TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 2

 

12. Thần tăng Đạo An

Thần tăng Thích Đạo An, dòng họ Vệ, người xứ Phù liễu, Thường sơn. Gia đình vốn nhà Nho học. Song thân mất sớm, Đạo An được người anh bên ngoại nuôi dưỡng.

Năm lên bảy tuổi, ngài đọc sách, xem lại có thể tụng thuộc lòng, mọi người trong xóm làng đều ngợi khen khác lạ. Năm mười hai tuổi, ngài xuất gia, thần thánh thông mẫu. Tướng mạo thấp lùn xấu xí, Đạo An không được thầy thương mến. Sau vài năm, ngài trình thưa thầy, cầu xin học kinh, thầy đưa kinh Biện Y, 1 quyển, khoảng năm ngàn lời. Ngài mang kinh vào ruộng, nhân lúc nghĩ ngơi thì xem đọc, chiều tối trở về, đem kinh trả lại thầy và cầu xin đọc kinh khác. Thầy bảo:

– Kinh hôm qua chưa đọc, sao lại cầu xin kinh khác?

Ngài đáp:

– Xin để tối tụng đọc.

Thầy tuy lấy đó làm lạ nhưng còn chưa tin, lại trao cho kinh, 1 quyển, không dưới một vạn lời, ngài mang kinh đi, cũng như trước, đến chiều đem trả lại thầy. Thầy nắm kinh dò, ngài đọc lại không sai sót một chữ, thầy ngài vô cùng kinh ngạc và ngợi khen, kính mến khác thường.

Sau khi thọ giới Cụ túc, ngài được đi học, đến đất Nghiệp, gặp Phật Đồ Trừng, nhân đó, Ngài phụng thờ Phật Đồ Trừng làm thầy. Đến khi cha con dòng họ Thạch sắp nhiễu loạn, ngài cùng với đệ tử là Tuệ Viễn… hơn bốn trăm người vượt qua sông đi về hướng Nam. Đến tối, gặp cơn mưa gió lớn sấm sét vang trời, ngài nương theo ánh chớp sáng mà đi tới trước. Đi gặp được một nhà người, thấy trong cửa có một cây liễu to lớn, khoảng giữa cây liễu treo một cái mũ có thể dung chứa được một hộc. Đạo An bảo gọi:

Lâm Bá Thăng.

Người chủ kinh hãi chạy ra, quả thật là họ Lâm, tên là Bá Thăng.

Bá Thăng cho đó là Thần nhân, bèn cung nghênh tiếp đãi nồng hậu.

Vậy rồi, các đệ tử hỏi:

– Làm sao biết được tên họ người ấy?

Ngài bảo:

– Hai cây thành rừng, mũ dung chứa trăm.

Khi tới Tương dương, lại hoằng dương Phật pháp. Bấy giờ, tại Tương dương, có Tập Tạc Xỉ là người có tài biện luận bèn nhạy vượt xa người thường, là nơi gom góp kiến thức ở đương thời, ông ta trước đã nhẫm xéo, an phận với cao danh. Đến khi nghe Đạo An đến ở, liền đến tu sữa rất tháo vác. Vừa ngồi yên, bèn xưng liền:

– Từ Hải Tập Tạc Xỉ.

Đạo An đáp lại:

Di Thiên Thích Đạo An.

Người thời bấy giờ lấy làm danh đáp.

Đạo An chú giải các kinh, sợ không hợp lý mới phát lời thề rằng:

– Nếu chỗ nói không trái với lý mầu, xin nguyện được thấy điềm tốt lành.

Ngài bèn thấy một đạo nhân đầu bạc lông mi dài, nói với ngài rằng:

– Kinh điển của ngài chú giải rất hợp với đạo lý. Tôi không được vào Niết-bàn, ở tại Tây Vực, sẽ cùng ngài giúp thông.

Đến giờ thì thiết trai thọ thực. Sau, bộ thập tụng luật truyền đến, Tuệ Viễn mới biết vị Hòa thượng gặp trong mộng chính là Tôn giả Tânđầu-lô.

Sau, đến thời nhà Trần, năm Kiến Nguyên thứ 21 (), ngày 27 tháng giêng, bỗng có một vị Tăng xa lạ, hình trông rất xấu xí, đến chùa xin ở nhờ qua đêm. Vì các phòng trong chùa đều chật hẹp nên để vị đó ở tại giảng đường. Lúc đó, vị Duy na trực chánh điện, ban đêm thấy vị Tăng từ sau cửa song mà ra vào, liền trình cùng Đạo An. Đạo An kinh hãi đứng dậy đảnh lễ thăm hỏi ý. Người lại đây. Vị Tăng đó đáp: – Cùng vì mà lại!

Ngài nói:

– Tự duy tội sâu nặng há có thể độ thoát?

Đáp:

– Rất có thể thoát vậy!

Ngài thưa hỏi chuyện lai sinh và chỗ sinh sống. Vị Tăng ấy đưa tay khoát rỗng về phía Tây bắc giữa trời, liền thấy mây vén mở, thấy đủ quả báo ở cung trời Đâu-suất diệu thắng. Lại bảo:

– Phải tắm rửa Thánh tăng mới thành quả sở nguyện.

Chỉ bày đủ pháp thức tắm rữa. Sau, ngài thiết bày tháp tắm rửa, thấy khoảng vài mươi đứa trẻ chạy vào chùa, phút chốc chỉ nghe tiếng sử dụng nước tắm rửa trong thất, lâu sau không thấy gì nữa, mở thất ra thì thấy khăn ước nước có sử dụng.

Ngày mồng 8 tháng 2 năm đó, bỗng nhiên ngài bảo chúng rằng:

– Tôi sắp đi đây!

Sau khi thọ trai xong, không bệnh gì mà viên tịch, an táng ngài tại trong chùa Ngã cấp, thành Nội. Năm đó nhằm năm Thái Nguyên thứ 10 (38), đời Đông Tấn.

13. Thần tăng Đàm Du

Trúc Đàm Du, có thuyết gọi là Pháp Du, Ngài người xứ Đôn hoàng. Thuở thiếu thời khổ hạnh tu tập thiền định, sau đi đến Giang tả dừng ở núi Thạch thành, đất Diệm, chuyên hành khất thực, tọa thiền. Ngài từng đến một nhà Cổ độc để khất thực, sau khi chú nguyện xong, bỗng thấy con rết từ trong thức ăn nhảy ra, ngài vẫn an nhiên thọ thực như không gì khác.

Sau, dời đến núi Thỉ phong xích thành, tọa thiền tại một thạch thất, hổ dữ khoản vài mươi con đến ngồi xổm trước mặt, ngài vẫn tụng kinh như cũ. Riêng có một con nằm ngủ, ngài bèn dùng chuỗi như ý gõ vào đầu nó, bảo:

– Sao không nghe kinh?

Chốc lát, cả bày hổ cùng đứng dậy bỏ đi. Trong khoảng khắc lại có bầy rắn xuất hiện, lớn độ mươi viên, nó lần lược qua lại, ngẩn đầu hướng đến ngài, qua hơn nửa ngày, chúng lại bỏ đi.

Sau một ngày nọ, có vị Thần hiện hình đến thưa cùng Pháp Du:

– Pháp sư oai đức tôi đã kính trọng, nay đến dừng ở núi này, đệ tử xin nhường thất để cúng dường ngài.

Pháp Du bảo:

– Bần đạo tìm đến núi, nguyện được cùng tụ hội, cớ sao chẳng chung ở?

Vị thần thưa:

– Đối với đệ tử thì không sao cả. Chỉ nhóm bộ thuộc chưa thấm nhuận Pháp Hoa, cuối cùng khó mà chế ngữ. Những người từ phương xa qua lại hoặc cùng đụng chạm, người và thần khác lạ vì thế nên xin đi.

Ngài bảo:

– Ông vốn là thần gì? Ở đâu đã bao lâu? Nay muốn dời đến xứ nào?

Vị thần ấy đáp:

– Đệ tử là con của Hạ đế, ở tại núi này hơn hai ngàn năm. Núi Hàn thạch là nơi cậu của đệ tử đang ngự trị, nên xin dời đến đó ở.

Nói rồi, thần lại tìm trở vào trong miếu khuất. Đến ngày từ biệt, thần chắp tay, tặng Pháp Du ba hợp hương thơm, từ đó đánh bao dao, thổi sừng, lước mây mà đi.

Thiên Thai là núi treo cao, ven sườn núi đá lởm chởm đỉnh cao thương thông với trời. Những người già xưa tương truyền rằng: “Tại trên đỉnh có tinh xà tuyệt đẹp, người đắc đạo ở trên đó. Tuy có cầu đá gác qua khe, mà đá nhọn lởm chởm cắt người. Vả lại, rêu xanh trơn nhẵn, từ xưa đến nay chưa ai đến đó được”. Pháp Du đi đến cầu đá, nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

– Biết ông thực sự dốc chí nhưng nay chưa được vượt qua. Hãy trở về, mười năm sau sẽ tự lại vậy!

Ngài buồn bả đi lui, trên đường ngang qua một thạch thất, bèn vào đó dừng nghỉ. Bỗng chốc sương mù tối sầm kín ngịt, trong thất có tiếng kêu vang, thần sắc của ngài vẫn không đổi khác. Sáng sớm thấy một người mặc áo đen đi lại bảo:

– Đây là chỗ ở của kẻ tớ, không ai đi vắng, trong nhà bèn có tiếng quấy động rất lấy làm thẹn!

Đạo Du bảo:

– Nếu đây là nhà ông, tôi xin trao trả lại.

Vị thần ấy nói:

– Gia đình kẻ tớ đã dời khỏi thất, xin thỉnh ngài nên trú ở.

Trong niên hiệu Thái Nguyên (376-397), đời Đông Tấn, có yêu tinh xuất hiện, vua Hiếu Vũ Đế ban chiếu đi khắp các nước, thỉnh mời những bậc Sa-môn đức hạnh; tinh cầu Phật sự để sám cầu tiễn trừ tai ương. Đạo Du chí thành nguyện cầu cảm cách thần minh, đến sáng sớm ngày thứ 6, thấy có một đứa trẻ mặc áo xanh đến xin sám hối lỗi quá, thỏa rằng:

– Con ngang bướng, làm khổ Pháp sư!

Đêm đó, yêu tinh lui mất.

Khoảng cuối niên hiệu Thái Hòa (), ngài thị tịch ở Sơn thất, nhục thân còn như lúc bình sinh mà khắp thi thể đều đổi màu xanh lục. Sau đó, có người vào núi, lên đỉnh cao, thấy nhục thể ngài vẫn không rã mục.

