. Vừa đến ở liền chết, sau làm chùa còn có nhiều sự việc rất kinh động. Từ lúc ngài đến ở, bầy yêu quái không đến nữa. Trải qua hơn một năm, bỗng nghe tiếng động của người ngựa trống nhạc, lát sau thấy có người quăng dao nhọn đến nơi ngài, xưng là “cận thượng.” Ngài bảo đến phía trước. Cận thượng hình rất đô, vũ vệ cũng đông, kính lễ xong mới thưa ngài rằng:

– Đệ tử làm vua ở núi này đã hơn bảy trăm năm. Thần đạo có pháp, vật chẳng thể được đến nương gá trước sau, bởi không chân trực nên bệnh chết triền miên và đó cũng là vận mạng của kẻ ấy. Pháp sư, bậc có đạo đức, chỗ đáng quy hướng, kính cẩn bỏ xả phụng cấp và nguyện xin thọ trì ngũ giới, kết duyên với tương lai.

Ngài bảo:

– Người và thần khác loài không thể cùng khuất phục. Vả lại, Đàn-việt ăn dùng máu thịt, vật của người đời cúng tế. Đó là điều cấm đầu tiên trong ngũ giới.”

Khi đó, Cận Thượng khước từ mà đi. Sáng ngày hôm sau, có người đem đến một vạn tiền và hương đèn… tấu sớ rằng:

– Đệ tử Cận Thượng cúi xin xin phụng cúng.

Đến ngày rằm tháng đó, ngài nhân đó thiết hội, Cận Thượng lại đến cùng chúng lễ bái hành đạo thọ giới mà đi. Thế rồi, người thầy đồng bóng ở miếu Nhiếp sơn mộng thấy thần bảo rằng:

– Ta đã thọ giới ở Pháp sư Pháp Độ. Từ nay về sau, phàm khi cúng tế chớ có giết hại sinh mạng.

Từ đó, trong miếu chỉ dâng cúng cơm rau mà thôi. Ngài thường rải rác để ngủ nơi đất, thấy Cận Thượng từ ngoài đi lại dùng tay xoa vào chân ngài rồi đi, giây lát trở lại mang theo một bình lưu ly trong như nước dùng dâng cúng ngài mùi vị ngọt mà lạnh. Ngài khổ tiết một thời gian mà chứng cảm như vậy.

51. Thần tăng Tuệ Chấn

Thích Tuệ Chấn, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì, trú tại chùa Nguyên môn; Thượng đảng. Ngài trì giới chân xác, tính duyên thiền hành bái sám. Sau gặp nạn quốc gia hủy diệt Tam bảo, ngài ân mang kinh tượng vào ẩn nơi thâm sơn. Gặp giặc muốn giết hại ngài lúc đầu chưa phát hiện được, bỗng nhiên ngài thấy một người hình cao hơn trượng dáng mạo râu ria, y phục đẹp đẽ cỡi ngựa trắng lông bơm đỏ từ đỉnh núi xuống đến trước mặt ngài, xuống ngựa rồi nói cùng ngài rằng:

– Đêm nay, giặc đến, ngài có thể lánh ẩn.

Ngài đang ẩn dưới sườn núi cao chót vót tuyệt không đường nào đi, nghi đây là thần núi, nên ngài nói rằng:

– Ngày nay, Phật pháp đã bị hủy diệt, bần đạo không đất dung thân, nên đến nương nhờ Đàn-việt. Nay lại có giặc tìm đến, vậy chỉ còn chuốc lấy cái chết chứ chẳng có đường nào để trốn thoát!

Thần bảo:

– Ngài đã từ xa tìm đến nơi đệ tử, đệ tử cũng có thể bảo hộ ngài.

Nói rồi bèn biến mất. Đêm đó, bỗng giáng tuyết lớn dày hơn một trượng, tuyết dày ngăn cách đường nên ngài thoát khỏi nạn giặc. Sáng hôm sau, sương tan mở đường, bọn giặc lại kéo đến, thần bèn mách bảo mọi người trong các thôn dưới núi rằng:

– Bọn giặc muốn giết hại ngài Tuệ Chấn, các ngươi hãy mau đến cùng cứu ngài!

Khi đó mọi người đồng mang khí trượng gậy gộc vào núi, chống đánh bọn giặc. Bọn giặc bèn kinh sợ mà lui tan. Hằng ngày, ngài thường nương nhờ thần lực mà an nghiệp ở chốn núi rừng. Không biết cuối cùng ngài như thế nào.

52. Thần tăng Tăng Quần

Ngài Tăng Quần giữ tiết thanh bần, ăn dùng rau quả trì kinh, ngài trú tại Hoắc sơn thuộc huyện La giang, dựng lập một am tranh cô quạnh giữa biển. Phía trên có chén đá, nước sâu sáu thước, thường có dòng chảy trong mát. Các bậc Lão đức xưa kia tương truyền rằng:

– Đó là chỗ nhà ở của các vị Tiên.

Nhân đó ngài dứt tuyệt không ăn dùng cơm gạo. Giữa am tranh của ngài và chén đá cách nhau một cái khe nhỏ, thường dùng gỗ làm đòn dong, do đó nước chảy từ nơi đó. Đến năm, ngài một trăm bao mươi tuổi, bỗng thấy một con vịt bị gãy cánh đứng ở đầu đòn dong, ngài sắp đưa gậy đánh nó, lại lo nó chuyển động mà có tổn thương. Nhân đó ngài trở lui và bèn không uống nước vài ngày thì viên tịch. Lúc sắp tịch, ngài nói với mọi người chung quanh rằng:

– Tôi thuở nhỏ từng bẻ gãy cánh một con vịt. Nghiệm đó lấy làm quả báo.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9