TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 7

123. Thần tăng Tuệ An

Thích Tuệ An, ngài dòng họ Vệ, người xứ Chu giang, Kinh châu. Dung mạo ngài đoan trang thanh nhã, mắt xanh da biếc, tu tập các pháp môn không gì không thông suốt.

Trong niên hiệu Đại Nghiệp (60 – 617) đời nhà Tùy, ngài mở rộng cứu giúp lớn, tìm nhóm các hàng phu đinh. Bao kẻ đói chết đều cùng nhau trông mong. Ngài lần lượt khất xin nhiều bát thức ăn để cứu giúp người bệnh thiếu thốn ấy, còn thừa mới giúp cho đồ chúng.

Đến năm Lân Đức thứ nhất (66) đời tiền Đường, ngài đến núi Chung nam dừng ở bên vách đá. Bấy giờ chung quanh cao ngyên thung lũng, sớm bị sương làm hư hại lúa mạ, riêng chỗ ngài ở không bị. Tháng tư năm Thánh lịch thứ hai (698) đời tiền Đường, bảo môn nhân học chúng rằng:

– Mỗi người hãy trở về đóng cửa phòng nhà.

Đến canh ba có Thần đến, hỗ vệ nghiêm chỉnh hòa cùng linh kiếm, gió mưa đều có. Thần ấy đi nhiễu quanh viện mấy lượt. Thần lại lễ bái mà đi. Có người hỏi về nguyên cớ. Ngài bảo:

– Lúc ta ở núi Trung thần đến đó đều thọ giới Bồ-tát.

Thiên Hậu* thường hỏi ngài về tuổi tác, ngài đáp:

– Không ghi nhớ.

Vũ Hậu hỏi:

– Tại sao không nhớ.

Ngài bảo:

– Thân sinh tử như vòng tròn! Không khởi đầu và điểm cùng tận, lấy gì mà nhớ? Thêm nữa tâm này xuôi chảy không gián cách ở giữa, thấy giọt nước khởi diệt cũng là vọng tưởng vậy. Từ sơ thích cho đến tướng Động diệt cũng chỉ như thế, làm sao năm tháng có thể ghi nhớ ư?

Vũ Hậu dập đầu bái lễ. Nghe chỗ ngài ở thiếu giếng nước, ban săn người đến đục đá đào giếng, ngài bảo:

– Dưới đây có xích tường cẩn thận tổn hại đến vật, gần đến suối thấy tôm sắc vàng khuấy động trong đất bùn, hợp với sự huyền ký của ngài vậy. Vũ Hậu càng thêm khâm phục kính trọng ngài.

Đến mùng ba tháng ba năm Cảnh Long thứ ba (710) đời tiền Đường, ngài căn dặn môn nhân rằng:

– Ta sắp tịch đây, nên đêm nhục thể vào để trong rừng, đợi lửa chất phát tự thiêu đốt cháy, chớ trái ước nguyện của ta.

Bổng chốc có Hòa thượng Vạn Hồi lại, thấy ngài càn rở chắp tay bàn luận phút chốc. Thị giả đứng hầu bên cạnh, nghiêng tai lăng nghe đều không hiểu biết gì. Đến ngày mồng tám, ngài đóng cửa phòng, xếp mình lại mà tịch, hưởng thọ một trăm ba mươi tuổi.

124. Thần tăng Tăng-già

Đại Sư Tăng-già vốn người Tây Vực, ngài dòng họ Hà. Đầu niên hiệu Long Sóc (661) đời tiền Đường, ngài đến Trung Quốc thuộc danh ở chùa Long hưng, Sở châu. Từ đó mới phát thần dị.

Đầu tiên ngài dẫn đệ tử Tuệ Nghiễm đến huyện Lâm hoài, Tử châu, tại phường Tín nghĩa xin đất đóng nêu, lúc sắp xây dựng chùa, ở dưới cột nêu đào được bia ký chùa cổ Hương tích và một pho tượng bằng vàng, trên đầu tượng có đề chữ “Phổ Chiếu Vương Phật”, dân chúng ở đó vô cùng thán dị, bảo rằng:

– Mắt trời biết trước, chúng tôi làm sao không cúng thí?

Từ đó, đua nhau cầu xin cúng thí, ngài từng trụ ở nhà Hạ Bạt, tự nhiên hóa hiện thân lớn, sàng giường mỗi bề đến ba thước, không người nào mà không kinh ngạc, kế đến hóa hiện tôn tượng Quán Thế Âm Bồ-tát mười một mặt, cả dòng tộc gia đình đều vui mừng gấp bội càng tăng sự tin tưởng kính trọng, liền cải gia vi tự. Từ đó viết tích kỳ dị biến hiện chẳng phải một. Ban đầu, ngài đến hành hóa ở Giang biểu, dừng lại ở chùa Linh quang; Gia hòa. Đó là vùng đất nhiều sông ngòi ao hồ, người dân đắp hồ bắt cá, săn bắn giao ngọ để mưu sinh, ngài đôn đốc khuyên răn, không nên tạo nghiệp giết hại những con vật ấy, nên dứt bỏ nhưng việc ác để nhằm mưu kế sinh nhai ấy. Nhân đó mà có nhiều người xé lưới bẻ câu, ngài tạm nhàn rổi mà yên nghỉ, thấy Thần mách bảo rằng:

– Trời quá nắng hạn, lúa non của dân chúng đều chết, thân sao chứa lại, ghét rồng?

Ngài bảo:

– Vậy thì làm sao?

Thần hỏi:

– Như đêm nay đưa ngón tay hỏng ra ngoài cửa, xem nó thế nào.

Ngài bèn y theo làm. Đêm đó sét đánh khác thường, thật rõ thấy có mạch chỉ màu đỏ rất nhỏ, ngài tự bảo:

– Ta vô duyên với vùng đất này.

Bèn đến Tấn dương.

Thấy chùa Quốc tướng bị hoang phế, ngài để lại chiếc y trên đòn dong chánh điện mà đi. Sau đó, có người nghe mùi hương lạ phảng phất.

Ngài dự ký ở đó rằng:

– Chùa ấy sẽ có Nhân vương trùng hưng lại.

Hơn ba mươi năm sau, quả thật có vị Tăng, người dòng họ Toàn làm thí chủ. Trong niên hiệu Thông Thiên Vạn Tuế (697–698) đời Võ Tắc Thiên, ở lại Sơn dương giữa chúng đông. Ngài biết trước có kẻ hiềm tật ganh ghét ngài. Kẻ đó xướng lời rằng:

– Tôi có năm mươi vạn tiền, kính dâng hổ trợ tu đạo công đức.

Ngài đứng trên bờ sông Hoài, kêu gọi một chiếc thuyền, bảo:

– Ngươi có của cải cúng thí, ta sẽ khoan tha ngục tù, vật ngươi đang tải chở sẽ được nhẹ nhàng.

Kẻ trộm nghe lời nói ấy đều xả thí hết. Do đó mà điện Phật dựng lập sớm hoàn tất, không bao lâu sau, kẻ trôm bai lộ bị bắt giam trong ngục ở huyện Dương tử, ngài cỡi mây xuống ủy dụ nói không đến nổi phải chịu khổ. Quả thật không qua ngày ấy có văn bản tha cho nữa tội chết vậy.

Xưa kia, tại Trường an, phụ mã đô úy Võ An bị bệnh, ngài dùng lọ nước tắm phun rãy vào mình nên được lành. Tiếng tăm chấn động khắp trời. Sau đó. Những người mắc bệnh tật đến ngài, ngài bèn dùng nhánh dương đề phẩy nước, hoặc bảo tẩy rửa sư tử đá mà lành. Hoặc ném bình nước, hoặc bảo sám tạ lỗi quá. Linh nghiệm chẳng phải là hư bày, Phước chẳng luống mất, ngài dứt trừ tai ương thân bệnh cho kẻ kia thì cầu xin ngựa, cảnh giác phong ách thì đòi quạt, hoặc nhận tiền của kẻ trộm cướp, hoặc cắn chặt cây cỏ đen, hoặc tìm giếng của La-hán, hoặc tỏ rõ sự chìm ngập của họ Bùi, hoặc dự biết có tuyết lớn, hoặc cứu hạn hay mưa. Thần biến vô phương, chẳng thể lường thường độ.