14. Thần tăng Đàm Đực

Thích Đàm Đực vốn dòng họ Diêu, người xứ Rợ Khương. Năm mười sáu tuổi xuất gia, phụng thờ ngài Đạo An làm thầy, trú tại chùa Đàn khê.

Thời Đông Tấn Quan Trường Sa thái thú Tất Xá Chi ở Giang lăng bỏ gia nghiệp để tạo dựng chùa. Thưa cùng ngài Đạo An xin thỉnh một vị Tăng về hoằng đạo. Ngài Đạo An nói với Đàm Đực:

– Dân chúng ở Kinh sở bắt đầu muốn tạo lập tông sư. Người thành tựu được phong hóa ấy nếu chẳng phải ông thì ai?

Đàm Đực liền chống tích trượng đi tới phương Nam tạo dựng chùa viện. Sau khi đến, giặc Việt phong tủa xâm lăng Hán nam, khắp xứ Giang lăng đều đóng chặt, lánh nạn nên đến Thượng minh. Ở đó, ngài tạo dựng lại chùa chiền, đến lúc giặc cướp không còn, ngài trở lại Giang lăng trùng tu chùa Trường sa.

Với tâm nguyện thành kính cầu thỉnh liền được cảm ứng xá-lợi đựng đầy bình vàng đặt tại trai tòa. Ngài đảnh lễ phát thệ nguyện rằng: “Nếu thật là Kim cang dư âm, xin nguyện tỏa phóng quang minh”. Nửa đêm, có ánh sáng năm sắc từ trong bình phóng ra chiếu soi khắp ngôi nhà. Đại chúng kinh sợ ngợi khen, ai cũng nén lòng trước sự thần biến của ngài.

Sau, vào núi Ba lăng quân chặt cây gỗ, gặp rắn trắng vài mươi con nằm ngang ngăn cản đường đi, Ngài bèn trở về lại chỗ ở, mới nói với thần núi rằng:

– Tôi muốn chặt cây gỗ để xây dựng chùa, mong rằng cùng tu tạo công đức!

Đêm đó, Ngài mộng thấy thần nhân đến bảo rằng:

– Pháp sư vì Tam bảo, phải nên tùy hỷ, chứ đừng khiến những kẻ khác vọng trộm chặt phá.

Sáng sớm lại lên đường rất bình an. Từ đó chặt những cây ven dòng mà đem xuống, trong số đó có những người đi chặt cây không khỏi có kẻ sinh tâm trộm riêng. Khi về đến chùa đem cây gỗ cho Đàm Đực xong rồi, còn các kẻ trộm riêng đều bị quan bắt lấy. Thật cảm kích như vậy.

Ngài thường than: “Ở chùa Tăng chúng đông đủ mà vẫn còn thiếu tôn tượng. Xưa kia, đại đế A-dục tu tạo các tôn tượng thần diệu tốt lành đều ban bố ở khắp mọi nơi, sao ngài không thể không thỉnh cầu đến!” Liền mời đến quả thật thành cảm ứng. Năm Thái Nguyên thứ 19 (39), đời Đông Tấn; nhằm ngày mồng 08 tháng hai năm Giáp Ngọ, bỗng có một tôn tượng hiện ở Bắc thành, ánh sáng chiếu suốt lên trời. Lúc đó, Tăng chúng chùa Bạch mã đến muốn nghênh đón thỉnh về mà không thể làm cho tượng chuyển động, ngài mới đến đó lễ cầu. Nói với mọi người rằng:

– Đang lúc tôn tượng của đại đế A-dục Vương ban giáng cho chùa Trường sa chúng ta!

Liền bảo ba vị đệ tử cùng bưng thỉnh, quả thật đi trong nhẹ nhàng, thỉnh đón về chùa. Kẻ Tăng người tục đua nhau kéo đến, xe ngựa tấp nập.

Sau Thiền sư Tăng-già Nam-Đà, người nước Kế Tân từ đất Thục xuống, vào chùa lễ bái, thấy trên ánh sáng của tôn tượng có nhữ Phạm, bèn hỏi:

– Đây là tôn tượng của đại đế A-dục vương, đến đây hồi nào vậy?

Người bấy giờ nghe nói như thế mới biết sự hiệu nghiệm của Đàm Đực.

Năm tám mươi hai tuổi, ngài viên tịch, viên quang tôn tượng lặng lẽ biến hóa, chẳng biết đi về phương nào. Kẻ Tăng người tục đều cho rằng đó là sự cảm thông của Đàm Dực vậy.

15. Thần tăng Đàm Thỉ

Thích Đàm Thỉ, người xứ Quang trung. Từ ngày xuất gia trở về sau, có nhiều kỳ tích.

Khoảng cuối niên hiệu Thái Nguyên (397), thời vua Hiếu Vũ Đế, đời Đông Tấn, Ngài mang kinh luật vài mươi bộ đến Liêu Đông tuyên dương hoằng hóa, bày trao truyền thừa giáo pháp, thiết lập quy giới. Đến đầu niên hiệu Nghĩa Hy (0), ngài lại trở về Quang trung, đã ba lần giúp đỡ mọi người. Lòng bàn chân Đàm Thỉ sắc trắng, tuy lội đạp trong bùn nước nhưng chưa từng thấm ướt. Thiên hạ đều tôn xưng ngài là: “Hòa thượng Bạch Túc” (chân trắng).

Bấy giờ, tại Tường an, có Vương Hồ, chú ruột của Vương Hồ đã chết khoảng vài năm, bỗng nhiên thấy hình trở về dẫn Vương Hồ đi khắp các địa ngục và chỉ cho thấy các quả báo. Khi Vương Hồ từ biệt trở về, người chú ấy nói với Vương Hồ rằng: “Đã biết rõ nhân quả như thế, thì phải nên phụng thờ Bạch Túc A Luyện”. Vương Hồ đi hỏi chúng Tăng. Chỉ thấy ngài là người có bàn chân sắc trắng. Nhân đó mà phụng thờ Đàm Thỉ làm thầy.

Đến cuối thời Đông Tấn (20), bọn hung nô nổi dậy hùng hổ đánh cướp Quang trung, chém giết vô số. Bấy giờ, ngài bị hại mà dao mác không thể làm tổn thương, tiếng kinh lạ đùng đùng vang khắp. Sa-môn Phổ Xá đều bị giết hại. Từ đó, ngài ẩn lánh trong núi Chầm tu hạnh Đầu-đà. Sau đó, Thác Bạt Đào (Thái Vũ Đế (2- 2) đời Bắc ngụy) đánh lấy lại Trường an, bành trướng uy quyền khắp cả Quan trung, Lạc dương. Bấy giờ, có Thôi Hạo ở Bác lăng, thuở thiếu thời theo học tả đạo, khinh ghét Phật giáo, khi đã ở địa vị Ngụy Phụ, Thôi Hạo rất được Thác Bạt Đào tin cậy, mới cùng Đại sư Khấu Khiêm Chi cho rằng: “Hoàng đế dùng đạo Phật hoằng hóa, không ích lợi cho đời mà còn làm thương tổn người và vật, xin hãy phá dẹp đi”. Thác Bạt Đào đã bị mê hoặc bởi lời nói đó, đến năm Thái Bình thứ 7 (7), liền tiêu diệt Phật pháp, phân sai quân lính cướp đất chùa viện, tóm bắt Tăng ni, phải bỏ đạo, những ai chạy trốn, đều sai người bắt và đem chém đầu, khắp mọi nơi không còn bóng dáng các vị Sa-môn.

Ngài quyết không lui tới chốn binh đao giặc giã.Đến cuối niên hiệu Thái bình (1), Ngài biết thời vận của Thác Bạt Đào đến lúc tàn rụi. Nhân ngày nguyên hội, ngài chống tích tượng đến cửa quan, có quan Ty tâu rằng: “Có vị Đạo nhân chân trắng từ cửa theo vào”. Bạt Đào sai bảo y theo quân pháp mà chém giết, song không thương tổn, vội tấu trình lại cùng Bạt Đào. Bạt Đào tức giận đùng đùng tự tay rút kiếm chém bừa trên thân thể của ngài nhưng vẫn không hề hấn gì, chỉ chỗ lưỡi kiếm chạm thì có vết sẹo như bong đỏ. Bấy giờ, vườn ở phía Bắc có chuồng nuôi hổ dữ, Thác Bạt Đào ban đêm ban tặng cho hổ ăn. Các con hổ dữ nép phục, trọn không dám tới gần, Bạt Đào lại đem Thiên sư Khấu Khiêm Chi đến gần chuồng, hổ liền gầm la.

Từ đó, Thác Bạt Đào mới biết Phật tôn quý cao vời, hoàng lão không thể sánh kịp, liền mời ngài lên điện, đảnh lễ dưới chân ngài, cầu xin sám hối những lỗi lầm trước kia. Ngài vì Bạt Đào giảng giải chánh pháp, biện rõ nhân quả. Bạt Đào sinh lòng hổ thẹn; sợ hãi, bèn chiêu cảm bệnh dịch. Còn Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi hai người cùng lần lượt phát bệnh dữ. Cuối cùng không biết ngài đi về phương nào.

16. Thần tăng Pháp Hiển

Thích Pháp Hiển, vốn dòng họ Cung, người xứ Vỏ dương, Bình dương, có ba người anh đều chết từ thuở còn bé. Thân phụ ngài lo sợ họa ấy ảnh hưởng đến ngài, nên năm lên ba tuổi, bèn độ cho làm Sa-di, sống ở tại nhà vài năm, gặp cơn bệnh nặng muốn chết. Nhân đó liền đưa đến chùa, ngủ qua hai đêm, bệnh liền lành, ngài chẳng chịu về nhà.

Năm lên mười tuổi, gặp chịu tang thân phụ. Chú ruột ngài bảo rằng:

– Mẹ ngài ở góa độc thân, không người kế thừa.

Ép buộc ngài hoàn tục. Ngài nói:

– Vốn chẳng vì có cha mà xuất gia, chính vì muốn xa lìa trần tục nên nhập đạo!

Chú ruột lấy làm phải từ lời nói ấy, bèn thôi. Trong khoảng thời gian ngắn, ngài lại phải chịu tang thân mẫu! Chí tánh ngài vượt trội mọi người, mãng tang xong, ngài liền trở lại chùa.

Ngài cũng từng cùng các bạn đồng học cắt lúa trong đồng ruộng. Bấy giờ, có bọn giặc đói muốn cướp đoạt số lúa thóc đó, các vị Sa-di thảy đều bỏ chạy, chỉ còn một mình pháp hiển còn ở lại. Ngài nói cùng bọn giặc rằng:

– Nếu muốn lấy lúa thóc này thì tùy ý cứ lấy, chỉ vì các ông ngày xưa chẳng bố thí cho nên dẫn đến đói khát như thế. Ngày nay lại cướp đoạt của người, sợ rằng ngày sau càng tệ hại hơn thế nữa! Bần đạo dự biết nên vì các ông mà lo vậy!

