TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 6

 

101. Thần tăng Pháp Thuận

Thích Pháp Thuận, ngài dòng họ Đỗ, người ở huyện Vạn niên, Ung châu. Bẩm tánh ngài thường luôn nhu hòa. Năm mười tám tuổi, xả tục xuất gia, ngài phụng thờ Thiền sư Tăng Trân ở chùa Nhân thánh, thọ trì định học.

Ngài từng đến Khánh châu hoằng hóa, khuyên người thiết trai hội cúng dường năm trăm vị Tăng. Đến lúc vào trai đường thọ thực, số người lại gấp bội, người chủ cúng dường lo sợ, ngài bảo:

– Không có gì phải sợ. Chỉ nên chuyền khắp chu cấp chớ going cúng dường thì đến cả ngàn vị cũng đều đủ.

Có Trương Hà Giang và Trương Hoằng Sướng, trong nhà chăn nuôi trâu ngựa, tánh vốn tệ ác, mọi người đều mắc hoạn với nhà đó là bán mà không lấy lại được tiền. Ngài bày lời từ thiện thì như có chỗ vâng theo, từ đó về sau không còn xúc chạm ăn mòn nữa.

Ngài từng dẫn chúng lên núi Ly nương náu tịnh tu trong mùa hạ. Ngoài đất có nhiều trùng kiến, không do đâu mà gieo trồng rau quả. Ngài sợ làm tổn hại đến chúng, liến đến ngoài đất như chỉ bày khiến các côn trùng dời nơi cư ngụ. Sau đó không lâu, ra xem lại, như có sự phân tề tự nhiên không còn có côn trùng.

Thời bấy giờ, ngài mắc bệnh phù thủng, máu mủ vỡ chảy ra ngoài. Có người kính trọng mà mổ lấy, hoặc dùng bông để lau, bỗng nhiên bệnh ngài lành hẳn. Số mủ còn lại phát ra mùi hương thơm khó mà sánh được, nơi bông lau chùi còn mang lại mùi thơm chẳng mất. Dân ở Tam nguyên, có Điền-tát-đỏa, từ lúc mới sinh bị mắc bệnh điếc. Lại có Trương Tô cũng bị bệnh câm ngọng, ngài nghe thế, bèn cùng ngài bàn luận và bệnh tình cũng dứt hẳn.

Tại huyện Võ công có vị Tăng bị độc long làm mê hoặc, mọi người dẫn đem đến ngài, ngài bảo khoanh tay ngồi đối diện với ngài.

Độc long gá vị Tăng bệnh nói rằng:

– Thiền sư đã lại, nghĩa không ở lâu.

Cực tướng nhọc nhiễu, bỗng nhiên liền cởi mở. Nên mọi người xa gần bị độc chướng dịch lệ ai cũng tìm đến ngài để giải bày mọi khổ não. Ngài không dùng pháp thuật gì cả, chỉ ngồi đối diện với ngài thôi mà mọi bệnh đều lành.

Nhân có Phật sự, ngài đi đến Nam dã, sắp qua sông Hoàng cừ. Nước ở sông ấy đầy tràn, mọi người gắng gỏi mà vượt qua, bờ đá đã cao lại trơn nhẵn, tuy có leo lên nhưng cũng bị rơi lại xuống nước, bỗng nhiên nghĩ liền đến theo đường đất liền mà qua. Kịp đến lúc ngài lên tới bờ thì nước trở lại như cũ, môn nhân chớ thấy mà chẳng lường được sự việc ấy.

Đến năm Trinh Quán thứ 1 (60), đời tiền Đường, ngài không bệnh khổ gì, bỗng nhiên gọi đồ chúng đến mà chúc lụy rằng:

– Hành pháp của đời tôi để lại cần nên tiếp nối trường tồn!

Nói xong, ngài vẫn như thường an tọa thiền định mà thị tịch ở chùa Nghĩa thiện tại Nam giao.

102. Thần tăng Chí Khoan

Thích Chí Khoan, ngài dòng họ Diêu, người xứ Hà đông, Bồ châu. Xem qua các kinh, ngài liền lấy kinh Niết-bàn và Địa luận làm tông chỉ nương tựa.

Tại phòng ngài ở mỗi đêm thường có âm hưởng của áo dày mũ trụ chấn động. Mọi người lén trộm mà nhìn đều thấy thần nhân phi thường đi nhiễu quanh phòng. Bấy giờ ở Xuyên ấp có hổ bạo hành khiến mọi người bị cắt đứt đường đi. Chúng nó hợp đàn cả vài trăm con đi qua thôn xóm thành ấp làm tổn hại người và vật. Trong đàn có con thú chúa, đầu nó rất lớn có đủ năm sắc, rất oai phong điều khiển các con thú khác. Toại châu đô đốc Trương Tốn, từ xa nghe được đức hạnh từ bi của ngài, bèn sai người đến thỉnh mời. Ngài bèn bảo khắp trong châu huyện thiết lập trai pháp hành đạo, mỗi người tự thọ tám giới. Từ đó, không còn bị hổ quấy nhiễu nữa, chẳng biết chúng nó đi về đâu. Người thời bấy giờ cảm kích việc ấy bèn tôn thờ ngài như Thần thánh.

Đầu niên hiệu Trinh Quán (627-…), ngài trở về Bồ tấn, bấy giờ khắp châu quận gặp phải hạn hán, cầu đảo mọi nơi đều không toại nguyện. Cả thảy quan dân mới đến thỉnh mời ngài. Ngài bèn thiết lập đàn tràng, đem thân mình ra tự lập lời thề:

– Nếu chẳng ban giáng mưa móc thì chẳng trở lại phòng nhà.

Ngài phơi hình hai ngày, mây rủ kín khắp nơi, ba ngày về sau,

khắp nơi mưa ngập tràn, dân chúng nhờ đó mà được mùa.

Trước lúc viên tịch, ngài nghiêng về phía hữu mà nằm, gối đầu lên tay phải, bảo cùng môn đồ rằng:

– Sinh tử dài lâu, người có đợi chờ cũng thế. Các ngươi chỉ nên tự quán thân như huyễn, tức không có ái kết tự buộc. Mạng ta cũng dứt, nên dùng hai cái đòn tay một tấm chiếu trúc bó lại mà khiêng đưa, không được theo thế tục phân vân làm điều chẳng ích lợi gì! Nói xong, ngài liền thị tịch.

103. Thần tăng Thế Du

Thích Thế Du, ngài dòng họ Trần, trú tại Đài châu. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (616), đời nhà Tùy, ngài đến chùa Chấn hưởng ở Miên châu theo Pháp sư Luân, cầu xin xuất gia. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, cần khổ tương tục. Ngài lại vào chùa Tịch trú ở Lợi châu.

Sau, ngài lại vào núi hưởng ứng ở huyện Miên trúc; Ích châu ở riêng một mình nhiều năm. Có bốn con vượn cúng cấp trái cây rừng… để ăn. Có tín sĩ mẫu gia sinh mang có tấm lòng cúng dường, thường vào trong rừng sâu thường đốt hương huân lục trầm thủy… Thế rồi từ núi trở về, đến nửa đường, thấy hai người hình rất sắc xanh dáng mạo ít có ở đời, mỗi người tự nắm hoa sen, mía, khoai, đi lên, bảo rằng:

– Chúng tôi đến cúng cho Thiền sư.

Nhưng ngài ở tại núi trong ba năm chỉ ăn một thạch bảy thăng gạo, thường ngày sáu thời hành đạo, làm bạn với chim muông khỉ vượn. Đầu tiên chỉ có một dòng suối, sau có ba dòng sinh ra ở dưới.

Trong năm Trinh Quán thứ nhất (627), đời tiền Đường, ngài mộng thấy có bốn con rồng đến, vào trong tràng mắt ngài, thế rồi, tỉnh giấc, ngài đại ngộ tông chỉ Tam luận. Ngài đến giảng tòa của Pháp sư Linh Duệ, được nghe ngôn từ nghĩa lý uyển chuyển như tìm lại vết xưa. Ngài lại trở về Miên châu, trú tại chùa Đại thí. Đến năm Trinh Quán thứ 19 (6), đời tiền Đường, ngày mồng tám tháng tư, ngài sang chùa Sùng Lạc, nói rằng “muốn du phương”, có người dụ bảo:

– Chỉ ở chùa này là Các khương.

Nhân đó, ngài liền trở về phòng cũ ở chùa Đại thí, mùi hương thơm lạ phảng phất khắp thất, trong lòng đất ngay dưới tòa của ngài vọt lên ba đồng tiền vàng. Cả chúng theo mùi hương mà biết được từ trong phòng ngài thoảng ra, mới thấy ngài ngồi kiết già trên tòa, tay ngài còn bưng lấy lò hương, bỗng nhiên ngài thị tịch, hưởng thọ sáu mươi ba tuổi.

104. Thần tăng Huyền Trang

Thích Huyền Trang, ngài vốn tên Y, dòng họ Trần, người xứ Câu thị; Lạc châu. Thuở thiếu thời, gặp phải cùng khốc, ngài theo người anh cả là Pháp sư Tiệp trú ở chùa Tịnh độ. Anh ngài trao cho tinh lý gồm thêm các xảo luận. Năm mười một tuổi, ngài tụng kinh Duy-ma, Pháp Hoa… Tại Đông đô thường độ Tăng và cùng Tăng chúng bàn luận kinh điển.

Từ đó, ngài vượt hẳn tự nhiên ngay thẳng chẳng hẹn mà ham muốn hâm mộ đại pháp. Sau, ngài đến Trường an, trú tại chùa Trang nghiêm, lại chẳng phải là ước vọng chính đáng, ngài đi về hướng Tây vượt qua Kiếm các, tới Thục đô, ngài thọ học các kinh luận, nghe qua một lần tức nhớ mãi không quên.

Năm Vũ Đức thứ (622), đời tiền Đường, ngài hai mươi mốt tuổi, vì các học chúng. Ngài phụ giúp Sa-môn Hùng Bá xiển dương Tam luận, thấu đạt văn tướng mà chuyên tụng chú. Người thời bấy giờ tôn xưng ngài là Thần nhân. Sau, ngài lại đi khắp các xứ Kinh châu, Dương châu…, tham vấn các bậc Đạo nhân lân cận. Ngài lại trở về Kinh liễn đến nhiều nơi, biến học Thư Ngữ hành tọa tầm trao chỉ vài ngày là thông suốt và chờ cơ hội đến.

Năm Trinh Quán thứ 3 (629), đời tiền Đường, gặp lúc ban sắc kẻ tăng người tục tùy sự lớn thịnh đi ra mọi nơi. Do đó, ngài được sang Tây Vực thỉnh cầu các Kinh Tượng. Ngài đi đến nước Kế Tân, đường đi hiểm trở, hổ báo cản ngăn không thể vượt qua. Ngài chưa tìm ra phương kế bèn đóng cửa phòng mà ngồi. Đêm đến, mở cửa ra bỗng thấy một vị lão Tăng đầu mặt lở loét, thân thể đầy máu mủ một mình ngồi trên giường, chẳng biết từ đâu lại. Ngài mới lễ bái cần cầu. Vị Tăng đó, từ miệng đọc trao cho ngài một quyển Tâm kinh và bảo ngài trì tụng. Từ đó, bèn được sông núi bình dị, đường sá mở thông, hổ báo ẩn hình, ma quỷ lắng vết. Ngài liền đến nước Nhật, thỉnh cầu các bộ kinh hơn sáu trăm bộ.