Năm Cảnh Long thứ hai (708) đời tiền Đường, vua Trung Tông sai sứ nghênh đón vào nội đạo tràng, tôn làm Quốc sư. Ngài ra trú tại chùa Tiền phước, thường ở riêng trong một cái thất. Trên đảnh đầu ngài có lỗ huyệt, thường dùng bông bít lại, ban đêm gở tấm bông, hương thơm từ trong lỗ huyệt trên đảnh phát ra, khắp phòng mùi hương khác thường, đến sáng hương thơm tụ lại ở trong lỗ huyệt, lại dùng bông bít lại, ngài thường rửa chân, mọi người lấy nước đó để uống thì bệnh vốn có lâu ngày đều lành. Một ngày nọ, vua Trung Tông ở tại nội điện nói với ngài rằng:

– Khắp kinh đô cho đến thôn ấp không có một giọt nước mưa đã vài tháng, xin ngài mở lòng từ bi cởi mở sự lo toan của trẫm!

Ngài bèn dùng bình nước ra phù rải, bỗng chốc âm u mây nhóm mưa tuông. Vua Trung Tôn rất vui mừng, ban chiếu sắc tăng biển ngạch chùa ngài ở đặt hiệu là chùa Lâm hoài. Ngài xin lấy hiệu chùa là Phổ chiếu vương, vì muốn y theo chữ trên tượng vàng. Vua Trung Tôn cho rằng chữ Chiếu là húy miếu Thiên hậu (Vũ Tắc Thiên), mới đổi là chùa Phổ quang vương. Đích thân nhà vua ngự đề biển ngạch để ban tặng.

Đến ngày mùng hai tháng ba năm Cảnh Long thứ tư (710), ngài an nhiên đoan tọa thị tịch tại chùa Tiến phước, Trường An. Vua Trung Tôn lệnh xây Tháp tại chùa Tiến Phước, sơn thếp thân để cúng dường, bỗng nhiên gió lớn thổi xào xạc, mùi hôi tràn khắp, vua Trung Tôn hỏi mọi người:

– Đó là điềm gì?

Quan cận thần tấu rằng:

– Đại sư Tăng-già hóa duyên tại Lâm hoài, e rằng ngài muốn trở về xứ đó, nên hiện biến dị ấy.

Vua Trung Tôn yên lặng bằng lòng. Mùi hôi ấy liền dứt, chỉ trong mùi hương lạ ngạt ngào bốc tỏa. Đến tháng năm năm đó đưa nhục thể ngài đến Lâm hoài dựng tháp cúng dường. Tháp đó hiện nay vẫn còn.

Sau, vua Trung Tôn hỏi Hòa thượng Vạn Hồi:

– Đại sư Tăng-già là người gì?

Ngài Vạn Hồi đáp:

– Đó là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong phẫm Phổ Môn kinh Pháp Hoa nói: “Người đáng dùng các thứ thân hình Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni… được độ thoát, Bồ-tát liền vì hiện ra mà nói pháp.

Tức là điều này. Trước kia, lúc ngài Tăng-già đến Trường an, ngài Vạn Hồi đến tham lễ yết kiến rất cung kính. Ngài vỗ vào đầu Vạn Hồi bảo:

– Này ông nhỏ! Cớ sao lưu ở lâu thế? Có thể đi đi!

Sau khi ngài thị tich chưa được vài tháng thì ngài Vạn Hồi cũng viên tịch.

125. Thần tăng Tuệ An

Thích Tuệ An, không rõ ngài là người ở đâu, ngài nói năng phần nhiều đầy đủ các thuật ưu việt. Bấy giờ, Đường Hưu Canh đã lập công, giàu sang không ai bằng. Một ngày nọ, bỗng nhiên ngài đến nói với Hưu Cảnh rằng:

– Tướng quốc sắp có họa lớn. Và cũng không cách xa đến vài tháng, nhưng có thể khử trừ được!

Hưu Cảnh rất lo sợ, liền lễ bái thưa hỏi ngài, ngài bảo:

– Tôi không có thuật gì khác, chỉ bày cùng tướng quốc một kế sách, mong rằng tướng quốc nghe cho!

Hưu Cảnh nói:

– Xin ngài dạy cho con!

Ngài bảo:

– Thiên hạ quận thú chẳng phải là do tướng quốc bảo ban đó ư!

Hưu Cảnh đáp:

– Đúng vậy.

Ngài bảo:

– Tướng quốc nên đến quan thấp hèn hỏi một người nhà nghèo khó đói lạnh có người tài giỏi chọn làm tào châu thứ sử. Người đó rất cảm ân của tướng quốc mà có thể chỉ vẻ. Đã tìm được nên báo lại cùng ta. Hưu Cảnh vừa mừng vừa tạ, bèn hỏi ở bạn thân tìm được Trương Quân, nhà rất nghèo. Làm quan thấp hèn ở kinh, ngay ngày đó liền bái yết ca ngợi là Thiên đoại phu. Lại chỉ trong mười ngày dùng làm Tào châu thứ sử. Thế rồi, vời đến ngài thưa rằng:

– Đã theo kế lược của Đại sư và tìm được trương quân. Thế thì có thể chỉ dạy thế nào?

Ngài bảo:

– Trương quân lúc vào quận, nên tìm kiếm hai con chó cao vài thước mà tài giỏi. Trương quân mang ân đặt chỉ của Đường Hưu Cảnh, nhưng lại chẳng hiểu được ý ấy. Đến lúc sắp vào trong quận, tới cáo từ Hưu Cảnh, Hưu Cảnh bảo:

– Nghe nói quý quận khéo giỏi luyện chó, tôi muốn xin được hai con có khả năng tài giỏi phi thường.

Trương quân nói:

– Kính cẩn vâng lời chỉ bảo.

Đến quận được vài ngày, liền mời các vị quận lai đến và nói với họ rằng:

– Tôi nhận ân sân của đại thừa tướng Đường Hưu Cảnh. Nay Đường Công cần kiếm hai con chó tài giỏi. Vậy các vị có thể kiếm được chăng?

Có một quan lại nói trước rằng:

– Ở nhà tôi có nuôi được một con, tướng mạo khác thường nguyện xin hiến tặng.

Trương Quan rất mừng, liền nhận lấy, khi đã đến thấy con chó ấy cao đến vài thước, tài giỏi khác thường mà lại đã được nuôi thuần phục.

Trương Quân nói:

– Tướng quốc cần đến hai con như thế, giờ biết làm sao?

Quan lại thưa rằng:

– Trong quận đây chỉ có một con này, ngoài ra đều là bình thường cả. Nhưng ở phía Nam quận cách hơn mười dặm tại thôn đó, nhà có nuôi một con, mà người đó rất mến tiếc nó. Nếu quan lớn không đích thân đến đó thì không có cách gì lấy được.

Trương Quân liền bảo chuẩn bị xa giá, mang nhiều vật nòng hậu mà đến hỏi, quả thật có được, tướng trạng của con chó ấy cùng với con chó quan lại hiến tặng trước không khác, mà bộ diện sắc thần tinh xảo hơn. Trương Quân rất mừng, liền mời vị quan lại thân thiết và đem con chó đến hiến tặng, Hưu Cảnh rất vui mừng và rất lấy làm lạ về tướng mạo ấy, cho rằng điều chưa từng thấy. Bèn thỉnh mời ngài đến xét xem, ngài bảo:

– Thật khó nuôi dưỡng nó! Tướng Quân thoát khỏi đại họa là do nhờ hai con chó này đây.

Sau hơn mười ngày, ngài lại đến bảo Hưu Cảnh rằng:

– Sự tình sẽ xảy ra trong đêm nay, xin tướng quân nghiêm chỉnh phòng bị, Hưu Cảnh bèn lưu giữ ngài dừng nghỉ ở nhà người em. Hôm đó Hưu Cảnh ngồi tại trước hiên nhà, bảo thị vệ hơn mười người cầm nhắm cung tên đứng quanh các gốc giường. Hưu Cảnh cùng ngồi tại một giường. Đến nửa đêm, ngài cười, bảo:

– Họa của tướng quân đã khỏi, chúng ta có thể đi ngủ được!

Hưu Cảnh rất mừng mà lễ tạ, bèn cùng các thị vệ và ngài cùng đi ngủ. Đến sáng sớm ngài gọi Hưu Cảnh:

– Nên thức dậy!

Hưu Cảnh liền dậy, nói với ngài:

– Họa thật đã khỏi, nhưng hai con chó dùng để làm gì?

Ngài bảo:

– Chúng ta đều nên đến xem thử sao?

Bèn cùng hưu Cảnh đều tìm theo dấu vết, đến trong khu vườn sau, thấy một người ngã lăn giữa đất mà chết, thấy ở cổ người đó có vấy máu bởi bị loài vật cắn, lại thấy hai con chó đang ngồi dưới một gốc cây lớn, ngước mắt nhìn lên thì thấy một người trạc áo núp trên cây. Hưu Cảnh kinh hãi mà hỏi người đó rằng:

– Ngươi là ai?