Nói xong liền trở lui, bọn giặc bỏ lúa lại mà đi, chúng Tăng thảy đều thán phục.

Đến lúc thọ Đại giới, chí hạnh càng minh mẫn, nghi đắc chỉnh tề. Ngài thường suy tư về kinh luật lẫn lộn khuyết thiếu, nên phát chí nguyện đi tìm cầu. Năm Long An thứ 3 (399), đời Đông Tấn, Ngài cùng các bạn đồng học như Tuệ Cảnh… xuất phát từ Trường an đi Tây Trúc, vượt qua Lưu sa. Trên đường đi đó, thường có gió nóng ác quỷ, gặp nó hẳn là chết. Ngài tùy duyên phó mạng, qua thẳng hiểm nạn đi tới Thông lãnh, mùa Đông mùa Hạ, tuyết thường phủ đầy, có loài rồng dữ nhả độc, gió mưa cát đá. Đường núi nguy hiểm, vách đá dựng đứng cao khoảng bảy ngàn thước, phàm các nơi ngài vượt qua, hơn bảy trăm chỗ. Tiếp theo là núi Tiểu tuyết, gió rét lạnh bốc mạnh, Tuệ Cạnh bị cảm lạnh, không thể đi được nữa, nói cùng Pháp Hiển:

– Tôi sẽ chết mất, bạn nên đến nơi, chớ để mất mạng!

Nói xong bèn thị tịch. Pháp Hiển vỗ về đồng bạn, khóc bảo:

– Vốn ước muốn mà không viên mãn, mạng sống sao đây!”

Ngài lại một mình cố gắng tiến tới đường phía trước, vượt qua núi non nguy hiểm. Trải qua hơn ba mươi nước, gần đến Thiên Trúc, cách thành Vương xá hơn ba mươi dặm, có một ngôi chùa, ngài cố nhắm mắt qua đó. Ngài muốn lên núi Kỳ-xà-quật, chư Tăng chùa đó cản ngăn, bảo:

– Đường đi rất gian nan hiểm trở, có nhiều sư tử đen thường ăn thịt người, làm sao có thể đi đến?

Ngài bảo:

– Tôi từ xa vượt qua vài vạn dặm, thệ nguyện được Linh thứu, thân mạng vốn đã không thể kỳ hẹn, hơi thở ra khó mong bảo toàn. Đâu có thể giữa mãi sự chí thành đã nhiều năm mà đành phá bỏ ư? Tuy có hiểm nạn, tôi đã quyết thì không còn sợ nữa!

Đại chúng không thể cầm chân ngài được, bèn sai hai vị Tăng đưa đi.

Vào tới núi, trời cũng vừa tối, ngài muốn ở lại qua đêm, hai vị Tăng ấy sợ nguy hiểm, để ngài ở lại mà trở về. Một mình ở lại trong núi, ngài đốt hương lễ bái, ngẩn đầu lên như được cảm tích xưa hiện được Thế Tôn. Đến nửa đêm, có một con sư tử đen đến ngồi trước mặt ngài, lè lưỡi quẩy đuôi. Ngài tụng kinh không dừng nghĩ, nhất tâm niệm Phật, sư tử bèn cúi đầu rủ đuôi nép phục dưới chân ngài. Ngài đưa tay xoa đầu nó, chú nguyện rằng: “Nếu muốn làm tổn hại thì đợi chờ tôi tụng kinh xong, còn như không muốn thì có thể lui!” Một hồi lâu, sư tử mới bỏ đi. Sáng sớm trở về lại, đường đi tối tăm cản trở, chỉ có một đường đi thông suốt, Ngài đi chưa tới một dặm, bỗng gặp một đạo nhân tuổi độ chín mươi, ăn mặc thô sơ mà thần khí tuấn tú cao xa, ngài tuy biết người đó có cốt cách cao nhã mà không rõ là Thần nhân! Sau, lại gặp một vị tăng trẻ, ngài hỏi:

– Đạo nhân tuổi già kia là ai vậy?

Vị tăng ấy đáp:

– Đó là Đầu-đà Ca-diếp đại đệ tử!

Ngài mới hãi hùng buồn giận.

Đến trung Thiên Trúc, ngài thỉnh được luật Ma-ha tăng-kỳ tại chùa Thiên vương; phía Nam bảo tháp vua A-dục tạo dựng ở ấp Bakiên-phất Ma-kiệt-đề. Ai thỉnh được các kinh như Tác-bà-đa Luật sao, Tạp A-tỳ-đàm, Tâm Tuyến Kinh, kinh Phương Đẳng, Niết-bàn… Ở lại đó hai năm, ngài lại thỉnh được luật Di-sa-tắc, kinh Trường A-hàm, Tạp A-hàm và Tạp Tạng, đều là những bộ kinh luật tại đất Hán không có.

Sau, nương theo thuyền thương buôn trở về bằng đường biển. Trên thuyền có hơn hai trăm người, gặp mưa bão gió lớn, mọi người đều lo sợ, liền đem các tap vật quăng bỏ, ngài sợ họ quăng bỏ số kinh tượng ấy, nên chỉ nhất tâm xưng niệm hồng danh đức Bồ-tát Quán Thế Âm và quy mạng về chúng Tăng ở đất Hán. Thuyền thuận theo gió mà đi, không bị thương tổn gì, ngài liền thẳng theo hướng Nam về đến chốn kinh đô, tới chùa Đạo tràng cùng Thiền sư Phật-đà Bạt-đà, người ngoại quốc phiên dịch luật Ma-ha tăng-kỳ, kinh Phương Đẳng, Nê-hoàn, Tạp A-tỳ-đàm Tâm luận có hơn trăm vạn lời.

Ngài đã ấn xuất kinh Đại Niết-bàn, lưu rộng giáo hóa, đều kiến mọi người thấy nghe. Có một nhà nọ, mất họ tên, ở gần cửa Chu Tước, đã nhiều đời phụng thờ chánh pháp, tự tay đã viết một bộ để đọc tụng cúng dường, không chia cách kinh thất và nhà để sách tạp. Sau, gió lửa bỗng nhiên bừng cháy từ xa đến nhà đó, mọi thứ của cải vật dụng đều bị hay hết, chỉ còn bộ kinh Niết-bàn. Đưa bỏ vào lò đốt nướng vẫn không xâm tổn, sắc màu quyển kinh cũng không đổi khác. Khắp chốn kinh đô, rao truyền lẫn nhau, mọi người đều khen ngợi là thần diệu. Ngoài ra, các kinh luật khác còn chưa phiên dịch.

Sau, ngài đến Kinh châu, thị tịch tại chùa Tân, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi.

17. Thần tăng Pháp Khoáng.

Thích Pháp Khoáng, vốn dòng họ Cao, người quê ở Hạ bi, đến ngụ ở tại Ngô hung. Song thân mất sớm, ngài kính thờ kế mẫu vong danh hiếu hạnh, đến lúc kế mẫu qua đời, cử hành tang lễ vẹn toàn. Mãn tang, ngài xuất gia phụng thờ Sa-môn Trúc Đàm Ấn làm thầy.

Ngài Đàm Ấn thường bệnh tật trầm kha, ngài bèn phát nguyện suốt bảy ngày đêm chí thành lễ sám. Đến ngày thứ 7, bỗng nhiên có ánh sáng chiếu soi trong phòng ngài Đàm Ấn, ngài cảm thấy như có người đưa tay nâng nhấc, mọi sự thống khổ liền tan biến.

Sau, ngài từ biệt thầy, đi xa tìm cầu kinh yếu, trở về dừng ở chùa Thạch thất tại núi Tiền thanh. Trong thời Đông Tấn, vua Giản Văn Đế (371-373) sai Đường Ấp thái thú Khúc An mang chiếu đi xa tìm hỏi chỗ ngài ở và hỏi để trừ yêu tinh, thỉnh ngài giúp đỡ. Ngài cùng các đệ tử, thiết trai cầu sám, sau một thời gian, tai ương tiêu diệt. Dân chúng ở Đông độ, phần nhiều mắc chướng bệnh dịch, khẩn cầu ngài liền ra tay cứu giúp. Có người thấy quỷ, nói:

– Ngài đi đứng, thường có quỷ thần vài mươi vị theo hộ vệ trước sau.

Người thời bấy giờ đều khen ngợi ngài là bậc phi khác.

Năm Nguyên Hưng thứ 1 (02), đời Đông Tấn, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi hai hạ lạp.

18. Thần tăng Tuệ Viễn

Thích Tuệ Viễn, vốn dòng họ Giã, người xứ Lâu phiền, Nhạn

môn. Tuy ốm yếu mà ham thích học hỏi. Năm mười ba tuổi, ngài theo người cậu, họ Linh cô đến học ở Hứa lạc, nên ít làm các trò. Xem một lược sáu kinh, rất khéo giỏi tư tưởng Trang Lão. Tánh ngài độ lượng khoang dung, phong thái sáng ngời. Tuy các bậc Túc nho anh đạt, ai cũng kính phục sự uyên thâm của ngài.

Năm hai mươi mốt tuổi, ngài muốn qua Giang đông, cùng nhóm họp với Phạm Tuyên Tử. Gặp lúc Thạch Hổ đã chết, khắp Trung nguyên giặc nổi loạn, đường đến phương Nam bị bế tắc, nên chí nguyện của ngài không được viên mãn. Bấy giờ, Sa-môn Thích Đạo An, dựng lập chùa tại Thái hành hằng sơn, hoàng dương xiển dương tượng tháp, tiếng tâm vang khắp. Ngài liền đến đó nương tựa. Vừa gặp mặt, ngài hết lòng cung kính, xứng đáng là bậc thầy của chính mình. Sau, nghe ngài Đạo An giảng kinh Bát-nhã mà ngài hoát nhiên tỏ ngộ, nhân đó cùng với đệ tử ngài Đạo An là Tuệ Trì ném trâm cài tóc xuống, phó mạng thọ nghiệp.

Vào đạo, ngài gắng sức dũa mài, tự nhiên vượt trội hơn người ngài muốn thu nhiếp giềng mối đem đại pháp để mình gánh vác, tinh chuyên tư duy tụng trì tối đến đọc sách. Vốn nghèo khó không buông thả, huynh đệ luôn cung kính, tánh tình trước sau không biếng lười. Có Sa-môn Đàm Dực thường chu cấp phí tổn đèn đuốc, ngài Đạo An nghe thế mừng bảo:

– Đạo sĩ quả thật biết người ấy.