Năm Trinh Quán thứ 19 (2), ngài trở về kinh đô, vua Thái Tông ban sắc ngài trú tại chùa Ngọc hoa phiên dịch kinh tạng. Từ thuở bình sinh trở lại, ngài thường nguyện sinh về cung trời Đâu-suất trú xứ của Đức Phật Di-lặc. Đến lúc ngài sang Tây Vực, lại được nghe hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân đều sinh ở cung trời đó, lại thường cầu thỉnh đều có hiển thể. Sau ngài đến chùa Ngọc hoa, trong những lúc nhàn rỗi, khi nào ngài cũng nguyện.

Đến năm Lân Đức thứ nhất (66), đời tiền Đường, ngài bảo các vị

Tăng cùng phiên dịch và môn nhân rằng:

– Phàm các pháp hữu vi đều kết quy về hoại diệt. Hình chất bọt bóng đâu có thể trường tồn! Năm sáu mươi lăm tuổi, tôi sẽ tịch tại chùa Ngọc hoa. Đối với các kinh luận, những ai có nghi gì, nay có thể mau hỏi!

Mọi người nghe thế, lấy làm lạ. Ngài bảo:

– Việc đó hãy tự biết.

Ngài bèn đến điện lễ tạ Phật rồi từ biệt chư Tăng. Thế rồi, ngài mang bệnh, thường thấy hoa sen lớn trắng đẹp hiện lại, lại thấy tướng

Phật. Ngài bảo chư Tăng đọc lại danh mục các kinh luận đã phiên dịch. Tổng cộng có bảy mươi ba bộ, một ngàn ba trăm ba mươi quyển, ngài tự ôm lòng mừng vui. Ngài gọi tất cả đệ tử và những vị hữu duyên đều nhóm tụ, ngài bảo:

– Vô thường sắp đến, hãy nhanh cùng gặp!

Ở tại điện Gia thọ, ngài đem tượng cốt bằng hương mộc cây Bồđề, đối trước chúng tăng trong chùa Từ quyết và để lại di biểu xong, ngài bèn mặc niệm danh hiệu Đức Di-lặc, nghiêng về phía hữu duỗi xếp hai chân, dùng tay phải gối đầu, tay trái đặt trên đùi vế, bền vững an nhiên bất động, hơi thở ngừng dứt thâu thần thị tịch. Trải qua hai tháng mà sắc mạo vẫn như thường, mới an táng tại gò đồi Bạch lộc.

Trước kia, lúc sắp đi Tây Vực, tại chùa Linh nham, thấy có một cây tùng, ngài đứng giữa sân, đưa tay xoa vuốt các cành tùng, bảo:

– Tôi đi Tây phương cầu thỉnh Phật giáo, người nên lớn mạnh về hướng Tây. nếu ta trở về thì ngước xoay về hướng Đông, khiến cho đệ tử tôi được biết!

Khi ngài đi thì hằng năm cành tùng ấy chỉ về hướng Tây dài lớn độ vài trượng. Một năm nọ, bỗng nhiên tự xoay về hướng Đông, môn nhân đệ tử ngài bảo nhau rằng:

– Đức giáo chủ sắp trở về.

Bèn đến phương Tây để nghênh đón, quả thật là ngài trở về. Đến nay, mọi người đều gọi cây tùng đó là Ma đảnh tùng.

105. Thần tăng Pháp Mẫn

Thích Pháp Mẫn, ngài dòng họ Tôn, người xứ Đơn dương. Năm lên tám tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Anh, ngài đến Mao sơn, nghe Pháp sư Minh giảng Tam luận, tỏ ngộ được tông chỉ.

Năm Trinh Quán thứ nhất (627), đời tiền Đường, ngài ra khỏi núi, trở về Đơn dương, giảng các kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn. Qua năm sau, Việt châu Điền đô đốc đuổi tìm thỉnh ngài về chùa Nhất âm tiếp tục chuyển vận xe pháp. Đến lúc đại chúng tụ hội, các bậc Sa-môn nghĩa học hơn tám trăm người ở các nơi hơn bảy mươi châu, chư Tăng tại bổn xứ một ngàn hai trăm vị, chư Ni ba trăm vị, còn hàng cư sĩ không thể tính kể.

Đến năm Kinh Quán thứ 19 (6), đời tiền Đường, các hàng sĩ tục ở Cối kê thỉnh ngài đến trú tại Tĩnh lâm giảng kinh Hoa Nghiêm. Đến cuối tháng sáu, trong lúc đang giảng, có con rắn quấn nửa thân hình trên cổ ngài dài đến bảy thước, nhả ra vàng ròng phóng ánh sáng năm sắc, tới lúc giảng xong mới ẩn. Đến hết mùa Hạ, ngài trở về chùa Nhất âm, ban đêm có hai người mặc áo đỏ đến lễ bái, thưa rằng:

– Pháp sư giảng bốn bộ kinh lớn công đức khó lường. Phải qua phương khác giáo hóa, nên chúng tôi từ phương Đông đến đây nghênh đón Pháp sư.

Đệ tử của ngài vài mươi người đều thấy tướng đó. Đến ngày 17 tháng 8, trước đó suốt ba ngày ba đêm, vô cớ bỗng nhiên tối tăm, vừa đến ngày 23 sắp qua, bỗng nhiên phóng ánh sáng lớn, ban đêm sáng tỏ như ngày. Nhân đó, ngài thị tịch, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi. Thân ngài cao bảy thước sáu tấc. Đình lại tang lễ bảy ngày, ngoài tháp phóng ánh sáng, giữa đất chấn động có hương lạ bay khắp. Ai cũng sinh tâm ngợi ca và đưa đến an táng tại núi Long an.

106. Thần tăng Tuệ Cừ

Thích Tuệ Cừ, ngài dòng họ Đổng, xuất gia từ thuở thiếu thời tại Tương xuyên. Trong thời Bắc Chu phá diệt Phật pháp, sau đó xoay qua Trần triều thuộc Nam triều, ngài vào Mao sơn, nghe Pháp sư Huyền Bố giảng Tứ Luận, Đại Phẩm, Niết-bàn,… Sau nữa, ngài lại đến chùa Đại lâm ở An châu nghe Pháp sư Viên giảng Thích luận. Phàm chỗ du nhận đều khế hợp sâu mầu.

Ngài lại trở về Hương tử trú tại chùa Quang phước trên đỉnh núi. Vì không thuận duyên nên sắp dời đến chùa khác, ban đêm ngài thấy Thần nhân thân cao một trượng mặc áo bào tía, đến đảnh lễ thưa rằng:

– Phụng thỉnh Pháp sư trú tại xứ này thường giảng kinh giáo Đại thừa, chớ nghĩ về Tiểu thừa. Kinh giáo Tiểu thừa cũng như trên núi cao không có nước không thể làm lợi ích mọi người. Còn kinh giáo Đại thừa tợ như biển lớn. Tại núi này có nhiều Đức Phật xuất thế, một người đọc tụng giảng nói kinh giáo Đại thừa, hay khiến tại chỗ ở các thứ trân báu phát sáng, mọi phẩm vật ẩm thực đều được sung túc, nếu trước đó có các sự thuộc Tiểu thừa thì thảy đều tiêu mất. Cúi mong ngài hoằng trì chớ có phụ lòng mong ước. Pháp sư cần nước, việc ấy không khó, đến ngày mồng tám tháng sau hẳn sẽ có. Tôi tự sang Kiến nam tại núi Từ mẫu có dòng suối lớn xin một Long vương đến!

Nói xong thì không thấy nữa. Vừa đến đầu đêm mồng bảy tháng sau, có gió lớn thổi gấp từ phía Tây nam lại, sấm sét chấn động mưa tuôn ở phía Bắc chùa dưới miếu Hán cao, cách sau Phật đường trăm bộ, suốt đêm tương tục đến sáng mới dừng. Chỉ thấy một dòng suối trong, thơm mát lại đẹp. Cả chúng đồng được may mắn, kịp chỉ long tuyền tạm bèn khô kiệt.

Trong năm Trinh Quán thứ 23 (69), đời tiền Đường, ngài giảng kinh Niết-bàn. Đêm mồng tám tháng tư, thần núi đến bảo ngài rằng:

– Pháp sư hãy mau xây dựng phòng nhà, không lâu nữa, ngài sẽ sinh về Tây phương. Đến ngày 1 tháng 7, ngài giảng kinh Vu Lan xong, ngài đưa tay bảo:

– Đời nay thường thọ dụng của tín thí, nay đều ban trải khắp. Mọi vật từ một hào trở lên đều xả thế vào thập phương chúng Tăng và những người khốn cùng hành khất cũng như bao loài vật khác.

Nói xong, ngài bèn thị tịch ngay trên Pháp tòa, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi.

107. Thần tăng Phong Can

Ngài Phong Can trú tại chùa Quốc thanh ở Thiên thai. Cắt tóc ngang mày, vải cừu che thân, thân cao hơn bảy thước. Có người mượn hỏi, ngài chỉ trả lời bằng hai chữ Tùy Quyên mà thôi, ngoài ra không lời gì khác. Sớm đi khắp thành kế đến vào trai trù nấu thổi. Ngài từng cỡi hổ đi vào trùng môn, chúng Tăng kinh sợ, miệng xướng đạo ca. Ngài cùng hai vị Thập Đắc và Hàn Sơn Tử rất tương đắc vui vẻ.

Ngài cất bước vân du, vừa lúc quan Diêm Khâu muốn ra trấn thủ Đài Châu, bỗng dưng bị bệnh đầu phong, mời các thầy thuốc chữa trị đều chẳng lành. Tình cờ, ngài đến nhà ông ta, tự bảo là sẽ trị khỏi bệnh ấy. Diêm Khâu nghe mà cầu thỉnh, ngài bèn trì tịnh thủy phun vào, trong khoảng khắc dứt lành. Nhân đó, càng thêm kính ngưỡng, Diêm Khâu hỏi ngài từ đâu đến, ngài bảo:

– Ở tại chùa Quốc thanh, núi Thiên thai.

Lại hỏi:

– Ở đó có các bậc Hiền đạt chăng?

Ngài đáp:

– Hàn Sơn là Văn-thù, Thập Đắc là Phổ Hiền, hai vị đó đang ở đó nên đến mà bái kiến.

Diêm Khâu rất kính tin, ba ngày sau liền đến chùa, hỏi:

– Ở đây từng có Thiền sư Phong Can chăng?

Chư Tăng ở chùa đáp:

– Có.

Hỏi:

– Phòng ngài ở đâu? Hàn Sơn và Thập Đắc là người nào?

Khi đó có Sa-môn Đạo Kiều đáp:

– Phòng cũ của Phong Can tức ở sau kinh tạng. Nay vắng teo không người chỉ có hổ báo, khi đến đó chỉ nghe tiếng gầm gừ. Còn Hàn Sơn và Thập Đắc, hai người hiện đang lao tác trong nhà trù.

Diêm Khâu đến phòng của ngài chỉ thấy dấu vết của hổ báo ngang dọc. Lại hỏi:

– Khi người ở đó thường làm nghề gì?

Đáp:

– Chỉ chuyên việc giả gạo cúng dường cơm cháo cho chúng tăng. Tối đến thì xướng ca phúng tụng không thôi.