Người đó khóc, chỉ người đã chết bảo:

– Tôi và kẻ đó đều là giặc, đêm hôm qua cùng đến và sắp muốn vào hại tướng quân, bởi gặp hai con chó vay quanh và sủa. Kẻ đó bị chó cắn mà chết. Còn tôi sợ quá nên nép mình ở đây. Hai con chó nhìn thấy nên ngồi xổm dưới gốc cây. Tôi đợi nó đi nơi khác thì sẽ chạy trốn, nhưng mãi đến sáng, chó chẳng chịu đi, nay tức phải chịu chết.

Hưu Cảnh bèn gọi thị vệ bắt trói kẻ đó lại, ngài bảo:

– Tội ấy thật là đáng chết, nhưng không phải do chính tâm nó. Bởi vì nó chỉ thọ chế ở người khác mà thôi. Xin nên tha cho nó!

Hưu Cảnh bảo mở trói, kẻ giặc đó lay khóc mà đi. Hưu Cảnh cảm tạ ngài mà thưa rằng:

– May nhờ có ngài! Không thì con đã chết bởi hai người ấy.

Ngài bảo:

– Đó là phước của tướng quốc, chứ đâu phải tôi có thể làm được đâu!

Hưu Cảnh có người em là Lư Chẩn ở tại Kinh môn. Có một thuật sĩ bảo rằng:

– Ông sắp có tai họa, phải tìm cầu một người hiền thiện khử trừ mới có thể qua.

Lư Chẩn vốn có biết ngài, nên viết thư gởi đến Hưu Cảnh, nhờ Cảnh thỉnh mời, ngài liền đưa cho Hưu Cảnh một bức thư, bảo:

– Sự tình như trong thư.

Lúc thư đưa tới Kinh châu thì Lư Chẩn đã chết, người nhà Lư Chẩn mở thư xem, chỉ một tờ giấy không văn tự gì. Hưu Cảnh càng lấy làm lạ. Sau đó vài năm, ngài bỏ đi nhưng không biết đi về đâu.

126. Thần tăng Tú Sư

Sa-môn Tú Sư, vốn dòng họ Lý, người xứ Trần lưu, Biện châu, hành thiền tinh khổ. Đầu tiên ngài đến Kinh châu, sau dời đến chùa Thiên cung ở Lạc đô. Vũ Hậu (Vũ Tắc thiên 690–70) rất kính trọng ngài, ngài thường biết những việc sắp xảy ra nên ứng xử rất chân toàn.

Trong niên hiệu Trường An (701–70) đời tiền Đường, ngài vào kinh đô, trú tại chùa Tư thánh. Một hôm, tự nhiên ngài bảo các đệ tử tắt hết đèn trong thiền viện, đệ tử chỉ để lại một cái đèn lớn, ngài cũng bảo tắt luôn. Nhân đó, ngài nói về tai nạn của lữa không thể lường hết. Có chùa bất cẩn đèn đuốc nên điện Phật bị tai họa, lại có chùa lầu chuông gặp phải lửa hại, lại có một chùa Kinh tạng bị lửa thiêu nướng. Rất đáng tiếc, chúng Tăng trong chùa đều không biết được ý ngài vừa nói. Đến đêm tối mất lửa, quả nhiên điện Phật, lầu chuông và kinh tạng ba cơ sở bị lửa đốt hại.

Thời tiền Đường, lúc Huyền Tông đang chấn phiên, thường cùng các Vương tử đến lễ bái ngài, cúng dường ngài một ống sáo. Sau khi Huyền Tông đi rồi, ngài bảo phải cẩn thận giữ lấy nó, sau, có lúc cần hẳn dâng lên.

Năm một trăm tuổi, ngài thị tịch tại chùa Tư thánh, an táng tại núi Long môn, kẻ Tăng người tục đua nhau tìm đến vài ngàn người. Yên quốc Trương Thuyết viết văn bia dựng ở tháp ngài.

127. Thần tăng Vạn Hồi

Sa-môn Vạn Hồi người xứ Văn hương, vốn dòng họ Trương. Thân mẫu ngài trước kia cầu nguyện ở tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, nhân đó mang thai ngài. Sau khi ngài đã chào đời rất ngu dốt; lên tám, chín tuổi mới biết nói. Song thân ngài dùng thịt lợn con chó con nuôi dưỡng ngài. Đến lúc trưởng thành, thân phụ bảo ngài cày ruộng, ngài cày thẳng tới một đường không quay lại, miệng chỉ thường nói “Bình đẳng.” Nhân đó cày một gò dài vài mươi dặm, gặp phải ngòi hầm, bị cản trở ngài mới dừng lại. Thân phụ ngài tức giận bèn đánh. Ngài bảo:

– Cày chúng tất cả chớ sau lại phân biệt đây kia?

Thân phụ mới thôi đánh, nhưng không cho ngài cày nữa.

Anh trai ngài đi lính ở An tây, vắng bặt tâm tính, song thân ngài cho rằng đã chết, ngày đêm khóc buồn rầu lo nghỉ không thôi. Ngài nhìn song thân vô cùng cảm thông, bèn quỳ mà nói rằng:

– Khóc lóc há chẳng phải làm cho anh con ưu phiền?

Song thân ngài vừa tin vừa nghi, hỏi:

– Vậy phải làm sao?

Ngài bảo:

– Nghĩ rõ anh con đang cần là y phục và lương thực, xin đều chuẩn bị, con sắp đi thăm anh đây.

Bỗng một sáng sớm mai, ngài mang các thứ đã chuẩn bị mà đi, chiều tối thì trở về lại nhà, nói cùng song thân rằng:

– Anh vẫn mạnh khỏe tốt lành.

Đưa thư ra xem mới thật là dấu bút của người anh, cả nhà đều lấy làm lạ. Hoằng Nông đến Tây an, bởi xa hơn vạn dặm, vì ngài đi vạn dặm và trở về nên gọi tên ngài là Vạn Hồi.

Trước kia Pháp sư Huyền Trang đến nước Phật thỉnh cầu kinh pháp, thấy trong khảm Phật có ghi: “Bồ-tát Vạn Hồi giáng đến đất văn hương để giáo hóa.” Ngài Huyền Trang vội cỡi ngựa đến Văn hương, hỏi ở đó có Vạn Hồi không, bảo kêu gọi Vạn Hồi, ngài đến, ngài Huyền Trang liền đảnh lễ, để lại cúng dường ba y, Bình bát rồi đi. Sau, Thiên đế đi tìm thỉnh ngài vào trong cung và bàn nói mọi sự rất có ứng nghiệm. Bấy giờ, có Trương Dị Chi làm lớn một ngôi nhà thứ hai, ngài từng chỉ ngôi nhà đó bảo:

– Tướng tác.

Mọi người không ai hiểu ngài muốn nói gì. Đến lúc Trương Dị Chi chiếm lấy ngôi nhà đó làm tướng tác giam.

Ngài thường nói với Vĩ Thứ Nhân và công chúa An Lạc rằng:

– Tam lang sẽ lầy đầu ngươi.

Vĩ Thứ Nhân cho rằng: “Trung Tôn là con thứ ba”, sợ rằng Trung Tôn sinh biến nên thuốc độc nó, mà không biết rằng do Huyền Tông giết. Thời Thiên Hậu (690–70) trị vì, các quan lại tàn khóc làm những chuyện đặt điều, nên các quan có phần cao trọng sáng suốt ngày một từ biệt vợ con. Bấy giờ Thôi Nhật Dụng, Võ Bình Nhất Tống đến hỏi Thẩm Thuyên Kỳ, Sầm Hỳ, Tiết Tắc, mọi người thấy ngài đều nghiêm túc trịnh trọng thăm hỏi. Các người ấy nói rằng:

– Tất cả chúng tôi đều muốn Thánh Nhân nói cho một lời để định tốt xấu!

Ngài vỗ vai Thẩm Thuyên Kỳ bảo:

– Ông thật là giỏi.

Thẩm Thuyên Kỳ vui mừng không gì hơn nói:

– Thánh nhân thọ ký cho ta, các đệ tử không thể tranh đua. Ngài lại nói với Võ Bình rằng:

– Cho ông lấy tên là Phật Đồng, sẽ không còn gì phải lo ngại.