Năm hai mươi bốn tuổi, ngài đến giảng thuyết, khách thường lui tới nghe giảng, cật nạn nghĩa thật tướng. Khi đối đáp qua lại mỗi lúc càng thêm căng thẳng mê muội. Ngài liền đem nghĩa lý của Trang tử làm ví dụ dẫn chứng, nên người mê hoặc được tỏ rõ. Từ đó về sau ngài Đạo An đặc biệt lắng nghe Tuệ Viễn là không phế bỏ sách thế tục. Ngài Đạo An có các vị đệ tử như Pháp Ngộ, Đàm Huy đều là những bậc có phong thái tài giỏi chiếu sáng chí nghiệp thanh tịnh thông mẫn, họ đều nâng dẩy kính phục Tuệ Viễn.

Sau, ngài theo ngài Đạo An về hướng Nam đến Phiền miện. Năm Kiến Nguyên thứ 9, đời Ngụy Tần, tướng Ngụy Tần là Phù Bình đánh chiếm Tương dương, ngài Đạo An bị Chu Tự bắt giữ không thể đi đâu được bèn sai đồ chúng mỗi người tùy chỗ mà lưu trú và được răn dạy đủ mọi điều trọng yếu. Riêng Tuệ Viễn chẳng được một lời, ngài mới quỳ, thưa:

– Riêng mình con không được răn dạy, lẽ nào con không phải là học trò của thầy!

Ngài Đạo An bảo:

– Người được như con, ta đâu còn ngại phải lo.

Từ đó, Tuệ Viễn cùng vài chục người đệ tử thẳng đến Kinh châu, trú tại chùa Thượng minh. Sau, muốn qua núi La phù, khi đến Tầm dương, thấy đỉnh Lô sơn yên tĩnh, có thể tư duy. Đầu tiên, ngài đến trú tại tịnh xá Long tuyền. Ở đó đi lấy nước vốn xa, ngài dùng tích trượng thổ xuống đất, bảo:

– Nếu nơi đây có thể dựng lập nơi dừng nghỉ, nên có một mụn đất mềm để khơi nguồn nước. Nói xong, một dòng nước tung vọt ra rất xa, trở thành một khe suối. Sau đó một thời gian ngắn, tại Tầm dương hạn hán, ngài đến cạnh bờ hồ, đọc tụng kinh Hải Long Vương. Bỗng có một con rắn lớn từ trong hồ nhảy vọt lên không trung, trong khoảnh khắc mưa lớn tràn đầy khắp nơi, nhờ đó mà được mùa màng, nhân đó, gọi tịnh xá Lâm tuyền là chùa Lâm tuyền.

Đào Khản đến trốn ở Quảng châu, ngư nhân ở biển thấy ánh sáng thần, mỗi đêm soi sáng tuyệt đẹp, qua một tuần càng lớn, lấy làm lạ nên tấu trình cùng Đào Khản. Đào Khản đến xem tường tận mới là tôn tượng của vua A-dục, liền nghinh thỉnh đưa về Hàn khê ở Võ xương. Chủ chùa đó là Tăng Trân, Tăng Trân thường qua Hạ Khẩu, đêm đến mộng thấy chùa bị nạn lửa cháy mà riêng ngôi nhà tôn Trí tượng đó có thần rồng vây quanh. Tăng Trân tỉh giấc, vội trở về chùa, quả thật chùa đã cháy rụi hết riêng chỉ ngôi nhà và tôn tượng vẫn còn đó. Sau, Đào Khản dời trấn, vì oai linh tôn tương, nên phải nghênh thỉnh đi, mười mấy người đưa xe chở đến bờ sông, kịp lúc lên thuyền, thuyền lại chìm đắm, mọi người lo sợ muốn vớt lên trả lại, nhưng không thể nào được.

Đến lúc Tuệ Viễn tạo dựng xong chùa, nhất tâm cầu nguyện phụng hành. Tôn Tượng bỗng nhiên tự nổi, qua lại không bị chướng ngại. Từ đó, ngài dẫn chúng hành đạo, sớm tối không ngừng nghỉ. Phong hóa còn lại của Đức Thích-ca Thế Tôn từ đó trở nên hưng thịnh.

Từ lúc Tuệ Viễn nghiên cứu ở Lô sơn, hơn ba mươi năm chưa ra khỏi núi, dấu vết chẳng nhiễm bụi trần. Mỗi lúc đưa khách tham quan, thường lấy Hổ khê là mốc giới dừng chân. Năm Nghĩa Hy thứ 12 (16), đời Đông Tấn, ngày mồng một tháng tám, Ngài thị tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi.

19. Thần tăng Cưu-ma-la-thập.

Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng thọ. Ngài người xứ Thiên Trúc, khéo giỏi kinh luật luận hoằng hóa ở Tây Vực. Đến khi ngài đi về phương Đông, đến nước Quy Tư. Vua nước Quy Tư thiết lập tòa sư tử bằng vàng để dâng cúng dường ngài.

Bấy giờ, Tần Phù Kiên hiệu ở Quan trung, có Tiền Bộ Vương và Quy Tư Vương ở ngoại quốc đều đến triều cống nạp Phù Kiên. Phù Kiên thấy hai vị vua ấy nói với Phù Kiên rằng:

– Ở Tây Vực có nhiều tài sản trân quý, xin viện binh qua đó chiếm định để cầu nội phụ. Đến tháng giêng năm Kiến Nguyên thứ 13 (), Quan thái sử tâu rằng:

– Có vị sao xuất hiện ở nước ngoài, ắt hẳn sẽ có người đại Trí thức đến giúp đỡ Trung Quốc!

Phù Kiên bảo:

– Trẫm nghe ở Tây Vực có Cưu-ma-la-thập, chẳng phải đó sao?

Liền sai sứ đi thỉnh cầu. Đến tháng năm Kiến Nguyên thứ 18, Phù Kiên sai Lã Quan đem bảy vạn binh lính đánh chiếm nước Quy Tư. Lúc sắp khởi binh, Phù Kiên thiết tiệc tiễn đưa Lã Quan ở Kiến chương, bảo rằng:

– Phàm bậc Đế vương ứng mạng trời mà bình trị thiên hạ, lấy tấm lòng thương mến con mà thương mến muôn dân làm gốc, đâu vì lòng tham mà khởi binh đao, chính vì người có lòng mến đạo nên nghĩ vậy. Trẫm nghe ở Tây Vực có Cưu-ma-la-thập hiểu sâu pháp tướng, giỏi về âm dương, làm nơi tông thú cho hoàng hậu học. Trẫm rất lo nghĩ việc đó, làm các bậc hiền triết là của báu lớn của nước nhà. Nếu quy thuận được Quy Tư lập tức đưa ngựa trạm thỉnh mời La-thập về.

Quân lính Lã Quan chưa đến, ngài La-thập nói với vua nước Quy Tư là Bạch Thuần rằng:

– Vận nước đang suy biến sẽ có lính mạnh từ phương Đông tiến lại, nên quy thuận, chớ nên chống cự quân lính bén nhọn ấy.

Bạch Thuần không nghe theo, mà cố đánh trả. Lã Quan phá được Quy Tư, giết hại Bạch Thuần, lập em của Thuần là Bạch Chấn lên làm chủ. Lã Quan đưa La-thập cùng về.

Giữa đường, đóng quân tại dưới núi, tướng sĩ đã nghỉ ngơi. Lathập nói:

– Không thể được. Ở đây hẳn bị nguy khốn, nên dời quân lên gò cao.

Lã Quan không nghe, đêm đó, quả thật mưa lớn ngập lụt lên nhanh nước sâu vài trượng, binh lính chết khoản vài ngàn. Lã Quan rất kính phục điềm lạ đó. La-thập nói với Lã Quan rằng:

– Đây là đất lung vong, không nên dừng ở lâu, phải đi thôi, giữa đường hẳn có chỗ đất phước lành có thể dừng ở.

Lã Quan liền nghe theo.

Về đến Lương châu, nghe Phù Kiên đã bị Diêu Tránh giết hại, ba quân của Lã Quan lập tức đóng quân tại phía Nam của thành Đại lâm, từ đó Lã Quan trộm xưng là quan ngoại, lấy niên hiệu là Đại An. Tháng giêng năm Đại An thứ 2 (), ở Cô tàng có gió lớn, ngài La-thập nói:

– Đó là gió mang điềm không tốt, sẽ có kẻ gian phản nghịch. Nhưng khỏi phải nhọc, tự nhiên an định.

Bỗng chốc mà Lương Khiêm Bành Hoàng tương kế cùng phản, rồi cùng tự biến mất. Đến năm Long Phi thứ 2 (), thời Lã Quan, Trương Dịch, Lâm Tồng, Lô Thủy Hồ, Trở Cừ Mông Nam và em là Trở Cừ Mông Tấn phản lại, suy tôn Kiến Quan thái thú Đoàn Nghiệp làm thủ lĩnh. Lã Quang sai thứ sử Tần châu, thứ sử Thái Nguyên Lã Toản đem năm vạn binh để đánh giết. Bàn luận thời bấy giờ cho rằng Đoàn Nghiệp… họp nhau như bầy quạ. Lã Tủy có uy lực và thanh thế, hẳn chế định toàn bộ. Lã Quang đem việc đó hỏi La-thập, ngài nói:

– Quan sát hành động ấy chưa thấy Lã Toản có lợi.

Thế rồi, Lã Toản bại hoại tích chứa ở hợp lê. Bỗng nhiên, Quách Nôn lại nổi loạn, Lã Toản giao phó đại quân mà trở về rỗng không, làm cho Quách Nôn bại hoại chỉ được thoát thân!

Quan Trung thư giám của Lã Quang là Trương Tư, văn hàn ôn nhã, Lã Quang rất kính trọng. Trương Tư bị bệnh, Lã Quang tìm cầu khắp cùng để trị liệu. Có đạo nhân La-xoa, là người ngoại quốc nói:

– Có khả năng chữa lành bệnh của Trương Tư!

Lã Quang vui mừng ban tặng rất nồng hậu. Ngài La-thập biết Laxoa hư dối, bảo cùng Trương Tư rằng:

– La-xoa không thể chữa trị lành mà làm thêm phí tổn. Minh vận tuy ẩn, nhưng cũng có thể lấy sự việc này để thử nghiệm.

Bèn lấy tơ ngũ sắc kết thành dây đưa bỏ vào lửa đốt cháy thành tro, cuối cùng ném vào trong nước, nếu tro nổi ra khỏi nước và trở thành sợi dây như cũ thì bệnh không thể lành. Giây lát, quả thật tro nhóm lại và nổi ra thành nguyên hình sợi dây. Vậy là việc chữa trị của Laxoa không hiệu nghiệm. Ít ngày sau, Trương Tư chết. Khoảng thời gian ngắn nữa, Lã Quang băng hà.