Ta thán như thế đến hai ba lần, Diêm Khâu lại đến nhà trù, thấy hai ngài Thập Đắc và Hàn Sơn, liền lễ bái. Hai ngài đứng dậy bỏ chạy bảo:

– Ông Phong Can thật lắm lời, đó là Di-đà mà các người không biết.

Bèn nắm tay dẫn nhau ra Trùng môn không trở vào chùa nữa.

Sau, cuộc đời của ngài Phong Can như thế nào không được biết!

108. Thần tăng Hàn Sơn Tử

Hàn Sơn Tử, người đời gọi ngài là Bần Tử, là kẻ sĩ cuồng phong, không thể diễn đạt được. Ngài ẩn cư tại Thiên Thai phía Tây huyện Thỉ Phong, cách bảy mươi dặm, với danh hiệu là Hàn Ám nhị nham. Ngài thường ở trong núi hang lạnh kín, lấy thiền định làm tông chỉ.

Lúc ngài đến chùa Quốc thanh, ở đó có ngài Thập Đắc, chư Tăng trong chùa cắt cử ngài Thập Đắc coi sóc việc ăn uống ở Trai đường. Thường ngày lượm nhặt các thức ăn rau quả cặn bả của chúng Tăng ăn thừa, chặt đốt tre lớn làm ống bỏ vào trong đó, đợi Hàn Sơn lại mang đi. Hoặc có lúc dưới hàng hiên, ngài đi chậm rãi; có lúc kêu réo hơn người; có lúc nhìn trời chửi mắng, chư Tăng trong chùa nhẫn nhìn không nỗi dùng gậy xua đuổi đi, ngài liền nhào lộn thân vỗ tay cười ha ha rồi bỏ đi. Có lúc, ngài chỉ mặc chiếc áo cánh, linh lạc, diện mạo khô gầy mỏi mệt, dùng da gỗ hoa làm mũ, mang đôi guốc gỗ lớn. Hoặc có lúc phát ngôn từ có chỗ kết quy, đó là quy về Phật lý.

Đầu tiên, khi Diêm Khâu đến chùa Phỏng hỏi về Hàn sơn, Samôn Đạo Kiều trả lời:

– Đó là người mắc bệnh cuồng, vốn cư trú tại chùa Hàn nham, hay ngâm nga từ kệ, nói năng bất thường. Hoặc ẩn tàng hoặc không, trọn chẳng thể biết được. Ông ấy cùng với hành giả Thập Đắc trong chùa này kết bạn tương giao. Những lúc gặp nhau, họ nói năng không thể rõ ràng.

Chư Tăng trong chùa thấy quan thái thú đến lễ bái ngài, kinh lạ, bảo:

– Quan lớn cớ sao lễ bái kẻ phong cuồng ấy?

Hai người cùng nắm tay nhau cười ngạo bước ra khỏi chùa.

Diêm Khâu lại đến Hàn nham dò hỏi và mang theo xiêm y thuốc thang vật thực đến cúng dường, mà ngài lớn lời xướng rằng:

– Giặc ta, giặc lui đi!

Rồi bèn rút mình vào trong núi, bít hang đá lại. Ở trong đó, ngài lại nói:

– Báo cho các ngươi biết, các ngươi mỗi người phải tự mình nỗ lực!

Hang đá đó bít hết, tự nhiên tra tìm không có dấu vết, mới trở về, nói Sa-môn Đạo Kiều tìm lại di vật của ngài, chỉ thấy ở trong rừng, ngài khâu lá viết nên những bài từ bái tụng, cũng như ở ruộng nhà trong thôn, vách tường nhà người, sao chép được hơn hai trăm bài, biên thành một tập. Nhiều người đọc tụng, thậm chí có câu: “Khoảng sân sao có mây trắng ôm phủ đá mờ”…

109. Thần tăng Thập Đắc

Ngài Thập Đắc, là do Thiền sư Phong Can tình cờ đi trên núi đến Xích thành, nghe tiếng đứa trẻ khóc, bèn tìm lại thì thấy đứa trẻ độ vài tuổi. Đầu tiên ngài Phong Can cho rằng đứa trẻ đứng chăn trâu, nhưng vỗ về dò hỏi đầu mối, thì đứa trẻ đáp rằng:

– Không có nhà cửa riêng một mình bị bỏ ở đây.

Ngài Phong Can bèn dẫn đến chùa Quốc thanh, giao cho vị tăng Điển Tòa ở đó và bảo:

– Nếu có người đến nhận thì cứ giao trả lại.

Sau, Sa-môn Linh Dập nhận lấy và bảo ngài coi sóc việc hương đăng tại trai đường.

Một hôm thấy ngài leo lên trên tòa cùng bàn đối diện với tôn tượng mà ăn. Lại kêu Kiều-trần-như là Tiểu quả Thanh văn! Bên cạnh như không có người nắm đưa cười lớn. Chư Tăng mới xua đuổi ngài, còn ngài Linh Dập thì trình hỏi các bậc Tôn túc, đều bảo chớ để ngài làm việc tại trai đường, lại bảo ngài vào nhà trù lo việc sửa dọn nồi niêu chén bát. Tẩy rửa xong, ngài lắng lại những cặn bã thức ăn còn lại để vào trong một ống tre, ngài Hàn Sơn lại thì mang đi. Thần miếu hộ trì già-lam thường ngày vào nhà trù để ăn, bị chim quạ mổ gắp rơi vãi, ngài dùng gậy đánh vào tượng đất vài ba cái, bảo:

– Ngươi ăn uống còn không thể giữ gìn, vậy làm sao giữ già-lam?

Đêm đó, gá mộng cùng khắp chư tăng trong chùa, bảo:

– Thập Đắc đánh tôi!

Sáng sớm chư Tăng kể lại giấc mộng đều giống nhau. Cả chùa đều phân vân, mới biết ngài là người phi thường.

Bấy giờ, Diệp Thân châu huyện quận có lời phú rằng:

– Hiền sĩ ẩn đạo, Bồ-tát ứng thân. Nên dùng cờ tiêu biểu đề hiệu Thập Đắc là Hiền sĩ.

Ngài lại ở ngoài trang trại của chùa để chăn giữ trâu, ngài ca vịnh khắp trời. Đương lúc chúng tăng trong chùa hành lễ Bồ-tát, ngài lùa trâu đến trước pháp đường nơi chúng tăng đang tụ hội, ngài dựa cửa vỗ tay cười lớn, bảo:

– Rằn rặc là nhóm đầu.

Khi đó, vị Thủ tòa đang tụng luật quát rằng:

– Kẻ phong cuồng cớ sao ồn náo làm chướng việc thuyết giới vậy?

Ngài bảo:

– Tôi đâu có thả trâu. Đàn trâu này phần nhiều là những người làm tri sự Tăng trong chùa.

Ngài bèn gọi pháp hiệu của các vị Tăng đã tịch, thì đàn trâu mỗi con tự ứng thanh mà qua. Cả chúng đều thảng thốt, suy nghĩ mà cải vãng tu lai. Cảm ân Bồ-tát rủ lòng từ ứng tích độ thoát.

Bấy giờ, Sa-môn Đạo Kiều đang soạn lục văn cú của ngài Hàn Sơn. Thấy nơi vách tường thần miếu Thổ địa của chùa có các bài kệ bài từ của ngài Thập Đắc, bèn đưa vào trong tập văn lục của ngài Hàn Sơn.

110. Thần tăng Pháp Xung

Thích Pháp Xung, ngài tự là Giáo Đôn, dòng họ Lý, người xứ Thành kỷ, Lũng tây. Từ thuở ấu thơ mà cao ngạo xấc láo với người đời. Đến năm hai mươi bốn tuổi, bèn phát tâm xuất gia, ngài nghe giảng kinh Niết-bàn hơn ba mươi biến, lại đến Pháp sư Hạo ở An châu nghe giảng các kinh Đại Phẩm, Tam Luận, Lăng-già… ngài vào núi Võ đô tu tập đạo nghiệp. Năm ba mươi tuổi, ngài đến Ký châu.

Năm Trinh Quán thứ nhất (627), đời tiền Đường, ban sắc hữu tư độ dùng cực hình đối xử, ngài phát nguyện vong thân, bèn liền cắt tóc. Bấy giờ tại núi Dịch dương có nhiều vị Tăng tìm đến lánh nạn, tín thí cung cấp lương thực báo đã cạn dần, ngài bèn đến quan tể tướng trong châu bảo:

– Nếu phải chết, thì xác thân tôi cũng chịu. Chỉ mong cầu cúng thí lương thực cho chúng Tăng thì sẽ hưởng phước lành.

Các quan thái thú châu tể mừng nghĩa khí cao đẹp của ngài, liền cứu giúp cùng khắp, ngài liền phân chia chư Tăng ở hai nơi, mỗi nơi đặt nơi chứa gạo khoảng mười hộc. Trong đó, mỗi nơi, đồ chúng hơn bốn mươi người thuần học kinh giáo Đại thừa đồng thời chuyên tu thiền nghiệp, trải qua một ngày dùng ăn mà gạo vẫn vơi dần. Còn một nơi, cả thảy có năm mươi sáu người, vừa mới qua hai ngày, ăn bịch gạo đã hết sạch. Bởi do chẳng lo tu thiền mà tu theo ngoại học. Ngài bảo:

– Rất lạ, sao vẫn không đủ! Người hay tu hành đạo thì bạch hào đến cung cấp giúp.

Bấy giờ, người lánh nạn càng đông, không có nơi trú ở. Trong núi có hang hổ, ngài đến bảo rằng:

– Nay khách cũng khốn đến đây, có thể được dung chứa chăng?

Hổ liền dẫn nhau đi. Đến lúc ương nạn cởi mở, ngài mới tùy xứ hoằng pháp. Tuy tuyên dương diễn giảng nhiều kinh thuật, nhưng ngài chuyên lấy kinh Lăng-già làm tông chỉ. Trung thư Đỗ Chánh Luân thường đến thưa hỏi xin thọ giáo nơi ngài.

Lúc ấy, Pháp sư Tam tạng Huyền Trang không đồng ý giảng dạy kinh cũ chỉ sử dụng kinh mới phiên dịch. Ngài bảo:

– Ông y cứ kinh cũ mà xuất gia, nếu không chấp thuận hoằng dương kinh cũ, xin ông nên hoàn tục, rồi lại y cứ kinh điển mới phiên dịch. Tôi mới chấp thuận ý ấy của ông.

Ngài Huyền Trang mới nghe theo liền tạm dừng. Ngài cũng bảo thay thế gánh vác hoằng dương kinh điển làm hộ pháp. Những kẻ sĩ cứng cỏi cầm ngự không thể nào sánh kịp. Nên quan Bộc Xạ Vu Chí Ninh nói rằng:

– Pháp sư ấy là Sa-môn Pháp giới Đầu-đà, không thể nào câu thúc ngài.

111. Thần tăng Thông Đạt

Thích Thông Đạt, ngài người xứ Ung châu. Năm ba mươi tuổi, phát tâm xuất gia, ngài dừng ở bất định. Thường uống nước, ăn rau trái, tánh tình thong dong, hoặc cầm bẻ cỏ ngải lá đậu sống chết mà ăn, đến nỗi đào, hạnh, dưa, quả đều ăn sống cả vỏ hạt. Có người hỏi ngài về lý do. Ngài bảo:

– Của tín thí khó bỏ.