Trong ánh mắt của Sầm Hy, Tiết Tắc có ẩn điều bất thiện, Sầm dùng ngựa lánh đi. Ngài đưa mắt nhìn Tiết Tắc bảo:

– Đó là chồn cáo. Nói thế đâu đủ sợ.

Ngài lại quay lại bảo:

– Ngươi cũng không bị giết cùng với Hy Tắc.

Mọi người càng thêm quý trọng.

Lúc Huyền Tông đang còn ẩn náu cùng với môn nhân như Trương

Vĩ… đồng đến bái yết, ngài thấy tướng quá ư bẩn thỉu quấy nhiễu, bèn dùng gậy sơn gọi mà đuổi đi, những người đồng đến đều bị xua đuổi. Lúc Duệ Đế vào, ngài trở lại cài then cửa phòng, vỗ vai Duệ Đế bảo:

– Năm mươi năm thái bình, Thiên tử hãy tự vui mừng! Sau đó không biết thế nào.

Trương Vĩ… đứng ngoài cửa nghe rõ ràng lời đó, nên khuynh tâm phò tá, năm mươi năm sau là chỉ họa của Lộc sơn.

Lúc Duệ Tông đang ở Phiên để, hoặc là du hành trong dân gian, nghe rõ ràng lời đó, nên dốc lòng phò tá, năm mươi năm sau là chỉ họa của Lộc sơn.

Lúc Duệ Tông đang ở Phiên để, hoặc là du hành trong dân gian, ngài đi trong tụ lạc, hoặc đi giữa đường cái, lớn tiếng gọi: “Thiên tử đến.”, hoặc “ Thánh nhân đến.” Các xứ đô kính tin vốn có sẵn từ trước, Duệ Tông không sao bồi hồi xúc động.

Thái tử Tuệ Trang là con thứ hai của Duệ Tông. Lúc đầu Võ Tắc Thiên đem đến hỏi ngài, ngài bảo:

– Đứa trẻ này là do Đại Thọ Tịnh ở Tây Vực nuôi dưỡng nó, nên làm anh em về sau sinh thân vương, hình nghi khảm vĩ rất khéo việc ăn uống.

Niên hiệu Cảnh Long (707–710) đời tiền Đường ngài thường luôn ra vào. Các hàng sĩ thứ quý tiện tranh nhau vào lễ bái. Ngài mặc áo bào bằng gấm, hoặc cười, la mắng hoặc đánh trống, nhưng sau tùy việc mà ứng nghiệm.

Công chúa Thái Bình vì ngài tạo dựng một căn nhà ở bên phải ngôi nhà của công chúa. Trong niên hiệu Cảnh Vân (710–712) đời tiền Đường, ngài thị tịch tại ngôi nhà đó.

Trước lúc thị tịch, ngài gọi lớn, bảo tìm cầu nước vốn từ dòng sông, đệ tử đồng bạn tìm kiếm đều không có, ngài bảo:

– Trước mặt nhà là nước sông đó!

Bèn đào dưới bậc thềm, nước sông tự nhiên tuôn vọt. Uống nước xong ngài liền thị tịch. Nước giếng nơi đó đến nay vẫn mát ngọt.

128. Thần tăng Xử Tịch

Thích Xử Tịch, ngài dòng họ Chu, người ở xứ Thục, ngài phụng thờ Thiền sư Bảo Tu, bình dị không tham cầu, không tranh giành mọi vật, thanh nhã, thông suốt sâu mầu. Thiên Hậu (Vũ Tắc Thiên 690– 70) nghe thế, ban chiếu thỉnh ngài vào cung ban tặng áo nạp y Tănggià-lê. Ngài xin từ tạ trở về núi, trải qua bốn mươi năm, chân không in dấu trong các tụ lạc. Ngài ngồi trên chiếc giường theo kiểu người Hồ, điềm nhiên yên lặng không ngủ, thường có hổ ngồi dưới tòa như vật nuôi trong nhà. Dân chúng kính trọng, những người học đạo đua nhau tìm đến đông đúc. Do vậy có những điều rất lạ. Như Đại sư Vô Tướng từ nước Tân La đến tham yết Thiền sư, ngài dự biết, răn bảo đồ chúng:

– Ngày mai sẽ có khách Tăng từ nước khác đến, nên quét dọn sạch sẽ để tiếp đãi.

Quả thật, sáng mai ngài Vô Tướng từ Hải đông tới.

Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) đời tiền Đường. Tân Trừ Thái Thú Vương Diệp lên nhận chức, xử phân trong địa phận ứng thị, các vị Sa-môn tìm đến chúc mừng, duy chỉ có mình ngài từ lâu chẳng xuống núi. Có người khuyên ngài nên đến tham yết để tránh sự nghiêm ngặt. Ngài nói với đệ tử:

– Ngươi tuy xuất gia, còn chưa biết nghiệp. Ta chưa chết thì Vương Diệp làm sao như ta được?

Lúc Vương Diệp lên nhậm chức quan tước mới ba ngày, các vị Sa-môn đều đến, có người bảo:

– Sa-môn Xử Tịch khi tới phiên hầu chẳng đến chúc mừng.

Vương Diệp có phần tức giận. Khi chư Tăng lên sảnh đường an tọa rồi đem mở đầu mối giận, hỏi nguyên do mà ngài lại không đến. Bỗng nhiên sắc mặt bừng bừng, chư Tăng đều run sợ, bỗng chốc Vương Diệp bỗng ngã lăn xuống đất, mọi người khiêng về nhà đến bàn làm việc, sau bức chắn như có tiếng đánh tát vào má, chốc lát thì Vương Diệp dứt hơi thở qua đời.

Đến năm tám mươi bảy tuổi, ngài thị tịch, đến nay vẫn tôn sùng kính ngưỡng.

129. Thần tăng Nguyên Khuê

Thích Nguyên Khuê, ngài dòng họ Lý, nười xứ Y khuyết. Tỏ ngộ được Thiền sư ở chùa Thiếu lâm, ngài rất thông tam yếu, thâm nhập huyền vi, bèn chọn nơi bàng ổ làm nhà tranh ở trong ngục. Nói với người học trò của mình là Nhân Tố rằng:

– Ta mới vào chùa Đông nham, sau khi Ta tịch ngươi hãy nên xây tháp an táng hài cốt ta ở chốn này.

Ngài xuống Nham A an nhiên tạo thiền.

Bấy giờ, có người đội mũ cao mặc quần xếp gấp, bộ khúc lắm nhiều, tự xưng là đến tham yết Đại sư. Ngài thấy người ấy dáng dấp cao lớn sáng suốt khác thường, bèn gọi:

– Lành thay! Nhân giả! Có việc gì đến đây?

Người ấy bảo:

– Ngài sao biết tôi ư?

Ngài bảo:

– Tôi thấy Phật và chúng sinh đều bình đẳng, là một, đâu có khởi thức phân biệt.

Người ấy bảo:

– Ta là Thần núi đây. Ta có thể tạo tác mọi sự lợi hại sống chết đối với mọi người. Ngài đâu có thể xem tôi với mọi người đồng là như một ư?

Ngài bảo:

– Ông có thể tạo tác mọi việc sống chết đối với mọi người. Còn ta vốn bất sinh, ngươi làm sao có thể làm ta chết được? Ta xem thân hình cùng với hư không đều là bình đẳng, xem ta và ngươi cùng đều bình đẳng. Ngươi có thể hủy hoại hư không cùng với ngươi chăng? Giả sử ngươi có thể hủy hoại hư không cùng với ngươi. Ta đây đã không sinh không diệt. Ngươi còn chưa được như thế làm sao có thể tạo tác mọi sự sống chết đối với ta ư?

Thần cúi đầu lạy nói rằng:

– Tôi cũng là thông minh chánh trực so với các Thần khác, nhưng đâu biết trí tuệ biện tài của ngài rộng lớn như thế. Xin ngài trao truyền cho con chánh giới. Nay con độ đời trợ giúp oai phúc ấy.

Ngài bảo:

– Thần đã khất cầu giới tức là đã đắc giới. Vì sao? Ngoài giới không có giới thì đâu là giới?

Thần nói:

– Với lý ấy, con nghe hơi mịt mờ mông lung. Chỉ xin cầu ngài trao truyền giới cho con. Con nay là đệ tử của ngài!

Ngài khước từ không được, bèn bày tòa đốt hương, cầm lò ở chánh án, bảo:

– Trao truyền ngũ giới cho ông, ông có thể tự hành trì.

Và ngài xoay về Thần bảo:

– Được hay không được tức liền nên đáp!

Thần nói:

– Rửa tay lắng nghe, tâm rỗng xin nhận sự chỉ giáo!