Con của Lã Quang là Lã Thiệu nối ngôi, vài ngày sau, con thứ của Lã Quang là Lã Toản giết hại Lã Thiệu mà tự lập, xưng hiệu Nguyên Hàm Ninh. Năm Hàm Ninh thứ 2 (), có một con heo sinh con một thân mình mà ba đầu rồng xuất hiện trong giếng Đông sương, đến trước điện

nằm cuộn tròn. Gần sáng sớm bỏ qua đi, Lã Toản cho đó là điềm lành nên gọi đại điện là Điện Long Trường, bỗng chốc lại có rồng đen bay lên trên cửa cửu cung, bèn gọi là Cửu Long Hưng. Có đứa bé tâu rằng:

– Ngày rồng ẩn lặn mà xuất hiện phiêu du, heo yêu lại hiển hiện quái dị. Rồng là loài âm, vào ra hẳn có lúc, mà nay thường hiện thì ra là tai ương sinh khởi, hẳn là có biến động, kẻ dưới mưu hại người trên. Cần phải tự kiềm chế mình, tu đức để đáp lại ân đức trời ban!

Lã Toản không nghe theo, cùng La-thập đánh cờ cười giỡn. Lúc giết quân cờ, Toản nói:

– Chém đầu Hồ Nô.

Ngài La-thập bảo:

– Không chém được đầu Hồ Nô, Hồ Nô sắp chém được đầu người.

Lời nói đó đều có hàm ý chỉ Lã Toản mà Lã Toản không hiểu như thế nào.

Em của Lã Quang là Lã bảo có người con là Lã Siêu, Lã Siêu thuở nhỏ tự là Hồ Nô. Sau, quả thật Hồ Nô chém đầu Lã Toản và lập anh ruột là Lã Long lên làm chủ. Bấy giờ mọi người mới kiểm nghiệm lời nói của ngài La-thập là đúng.

Ngài La-thập nghĩ mát nhiều năm, cha con họ Lã đã không cho hoằng dương đạo giáo, nên sự tích chứa hiểu biết sâu sắc của ngài không có nơi để tuyên hóa. Còn Phù Kiên cũng đã chết nên chẳng cùng diện kiến! Kịp đến lúc Diêu Trành đánh chiếm được Quan Trung, cũng ôm ấp cao danh rỗng lòng muốn thỉnh. Song, họ Lã cho rằng ngài Lathập tài trí mưu kế có nhiều, sợ sẽ bày mưu cho họ Diêu nên không chấp nhận để ngài vào hướng Đông. Kịp đến lúc Diêu Trành qua đời, con là Diêu Hưng lên nối ngôi, lại sai sứ triệu thỉnh. Tháng 3 năm Hoằng Thỉ thứ 3 (01) có cây Liên lý mọc ở sân miếu, trong vườn Tiêu dao, cây rau hành biến thành cây kỳ chỉ (một loại rau thơm), Diêu Hưng cho là điềm tốt lành, nghĩa là có người tài trí ứng vào. Đến tháng , Diêu Hưng sai các vị Thạc Đức ở Lung tây đi đánh phạt Lã Long. Quân của Lã Quang đại bại, qua tháng 9, Lã Long dâng biểu quy hàng, Diêu Hưng mới nghênh thỉnh được ngài La-thập vào quang nội. Ngày 20 tháng 12 năm đó (01), ngài đến Trường an, Diêu Hưng thiết lễ tôn thờ ngài như quốc sư, rất ưu đãi sùng kính.

Ban đầu, Tỳ-kheo Bôi Độ ở Bành Thành nghe ngài La-thập ở Trường an mới than rằng:

– Tôi cùng La-thập cách biệt hơn ba trăm năm, mịt mờ chưa có kỳ

hẹn, đợi chờ có gặp chẳng chi ở đời sau vậy!

Trước lúc viên tịch ít ngày, ngài La-thập tự cảm thấy tứ đại không an, ba phen tư tụng thần chú, bảo các đệ tử người ngoại quốc tụng để tự cứu, chưa đến lúc dốc lực, chuyển sang cảm biết đã nguy ngập. Khi đó, ngài dốc lực cáo biệt cùng Tăng chúng rằng:

– Nhân pháp cùng gặp rất chưa tận tâm mới để lại đời sau, thật xót xa biết nói làm sao! Tự lấy sự ám muội sai lầm sung vào truyền dịch. Phàm các kinh luận đã phiên dịch hơn ba trăm quyển, chỉ có một bộ luật Thập tụng chưa kịp lọc bỏ. Còn đối với chỉ thú hẳn không sai lạc, nguyện sự tuyên dịch truyền lưu hậu thế cùng hoằng thông, nay đối trước chúng Tăng, tôi phát lời thành thật thệ nguyện: Nếu chỗ dịch kinh điển của tôi không sai lầm thì khiến sau khi thiêu đốt nhục thân còn lại chiếc lưỡi không tiêu cháy!

Ngày 20 tháng 8 năm Hoằng Thỉ thứ 11, ngài La-thập viên tịch tại Trường an. Năm đó nhằm năm Nghĩa Hy thứ (09), đời Đông Tấn. Và tại vườn Tiêu dao, y theo pháp ngoại quốc dùng lửa để thiêu đốt nhục thể. Sau khi củi hết lửa tắt, nhục thể rã nát, chỉ còn chiếc lưỡi không tiêu cháy.

20. Thần tăng Pháp An

Thích Pháp An còn có một tên khác là Từ Khâm, chưa rõ là người xứ nào. Ngài là đệ tử của ngài Tuệ Viễn. Giỏi trì giới hạnh, giảng nói các kinh kiêm hành trì thiền định. Khéo khai hóa các hàng phàm phu ngu muội, nhổ trừ tà kiến đưa về đường chánh.

Khoảng niên hiệu Nghĩa Hy (0-19), đời Đông Tấn, tại huyện Tân dương có tai họa do hổ gây ra. Ở huyện đó có đại xã, dưới cây xây dựng miếu thần, dân chúng ở chung quanh khoảng số trăm, gặp nạn hổ hại chết hằng đêm có đến một vài người. Ngài Pháp An thử đến huyện đó, chiều tối vào thôn ấy, dân chúng vì sợ hổ nên sớm đóng cửa ngõ. Ngài bèn đến dưới cây ấy, suốt đêm tọa thiền. Đến gần sáng nghe hổ mang xác người đến ném ở phía Bắc miếu đó. Thấy ngài, hổ vừa mừng vừa sợ, nhảy đến phủ phục trước mặt Ngài. Ngài vì hổ nói pháp trao truyền cấm giới. Hổ quỳ xuống đất không dám lay động, khoảng chốc lát rồi đi. Sáng ngày, người trong thôn đuổi tìm hổ, đến dưới cây, thấy Ngài, mọi người kinh sợ, cho là thần nhân, liền trao truyền khắp cả huyện, tất cả dân chúng thảy đều tôn kính phụng thờ. Và tai nạn về hổ cũng từ đó mà chấm dứt.

Nhân đó, cải đổi miếu thần tạo lập thành chùa. Ruộng vườn chung quanh, mọi người đều hiến dâng làm của Tăng chúng. Sau, Ngài muốn chủ ý đúc một tôn tượng bằng đồng xanh, khốn nổi hiếm có. Tối đến, ngài mộng thấy một người đến gần trước giường bảo rằng: “Tại dưới đây có chuông đồng.” Tỉnh dậy, ngài liền đào xới lên, quả thật có được hai chuông đồng, nhân đó, ngài lấy đồng xanh để đúc tôn tượng. Sau, ngài đem một chuông đồng hổ trợ ngài Tuệ Viễn cũng để đúc tôn tượng. Còn một chuông, Võ Xương thái thú Hùng vô Hoạn mượn xem, liền giữ lại.

Sau, cuộc đời còn lại của ngài, không biết rõ!

21. Thần tăng Đàm Hoắc

Sa-môn Đàm Hoắc, không biết thuộc dòng họ gì, ở vương quốc Nan lương. Bấy giờ, ngài từ Hà Nam lại, cầm theo một tích trượng bảo người quỳ rồi nói: “Đây là mắt trí tuệ, phụng trì hẳn có thể đắc đạo”. Người thời bấy giờ cho là điều kỳ lạ, hoặc có người đem y phục tặng ngài. Nhận rồi đem quăng bỏ ở bờ sông, ngày sau đem trả lại chủ nhân, y phục không chút nhơ bẩn. Ngài đi bộ tựa như mây gió, nói việc sinh tử sang hèn của người không sai mảy may. Có người đem giấu tích trượng, Ngài liền khóc lớn vài tiếng, nhắm mắt trong giây lát rồi mở mắt lấy lại. Đều là những điều kỳ lạ thần kỳ, không ai có thể suy lường được. Nhân đó mà mọi người phụng thờ Phật pháp rất đông.

Lợi Lộc Cô có người em là Nộc Đàn, giả đặt kỵ xa, quyền nghiên nước Ngụy, nghi kị có lắm gian tặc, ngài nói cùng Nộc Đàn rằng:

– Phải nên tu thiện phụng thờ Phật pháp để làm ngỏ hầu cho đời sau.

Nộc Đàn bảo:

– Cha ông chưa từng kính phụng Phật pháp, nếu nay kính phụng Phật pháp sợ trái với ý chỉ của cha ông. Nếu ngài có thể bảy ngày không ăn mà nhan sắc vẫn như thường, thì đó là phần minh của Phật đạo, kẻ bề tôi đây hẳn sẽ phụng thờ.

Bèn sai người giữ ngài tới bảy ngày, mà ngài không tỏ lộ sắc thái đói khát. Nộc Đàn bảo Sa-môn Trí Hạnh kín mang bánh dâng ngài, ngài vẫn không chịu ăn, Nộc Đàn rất lấy làm kỳ lạ, ngài nói với Nộc Đàn:

– Nếu có thể ngồi yên không làm gì không khởi niệm thiện ác, thì thiên hạ có thể an định, vận phước cháu con sẽ đông đầy, còn như luôn cùng binh giết hại thì họa sẽ lây vạ đến mình.

Nộc Đàn vẫn không hoàn toàn vâng theo.

Sau con gái của Nộc Đàn bệnh nặng, thỉnh ngài cứu chữa. Ngài bảo:

– Việc sống chết của người tự có định kỳ, các bậc Thánh nhân cũng không thể chuyển họa thành phước. Huống hồ Đàm Hoắc tôi làm sao có thể kéo dài mạng sống được! Sự việc ấy tôi đã biết từ sáng hôm qua.