Khoảng niên hiệu Trinh Quán trở lại, thường hiển thần dị. Ngài đến nhà người, nếu vui cười thì là điềm tốt, còn buồn thảm tức có điềm xấu. Hoặc cầu xin của cải, hay cầu xin công sức, tùy ngài bảo ít nhiều liền y theo đó mà cúng dường, nếu trái với lời ngài, sau hẳn mất nhiều hơn thế. Có người cỡi lừa đến chùa tham quan, ngài bèn xin con lừa, người ấy tiếc không cho, con lừa ấy bỗng nhiên chết mất. Mọi nhà ở kinh đô dù giàu sang hay nghèo khó đều tôn sùng điều đó. Họa phước chỉ do một lời nói của ngài. Ngài nói bảo dẫn dắt chỉ là lìa chấp trước. Tài lợi có được đều sung vào tạo lập chùa viện.

Đại tướng quân Tiết Vạn Quân, ban đầu nghe là lạ, bèn đến thỉnh đón ngài về nhà cúng dường, hơn một trăm ngày chẳng trái khuôn phép. Bỗng một đêm, ngài đòi thực phẩm để ăn, lúc đầu không cho, nhưng ngài cố khổ cầu không thôi, thì thử cho, ngài liền ăn. Từ đó về sau có phần cải tiến, chuyên bày các biến ứng hành tung có nhiều hẹp tệ, ngài muốn vào bên trong để ngủ. Anh em của Đại tướng quân quá tức giận đánh ngài đến nỗi gần chết. Ngài ngửa mặt bảo rằng:

– Các ngươi đã đánh ta thân thịt đều hủy hoại, máu huyết bất định, nên nấu nước nóng ấm để tẩy rửa đi.

Đợi đến lúc nước sôi sùng sục, ngài cởi áo nhảy vào trong chảo, dường như chỉ là nước lạnh. Những người đứng bên cạnh khiếp sợ vô cùng. Ngài lại đòi thêm lửa. Cả nhà đều kinh sợ, vâng phụng tùy ý ngài thích ngủ đâu thì ngủ.

Ngài từng mắc nợ tiền người hơn trăm quan, sau mới trả xong, nhưng không thấy người để trả, ngài bèn đem tiền đến cửa chùa, dò tìm tung tích, tùy mắc nợ ít nhiều mà đến bù, ngài đi đến cả chợ Tây, mọi người đều dừng ở đó mà ngài thì tìm vẫn không thấy. Đến lúc xem xét lại sự đền bù chẳng mất một đồng. Bấy giờ, gặp lúc gạo thóc khan hiếm, ngài muốn thiết trai hội lớn, mới bảo mọi người trong chùa đưa sớ thỉnh mời. Đến sáng sớm, các vị phó trai đến cả vài ngàn, mà tín cúng vắng hoe, chẳng biết dò phỏng nơi nào. Tăng chúng lấy làm xấu hổ.

Ngài bảo:

– Người kia hứa dâng cúng, tính chẳng nói vọng.

Gần đến giờ thọ trai, chư Tăng muốn giải tán ra về, bỗng thấy xe cộ đầy đường tải chở các thức ăn đã nấu chín ngon lành đi lại, liền lấy đó thiết trai cúng dường, các thứ thừa lại rất nhiều đều cúng vào kho của chúng Tăng, chẳng giao cho người mang lại. Thọ trai xong, bỗng chốc người và xe đều không thấy nữa.

Về sau, không biết ngài đi về hướng nào.

112. Thần tăng Cảnh Sầm*

Ngài Cảnh Sầm là bậc thầy A-xà-lê trú tại chùa Thiền cư, Tương châu, không rõ ngài là người xứ nào. Ngài ở tại chùa chuyên hành trì thiền niệm, có trí sáng thấy biết trước, mà chùa đó ở trong núi chầm, việc tư cấp vốn ít nên gạo thóc lương thực chẳng được dồi dào.

Thường ngày, ngài mang vò đất vào trong thành xin rượu mà uống, lại xin đầy vò khoảng ba đấu đem theo giữa đường để uống, về đến chùa thì rượu trong vò cùng hết sạch. Ngày mai lại cũng như thế. Ở tại chùa mở trai, ngài mang nồi vào nhà trú xin cháo khoảng chừng ba thăng rồi buộc nồi trên đầu gậy, đi vào trong chúng, ngài dùng gậy đánh vào đầu chư Tăng, từ trên xuống dưới mỗi người một gậy.

Ngày ngày đều như vậy. Mọi người cho rằng ngài là người trác việt phi thường, hoặc nghi ngài đánh như thế tức đã tan mất tai ương, nên chẳng từ nhận chịu. Ngài đem cháo vào phòng, trước cấp dưỡng cho một con chó lông màu đem xám. Và trong chùa, chuột có đến vài ngàn con, mỗi sớm mai tụ họp lại, chó và chuột cùng ăn đầy khắp sân. Kẻ tăng người tục cùng nhìn xem. Có một lúc, mất đi một con chuột, ngài buồn thương không thôi và hẳn cho là chó cắn giết, bèn bảo trách chó, chó liền cắn mang con chuột lại, ngài trông thấy mà áo não, dùng gậy đánh chó, đem xác con chuột đi chôn, ngài buồn thương khóc gào. Chư Tăng trong chùa bị chuột cắn rách y và rương hòm, liền mách ngài. Ngài liền tập họp tất cả đàn chuột lại và bảo mỗi con phải tự gìn giữ lấy. Có một con chuột không chịu gìn giữ. Ngài bảo nó:

– Cớ sao ngươi cắn phá y áo của người?

Rồi dùng gậy đánh nó, nó không dám động.

Ngài nhân vì chùa nghèo khó, bèn tại phía Đông giảng đường dưới suối Bạch mã, trong hồ mời ghi, chỗ này làm kho bếp, chỗ kia làm kho chứa lương thực… mọi người đều cười. Trải qua đêm, chùa rút đất lồi, liền làm khiến có phần thấm đượm đầy đủ. Ngài lại dư ghi việc lâu xa rằng: “Sau này khoảng sáu mươi năm, sẽ có một người ngu đến phía Nam chùa dựng lập một Trùng các. Nhưng cơ nghiệp chùa không thiếu sự đấu tố tranh tụng, nên không thể ở được. Quả thật, khoảng niên hiệu Vĩnh Huy (60-66), đời tiền Đường, vừa có người đến dựng lập Trùng các, do đó cùng nhau kiện tụng như lời ngài nói.

113. Thần tăng Tuệ Ngộ

Thích Tuệ Ngộ, không rõ ngài là người thuộc dòng họ gì. Ngài thường ẩn trong núi Thái bạch, trì tụng kinh Hoa Nghiêm, ăn dùng bột củ tùng củ truật. Có một lúc nọ, bỗng thấy một cư sĩ đến nói:

– Xin thỉnh ngài cùng cư sĩ phân thân vào giữa không trung!

Nói ngài ngồi trong đai áo, giữ lấy mà bay đi đến một đạo tràng, thấy có năm trăm vị Tăng khác lạ liệng quanh giữa không trung mà đến. Bỗng nhiên ngài vào đứng cuối hàng, cư sĩ ấy nói:

– Ngài thọ trì kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới chư Phật, sao được ngồi dưới hàng tiểu Thánh?

Liền dẫn ngài lên trước năm trăm vị mà ngồi. Thọ trai xong, vị cư sĩ nói với ngài:

– Sở dĩ thiết trai, trong ý chỉ vì một mình ngài. Tuy có năm trăm vị La-hán đến thọ thực đều lâm thời cùng thỉnh.

Bèn đưa ngài trở về trú xứ cũ. Có sự thật như trong mộng tỉnh giấc vậy. Lúc ấy trong khoảng niên hiệu Vĩnh Huy, thời vua Cao Tông nhà Đường.

114. Thần tăng Pháp Dung

Thích Pháp Dung người dòng họ Vi, người xứ Diên lăng, Nhuận châu. Năm mười chín tuổi ngài vào Mao sơn nương Pháp sư Quỳnh xuống tóc xuất gia. Ngài cầu khổ học đạo.

Năm Trinh Quán thứ 17 (63), đời tiền Đường, ngài đến phía Bắc chùa U thê, núi Ngưu đầu, xuống dưới núi lập riêng một thiền thất bằng cỏ tranh. Ngài đem tư duy trạch pháp, không để luống qua tắt bóng. Trong núi có thất đá sâu chừng mười bộ, ngài vào trong đó ngồi, bỗng có thần rắn thân dài hơn trượng, mắt sáng như sao hỏa, ngẩn đầu dương oai, đứng ở cửa thất liền đêm, thấy ngài không dao động nên bèn bỏ đi. Ngài nhân đó mà trú ở cả trăm ngày. Tại núi đó, vốn có nhiều hổ, những người lượm củi bứt cỏ thường bị mất mạng. Từ khi ngài đến ở trở về sau không còn có trở ngại gì nữa. Lại cảm kích đàn nai nương thất lắng nghe và ẩn núp không có dáng vẻ lo sợ. Có hai con nai lớn đi thẳng vào cùng chư Tăng nghe pháp suốt ba năm mới bỏ đi. Chỗ ngài ở, nền nhà trú, trai đường gần nơi chứa nước đến đó soi nước không thể khảm thềm, ngài mới ngoải đi bồi hồi chỉ về ngọn núi phía Đông bảo:

– Ngày xưa, Hòa thượng Tuệ Viễn chống gậy già yếu khảm kinh tiền. Nếu ở đây có thể ở thì sẽ gặp được suối trong mát tự tràn đầy.

Trải qua một đêm, từ ngọn núi phía Đông bỗng tuôn vọt lên dòng suối, nước trong trắng ngọt đẹp, mùa đông ấm mùa hạ lạnh mát, nên liền soi dẫn lên ngọn núi đưa vào phủ xuyên qua mái hiên.

Đã đến tháng 11 năm Trinh Quán thứ 21 (67), đời tiền Đường, tại dưới núi, ngài giảng kinh Pháp Hoa, lúc đó tuyết phủ trắng đầy thềm, dòng pháp bất tuyệt, ngay trong băng đóng tự nhiên có hai cành hoa, hình trạng như phù dung sáng ngọc đồng màu vàng rồng, trải qua bảy ngày tự nhiên biến mất. Năm Vĩnh Huy thứ 3 (62), đời tiền Đường, trưởng ấp mời ngài ra chùa Kiến sơ giảng kinh Đại Phẩm, Tăng chúng đông đến ngàn vị. Giảng đến phẩm Diệt Tránh, ngài bèn tuôn phóng thiên biện. Do bẻ nghĩa lý, bỗng nhiên đất chuyển động lớn, những người nghe kinh hỏi, chuông khánh hương sàn thảy đều lay động. Nhưng kẻ tăng người tục ở ngoài chùa đều an nhiên không hay biết.

Đến năm Hiển Khánh thứ nhất (66), đời tiền Đường, ty công tiêu Nguyên Thiện hai ba lần mời thỉnh ngài ra trú tại chùa Kiến sơ. Ngài nói cùng chư Tăng rằng:

– Nay, một lần đi, chẳng hẹn ngày trở lại. Đạo lý là quy luật thường niên, từ mà chẳng khỏi!

Ngài bèn ra khỏi cửa núi, cầm thú kêu buồn qua tháng mới thôi, núi khe suối hồ đá văng cát bọt chỉ một lúc lấp đầy. Trước phòng ngài có bốn cây ngô đồng lớn, đang lúc tháng năm tươi tốt, bỗng một sáng mai tự nhiên tàn tạ. Qua năm sau (67), vào ngày 23 tháng giêng nhuận, ngài thị tịch tại chùa Kiến sơn, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.