Ngài bảo:

– Ông có thể giữ được việc không dâm dục ư?

Thần đáp:

– Con có lấy vợ.

Ngài bảo:

– Không phải vậy đây có nghĩa là không có lưới dục.

Thần đáp:

– Có thể được.

Ngài bảo:

– Ông có thể giữ không trộm cướp?

Thần đáp:

– Tôi đâu thiếu gì sao có chuyện trộm cướp ư?

Ngài bảo:

– Không phải thế. Đây có nghĩa là hưởng mà quá phước, chẳng cúng mà họa thiện vậy!

Thần đáp:

– Có thể được.

Ngài bảo:

– Ông có thể giữ không giết hại?

Thần bảo:

– Có quyền nắm trong tay sao bảo không giết hại được?

Ngài bảo:

– Không phải thế. Đây có nghĩa là có sự lạm dụng lầm lẫn nghi ngờ hỗn tạp.

Thần đáp:

– Có thể được.

Ngài bảo:

– Ông có thể giữ sự không hư dối chăng?

Thần bảo:

– Tôi vấn chánh trực sao có thể hư dối được?

Ngài bảo:

– Không phải thế. Đây có nghĩa là trước sau chăng hợp với lòng trời.

Thần đáp:

– Có thể được.

Ngài bảo:

– Ông có thể giữ sự chẳng gặp phải rượu chè say sưa hư bại chăng?

Thần đáp:

– Có thể được.

Ngài bảo:

– Trên đây là giới của chư Phật cấm chế.

Ngài lại bảo:

– Dùng hữu tâm để phục trì mà không có tâm câu chấp, dùng hữu tâm vì mọi vật mà không có tâm suy tưởng tự thân. Nếu được như vậy thì trước lúc trời đất chưa sinh chẳng làm tĩnh, sau khi trời đất diệt chẳng là lão. Chọn ngày biến hóa mà chẳng lấy làm động. Vắng lặng mà chẳng lấy làm thể. Tỏ ngộ được như vậy thì tuy có lấy vợ cũng chẳng phải là vợ, tuy có hưởng thụ cũng chẳng phải là lấy, tuy có nắm cầm cũng chăng phải quyền uy, tuy có tạo tác cũng chẳng nên vậy, tuy có say cũng chẳng phải hôn mê vậy. Nếu vô tâm đối với vạn vật thì tuy có lưới dục cũng chẳng là dâm, phước hóa họa thiện chẳng phải là trộm, lạm lầm hỗn nghi chẳng phải là sát hại, trước sau đối với trời cũng chẳng phải là vọng, hôn mê hoang đảng đảo điên cũng chẳng phải là say. Đó gọi là vô tâm, vô tâm thì vô giới, vô giới thì vô tâm. Không Phật, không chúng sinh, không ngươi và không ta, không ta và không ngươi, vậy ai có thể giữ giới ư?

Thần nói:

– Thần thông của tôi sau Phật một bậc.

Ngài bảo:

– Thần thông của ông, năm cú có thể được, năm cú không thể được. Phật thì mười cái được bảy còn ba không?

Thần khiếp sợ, liền trải chiếu quỳ dài rất cung kính thưa:

– Tôi có thể nghe được chăng?

Ngài bảo:

– Ông có thể xoay Thượng đế từ trời Đông hướng mặt đến thất diệu ở trời Tây chăng?

Thần đáp:

– Không thể được.

Ngài lại hỏi:

– Ngươi có thể chiếm đoạt Địa kỳ dung thông năm núi và kết cả bốn biển chăng?

Thần đáp:

– Không thể được.

Ngài bảo:

– Đó là năm sự không thể được.

Ngài lại bảo:

– Phật có thể không tất cả tướng thành trí muôn pháp, mà không thể tức diệt định nghiệp. Phật có thể biết mọi việc trong muôn ức kiếp của các loài tánh mà không thể hóa độ dẫn đạo đối với lẽ vô duyên. Phật có thể cứu độ vô lượng hữu tình mà không thể cùng tận chúng sinh giới. Đó là ba điều không thể được của Phật. Vậy Định nghiệp cũng chẳng là lao ngục lâu dài, vô duyên cũng có nghĩa là nhất kỳ và chúng sanh giới vốn không tăng giảm. Phơi bày không một người hay làm chủ hữu pháp. Hữu pháp vô chủ, đó gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ nghĩa là vô tâm. Như ta nay giải nghĩa về Phật cũng chẳng phải là Thần thông, mà chỉ có thể dùng vô tâm để thông đạt hết thảy các pháp. Đó là điều thầm hiện trước đây. Nếu hữu tâm hữu tác, hẳn không thể cùng khắp được.

Thần núi thưa:

– Con thật có thiển cận ám muội, chưa từng được nghe nghĩa Không. Xin ngài trao truyền giới cho con, con sẽ phụng hành. Trọn không nghiệp nhân gì có thể bó buộc trong cõi trần. Con xin nguyện báo đáp ân từ đức!

Ngài bảo:

– Ta quán nói thân không vật, quán khắp vô thường rỗng không hiển lộ vậy, đâu có ham muốn gì?

Thần thưa:

– Ngài hẳn ban bảo cho con làm việc thế gian. Mở mang thần công bé bỏng nơi con, khiến năm hạng người: Đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm, không cótín tâm ắt có tín tâm nhìn thấy vết thần của con mà biết được có Phật, có Thần, có người có khả năng, có người không có khả năng, có tự nhiên và có chẳng phải tự nhiên.

Ngài bảo:

– Không làm vậy! Không làm thế!

Thần nói:

– Phật cũng sai bảo thần hộ trì Phật pháp, sao ngài lại hủy phá lời Phật ư? Tùy ý ngài rủ lòng răn dạy!

Bất đắc dĩ mà ngài nói rằng:

– Chướng ngại ở chùa Đông nham là rậm rạp mà không cây cối. Tại Bắc tụ có cây ổi mà chẳng ngăn chắn ưng che. Ông sau này có thể trồng trọt cây cối ở Đông nham ư?

Thần đáp:

– Con đã nghe sự chỉ dạy của ngài vậy!

Thần lại nói tiếp:

– Trong đêm tối, hẳn con sẽ lay động bày gió mưa chấn động liên tục, xin ngài chớ hải sợ!

Thần liền đảnh lễ mà khước từ. Ngài tiễn đưa Thần ra cửa mà quán sát, thấy nghi vệ như hình tượng của Vương giả.

Đêm đó quả thật có gió bão, sấm sét vang rền may mưa chấn động. Nóc nhà trang vũ lớn cao ngấp nghễnh dáng đá sắp đổ nát. Các vị Tăng định tĩnh vẫn động lòng, tiếng chim kêu trong đêm như cuồng dại, cùng nhau đấp đá loảng soảng, mọi vật chẳng an chỗ… Ngài mới bảo chúng Tăng rằng:

– Không nên khiếp sợ! Không nên khiếp sợ thần núi cùng với Ta đã bàn tính!

Đến sáng sớm mai, trời đã tạnh mưa, thì các thứ cây tùng cây ở núi phía Bắc đều dời đến đỉnh núi phía Đông trồng tỉa ngay hàng thẳng lối rậm rạp.

Ngài bảo cùng đệ tử rằng:

– Sau khi ta tịch chớ cho người ngoài biết, nếu vì lở miệng, thật là người hại ta!

Năm Khai Nguyên thứ tư (716) đời tiền Đường, ngài thị tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi.

130. Thần tăng Thông Huyền

Ngài Thông Huyền dòng họ Lý, người xứ Đông Bắc Thái Nguyên. Những lúc ngài làm việc chẳng thể sánh bì. Thân ngài cao hơn bảy thước, dung mạo màu đỏ tía lông mi dài quá mắt, râu mép tóc mai như họa vẽ, tóc màu xanh mà xoắn ốc, môi đỏ nhuận, răng kín khít, mang da cây gỗ hoa, áo mão thuần vải bố lớn, may vá tự chế, lưng không thắt đai, chân chẳng giày dép nhẹ. Tuy giữa mùa đông lạnh nhưng không bị bệnh hoạn tay chân nức nẻ, mùa Hạ nắng gắt không cấu bẩn hay mồ hôi xâm bám. Ngài rất phóng khoáng tự tại chẳng bị gì bó buộc. Song, thông bác cổ kim cho đến Nho thích, mỗi lúc phát ngôn từ khí như chuông lớn khua động. Ngài luôn chú tâm về Hoa Tạng, chưa từng ngủ yên.