Nộc Đàn vẫn cố thỉnh nài. Bấy giờ, nơi hậu cung đóng cửa, Ngài bảo:

– Hãy mở gấp cửa sau ra. Mở cửa kịp thì sống, mở không kịp thì chết.

Nộc Đàn bảo người mở cửa. Song mở không kịp nên đành chịu chết.

Sau, binh giặc nổi loạn, không biết ngài ở đâu.

22. Thần tăng Đàm Ung

Thích Đàm Ung, dòng họ Dương, người xứ Quan trung. Thuở thiếu thời làm quan, giữ chức vụ tướng quân của Ngụy Tần. Thân hình cao tám thước hùng võ hơn người. Năm Thái Nguyên thứ 8 (38), theo Phù kiên đánh chiếm phương Nam, bị quân Đông Tấn đánh bại, rút trở về Tường an. Nhân đó, Ngài phát nguyện theo ngài Đạo An cầu xin xuất gia. Sau khi ngài Đạo An viên tịch, ngài lại phụng thờ ngài Tuệ Viễn.

Sau, tạo lập am tranh ở phía Tây nam ở Lô sơn, cùng đệ tử Đàm Quả lắng đọng tư duy cửa thiền. Một ngày nọ, Đàm Quả mộng thấy thần núi đến cầu thọ ngũ giới, Đàm Quả bảo:

–Thầy tôi có ở tại đây, nên đến cầu thọ!

Ít lâu sau, ngài Đàm Ung thấy một người mặc áo đơn đội mũ, dáng vẻ đoan trang thanh nhã, có đi theo khoảng vài mươi người đến xin thọ ngũ giới! Nhân vì Đàm Quả mộng thấy trước đây nên ngài biết đó là thần núi, liền giảng dạy trao quyền giới pháp. Thần đem thìa và đũa ngoại quốc dâng cúng ngài rồi lễ bái từ biệt, bỗng chốc thì không thấy ngài nữa.

Đến ngày ngài Tuệ Viễn sắp tịch, ngài vội chạy về khóc gào nhảy nhụa. Về sau, không biết ngài thế nào.

23. Thần tăng Tăng Lãng

Thích Tăng Lãng, chưa rõ ngài thuộc dòng họ gì. Người xứ Kinh triệu. Thuở thiếu thời, ngài du phương học đạo ở Trường an rồi trở về Quan trung. Ngài chuyên đảm nhận việc giảng thuyết, từng vài người đồng đến cầu thỉnh, đi đến nửa đường, bỗng ngài bảo đồng bạn rằng:

– Y vật của các vị ở chùa dường như có kẻ lấy trộm.

Theo lời ngài nói liền trở về, quả thật có kẻ trộm mất.

Sau, ngài đến cốc Kim dư trong núi Côn lôn, lập riêng tịnh xá, xây dựng phòng thất, trong ngoài phòng nhà hơn vài mươi thước. Do nghe tiếng tăm ngài mà tìm đến hơn trăm người, ngài chuyên tinh giảng dạy, lao nhọc vẫn không mỏi mệt. Vua Tần là Phù Kiên khâm phục kính trọng đức hạnh của ngài, sai sứ đem các vật dâng cúng. Sau, Phù Kiên có lần sa thải Tăng chúng, mới ban chiếu riêng bảo:

– Pháp sư Tăng Lãng hình đức trong sạch như băng sương, học chúng của ngài đều là thanh tú. Nên riêng một núi Côn lôn không liệt trong loại phạt trượng.

Trong cốc, xưa có tai nạn do hổ gây nên, mọi người thường nắm gậy kết đàn mà đi. Từ lúc ngài đến đó ở, thú dữ đều quy phục, kẻ tăng người tục sớm tối đi về đều không trở ngại gì, mọi người bàn bạc khen Thiện vô cùng, nên nay vẫn gọi là Lãng công cốc (hang ông Lãng).

Phàm có người đến, ngài đều biết được số lượng bao nhiêu, trước đó một ngày đã bảo đệ tử sắm sửa đủ các thức ăn uống, số lượng người đến quả thật đúng như ngài nói. Mọi người khen ngợi ngài có trí sáng dự kiến.

Sau, ngài thị tịch tại trong núi hưởng thọ tám mươi lăm tuổi.

24. Thần tăng Phật-đà-da-xá

Phật-đà-da-xá, Hán dịch là Giác Danh. Ngài thuộc chủng tộc Bàla-môn, người nước Kế Tân, tổ tiên phụng thờ ngoại đạo. Có một vị Sa-môn đến nhà ngài khất thực, thân phụ ngài tức giận sai người đánh vị Sa-môn ấy. Tự nhiên tay chân co quắp không thể đi lại, mới hỏi thầy đồng bóng. Thầy đồng bóng đáp:

– Vì xúc phạm Hiền nhân nên quỷ thần khiến.

Thân phụ ngài liền thỉnh vị Sa-môn đó lại, chí thành xin sám hối, vài ngày sau lành hẳn. Nhân đó cho phép ngài xuất gia làm đệ tử vị Sa-môn đó.

Bấy giờ, ngài vừa mười ba tuổi, thường theo thầy đi xa, đến một đồng trống, gặp hổ, thầy ngài muốn chạy lánh, ngài nói:

– Con hổ ấy đã no, hẳn không xâm phạm đến người.

Giây lát, hổ bỏ đi, quả nhiên đi tới phía trước thấy vết tích còn lại. Thấy ngài âm thầm lấy làm lạ. Đến năm mười lăm tuổi, ngàu tụng kinh mỗi ngày, và nhớ đến hai, ba vạn lời. Tại chùa ngài ở, mọi người thường chạy theo việc ngoài, phế bỏ sự tụng tập. Có một vị La-hán kính trọng sự thông mẫn của ngài, thường đi khất thực về cúng dường ngài. Đến năm mười chín tuổi, ngài tụng đọc các kinh điển Đại, Tiểu thừa vài trăm vạn lời. Năm hai mươi bảy tuổi, ngài mới thọ giới Cụ túc.

Sau, ngài đến nước Sa-lặc. Bấy giờ, vua nước đó thường bất an nên thỉnh Tăng thiết cúng trai hội. Thái tử thấy đó mà mừng vui, thỉnh ngài ở lại trong cung để cúng dường. Ngài La-thập đến sau, lại theo ngài thọ học, cùng tôn kính. Sau, ngài La-thập sang nước Quy Tư bị Lã Quang bắt giữ. Ngài Da-xá lưu trú ở nước Sa-lặc hơn mười năm mới về hướng Đông, đến nước Quy Tư, xiển dương Phật pháp rất hưng thạnh. Bấy giờ, ngài La-thập đã ở tại Cô tàng, ngài bèn sai người đến kết giao. Ngài muốn bỏ nước Quy Tư mà mọi người lưu giữ ngài lại ít năm. Sau ngài nói với đệ tử rằng:

– Ta muốn tìm đến La-thập, có thể cải đổi y phục chớ để mọi người biết!

Đệ tử thưa:

– Sáng ra phát hiện ngài đi thì mọi người đuổi theo không khỏi trở lại.

Ngài liền lấy một bát nước trong bỏ thuốc vào trong đó, chú nguyện vài chục lần, đưa cho đệ tử rửa chân. Và ngay đêm đó ngài lập tức lên đường, gần đến sáng sớm, đi được vài trăm dặm, ngài hỏi đệ tử:

– Cảm thấy thế nào?

Đệ tử đáp:

– Chỉ nghe âm hưởng tiếng gió thổi nhanh, đôi mắt đổ lệ.

Ngài lại đưa cho nước đã chú nguyện rửa chân rồi dừng nghỉ. Sáng sớm, mọi người trong nước đuổi tìm thì ngài đã đi quá xa vài vạn dặm không thể đuổi theo kịp.

Ngài đến Cô tàng thì ngài La-thập đã vào Trường an, nghe Diêu Hung ép bức dùng nàng hầu khuyên ngài La-thập làm sự phi pháp, ngài mới than rằng:

– La-thập như tấm lụa sạch đẹp sao có thể khiến đưa vào trong rừng gai gốc ư?

Ngài La-thập nghe ngài đã đến Cô tàng nên khuyên Diệu Hưng đến nghênh đón ngài, Diệu Hưng chưa nhận chịu. Khoảng thời gian sau, Diệu Hưng ban chiếu ngài La-thập phiên dịch kinh tạng. Ngài La-thập bảo:

– Phàm hoàng dương giáo pháp văn nghĩa phải viên thông. Bần đạo tuy tụng thông văn kinh, nhưng vẫn chưa suốt thấu nghĩa lý. Chỉ có ngài Phật-đà-da-xá mới thấu đạt nghĩa lý sâu xa. Nay, đang ở tại Cô tàng, xin đem chiếu đến thỉnh mời ngài! Một thời thấu suốt cả ba, sau đó mới năm bút, khiến lời vàng chẳng rơi lạc, giữ lấy đức tin cho cả ngàn năm!

Diêu Hưng nghe theo, liền sai sứ đến thỉnh mời ngài, thậm chí tặng nhiều vật rất nồng hậu, ngài Phật-đà-da-xá đều không nhận, mới cười bảo:

– Chiếu lệnh đã ban thì phải nên đi gấp. Đàn-việt ưu đãi kẻ sĩ rất nồng hậu, nhưng khinh mạn thì bần đạo đây chưa dám vâng nghe thánh chỉ.

Kẻ sứ trở về tấu trình lại rõ ràng đầy đủ. Diêu Hưng khen ngài rất mực thận trọng.

Khi ngài đã đến Trường an, Diệu Hưng đích thân ra thăm hỏi, lập riêng một nơi mới vườn Tiêu dao, cúng dường tứ sự, ngài đều không nhận. Đến giờ ăn, ngài giữ phận chỉ một bữa mà thôi.

Đầu tiên, ngài tụng luật Đàm Vô Đức. Ngụy Tư Lộ hiệu Uy Diêu sảng thỉnh ngài truyền dịch và có ý thử ngài, bảo người đọc Khương Tịch Dược mới khoảng năm vạn lời, trải qua một ngày, ngài viết lại thành văn không sai một chữ, mọi người kính phục sức ghi nhớ phi thường của ngài. Năm Hoàng Thỉ thứ 12 (10), ngài phiên dịch luật Tứ Phần gồm quyển và phiên dịch các kinh Trường A-hàm…

Tại Lương châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm cũng phiên dịch, gọi là Tần Ngôn, ngài bạo hàm bút thọ. Đến năm Hoằng Thỉ thứ 1(13), giải tỏa được mọi khúc mắc, Diêu Hưng cúng dường ngài vạn xấp vải lụa, ngài đều không nhận. Các vị Sa-môn Đạo Hàm, Trúc Phật Niệm mỗi vị ngàn xấp. Các vị Sa-môn Danh Đức gồm năm trăm người, Diệu Hưng đều cúng dường trọng hậu. Sau, ngài từ biệt trở về ngoại quốc, đến nước Kế Tân, ngài dịch kinh Hư Không Tạng được quyển, ngài bèn gởi các khách buôn đem về cho chư Tăng ở Lương châu. Cuộc đời ngài về sau thế nào không được biết rõ.