115. Thần tăng Trí Cần

Thích Trí Cần, ngài vốn dòng họ Chu. Trong niên hiệu Nhân Thọ (601-60), đời nhà Tùy, nhân nhà ngài ở tại Lợi châu riêng đặt dựng chùa Đại hưng quốc. Thuở thiếu thời ngài ít lấy sự cứu giúp làm tâm, mỗi lúc đối xử với chúng phát ngôn đều thành thật hòa mạc, ngài luôn tin thành dõng mãnh, mọi sự đều được âm thầm giúp đỡ. Đầu tiên, mẹ ngài bị bệnh hoạn, bảo ngài xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế âm.

Trên cây lá trong vườn nhà đều hiện hóa Phật, cả nhà đều thấy, mẹ ngài liền lành bệnh.

Cuối đời nhà Tùy (…-618), các nơi hoang loạn giặc giã nổi dậyy, riêng một mình ngài giữ gìn ngôi chùa đó, giặc không dám chiếm lấn, nên kinh tượng chùa viện không tổn hại một gì. Các chùa khác bị phá diệt nhưng cũng không thể đưa mắt nhìn. Lại một thời nọ, ngài vì phương tiện nên đã mặc y phục thế tục để lánh giặc loạn, bị giặc vây quanh, muốn giết hại, bỗng nhiên ngài nghe giữa không trung có tiếng bảo:

– Ngài nên bỏ y phục thế tục.

Ngài liền cởi bỏ, giặc thấy ngài là vị Sa-môn nên liền đảnh lễ, thỉnh mời về cúng dường cũng được vài tháng.

Sau, ngài đến đất Thục, nghe Pháp sư Hạo Giảng, thính chúng cả ba ngàn vị, Pháp sư Hạo đều giao phó ngài coi sóc, đều được thông suốt. Trong ngoài không xảy ra việc gì, tất cả đều do một mình ngài. Đến đầu đời nhà Đường (618-…), ngài trở về Đặng châu, giảng kinh Duyma; Tam luận hơn mười biến. Sau ngài lại ẩn tại Bắc sơn, dựa đứng hơn mười năm. Ba chỗ ngài đã ở, đến nay hiện vẫn còn.

Ngài thường nghe trong thung lũng có tiếng chuông vang vọng, sau đó ngài tìm đến, bỗng thấy một ngôi chùa, uyển chuyển đẹp đẽ lạ thường, ngài bèn vào trong lễ bái, tợ như có người ở. Sau tìm kiếm lại không biết tiếng chuông ấy vọng từ đâu. Thêm nữa, ở trong núi sắp hết lương thực, tại chỗ ngài hành đạo tự nhiên đất nổi, ngài bèn trừ bỏ đi, sáng mai lại nổi lên như vậy. Cứ như thế vài ba lần, sau đó lại có lúa thóc hiện ra. Nhân đó, đào xuống sâu, được hơn hai mươi thạc lúa tẻ, lúa ấy hạt lớn sắc đỏ hơi khác lúa thường.

Bấy giờ, tại Đặng Châu, Phật pháp bị tàn phá, kẻ Tăng người tục cả châu đều vào núi thỉnh mời ngài, nguyện xin ngài ra chủ trì. Ngài nhân cảm mộng mà ra, mộng đó không được rõ tường tận, sau khi mang tượng xuống núi, giữa đường bỗng nhiên tối mịt, không biết đường lối nên không thể đi tới được. Bỗng chốc có hai cây đuốc ánh lửa khác thường soi chiếu giữa đường rất sáng. Nhân đó, thấy được đường đi đến trong thôn, lửa mới tắt. Mọi người trong thôn đều thấy, ai cũng kính phục.

Đến năm Vịnh Huy thứ nhất (60), đời tiền Đường, vì thấy thời sự phiền toái, ngài bèn đóng phòng không ra, lâu đến ba năm, xem đọc kinh thảy đến hai lần. Mỗi lúc ngài đọc thường thấy có thần đến nghe. Đầu đêm, giữa đêm cũng như cuối đêm thường nghe tiếng cười nói khảy móng tay.

Đến tháng năm Hiển Khánh thứ tư (69), đời tiền Đường. Trước lúc thị tịch, có những việc làm tạo công đức chưa châu toàn, sớm tối, ngài lo vun bồi cho toàn tất. Có người hỏi:

– Cớ sao gấp vội như thế?

Ngài đáp:

– Các Pháp vô thường, lẽ nào không dè dặt ư?

Đến ngày rằm, cành lá cây cối trong chùa tự nhiên khô héo đổ gãy, chim muôn kêu buồn khắp nơi trong chùa, chúng Tăng kinh ngạc hỏi nhau, chẳng ai biết nguyên nhân. Qua sáng sớm ngày 16, bỗng nhiên thấy vị thần nghe kinh trước kia đến lễ bái, ngài bảo:

– Chớ nên đảnh lễ.

Mọi người đứng chung quanh không ai thấy. Khi đó, ngài liền cạo tóc, đắp mắc pháp ý, ở tại thằng sàng, tay bưng lò hương, kiết già mà ngồi. Ngài bảo các đệ tử:

– Các ông nên thỉnh kinh Đại Phẩm để đọc tụng!

Đến lúc tụng xong phẩm Vãng Sinh ngài bèn chắp tay an tọa thị tịch, để lại vài ngày, nhan sắc nhục thể ngài vẫn như cũ. Thường có hương thơm khác lạ thoảng nghe trong chùa. Ngài hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi.

116. Thần tăng Đạo Tuyên

Thích Đạo Tuyên, ngài dòng họ Tiền, người xứ Đơn đồ. Đầu tiên, thân mẫu ngài mang thai mà mộng thấy ánh nguyệt xuyên suốt qua bào thai. Lại mộng thấy có vị Phạm Tăng nói với bà rằng:

– Bào thai ngươi đang mang chính là luật sư Tăng Hựu thời nhà Lương!

Ngài Tăng Hựu thì thuộc Nam Tề ở xứ Diệm khê, là tăng hộ ở chùa Ẩn nhạc. Ngài Đạo Tuyên theo đó xuất gia.

Đến hai mươi tuổi, ngài nổ lực hộ trì, chuyên tinh khắc niệm, cảm được xá-lợi hiện trong hộp báu, ngài ẩn náu ở Trung nam tại hang Phỏng chưởng. Nước ở chỗ ngài ở là do thần nhân chỉ cho. Đào xuyên đất hơn một thước, dòng suối ấy tuôn vọt lên. Thời bấy giờ chỗ ấy là chùa Bạch tuyền, thú dữ thuần phục thường tới nương tựa, các thứ hoa thơm cỏ lạ mọc lan tràn ra. Đến cuối thời nhà Tùy (…-618), ngài dời đến chùa Phong đức, nhân ngài thường ngồi một mình, thần hộ pháp đến báo rằng:

– Ở thôn Thanh quan có chùa Tịch nghiệp đã cũ, đất ở đó là thế quý báu, nên đạo có thể tập thành.

Nghe lới đoán bói ấy rồi, ngài bèn đốt hương công đức, hành thiền Bát-nhã định. Bấy giờ có đàn rồng đến lễ bái tham yết, vừa nam vừa nữ đều hóa hình người. Có vị Sa-di tán tâm, ngó liết tà vạy, rồng đùng đùng nổi giận sắp tóm lấy, bỗng tìm lại hối quá, nhổ độc vào trong giếng, rồng bày tỏ sự việc như vậy rồi đi. Ngài mới bảo lấp bịt miệng giếng lại, có người lén mở ra xem, thỉnh thoảng khói lại bốc lên.

Xét về thần biến của ngài, như là hoặc đưa một hộp hoa lạ, hình tợ hoa táo, lớn tợ quả du, hương thơm kỳ lạ. Vài năm sau bỗng nhiên lại cúng quả lạ như lý, hạnh, lê, thị, như mùi vị ngon ngọt sắc da thanh khiết khác với thường thấy trong nhân gian. Môn đồ của ngài thường muốn nêu bày việc anh, trước là tiềm thông, dùng định lực để quán căn cơ tùy bệnh mà cho thuốc, đều đồng một loại như vậy.

Ngài đã từng thiết lập một đàn tràng, bỗng nhiên có vị Tăng lông mi rất dài luận bàn biết đạo. Lại có vị Phạm tăng đã chứng Tam quả đến lễ bái đàn, tán thán rằng:

– Từ sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, ma hưng phát trong thời tượng pháp chỉ có một mình Sư Đạo Tuyên.

Mùa Xuân năm Càn Phong thứ 02 (667), đời tiền Đường, thấu rõ trời, người đến cùng ngài nói bàn về luật tướng. Nói về sự ghi chép sao văn lẫn lộn khinh trọng trong nghi đều bởi lỗi của người dịch, chẳng phải tội của ngài. Xin thỉnh ngài cải chính lại. Nên nay bản bản trước thuật của ngài hiện lưu hành đều là bản trùng tu. Lại có người trời nói rằng:

– Ngài đã từng soạn bộ kinh Kỳ Hoàn Đồ tính theo giấy lụa ở dân gian, khoảng trăm quyển.

Niên hiệu Trinh Quán (627-60), đời tiền Đường, ngài từng ẩn tại núi Vân thất ở Thẩm bộ, có người thấy có Thiên Đồng cung cấp hầu hạ hai bên ngài. Ở tại chùa Tây ninh, ban đêm ngài hành đạo chỉ đi chân không, trước thềm có vật phù trì nhưng không quấy nhiễu ai, ngoản nhìn kỹ đó chỉ là gã thiếu niên. Ngài vội hỏi:

– Người nào trong đêm ở tại đây?

Gả thiếu niên đáp:

– Đó là người phi thường, chính là Na Tra con của Tỳ-sa-môn Thiên vương. Vì muốn hộ pháp nên đến ủng hộ Hòa thượng với thời gian đã lâu vậy.

Ngài bảo:

– Bần đạo tu hành vô sự phiền đến Thái tử. Thái tử có sức oai thần tự tại. Ở Tây Vực có thể làm nên việc Phật, nguyện xin đem đến.

Thái tử nói:

-Tôi có răng Phật bàn tay báu. Từ lâu tuy đầu mắt có thể xả bỏ, thì bây giờ đâu dám chẳng kính dâng?

Bỗng chốc trao, đến cho ngài, ngài giữ gìn trong cầu để cúng dường. Thêm nữa, tại trước thềm sân lại có một vị trời đến bái yết, thưa cùng ngài rằng:

– Luật sư sẽ sinh lên cung trời Đố-sử (Đâu-suất), mang theo một bao đồ vật, nói đó là hương táo lâm.

Sau đó mười tuần, ngài an tọa mà thị tịch, nhằm ngày mồng ba tháng 10, năm Càn Phong thứ 2 (667), đời tiền Đường, ngài hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai tăng lạp.

117. Thần tăng Thiền sư Anh

Thiền sư Anh, ngài trú tại chùa Pháp hải ở Tây kinh. Có một người khác lạ đến yết kiến, nói với ngài rằng:

– Đệ tử biết có trai pháp thủy lục có thể dùng làm lợi ích cho cả kẻ còn người mất. Từ sau khi vua Vũ Đế thời Nam Lượng băng hà (0). Từ đó dần dần bị quên lãng. Nay ở chùa Đại giác có Sa-môn Nghĩa Tế, người xứ Ngô còn cất giữ nghi văn đó. Xin ngài đến thỉnh cầu để ngày rằm tháng sau đúng như pháp mà tu thiết ở chùa Bắc sơn, tạm mở cửa tù dám chẳng tri báo.