Mùa Xuân năm Khai Nguyên thứ bảy (716) đời tiền Đường, ngài mang kinh Hoa Nghiêm, bản Tân dịch, kéo lê gậy trúc từ Định Tương đến nhà Cao Sơn Nô ở thôn Đại hiền, Hương Đồng Dĩnh, thuộc phái Tây nam của Huyện vu, Tinh bộ, ngài dừng nghỉ trong một phòng bên cạnh, tạo luận diễn xướng kinh Hoa Nghiêm. Suốt ba năm ngài không bước ra cửa sân. Cao Sơn Nô và mọi người chung quanh lân cận trong thôn lấy làm lạ mà chẳng thể lường biết. Mỗi ngày, ngài chỉ ăn mười quả táo và một cái bánh lá bách, ngoài ra không cần gì thêm. Sau, ngài lại dời đến Nam cốc ở nhà họ Mã bên cạnh một ngôi nhà thời xưa, làm một ngôi nhà bằng đất nhỏ, ngài yên nghỉ ở đó. Gia đình họ Cao vẫn thường dân cúng táo và bánh. Ngài cũng thường mang bản kinh luận, của ngài viết đến Hàn Thị Trang. Giữa đường gặp một con hổ, ngài đưa tay vỗ vào lưng nó. Vì thế mà nó mang kinh luận phụ giúp ngài chuyển tải đến trong một cái khám bằng đất. Hổ chuôi tai đi trước. Tại xứ đó không có suối để lấy nước dùng. Gặp một trận bão, mưa gió nhổ trốc gốc một cây tùng già kéo vất cả trăm thước, ngoài ra đều trở thành hồ, sâu chừng một trượng, nước ở đó có mùi vị ngạt thơm. Đến nay gọi là suối Trưởng giả. Dân chúng ở trong thôn phần nhiều bị nắng hạn, ngài luôn đến cầu mưa, rất có ứng nghiệm.

Trong thời gian ngài viết luận, trong thất không có dầu đèn. Mỗi đêm, đến lúc ngài nắm bút thì từ hai gốc khóe miệng phóng ra luồn ánh sáng màu trắng dài hơn thước sáng rực soi chiếu thường luôn như thế. Từ khi ngài đến trong Khám đất, bỗng chốc có hai người con giái nhan sắc xinh đẹp thanh nhã, thường ngày mang một hộp thức ăn đến trước Khám sắp bày thức ăn rồi lấy đồ mà đi. Trải qua năm năm như vậy. Đến như các thứ giấy mực thảy đều cúng tặng không thiếu. Đến lúc ngài viết hoàn tất các Luận, tự nhiên không hiện đến nữa. Ngài tạo luận được bốn mươi quyển, bao quát văn nghĩa cả thảy cả thảy tám mươi quyển kinh, kế đến là bộ Quyết nghi luận bốn quyển.

Ngày nọ, dân chúng trong thôn nhóm họp để lấy nước uống dùng, ngài đến nói với mọi người rằng:

– Các ngươi khéo ở sống vui vẻ, nay tôi đi đây! Mọi người kinh ngạc hỏi ngài đi đâu, ngài bảo:

– Tôi xả báo thân này!

Mọi người đều buồn khóc luyến mộ đưa người đến khám đất.

Ngài bảo:

– Đi ở thường!

Mọi người xuống núi trở về nhà mình. Từ đó mây nhóm tụ tối tăm. Đến giờ Tý, ngài an nhiên thị tịch trong khám. Ánh sáng sắc trắng từ trên đảnh đầu ngài phóng ra xuyên suốt giữa không trung. Hôm đó là ngày 28 tháng 3 năm Khai Nguyên thứ 18 (730) đời tiền Đường, ngài hưởng thọ chín mươi sáu tuổi.

Đến sáng sớm mai, có vài người lên núi, thấy trong khám đất đó có rắn hổ rất nhiều, chẳng thể bước tới, bèn cùng nhau khởi cáo, rắn hổ liền tản mác. Kẻ lớn người nhỏ đều tìm đến vô cùng xúc động, kết kiệu nghinh thỉnh nhục thể ngài đến phía Bắc núi Thái, dùng gạch đá xây dựng bảo tháp mà an táng. Trong ngày cử hành lễ an táng có hai con nai đón, một đôi hạc trắng và nhiều loài chim thú khác tụ hội trong tướng trạng buồn thương và quyến luyến.

131. Thần tăng Nhất Hạnh

Thích Nhất Hạnh, ngài dòng họ Trương, người xứ Cự lộc, vốn tên là Toại, tuy tuổi nhỏ mà ngài chẳng như cùng trang lứa, mà thông tuệ minh lợi có phong thái của người già. Đọc sách chỉ qua một lần không phải đọc lại là đã thuộc lòng, ngài phụng thờ Thiền sư Phổ Tịch, được xuất gia xuống tóc tại Trung sơn.

Ngài từng thiết trai tại chùa, Tăng chúng và Sa-môn ở chung quanh trong vòng vài trăm dặm đều đúng như thời hạn mà đến. Vả lại, vừa mới đến vài người, bấy giờ có ngài Lư Hồng đạo cao học rộng, ẩn cư tại Trung sơn, nhân đó thỉnh ngài viết bài văn tán thánh trai hội đó. Đến ngày đó, ngài Lư Hồng mang bài văn tới chùa và trao đặt trên bàn án. Chung phạm đã làm, ngài Lư Hồng nói với ngài Phổ tịch rằng:

– Bài văn tôi viết có tới vài ngàn từ, huống gì trong đó chữ hẹp mà lời mắc mỏ, bởi thế cần chọn người thông ngộ trong chúng Tăng, Hồng tôi sẽ đích thân trao truyền cho.

Ngài Phổ Tịch mới gọi ngài. Đến nơi, ngài bày giấy ra, mỉm cười xem qua một lượt rồi đặt lên Án, ngài Lư Hồng khinh ngài sơ thoát lấy làm lạ. Bỗng chốc, chư Tăng đã tụ hội trong trai đường, ngài đẩy tay áo mà đến, cất giấu bài văn, chỉ đọc trầm, nhưng dò xét chẳng quên sót một từ. Ngài Lư Hồng kinh ngạc giây lâu rồi nói với ngài Phổ Tịch rằng:

– Với Nhất hạnh thì khả năng của ngài Phổ Tịch không thể dạy bảo dẫn dắt nỗi, nên để cho được du phương tham học.

Ngài nhân cúng Đại điển, từ đó tìm hỏi thầy lành chẳng quản xa vài ngàn dặm. Ngài từng đến chùa Quốc thanh ở núi Thiên thai, thấy một viện sở có vài mươi gốc tùng già, trước cửa có dòng nước chảy. Ngài đến đứng ở chắn cửa, lắng nghe trong viện có tiếng chư Tăng tại giữa sân đang biện bày toán số, âm thanh… Thế rồi nói học trò rằng:

– Ngày nay sẽ có đệ tử đến cầu ta về toán pháp, đã đến cửa, sao không người dẫn đến?

Liền trừ một toán, lai bảo rằng:

– Dòng nước trước cửa chảy theo dòng về hướng Tây, đệ tử nên đến!

Ngài vâng theo lời mà vào, cúi đầu cầu thỉnh pháp thế được trao truyền đạo thuật, và dòng nước chảy trước cửa lại chảy về hướng Đông.

Từ đó, tiếng tăm ngài vang vọng khắp gần xa.

Vua Huyền Tông (712–76) đời tiền Đường nghe thế mời gọi ngài vào trong cung, hỏi:

– Khanh có tài năng gì?

Ngài đáp:

– Khéo xem qua liền ghi nhớ.

Nhân đó, vua Huyền Tông vời ngài đến bên sân, đem sách vở của mọi người trong cung để bày đó. Đọc qua một lượt rồi cất bản văn, ngài ghi nhớ chính chắn như vốn chỗ tập đọc, sau khi đọc vài bức, bất chợt vua Huyền Tông bước xuống khỏi giường đảnh lễ ngài, tôn xưng là Thánh nhân. Khen ngợi giây lâu mới chiếu đối không thường. Ngài chiêm đoán mọi sự họa phước như chỉ vật trong lòng bàn tay, nói rất nhiều điều bổ ích. Hình Hòa Khát nói với Doãn Ân rằng:

– Nhất Hạnh! Ngài quả thật là Thánh nhân. Thời nhà Hán, có Lạc Họa Hoành tạo lịch Đại diễn, nói sau tám trăm năm sẽ có sai một ngày, thì có bậc Thánh nhân chế định lại và Nhất Hạnh tạo lịch Đại diễn sửa lại sai lầm đó. Vậy lời nói của Lạc Họa Hoành đáng tin cậy.