25. Thần tăng Đàm-vô-kiệt

Đàm-vô-kiệt, Hán dịch là Pháp Dõng. Ngài dòng họ Lý, người xứ Hoàng long, U Châu. Thuở nhỏ đã thọ Sa-di, siêng tu khổ hạnh trì giới tụng kinh, ngài rất được chư Tăng kính trọng.

Ngài thường nghe các ngài Pháp Hiển… đích thân đi đến nước Phật, liền có lời thề nguyền quên thân. Năm Vĩnh Sơ thứ 1(20), đời tiền Tống, ngài chiêu tập các vị Sa-môn đồng chí hướng như Tăng Mãnh… cùng mang các thứ phan lọng… đi về phương Tây. Đến nước Hà nam mới ra biển Tây thuận, vào Lưu sa đến quận Cao xương trải dọc theo các nước Quy Tư; Sa lặc; lên Thông lãnh, vượt núi Tuyết, để đến nước Kế Tân lễ bái bình bát của Đức Phật. Ngài dừng ở đó hơn một năm, học Phạm thư, Phạm ngữ, thỉnh cầu được kinh Quán Thế Âm thọ ký 1 quyển Phạm văn. Sau đó, đi đến hướng Tây bờ sông đến nước Nguyệt chi, lễ bái di cốt tóc của Đức Phật và xem thuyền tự phất thủy. Kế tiếp là đến chùa Thạch lưu ở phía Nam núi Đàn đặc. Chư Tăng ở đó hơn ba trăm vị, học tập Tam thừa, ngài dừng tại chùa đó, thọ giới Cụ túc. Ngài đến trung Thiên Trúc, đường đi rất xa, chỉ mang theo thạch mật làm lương thực, tuy thường trãi trải nguy hiểm gai gốc mà ngài luôn buộc niệm ở kinh Quán Thế Âm đang mang theo, chưa từng giải đãi. Gần đến nước Xá-lệ, giữa đồng trống gặp một đàn voi rừng, ngài liền xưng danh quy mạng với Bồ-tát Quán Thế Âm liền sau đó có sư tử từ trong rừng ra nên đàn voi khiếp sợ bỏ chạy. Sau, vượt qua sông Hằng, lại gặp một đàn bò hoang kêu rống chạy lại, sắp muốn hại người, ngài lại quy mạng như trước, bỗng có chim Thứu lớn bay tới, đàn bò kinh hãi tản mất, ngài được thoát khỏi.

Sau, từ Nam Thiên Trúc, ngài theo thuyền biển về đến Quảng châu, ngài phiên dịch kinh Quán Thế Âm thọ ký, truyền bá khắp chốn kinh đô. Và sau đó không biết ngài thế nào.

26. Thần tăng Phật-đà Bạt-đà-la

Phật-đà Bạt-đà-la, Hán dịch là Giác Hiền. Ngài vốn dòng họ Thích, người nước Ca-duy-la-vệ, là con cháu của Cam Lộ Phạm vương. Từ thuở bé, song thân ngài đã qua đời, ngài theo Tổ Cưu-bà-lợi. Nghe ngài thông mẫn và xót thương sự cô quạnh nên Tổ đón về độ làm Sadi.

Đến năm mười bảy tuổi, ngài cùng với vài người bạn đồng học, lấy việc tụng tập làm chính. Mọi người đều tụng tập một ngày là hoàn tất. Thầy khen ngài rằng:

– Giác Hiền một ngày chọi với ba mươi người.

Đến lúc thọ giới Cụ túc, ngài lại tu nghiệp tinh cần, học rộng các kinh, thông đạt rất nhiều, ít vì thiền lực mà rạng danh. Ngài thường cùng các bạn đồng học là Tăng-già Đạt-đa, đồng đến nước Kế Tân và cùng ở đó nhiều năm. Đạt-đa tuy phục tài trí mà chưa từng chiêm nghiệm con người của ngài. Sau ở trong thất kín, đóng cửa tọa thiền, bỗng nhiên thấy ngài lại, kinh ngạc hỏi:

– Từ đâu lại?

Ngài đáp:

– Tạm đến cung trời Đâu-suất kính hầu Đức Phật Di-lặc!

Nói xong, ẩn mất. Đạt-đa biết ngài là Thánh nhân. Sau chưa lường được quả vị sâu cạn. Sau thường thấy ngài thần biến, mới đem tâm thần kính cầu hỏi và biết ngài đã chứng quả Bất hoàn. Ngài thường muốn du phương hoằng hóa, xem các phong tục.

Bấy giờ có Sa-môn Trí Nghiêm đi Tây Trúc, đến nước Kế Tân, thấy pháp chúng thanh tịnh mới bùi ngùi xoay về hướng Đông, nói:

– Các đồng bọn của tôi ở Trung Hoa vốn có chí đạo, mà không gặp được chân Thiện tri thức. Do đó, chẳng do đâu mà phát ngộ. Nay xin hỏi chư vị trong Tăng chúng ai có thể đến hoằng hóa ở Đông độ.

Tất cả các chư Tăng đều bảo:

– Phật-đà Bạt-đà-la là người làm được việc đó!

Ngài Trí Nghiêm bèn khẩn thiết thỉnh cầu, ngài Giác Hiền xót thương mà hứa khả. Từ đó, ngài bỏ đồ chúng từ biệt thầy bạn, hành lý lên đường tìm đến phương Đông, suốt ba năm, trải qua đủ thứ nóng lạnh. Vượt qua Thông lãnh. Trên đường đi qua sáu nước, các vị Quốc chủ đều khen ngợi ngài đã hoằng hóa phương xa, họ dốc lòng ngưỡng mộ phụng cúng mọi điều kiện. Đến giao chỉ mới nương thuyền men theo biển mà đi, ngang qua dưới một hòn đảo, ngài đưa tay chỉ vào núi, nói:

– Có thể dừng ở đó!

Chủ thuyền bảo:

– Hành khách tiếc ngày thuận gió khó gặp, không nên dừng.

Đi được hai trăm dặm, bỗng nhiên gió chuyển hướng thổi thuyền ngược trở lại dưới đảo. Mọi người mới rõ ra sự thần dị của ngài, đều rất kính phụng nghe theo sự chỉ bảo tiến hay dừng của ngài; sau, gặp cơn gió thổi thuận hướng, mọi người đều muốn khởi hành, ngài bảo:

– Không nên cho thuyền đi.

Chủ thuyền bèn dừng lại. Còn các thuyền không nghe theo, bỏ đi trước, đồng một lúc đắm chìm. Sau đó, giữa lúc trong đêm tối, ngài bảo các thuyền nên khởi hành, mọi người không chịu nghe theo, ngài tự đứng dậy nhổ neo chỉ một thuyền ngài đi. Bỗng chốc giặc đến, các thuyền còn ở lại đếu bị bắt hại.

Khoảng thời gian sau, đến quận Đông lai, Thanh châu, ngài nghe Cưu-ma-la-thập đang ở Trường an, ngài liền đến đó, ngài La-thập rất vui mừng, cùng nhau luận bàn phát huy sự mầu nhiệm, có được nhiều sự tỏ ngộ ích lợi. Bấy giờ, chúa đất Tần là Diêu Hưng chuyên chí phụng sự Phật pháp, thiết hội cúng dường hơn ba ngàn vị Tăng. Và thường xuyên tới chốn cung đình lớn chăm lo mọi việc, chỉ một mình ngài giữ sự yên tỉnh chẳng cùng đồng chúng.

Sau ngài nói với đệ tử rằng:

– Hôm qua ta thấy ở quê nhà có năm chiếc thuyền cùng khởi hành.

Vậy rồi, đệ tử ngài rao truyền ra người ngoài, chư Tăng xưa cũ ở Quan trung đều cho là ngài bày điều quái lạ mê hoặc quần chúng. Samôn Đạo Hằng… bảo:

– Phật còn không cho nói Pháp sở đắc của mình, Phật-đà Bạt-đàla nói trước có năm chiếc thuyền sắp đến là hư dối không thật. Vả lại, học trò của ông ta cuồng si tạo ra mọi sự tranh cãi đồng dị, căn cứ giới luật tức có vi phạm, đúng lý không được cọng trú, nên phải thời mà đi chớ được dừng ở.

Ngài bảo:

– Thân tôi nếu trôi dạt tới lui như lục bình rất dễ. Chỉ hận hoài bảo chưa được làm cho phải lẽ, vì vậy mà xót xa!

Từ đó ngài cùng các đệ tử Tuệ Quán… hơn bốn mươi vị đều phát thần chí thong dong ra đi không đổi thay sắc mặt. Các người chân Thiện tri thức đều ca ngợi mến tiếc, kẻ tăng người tục hơn ngàn vị tiễn biệt ngài ra đi. Diêu Hưng nghe ngài đi, buồn bả tức tưởi, mới nói với Đạo Hằng rằng:

– Sa-môn Giác Thuyền cách thuyền cách đạo lại đây muốn hoàn tuyên di giáo, lời bèn chưa nhã, quả thực đáng tức giận. Đâu có thể vì một lời nói sai lầm mà khiến muôn vạn người không được dẫn dắt!

Nhân đó, ban lệnh truy đuổi ngài. Ngài nói với kẻ xứ rằng:

– Thật biết ơn thánh chỉ, xong không dự bị để vâng mạng.

Từ đó, ngài dẫn đạo bạn nửa đêm hướng thẳng đến Lô sơn.

Sa-môn Thích Tuệ Viễn từ lâu đã thầm phục phong thái thanh danh của ngài. Nghe ngài đến, Tuệ Viễn vui mừng nghiêng lộng đón rước như xưa. Tuệ Viễn cho rằng ngài bị tẩm xuất chẳng qua là do môn nhân như hyuền kí có năm chiếc thuyền, chỉ nói vậy đồng ý đối với luật cũng không phạm. Tuệ Viễn bèn bảo đệ tử Đàm Ung gởi thư đến chùa chúa Tần cũng như chư Tăng ở Quang trung để cởi mở việc của ngài. Tuệ Viễn bèn thỉnh ngài giảng dạy các kinh Huyền Số, chí nguyện của ngài là muốn du hóa chứ chẳng ngồi không cầu an. Ngài dừng ở Lô sơn được ít năm lại đi đến Giang lăng ở phía Nam, gặp các thuyền người ngoại quốc. Thế rồi hỏi han, quả thật là năm chiếc thuyền ngài thấy trước kia vậy. Mọi người khắp nơi tranh nhau tìm đến cúng lễ phụng thờ, tất cả mọi thứ cúng dường, ngài đều không nhận. Ngài giữ phận trì bát khất thực, không phân biệt giàu nghèo.