Ngài tìm đến Sa-môn Nghĩa Tế thỉnh được Nghi văn đem về, đến ngày đã hạn định lập đàn Tu thiết tại chùa Sơn bắc. Ngày hôm sau, lúc trời mờ tối, Người khác lạ đó lại cùng với khoảng hai mươi người bạn lại đến cảm tạ, nói:

– Đệ tử chính là Trang Tương Vương (29-26 trước Tây Lịch) đời nhà Trần. Lại chỉ những người gần bên cạnh như đây là Phạm Huy Nhưỡng hầu Bạch Khởi Vương Tiễn, Trần Chẩn, Trương Nghi… là các quan thần thời nhà Tần, đều bị bẩn tội nơi tù tối âm phủ, suốt đêm dài tối mịt không thể cứu hộ. Ngày trước vua Vũ Đế thời Nam Lương(020) tại chùa Kim sơn, lúc thiết tu trai pháp này, các thần trời Trụ vương thời trước (1099-1066 trước Tây lịch) đều được miễn khỏi tội khổ. Đệ tử lúc bấy giờ cũng tạm dứt khổ, nhưng ngục tình chưa phán quyết nên không được thoát ra. Nay mong nhờ ngài thiết lập trai pháp, đệ tử cùng với đồng bạn và các người trong các nương chư hầu đều nương nhờ đức oai lực, sắp được sinh trong loài người, nhưng sợ sinh vào nước khác thời nên hôm nay cùng đến lễ tạ!

Nói xong thì biến mất.

Từ đó Nghi văn thủy lục lưu bố rộng rãi làm lợi ích cho quần sinh.

118. Thần tăng Khuy Cơ

Thích Khuy Cơ, ngài tự là Hồng Đạo, dòng họ Uất Trì, người xứ Trường an, Kinh triệu. Lúc đầu, thân mẫu của ngài vốn dòng họ Bùi Mộng có vầng nguyệt trong lòng bàn tay bèn ngậm nuốt lấy, tỉnh mộng thì thấy có thai ngài. Kịp đến lúc ngài vừa đầy tháng đã khác hẳn với bao trẻ khác, mới hai năm, ngài tụng tập thần ngộ tinh sáng. Đến năm mười bảy tuổi, ngài được dự phần xuất gia.

Đến lúc vào đạo, ngài vâng phụng sắc làm đệ tử của Pháp sư Huyền Trang. Đầu tiên, ngài trú tại chùa Quảng phước, bỗng vâng phụng sắc chọn lựa những người thông tuệ dĩnh ngộ vào chùa Đại từ ân đích thân phụng thờ ngài Huyền Trang học tập kinh pháp. Sau ngài đến núi Ngũ đài, lên Thái hành, đến Hà tây dừng nghĩ qua đêm trong một ngôi chùa cổ, mộng thấy thân mình đang ở tại giữa lưng chừng núi, nghe dưới núi có tiếng kêu gào thống khổ của vô số người. Mới đầu trong lúc đang mờ tối không nhẫn lắng nghe, ngài rảo bộ lên trên tầng đảnh núi, ở đó thuần là sắc màu là lưu ly, thấy rõ tất cả cõi nước. Ngài ngưỡng mặt trông nhìn về một thành. Trong thành đó, có tiếng bảo:

– Dừng, dừng, ôi, Khuy Cơ! Người chưa hợp đến đây.

Trong chốc lát, có hai Thiên đồng từ trong thành đi ra, hỏi rằng: – Ông có thấy chúng sinh tội khổ dưới núi chăng?

Ngài đáp:

– Tôi có nghe tiếng mà không thấy hình!

Thiên Đồng bèn đưa ngài một cây kiếm, bảo:

– Hãy mổ bụng sẽ thấy.

Ngài liền tự mổ bụng. Từ trong bụng ngài phóng ra hai nguồn ánh sáng đẹp lạ soi chiếu khắp dưới núi, thấy vô số người chịu khổ. Khi đó, Thiên đồng vào trong thành đem ra hai tờ giấy và bút, hai tay dâng đưa ngài rồi đi. Ngài vô cùng ngạc nhiên. Đến sáng sớm mai, ở tại trong chùa ngài được bộ kinh Di-lặc Thượng Sinh, ngài cho là do ngài Di-lặc hóa hiện, muốn mở rộng tầm nhìn, bèn kéo bút mà viết, đầu bút xá-lợi lớp lớp rạng ngời.

Ngài thường chú tạo tôn tượng Đức Bồ-tát Văn-thù bằng ngọc, và tả kinh Đại Bát-nhã bằng vàng. Tất cả đều được ứng điềm.

Lúc đầu, luật sư Đạo Tuyên xiển dương luật tạng, ứng cảm Thiên trú cúng dường phẩm thực. Đạo Tuyên đãi sơ tặng ngài ba xe vật báu, không lấy gì lễ mấy. Ngài đến tận nơi để dò xét. Ngày đó quá ngọ mà người trời chẳng mang phẩm thực đến. Đến lúc ngài từ biệt đi rồi, thiên thần mới dáng xuống, ngài Đạo Tuyên trách cớ sao đến trễ, Thiên thần bảo:

– Vừa mới đến, thấy có Bồ-tát Đại thừa. Ở đây, rất trang nghiêm nên chẳng dám tự vào.

Ngài Đạo Thuyên nghe thế mà kinh sợ. Từ đó xa gần càng thêm kính ngưỡng về ngài.

Trước kia, Pháp sư Huyền Trang đích thân suy tìm Du-già Sư Địa Luận; Duy thức tông của ngài Giới Hiền ở Tây Vực, mà ngài Khuy Cơ lãnh thọ hết diệu nghĩa đó. Nên người đời gọi đó là Từ ân giáo.

Đến năm Vĩnh Thuần thứ nhất (682), đời tiền Đường, ngày 13 tháng 11, ngài thị tịch tại chùa Đại từ ân trong viện phiên dịch kinh, hưởng thọ năm mươi mốt tuổi.

119. Thần tăng Hồng Phưởng

Thích Hồng Phưởng, ngài người xứ kinh Triệu, xuất gia từ thuở bé thơ, tu hành chứng đắc đạo quả. Chí nguyện của ngài là đặt để ở Thiền tịch mà cũng chuyên diễn giảng kinh pháp. Đệ tử thường có đến vài trăm vị.

Một ngày nọ, trời vừa mới tối, ngài an tọa một mình, có bốn người đến trước ngài, thưa:

– Ngày nay, quỷ vương Diêm-la nhân vì con gái vừa mới hết bệnh, nên thiết trai cúng dường, xin cung thỉnh ngài phó trai.

Ngài bảo:

– Tôi đây thuộc loài người các ngươi thuộc loài quỷ, làm sao có thể đến được?

Bốn người thưa:

– Xin Pháp sư chấp thuận, đệ tử có thể đưa ngài đến được.

Ngài liền chấp thuận, bốn người đó cỡi ngựa, mỗi người nắm giữ lấy một chân giường của ngài, bèn đi về hướng Bắc, khoảng độ vài trăm dặm. Đến một quả núi, núi đó lại có một cửa màu đỏ, bốn người đó xin ngài nhắm mắt lại, trong khoảng chưa xong bữa ăn, một người nói:

– Xin ngài mở mắt, đã đến vương đình.

Tại đó, cung quyết nhà cửa cao vợi khác thường, các người thị vệ nghiêm sức như chúa ở cõi người. Quỷ vương chỉnh áo mão xuống thềm cấp nghênh đón ngài, thưa rằng:

– Đệ tử có đứa con gái nhỏ bị bệnh từ lâu, nay mới được lành. Vì muốn tạo ít phước đức nên sắm sinh một trai hội. Vì vậy, xin thỉnh ngài chứng minh cho. Trai pháp hoàn mãn, đệ tử sẽ bảo người hầu đưa ngài trở về, không gì phải lo.

Khi đó, Quỷ vương thỉnh ngài vào trong cung. Tại đó, một trai đàn nghiêm sức hoa lệ. Chư Tăng đến cả muôn vị, Phật tượng rất nhiều, mỗi mỗi sự việc đều giống như ở cõi người. Ngài đưa mắt nhìn lên khoảng không chẳng thấy mặt nhật như dân gian, thuần là âm trạng. Chốc lát, phu nhân của quỷ vương ở sau hậu cung cùng với vài trăm người đồng đảnh lễ bái kiến ngài. Con gái Quỷ vương tuổi độ mười bốn, mười lăm, sắc mạo riêng bệnh. Ngài vì nó mà táng lễ. Nguyện cầu xong, thấy mọi người bưng hơn ngàn mâm ngà thức ăn đến lần lượt thiết bày trước tòa chư Tăng. Ngài đang ở nơi một sàn lớn, thiết bày thức ăn thịnh soạn hương thơm thanh khiết, ngài vừa muốn ăn đó, Quỷ vương liền thưa:

– Ngài dừng giây lát. Đó là thức ăn của quỷ ăn, không dám để lại ngài. Xin ngài chớ dùng.

Thọ trai xong, thức ăn còn thừa vài trăm mâm. Ngài nói Quỷ vương ban tặng cho họ ăn. Quỷ vương nói:

– Thúc giúp đi cho đó.

Các quan bái tạ quay lại nhìn nhau mừng cười, miệng há mở tới hai tai.

Nhân đó, Quỷ vương quỳ, thưa:

– Ngài đã ân ban nhìn lại, không có gì khác để cúng dường, chỉ có năm trăm sấp lụa xin kính dâng ngài. Xin ngài vì cho chúng con thọ giới Bát quan trai.

Ngài bảo:

– Lụa của quỷ tức là giấy. Tôi không dùng đó!

Quỷ vương thưa:

– Chúng con tự có lụa của cõi người để dâng tặng ngài.

Nhân đó, ngài vì họ mà cho thọ giới Bát quan trai. Thọ giới xong, Quỷ vương lại bảo bốn người trước đó y như trước đưa tiễn ngài về. Bỗng nhiên ngài mở mắt là đã về tới chỗ ở. Trời còn chưa sáng. Môn nhân chỉ cho là ngài nhập định, không ngờ chỗ đến, ngài chợt mở mắt, bảo mang đèn đóm soi rọi ở giường, trước mặt có năm trăm sấp lụa nhân ở đó. Các đệ tử thưa hỏi. Ngài liền kể lại sự việc vừa xảy ra. Ngài đã hành thiền vốn cao cả, tiếng tăm giá trị ngày một càng lớn, khuynh đảo đến chỗ Quỷ vương, chỉ thần thức đến đó mà thân hình ngài vẫn bất động.

Sau đó không lâu, một sáng mai ngài đang an tọa, có hai người trời hình chất xinh đẹp khác thường, đến lễ bái thỉnh mời, thưa rằng:

– Vua trời Phương nam là Đề-đầu-lại-tra xin thỉnh ngài đến cõi trời để cúng dường!

Ngài liền hứa khả. Nhân đó, trải y trời để ngài ngồi, hai người liền nắm y nâng lên mà vọt bay giữ không trung, chỉ trong phút chốc đó đã tới trời nam. Vua trời dẫn cả thị tùng ra quỳ sát đất đảnh lễ, thưa:

– Đạo hạnh của ngài cao xa, các vị trời muốn được thấy ngài giảng tụng. Vì thế nên con kính thỉnh mời ngài.