Ngài từng đến Đạo sĩ Doãn Sùng, mượn Dương Hùng Thái Huyền kinh, vài ngày sau bèn đem sách trả lại. Doãn Sùng bảo:

– Sách ấy ý chỉ sâu xa, tôi tìm đọc đã nhiều năm còn chưa hiểu. Ông thử mượn nghiên cứu sao vội trả?

Ngài bảo:

– Tôi hiểu rốt ráo nghĩa ý trong ấy.

Nhân đó ngài soạn thuật Đại Diễn Huyền Đồ và Nghĩa Quyết một quyển đưa đến cho Doãn Sùng, Doãn Sùng ngợi khen và khâm phục, nói với mọi người rằng:

– Nhất Hạnh là Nhan Tử tái sinh!

Thuở bé thơ nhà ngài nghèo khổ, bên cạnh nhà có Vương Mỗ trước sau đã giúp đỡ ngài khoảng vài chục ngàn, ngài thường nghỉ cách báo đáp ân nghĩa đó. Trong niên hiệu Khai Nguyên (713–72) đời tiền Đường, ngài thừa cơ hội sự kính ngộ của vua Huyền Tông nên nói gì cũng được, gặp lúc con của Vương Mỗ tội giết người, bị giam tù chưa đủ, Vương Mỗ đến xin ngài cầu cứu, ngài bảo:

– Người cần vàng bạc, tôi hẳng đáp đền gấp bội mười lần, còn quân thượng nắm giữ luật pháp khó thể cầu xin, biết làm sao!

Vương Mỗ nắm tay sĩ mắng ngài, bảo rằng:

– Đâu dùng được gì ở sự hiểu biết của vị Tăng này?

Ngài từ đó mà tạ biệt chọn chẳng nhìn lui. Trong tâm ngài tính ở chùa Hồn thiên, lao công phục dịch có đến vài trăm người, liền sai người đem vào đó một cái chum lớn để trong thất ngài để rỗng không, chọn hai kẻ tớ thường ở, trao cho nó cái đãi vải bố, bảo rằng:

– Tại hướng đó, góc đó có một cái vườn hoang phế, hai người lẫn trốn vào đó, dò xét từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến chiều tối, sẽ có loài vật vào nó thuộc số bảy thì bắt lấy cả, nếu mất một thì bị đánh gậy đánh.

Hai người theo lời ngài chỉ dẫn mà đi. Đến sau giờ Dậu, quả thật có bầy lợn tìm tới và đều bắt gọn đem về, ngài rất vui mừng, bảo thả vào trong chum, dùng nắp gỗ đậy lại và lấy bùn sình bồi trét lại, dùng mực đỏ viết vài mươi chữ Phạn. Bọn tớ ấy đều chẳng biết.

Sáng sớm mai, Trung Sứ gõ cửa, vội vời đến điện, đích thân vua

Huyền Tông ra nghênh đón hỏi. Thái Sứ tâu:

– Đêm qua sao Bắc đẩu không hiện đó là điềm gì? Ngài có phương pháp gì để cầu đảo chăng?

Ngài bảo:

– Từ sau thời nhà Nguỵ mất đi sự huyền hoặc đến nay Đế Xa chẳng hiện, xưa vốn không như vậy. Đó là trời cảnh tỉnh lớn đối với bệ hạ, sẽ không có được cái hàng thất phu phụ thì sương rơi quanh và nắng hạn. Chỉ có đức lớn mới cảm kích và có thể thoái xả. Sự thực có sự cảm kích ấy là ở chỗ chôn vùi trói buộc. Hàng Thích tử vì sân tâm mà phá hoại tất cả công đức Thánh thiện, do Tâm từ mà hàng phục tất cả quân ma. Theo sự thấy biết vụn vặt của hạ thần không gì hơn đại xá cho thiên hạ.

Vua Huyền Tọng bèn vâng theo đó, quan thái sử lại tâu:

– Trong chùm sao Bắc đẩu đã hiện lên một ngôi, sau bảy ngày thì sẽ hoàn toàn đầy đủ.

Nhà vua cũng thường bảo ngài về vận nước được bao lâu và có để lại gì khó khăn không ngài bảo:

– Xe loan đi đến muôn dặm, xã tắc chung cùng ở cát.

Nhà vua kinh hãi hỏi nguyên do, ngài không đáp, ngài dùng một hộp bằng vàng nhỏ dâng vua rồi cáo từ, ngài bảo đi đến vạn dặm hãy mở ra xem. Một ngày nọ, nhà vua mở hộp xem, kịp đến lúc Lộc sơn dấy loạn, xa giá rảo chơi thành đô, đến cầu Vạn lý tự nhiên tỏ ngộ. Sau đó không lâu thì trở về. Vua Chiêu Tông (889 – 90) lúc đầu được phong là Cát vương. Đời tiền Đường đến thời vua Chiêu tông là sắp bại hoại nên ngài trước nói là chung cùng với cát.

Cuối niên hiệu Khai Nguyên (…- 72) đời thời tiền Đường có Bùi Khoan chấp chính tại Hà nam. Bùi Khoan rất kính tin Phật pháp, dốc 838 lòng phụng sự Thiền sư Phổ Tịch, sớm tối thường lui tới. Một ngày nọ Bùi Khoan tới, ngài Phổ Tịch bảo:

– Có việc nhỏ chưa rảnh để nói cùng ông. Vả lại thôi xin đợi dùng nghỉ!

Bùi Khoan mới lặng đứng yên ở nhà trống, thấy ngài Phổ Tịch chùi dọn chánh đường rồi đốt hương an tọa, ngài ngồi chưa bao lâu, bỗng nghe tiếng gõ cửa liên tiếp bảo:

– Thiền sư Nhất Hạnh, Hòa thượng đến!

Ngài Nhất Hạnh bước vào đến chỗ ngài Phổ Tịch, đảnh lễ. Đảnh lễ xong, kề tai nói nhỏ, dáng vẻ rất cung kính cẩn trọng. Ngài Phổ Tịch chỉ gật đầu bảo:

– Gì chẳng được!

Nói xong rồi đảnh lễ, đảnh lễ rồi lại nói, như vậy đến ba lần, ngài Phổ Tịch chỉ bảo:

– Gì chẳng được!

Ngài Nhất Hạnh nói rồi, bước xuống cấp thềm vào phía Nam đường tự đóng cửa phòng thị tịch, ngài Phổ Tịch mới từ từ bảo đệ tử, sai đánh chuông khánh báo cùng chúng biết rằng:

– Hòa thượng Nhất Hạnh đã diệt độ.

Mọi người vội chạy đến xem, qua thật đúng như lời nói ấy, ngài đã viên tịch. Sau đó, Bùi Khoan vận mặc tang phục, ngày an táng đi bộ ra thành tiễn đưa.

Ngài hưởng thọ bốn mươi lăm tuổi, vua Huyền Tông buồn khóc rất thảm thiết, bãi triều ba ngày, lưu để nhục thể ngài trong khám hai mươi mốt ngày, dung mạo vẫn như lúc sinh tiền. Nhà vua đích than ngự chế văn bia viết vào đá, xuất kho năm trăm vạn tiền xây dựng tháp gò

Đồng nhân, đề thụy hiệu là Đại Tuệ Thiền sư

132. Thiền Sư Vô Úy

Ngài Tam tạng Pháp sư Vô Úy vốn người Thiên Trúc, ngài thoái vị xuất gia học đạo, đạo đức danh xưng đứng đầu ở Thiên Trúc, giảng pháp có nhiều dị tướng.

Trước tiên, ngài từ Thiên Trúc đến, các quan dẫn ngài đến yết kiến vua Huyền Tông (712–76) đời tiền Đường, vua Huyền Tông vừa thấy ngài liền kính tin, nhân đó thưa rằng:

– Ngài từ xa đến chắc là rất mệt, vậy muốn nghỉ ở đâu?

Ngài bước đến bảo:

– Lúc ở Thiên Trúc, thần thường nghe nước Đại Đường ở chùa Tây minh có Luật sư Đạo Tuyên là bậc trì luật đệ nhất, nên xin được đến đó để nương tựa. Vua Huyền Tông liền chấp thuận theo.