Bấy giờ, Trần Quận Viên báo làm thái úy trưởng sử của vua Võ Đế (20-23), đời Tiền Tống, Võ Đế đến phương nam đánh phạt Lưu Nghị, Viên Báo theo phụ đến Giang lăng, ngài dẫn đệ tử Tuệ Quán đến Viên Báo khuất thực. Báo vốn không tin nên đãi ngài rất lạnh nhạt, ăn trưa no ngài đã từ biệt ra đi, Viên Báo:

– Tợ như không đủ nên không dừng ở lâu.

Ngài bảo:

– Thí chủ cúng dường mà tâm hạn hẹp nên khiến sự thiết bày đã hết sạch.

Viên Báo liền gọi người chung quanh mang cơm thêm, quả thật là cơm đã hết, Viên Báo vô cùng hổ thẹn. Thế rồi, Báo hỏi Tuệ Quán rằng:

– Sa-môn ấy là người như thế nào?

Tuệ Quán đáp:

– Đức lượng cao xa chẳng phải kẻ phàm có thể suy lường được.

Báo vô cung thán phục sự khác thường, nên tấu trình cùng thái úy. Thái úy xin được cùng diện kiến và rất sùng kính ngài, cúng dường đầy đủ mọi thứ. Bỗng chốc mà thái úy trở về lại kinh đô, thỉnh ngài cùng về an trú tại chùa Đạo tràng.

Năm Nguyên Gia thứ 6 (29), đời tiền Tống, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi.

27. Thần tăng Đàm Thúy

Thích Đàm Thúy chưa rõ là người xứ nào. Xuất gia từ thuở thiếu thời, ở tại chùa Bạch mã; Hà âm. Ngài chỉ dùng rau quả qua bữa, mặt áo vải thô, tụng kinh Pháp Hoa, thường giải thích ý thú của kinh và cũng là người thường luôn cởi mở cho mọi người. Thường ở trong đêm, bỗng nghe tiếng gõ cửa và thưa rằng:

– Muốn xin thỉnh pháp sư thuyết pháp cho chín tuần!

Ngài không hứa khả; xong, cố thỉnh ngài nên ngài mới đến giảng, và cũng chỉ riêng trong giấc ngủ, đến lúc tỉnh giấc thì thân đã trong đền thờ thần ở hốc núi Bạch Mã cùng với một đệ tử. Từ đó, ngày ngày hai thầy trò kính đáo song giảng. Sau, chư Tăng trong chùa đi ngang qua đền, thấy có hai tòa cao, ngài ngồi phía Bắc, vị đệ tử ngồi phía nam, lại như có tiếng giảng nói và nghe mùi hương thơm kì lạ. Từ đó, kẻ tăng người tục cùng rao truyền thần dị. Đến khi mãn hạ, thần cúng dường một con ngựa trắng, năm con dê trắng và chín mươi sắp lụa. Ngài trú nguyện xong, từ đó dứt tuyệt.

28. Thần tăng Đăng Sư

Thần tăng Đăng Sư ở chùa Đại lâm, Khuông lư, tụng thông kinh Pháp Hoa, ngày đêm không ngừng nghỉ. Một ngày nọ bỗng thấy giữa không trung có một điện bạc dần dần hạ xuống nơi phòng và biến thành điện vàng, ngài bèn vào trong điện, đứng ngoài kinh thành, cứ như thế trong ba năm. Tứ chúng xa gần trang nghiêm hương hoa theo ngài cầu xin thọ giới. Ngài bảo:

– Ban ngày lắm sự thi tạp, tâm nhiều tán loạn, nên giữa đêm thanh tịnh vắng lặng mà thọ giới.

Đến đêm tối, ngay lúc thuyết giảng giới tướng Tam quy. Khi đó, trong giọng nói của ngài phóng ra luồng ánh sáng chiếu soi khắp đại chúng. Đại chúng thấy ánh sáng, đua nhau lễ bái huyên thuyên ồn náo, ngài liền ngưng giảng và ánh sáng cũng dần dần biến mất. Ngài bảo:

– Vốn muốn trong lúc thọ giới thấy được ánh sáng mà quý vị ồn náo. Ánh sáng là biểu hiện điềm tốt lành của việc thọ giới, chưa phải là chánh duyên đắc giới. Nên lập lại như từ đầu.

Đại chúng im lặng, ngài lại thuyết pháp và phóng ánh sáng, chúng lại ồn náo, nhân đó mà ngài dừng nghỉ. Sáng ngày trở lại, ngài liền từ biệt trở vào núi, chỗ hiện điện vàng hoàn lại như cũ. Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài bảo mọi người:

– Nay lên điện vàng không còn trở lại.Ngay ngày đó, bỗng chốc siêu hóa.

29. Thần tăng Bảo Thông

Ngài Bảo Thông tinh tu phạm hạnh, trường kỳ trí tụng phẩm Đàla-ni trong kinh Pháp Hoa, hỏi có phần linh dị. Bấy giờ, ở thôn Dương kiều, có gia đình họ Triệu, người vợ bị thần gạ gẫm, nên thỉnh ngài trì chú. Ngài vừa đến nhà ấy, thần liền hiện hình, ngài bảo rằng:

– Phàm là thần ở trong thôn ấp, hợp lý phải nên vun bồi phước đức. Cớ sao trái lại gạ gẫm hại người?

Thần thưa:

– Việc đó không phải do đệ tử làm mà chính do tiểu quỷ thuộc hạ làm.

Liền gọi tiểu quỷ đến trước trách phạt. Nhân đó mà người vợ họ

Triệu được lành bệnh, bèn ca ngâm suốt đêm. Gia đình lại thỉnh cầu ngài, ngài đến xem và trách quỷ tại trước giường bệnh. Ngài bảo:

– Trước ta đã răn trị ngươi không được trở lại. Nếu ngươi không đi, ta sẽ trì tụng thần chú khiến đầu ngươi chia chẻ thành bảy phần như nhánh cây a-lê.

Quỷ liền gục đầu thống thiết cầu xin ngài chớ có trì tụng thần chú. Từ đó, bệnh dứt hẳn và quỷ không còn trở lại nữa.

30. Thần tăng Tuệ Thiệu

Thần tăng Tuệ Thiệu, không biết gốc tích ngài ở đâu. Từ thuở bé thơ, mỗi lúc mẹ mớm cơm có cá thịt ngài liền nhả bỏ, từ đó ngài không ăn các thứ cay nồng. Năm lên 8 tuổi, ngài xuất gia làm Tăng, ngài thông hiểu kinh Pháp Hoa, kiên trì tu khổ hạnh.

Sau, ngài theo thầy là ngài Tăng Yếu trú tại chùa Chiêu đề, Lâm châu. Ngài thường nhớ nghĩ thâm ân chư Phật, phát nguyện muốn xả bỏ thân mạng để báo đáp. Ngài bèn thuê người chặt củi chất cao một trượng ở thạch thất tại Đông sơn, ở giữa mở một cái khám rồi trở về chùa báo cho thầy ngài biết. Thầy ngài cản ngăn. Song, ngài chẳng vâng theo. Từ đó, ngài định ngày đến núi thiết hội Bát Quan Trai, mọi người khắp nơi đều tụ hội về, mây phủ khắp hang núi. Đến đêm tối, ngài tự hành hương, cầm đuốc châm lửa vào củi rồi vào trong khám ngồi tụng phẩm Dược Vương xả thân trong kinh Pháp Hoa, lửa men cháy đến trán vẫn còn nghe tiếng tụng kinh. Đại chúng bỗng thấy một vị sao lớn như Bắc đẩu sa thẳng xuống trong lửa, giây lát sao thăng biến lên giữa trời. Mọi người đều cho rằng “Đó là điềm từ cung trời đến nghênh đón.” Ngài từng nói với các bạn đồng học rằng:

– Nơi chỗ tôi thiêu thân, sẽ mọc lên cây ngô đồng, xin chớ chặt phá nó!

Quả thật sau ba ngày ngài thiêu thân, tại đó có cây ngô đồng mọc, kẻ Tăng người tục đều lấy làm lạ đó.

31. Thần tăng Ngộ Thuyên

Thần tăng Ngộ Thuyên ở đất Thục, ngài hiệu là Giác Hải, có chân tánh sáng suốt.

Có người nhà giàu ở Hạp châu, tên là Trình Di Bá, năm hai mươi chín tuổi, một đêm nọ mộng thấy cha ông ta bảo rằng:

– Nội trong năm nay ông sẽ chết. Nên đến hỏi ngài Giác Hải.

Di Bá mịt mờ chẳng hiểu gì. Một hôm có vị Tăng đoán tướng, tự hiệu là Giác Hải, Di Bá xin đoán tướng một quẻ, hỏi rằng – Tôi sống thọ được bao lâu?

Ngài Giác Hải bảo:

– Lão Tăng đều không cầu.

Ngài chỉ tìm kiếm một chén nước, hà hơi vào trong nước, đưa cho Di Bá uống và bảo:

– Đêm nay, có mộng tốt lành, có thể bảo tướng cho ông biết.

Ngay đêm đó, Di Bá mộng thấy đến một quan phủ, ở phía hành lang bên trái, kẻ nam người nữ áo mũ nghiêm chỉnh đều cùng nhau mừng vui, còn ở hành lang bên phải đều là những người bị gông cùm bó buộc, kêu gào khóc lóc nước mắt rơi dầm dề. Bên cạnh có một người bảo Di Bá rằng:

– Ở hành lang bên trái là những người chăm lo tu sửa cầu đường, ở hành lang bên phải là những người thuyền xuyên phá hủy cầu đường. Nếu ngươi muốn cầu phước thọ thì hãy tự chọn lấy.

Di Bá tỉnh giấc mộng, liền phát tâm làm cầu đường trong phạm vi trăm dặm, mỗi mỗi đều tu sửa nghiêm chỉnh. Khi công việc hoàn thành, ngài Giác Hải trở lại bảo:

– Ông làm việc như vậy có thể kéo dài mạng sống được mười năm!

Từ đó, trên mọi nẻo đường, Di Bá đều dốc công tu sửa không hề biết mệt mỏi. Di Bá thọ được chín mươi hai tuổi. Trong gia đình, năm đời đồng chung sống xướng minh hưng thịnh.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9