Và liền thiết lập một tòa cao thỉnh ngài an tọa. Tại đạo tràng đó nghiêm sùng tráng lệ khác hẳn ở cõi người gấp trăm nghìn lần. Người trời thân đều cao lớn và có ánh sáng. Điện đường cây rừng ở đó, thuần là bảy báu, hình thể đều có ánh sáng chói lòa mắt người.

Lúc đầu, ngài mới tới cõi trời, hình chất của ngài còn là loài người, sau khi thấy vua trời thì thân hình ngài cao lớn như người trời. Người trời thiết bày các thức ăn trân quý đều là hương vị tự nhiên nhưng ngon ngọt phi thường. Thọ thực xong, vua trời thỉnh ngài vào cung, lại thiết cúng các thứ, nói bàn cung kính. Các thị vệ ở cung trời cũng như chúng quỷ thần rất đông. Sau đó, bỗng nhiên vua trời nói:

– Đệ tử có công việc cần phải đến cõi trời Tam thập tam để bàn bạc, xin thỉnh ngài ở lại mộ thời gian ngắn!

Lại căn dặn các người chung quanh rằng:

– Ngài muốn đi tham quan đâu đó thì cứ tùy ý ngài. Nhưng chớ để ngài đến nơi hậu viên.

Căn dặn hai ba lần như thế. Sau khi vua trời đi rồi ngài suy nghĩ: “Nơi hậu viên có gì bất lợi mà không muốn ta đến đó ư?” Ngài bèn dò xét nhân lúc không người, lúc đến hậu viên. Khu vườn đó rất lớn có ao, hồ, suối chảy, cây cối, hoa nhạc có khắp mọi nơi, người đời không sao biết được. Đi sâu vào, xa nghe tiếng rên rỉ kêu gào, không nhẫn nghe, ngài liền đi đến đó. Thấy một trụ đồng, đường kính khoảng vài trăm mét, cao ngàn trượng, cột trụ có các lỗ xuyên hai bên thấu suốt, hoặc dùng khóa xích lấy đảnh đầu, hoặc xuyên thủng ngực, có đến vài vạn đầu đều là Dạ-xoa, răng của móng câu, thân lớn gấp bội người trời. Thấy ngài đến, những kẻ đó vội dập đầu nói đang đói khát, thưa rằng:

– Chúng tôi vì ăn thịt người đến bị vua trời xích trói, nay xin ngài thả cho chúng tôi! Nếu chúng tôi được ra khỏi nơi này. Nguyện xin ở nhân gian tìm cầu việc khác để kiếm sống, hẳn không dám làm hại ăn thịt người nữa.

Vì đói khát bức bách nên lúc nói ra lời ấy, trong miệng lửa dữ tuôn ra. Ngài hỏi bị xích trói đã bao lâu rồi. Hoặc có kẻ đáp:

– Từ thuở Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, tức trải qua đã vài ngàn vạn năm.

Cũng có vài ba người già, nói rất chí thành khẩn thiết, ngài hứa vì họ cởi trói xích. Ngài vội trở lúc, bỗng chốc vua trời đã trở về. Trước tiên là hỏi về việc ngài có đến hậu viên không? Mọi người chung quanh bảo:

– Không!

Vua trời vui vẻ ngồi yên.

Ngài hỏi rằng:

– Tôi đến nơi hậu viên thấy chúng sinh bị xích trói cả vài vạn.

Những kẻ đó bị tội gì vậy?

Vua trời bùi ngùi đáp:

– Vậy, quả thật, ngài có đến hậu viên, nhưng lòng từ nhỏ sẽ là giặc của tâm từ lớn! Ngài khỏi cần phải hỏi.

Nhưng ngài vẫn cố hỏi, vua trời đành phải nói:

– Đó là các ác quỷ thường làm hại người. Các trời chẳng thể phòng hộ nổi. Người đời đã bị bọn chúng ăn hết. Chúng nó đều là đại ác quỷ, không thể dùng lý mà đối đãi, nên phải xích trói lấy nó.

Ngài nói:

– Tôi vừa thấy các lão già đó nói rất thành khẩn, chỉ xin trở lại nhân gian tìm cầu vật khác để ăn thôi. Tôi xin ngài tha thứ cho họ. Nếu bọn ấy không còn ăn hại đến người, thì các kẻ còn lại cũng nên tha cho chúng nó.

Vua trời nói:

– Bọn quỷ nói, đâu có thể tin được!

Ngài cố xin, vua trời bèn đưa mắt nhìn chung quanh, rồi ban lệnh mở trói các lão già lại, trong phút chốc họ được giải đến; bọn họ khấu đầu, thưa:

– Nhờ ân ngài đã tha cho, tuổi đã già suy. Nay được đi, hẳn không dám nhiễu hại người nữa.

Vua trời bảo:

– Vì Thiền sư, nên ta thả các ngươi. Nếu còn hại ăn thịt người thì lần này bắt lại hẳn phải chịu khổ chết.

Chúng nó đều nói:

– Dạ! Không dám.

Khi ấy liền thả cho họ đi.

Sau đó không lâu, bỗng thấy trước sân vua trời có vị thần đến, tự

xưng là Thần ở sông ngòi núi Nhạc, mặt giáp mặt sắc vàng, vội vã nói thưa:

– Không biết từ đâu, bỗng có bốn, năm quỷ Dạ-xoa đến nhân gian giết hại ăn thịt người rất nhiều, không thể nào cấm chế nổi. Nên tấu trình cùng vua trời hay!

Vua trời nói với ngài rằng:

– Lời của đệ tử nói như thế nào? Vừa mới nói với ngài là lòng từ nhỏ tức là giặc của tâm từ lớn. Lời bọn quỷ ấy nói không thể tin được.

Và vua trời bảo cùng các thần rằng:

– Hãy gấp bắt chúng nó lại.

Giây lác sau, các thần bắt các quỷ Dạ-xoa đến. Vua trời tức giận phán:

– Cớ sao làm trái lời cầu xin?

Bảo chặt tay chân chúng nó, dùng sợi xích sắt xâu suốt ngực nó, kéo dắt khóa lại. Lúc đó, ngài xin vua trời trở về, vua trời bảo hai người khi trước đưa ngài trở về chùa. Ở chùa đã mất ngài qua mười bốn ngày, mà tại cõi trời chỉ khoảng thời gian ngắn.

Trong thành Xiểm tây, ngài chọn chỗ đất rộng rãi tạo dựng chùa Long quang, lại xây dựng phòng bệnh, thường nuôi dưỡng vài trăm bệnh nhân. Chùa rất nghiêm sùng tráng lệ, kẻ tăng người tục quy tụ như mây nhóm, thì là do Thích Đề-hoàn Nhân thỉnh mời. Một sáng nọ, ngài mới súc miệng, có Dạ-xoa đến trước ngài, trên đầu vai trái trải đệm lông năm sắc, thưa rằng:

– Vua trời Thích-ca muốn thỉnh ngài giảng kinh Đại Niết-bàn.

Ngài im lặng trở về lại tòa. Dạ-xoa giảng thằng sàng đặt lên đùi vế trái, thưa:

– Ngài nhắm mắt lại.

Nhân đó, nâng tay trái lên và bày chân phải ra, thưa:

– Xin ngài mở mắt.

Nhìn xem thì đã tới Thiện pháp đường. Ngài đã đến Thiên đường, ánh sáng cõi trời chói lòa mắt không thể mở được. Thiên đế thưa:

– Ngài nên xưng niệm danh hiệu Đức Di-lặc!

Ngài bèn xưng niệm, khi ấy mở mắt không còn bị chói lòa nữa. Nhưng thân hình ở cõi người nhỏ bé, ngưỡng nhìn thân hình người trời, không thấy cùng khắp, Thiên đế lại thưa:

– Ngài lại nên xưng niệm danh hiệu Đức Phật Di-lặc, thì thân hình sẽ lớn ra.

Y theo lời nói, ngài liền xưng niệm. Vừa niệm ba lần mà thân lớn gấp ba giống như thân trời, người… Thiên đế cùng các chúng trời kính lễ, thưa ngài rằng:

– Đệ tử chúng con nghe ngài giỏi khéo giảng nói kinh Đại Niếtbàn đã lâu ngày rồi vậy. Nay các trời khâm phục kính ngưỡng thiết lập đạo tràng. Nhân đó, kính thỉnh Đại sư giảng kinh cho chúng con được nghe nhận.

Ngài bảo:

– Việc giảng kinh quả thật không khổ nhọc, nhưng trong phòng bệnh của tôi có cả vài trăm bệnh nhân cậy nhờ tôi bảo ban mạng sống. Tôi thường hành khất thực để cung cấp cho họ. Nay nếu ở lại để giảng kinh, thì ở cõi người trải qua năm tháng lâu dài sợ rằng các nhân đói chết. Nay tôi nên xin khước từ!

Thiên đế nói:

– Đạo tràng đã lập thành, ước nguyện ấy đã từ lâu. Nhân vậy kính thỉnh Đại sư chớ khước từ!

Ngài không thể từ chối bỗng giữa không trung có người trời lớn, thân lại lớn gấp bội người trời, Thiên đế đứng dậy kính ngưỡng nghênh đón. Người trời lớn ấy nói rằng:

– Đại Phạm Thiên vương có ban sắc, người trời đã đi.

Thiên đế bùi ngùi nói:

– Vốn muốn lưu giữ ngài ở lại giảng kinh nay Phạm thiên có ban sắc không hứa khả, nhưng ngài đã đến nên không thể tạm mở kinh quyển giảng sơ qua tông chỉ khiến người trời tin họ?

Ngài liền hứa khả.

Khi ấy thiết bày các thức ăn, đồ chứa đựng thức ăn đều bằng bảy báu. Mùi vị của các thức ăn uống đều là tinh diệu gấp bội bình thường. Ngài thọ thực rồi, khắp các lỗ chân lông trong thân đều phóng ánh sáng khác lạ. Ngay trong lỗ chân lông thảy đều thấy các vật, ngài mới hiểu rằng thân của người trời quả thật rất thắng diệu. Sau khi thọ thực, các trời thiết bày một tòa cao bằng vàng, dùng y trời trải trên. Ngài lên trên tòa an tọa. Trong Thiện pháp đường, có đến vài trăm ngàn vạn vị trời, cũng như Tứ Thiên vương dắt dẫn đồ chúng cùng đến nghe pháp. Chung quanh dưới thềm thì có Long vương, Dạ-xoa, các quỷ, các Thần, người và phi nhân… đều chắp tay lắng nghe. Nhân đó ngài khai kinh Niết-bàn, đầu giảng mới hơn một trang, ngôn từ điển xướng đủ nêu bày tông chỉ. Thiên đế tán thán công đức vô cùng. Khai kinh vừa xong, Thiên đế lại bảo Dạ-xoa trước kia đưa tiễn ngài trở về lại chùa. Các đệ tử đã bị vắng ngài hai mươi bảy ngày.

120. Thần tăng Hòa thượng Hoa Nghiêm

Hòa thượng Hoa Nghiêm học ở Tổ sư Thần Tú, phái Thiền tông gọi đó là Bắc Tổ. Ngài thường trú tại chùa Thiên quang ở thành Lạc dương, đệ tử ngài hơn ba trăm vị. Mỗi ngày vào trai đường thọ thực, Hòa thượng, đều trang nghiêm, bình bát đầy đủ.

Ngài có một vị đệ tử có hạ lạp và đạo nghiệp cao vượt so với đồng bạn, nhưng tánh thường phiền muộn hẹp hòi, nóng nảy, lúc ấy nhân vì bị bệnh nên chẳng theo chúng phó trai. Có một vị Sa-di chưa có bình bát, đến vị Tăng đó đảnh lễ, thưa rằng:

– Con muốn đến trai trường nhưng chưa có bình bát, thầy có thể cho con mượn tạm, sáng mai sẽ hoàn trả.

Vị Tăng ấy không cho bảo:

– Bình bát ta thọ trì đã vài chục năm, cho ông hẳn sợ hư tổn nó.

Vị Sa-di khẩn thiết thưa:

– Con chỉ thỉnh đến trai trường trong khoảng thời gian thọ thực, xong rồi thỉnh trả lại sao lại hư hoại?

Nói như vậy đến hai ba lần, vị Tăng ấy mới cho mượn, bảo rằng:

– Tôi quý mến bình bát như mạng sống của tôi, như có sự tổ hại tức đồng giết tôi vậy.

Vị Sa-di đó thỉnh mượn được bình bát, hai tay bưng lấy trong lo sợ. Thọ thực xong, vị Tăng ấy đã thúc giục, vị Sa-di bưng bình bát xuống khỏi trai đường, không để ý nền gạch bị hư phá, nên bước xéo gót vấp ngã, bình bát bể vở. Chốc lát vị Tăng ấy lại thôi thúc. Lo sợ quá, nên vị Sa-di đó đến chỗ vị Tăng ấy tác lễ vâng chịu lỗi lầm và lạy cả trăm ngàn lạy, vị Tăng ấy la lớn tiếng:

– Ông đã giết tôi rồi!

Tức giận mắng nhiếc rất thậm tệ. Nhân đó, bệnh càng trầm trọng chỉ một đêm thì tịch.

Sau đó một thời gian, ngài đang trú tại chùa Sơn nhạc trên núi chúng có hơn trăm đệ tử, ngài giảng kinh Hoa Nghiêm. Vị Sa-di đó cũng có mặt trong hội chúng. Bỗng nhiên nghe trong hang núi như có tiếng gió mưa, ngài bèn gọi vị Sa-di ấy, đứng sau lưng ngài. Trong chốc lát thấy một con rắn lớn dài khoảng bảy, tám trượng, lớn khoảng bốn, năm vi hướng thẳng vào chùa, ánh mắt tức giận há mồm. Mọi người đều muốn bỏ chạy, ngài bảo không được giao động. Con rắn dần đến nơi giảng đường lên bậc thềm đưa mắt liếc nhìn như có sự mong cầu. Ngài dùng tích trượng ngăn bảo dừng lại. Con rắn muốn đến nơi tòa bèn cúi đầu nhắm mắt, ngài răn bảo nó, dùng gậy gõ vào đầu rắn, bảo:

– Đã rõ được hạnh nghiệp, nay phải hồi hướng về Tam bảo!

Ngài bảo chúng Tăng vì con rắn mà cùng nhau niệm Phật, trao cho nó pháp Tam quy ngũ giới, con rắn bèn uyển chuyển bỏ đi.

Lúc đó, đệ tử của vị Tăng đã tịch trước kia cũng có mặt ở đó, ngài gọi tới bảo:

– Con rắn này chính là thầy của ông, tu hành nhiều năm nay đã chứng quả vị. Chỉ vì lúc lâm chung tiếc cái bình bát mà tức giận vị Sa-di ấy, bèn thọ nghiệp làm thân rắn, sở dĩ đến đây là muốn giết hại vị Sa-di ấy. Nếu lại còn sát hại tức sẽ đọa vào đại địa ngục không kỳ hạn thoát ra, may nhờ ta ngăn cản và cho thọ giới cấm. Nay xả bỏ thân rắn ấy, ông nên đến tìm xem.

Vị đệ tử đó vâng mạng mà ra. Chỗ con rắn đi qua, cây cỏ đều mở rạp như đường xe đi. Đi khoảng mười bốn, mười lăm dặm đến một cái hang sâu, con rắn tự đập đầu vào đá mà chết. Vị đệ tử đó trở về bạch lại cùng ngài, ngài bảo:

– Rắn đó nay đã thọ sinh tại nhà Bùi Lang Trung làm thân người nữ, cũng rất thông tuệ, năm mười tám tuổi sẽ qua đời, liền thọ nghiệp thân người nam. Sau đó xuất gia tu đạo. Bùi Lang trung tức là môn đồ của ta. Ông có thể vì ta mà vào thành dò xét hỏi thăm nó. Người nữ đó hiện nay muốn sinh con nhưng rất khó khăn, ông tiện thể cứu hộ nó.

Bấy giờ, Bùi Khoan làm binh bộ Lang Trung, tức là môn nhân của ngài. Vị đệ tử đó vâng mạng vào thành, xa chỉ đến nhà Bùi Khoan. Gặp lúc Bùi Khoan xin nghỉ ở nhà, nên cho người báo rằng:

– Hòa thượng Hoa Nghiêm chuyển lời thăm hỏi.

Bùi Khoan bước ra, thấy thần sắc rất lo âu, vị Tăng đó hỏi về nguyên nhân, Bùi Khoan nói:

– Người vợ muốn sinh đã sáu bảy ngày, đèn đuốc giữ luôn rất là nguy khốn vậy.

Vị Tăng bảo:

– Tôi có thể giúp đỡ.

Liền sai bảo ở ngoài cửa nhà nên thiết bày giường chiếu sạch sẽ, vị Tăng đó đốt hương đánh khánh. Xưng gọi pháp hiệu Hòa thượng ba lần. Phu nhân của Bùi Khoan an nhiên mà sinh một bé gái, sau, đến mười tám tuổi, quả thật bé gái ấy qua đời.

121. Thần tăng Thanh Hư

Thiên Thanh hư, ngài dòng họ Đường, người xứ Tử châu. Lập tánh cương quyết, tài giỏi thông suốt khó bì, bỗng nhiên hồi tâm, tụng lớn kinh Kim Cang Bát-nhã, ba nghiệp đều không biếng lười. Ngài thường ở nơi núi rừng trì tụng, có bảy con nai thuần nhiễu quanh như nghiêng mình lắng nghe, ngài dứt tiếng thì nó đi, lại có người ở gần bị lửa thiêu chết thành tro tàn, chỉ có ngài lửa dữ bay qua nhưng không thiêu cháy được.

Năm Trường An thứ hai (702) đời tiền Đường, một mình ngài đi đến nơi tự viện thuộc phương Bắc phái trên chùa Ngộ chân, Lam điền. Trước kia tại đó không có suối giếng, sức người không xoay kịp, phải đi lấy nước ở khe suối, kéo bình gánh hủ vận chuyển đến rất cực nhọc. Đại sư Pháp Tạng ở chùa Hoa nghiêm nghe tiếng ngài trì kinh có linh nghiệm, mới thỉnh ngài đến cầu tìm suối nước, ngài bèn vào trong điện các Di-lặc, đốt hương trì niệm liên tục đến sáng thứ ba, bỗng nhiên trong tâm dường như trong lòng núi ở phía Tây bắc dùng dao khoét đất, nước từ đó mà phun ra, ngài ghi nhớ kỹ nơi đó, bèn đến đó xới đào, quả thật có được dòng suối mát ngọt, sử dụng không khô thiếu.

Đến năm Trường An thứ tư (70) ngài đến kiết hạ tại chùa Thiếu lâm. Trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật rất rộng rãi, không ai dám đến đó, người ta cho rằng đó là nhà của quỷ thần ở. Có một vị Luật sư cậy mình có giới hạnh, ban đêm đến đó, trì tụng luật, thấy một người lớn dùng nêu đâm vào mình, rất đau đớn liền xuống núi rụt lại dứt hơi. Lại có một vị Sa-môn chuyên trì chú: “Hỏa Đầu Kim Cang” là bậc đáng tôn trọng. Mọi người nói với vị ấy rằng:

– Năng lực trì chú của ngài không ai bằng vậy có thể trú lại nơi đó qua đêm được chăng?

Đáp:

– Đó có gì đáng sợ.

Khi ấy bèn mang hương lữa đến an tọa trì chú, chỉ trong chốc lát, Thần hiện ra dùng tay nắm lấy chân quăng xuống dưới, suốt bảy ngày vị Tăng đó không nói được tinh thần hôn mê đảo loạn. Ngài nghe vậy bảo rằng:

– Loài quỷ vật hạng dưới dám vậy ư?

Liền đến đó, như thường trì tụng kinh, nữa đêm nghe trong thất tợ như có tiếng rất dữ mạnh, ngài liền trì niệm thần chú “Thập Nhất Điện Quan Âm”, lại nghe trong thất dương như có hai con trâu đang đấu nhau, tượng Phật thảy đều lay động. Trì chú đã mất hiệu nghiệm, ngài lại trì tụng bản kinh Nhất Khế, lần lượt yên tịnh, từ đó người ở không gặp phải tai hoạn gì. Thần liền dời đi chỗ khác.

Năm Thần Long thứ hai (706) đời tiền Đường, vua Trung Tôn

ban sắc chiếu chỉ thỉnh ngài vào nội cung cầu mưa, hai mươi bảy ngày sau có tuyết, nhà vua cho rằng: “Chưa cứu giúp đủ với sự mong ước của đương thời”, bèn thỉnh ngài đến chùa đến chùa lại tiếp tục thỉnh cầu, ngài bèn ở trong điện Phật tinh thành cầu đảo và luyện nhất chỉ, mới đến một đêm mà mưa đủ cả ngàn dặm, chỉ hoàn phục như cũ mới gặp nước lớn, phòng nhà trong đều thấp xuống chìm ngập, chỉ riêng ở viện đó không khổ như không bị chần mất. Phàm mọi sự linh nghiệm dị thường của ngài đều là như vậy.

122. Thần tăng Kim Sư

Sa-môn Kim Sư, ngài người xứ Tân la. Lúc ngài ở tại Huy dương, nói lục sự tham quân Phòng Uyển rằng:

– Thái thú Bùi Khoan sẽ đổi.

Phòng Uyển hỏi:

– Bao giờ?

Ngài bảo:

– Sáng mai sắc thư hẳn sẽ đến và sẽ gặp ông ở gốc Tây nam quận.

Phòng Uyển chuyên hầu chờ đợi. Hôm sau trước giờ ngọ, Dịch Sứ mang hai bức điện văn đến. Chẳng là Phòng Uyển cho là xằng bậy vậy.

Đến giờ Ngọ, lại có Dịch Sứ đưa đến một bức điệp văn, nói:

– Bùi Khoan đổi làm An lục biệt giá.

Phòng Uyển đích thân nghênh đón vị Tăng kinh sư, thân lại tự đi. Quả thật đến gốc Tây nam quận cùng gặp Bùi Khoan. Bèn liền gọi hỏi ngài, ngài bảo:

– Quan chức tuy đổi, nhưng quan phục chẳng đổi, mà các con cháu ngoại, rễ của ông mỗi người đều phải phân tán.

Sau khi sắc chiếu ban đến, trừ biệt giá, áo bào tím giây thao buộc ấn vẫn còn, bọn con cháu ngoại, rễ mỗi người đều đi mỗi nơi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9