Luật sư Đạo Tuyên nghiêm trì giới luật rất nghiêm minh, khổ phần tu tính khiết, mà ngài thì uống rượu thịt, nói năng thô kệt, thường luôn say sưa ồn náo, đến nỗi làm dơ bẩn cả đệm chiếu, nên ngài Đạo Tuyên rất khó nhẫn chịu. Một hôm, ngài Đạo Tuyên vỗ đánh con rận rớt xuống đất, ngài nữa say nữa tỉnh luôn miệng bảo:

-Luật sư! Luật sư đánh chết Phật tử ư?

Ngài Đạo Tuyên mới biết ngài là người khác thường, bèn chỉnh trang y phục đảnh lễ, cung phụng như bậc thầy.

Lúc đầu ở Lạc thành, có một con rắn lớn cao hơn một trượng dài cả trăm thước, hình dáng rất khác lạ, chiếm cứ nhiễu quanh dưới núi, dân chúng ở Lạc thành đều thấy, ngài bảo rằng:

– Con rắn này muốn tháo ngòi nước chứa ở Lạc thành.

Liền nói nghĩa trong sách Phật. Đến đêm đó, con rắn cỡi mây sương mà lại, hình dạng như nghiêng mình lắng nghe. Ngài trách nó rằng:

– Ngươi là loài rắn, nên ở trong rừng sâu để yên ổn, cớ sao lại muốn nhả độc trong đời ư? Hãy mau đi đi, chớ gây tai họa cho mọi người!

Rắn nghe thế, tỏ ra hổ thẹn, liền cúi đầu xuống đất, lát sau thì chết. Sau đó, An Lộc Sơn phá hủy hết Tông miếu, quả thật đúng như lời ngài nói.

Tháng bảy năm Khai Nguyên thứ 10 (722) đời tiền Đường, đang lúc nắng hạn, vua Huyền Tông sai sứ mang chiếu đến thỉnh ngài cầu mưa, ngài bưng một bát nước đầy, dùng con dao nhỏ khuấy động, tụng chú vài biến, liền có loài vật hình như nòng nọc ở trong bát ngoảnh đầu lên mặt nước, ngài chú nguyện sai khiến nó được, có luồng khí màu trắng từ trong bát tuôn vọt lên, ngài nói với kẻ sứ mang chiếu đến rằng:

– Hãy về gấp, mưa sắp ập đến.

Kẻ sứ liền vội bước ra, chỉ trong khoảnh khắc gió thổi, sấm sét nổ vang chấn động, Kẻ sứ bước vào trình tấu thì áo mão đã thấm ướt, mưa liền nhiều ngày mới dứt. Lại cũng đã từng bị mưa gió thời tiết làm hư hoại nên vua Huyền Tông lại ban chiếu thỉnh ngài làm ngưng dứt, ngài nắn đất bùn làm hình năm bà già rồi nhìn thẳng vào đó quát mắng bằng tiếng Phạm, tức khắc liền tạnh mưa.

Ngài từng qua Long hà, dùng một con Thác đà mang chở kinh, chìm trong nước, ngài sợ mất kinh vội theo đó vào trong dòng nước. Khi đó, Long vương thỉnh mời ngài đến Long cung giảng kinh, ngài dừng ở lại ba đêm mới ra. Các kinh sách mang theo chẳng ướt một chữ. Những sự kiện thần dị của ngài phần nhiều đại loại như thế.

133. Thần tăng Kim Cang Trí

Ngài Kim Cang Trí vốn tên tiếng Phạm là Bạt-nhật-la Bồ-đề, người nước Ma-lại-da thuộc Nam Ấn Độ. Vừa mới vài tuổi, hằng ngày ngài đã đọc tụng đến vạn lời, mắt xem qua, tâm ghi nhớ trọn đời không quên, năm lên mười sáu tuổi, tỏ ngộ được lý Phật, ngài bèn xa bỏ thế tục mà xuất gia theo thầy đi khắp các nước.

Niên hiệu Khai Nguyên (713–72) đời tiền Đường, ngài đến Quảng phủ, sau xa giá đến Lạc dương. Từ tháng giêng đến tháng năm năm đó, trời hạn hán không mưa. Mọi người cầu đảo khắp các núi non sông rạch đều không ứng nghiệm gì, nhà vua mới ban chiếu thỉnh ngài kết đàn cầu mưa. Khi đó, ngài dùng móc câu Bất không, y pháp Bồ-tát lập đàn ngay chỗ ở, sâu bốn khủy tay, đích thân họa vẽ tôn tượng Bồtát Thất-câu-chi, lập kỳ hạn khai quang minh nhật định tùy mưa. Vua Huyền Tông bảo Thiền sư Nhất Hạnh cẩn trọng kính hầu. Đến ngày thứ bảy, hơi nóng bừng bừng trời không ván mờ, sau giờ Ngọ mới khai điểm mày mắt, gió từ phía Tây gió nổi dậy, thổi lật ngoái tấm, cây cối đổ ngã, mấy tụ phát mưa, xa gần đều kinh hãi. Ở tại chỗ đất mà Kết đàn xuyên thủng cả mái nhà, nước tuôn mạnh xuống đạo tràng. Chất Minh kinh sư nhất thứ đều nói là: “Ngài được một con Rồng xuyên thủng mái nhà mà bay đi.” Ngày ấy, mọi người đến xem rất đông.

Lúc đầu công chúa thứ hai mươi lăm của vua Huyền Tông, rất được bổng lộc và sự mến thương của nhà vua, mắc bệnh từ lâu mà không cứu chữa được, bèn dời đến nằm ở ngoại quán Hàm nghi, nhắm mắt không nói đã trải qua mười ngày, vua có ban sắc thỉnh ngài trao truyền giới pháp cho công chúa, bởi nghĩ liệu công chúa ắt qua đời nên làm như vậy. Ngài đến đó chọn lấy hai bé gái độ bảy tuổi ở trong cung, dùng phấn tô vẽ mặt mày, bảo nằm giữa đất, sai Ngưu tiên đồng viết một bức sắc đem đốt ở chỗ khác, ngài dùng mật ngữ chú nguyện, hai đứa bé tự nhiên đọc được không sót một lời. Ngài nhập Tam-ma-địa, dùng lực bất tư nghì khiến hai đứa bé mang sắc đến Diêm-ma vương. Chỉ trong khoảng bữa ăn, vua Diêm-ma sai công chúa mất bảo mẫu họ Lưu hộ đưa hồn công chúa theo hai đứa bé đến. Khi đó, công chúa bật người ngồi dậy mở mắt, nói năng như thường. Vua Huyền Tông nghe vậy, chẳng đợi trương vệ, vội đi thẳng đến ngoại quán, công chúa tâu rằng:

– Minh số khó đổi, nay vua Diêm-ma sai hồi phục kính cẩn chiêm ngưỡng dung nhan Thánh thượng mà thôi, có thể chỉ đến nửa ngày, sau đó đi khỏi.

Từ đó nhà vua càng thêm quy hướng kính ngưỡng về ngài.

Võ Quý Phi rất mến quý Lục cang, đem cúng dân vật báu, ngài khuyên Quý phi hãy gấp tạo tượng Bồ-tát Kim Cang thọ mạng. Lại khuyên Hà Đông quận vương nên họa vẽ tượng ở trong tháp Tỳ-bà-giána. Ngài nói cùng môn nhân rằng:

– Thọ mạng hai người ấy không được lâu dài.

Chỉ trong vài tháng, quả thật đúng như lời ngài nói.

Đến ngày mười sáu tháng năm Nhâm Thân, tức năm Khai Nguyên thứ 20 (732) đời tiền Đường, đang ở chùa Quảng khước tại Lạc dương, ngài bảo môn nhân rằng:

– Đến lúc trăng sáng tỏ tròn đấy là ta sẽ đi.

Ngài đến đảnh lễ Tôn Tượng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, đi nhiễu quanh bảy vòng rồi trở về bổn viện, đốt hương đảnh lễ phát nguyện, trên đảnh đầu ngài đội kinh điển mà giáo pháp mới dịch, phó chúc xong, ngài lặng lẽ thị tịch.

134. Thần tăng Giám Nguyên

Thích Giám Nguyên, không biết ngài là người ở đâu, đức hạnh soi sáng rõ ràng. Sau, ngài giảng kinh Hoa Nghiêm, hiệu là Thắng Tập. Hằng ngày cúng dường cơm cháo cho cả ngàn vị, mà gạo thốc trong bịch đệm chỉ khoảng vài trăm hộc, song lấy không hết. Từ mùa Hạ sang mùa Thu, chưa từng báo hết, ngài có sự minh cảm như thế. Về sau lại có nhiều điều ứng nghiệm, có Thiền sư Tuệ Quán thấy hơn ba trăm vị Tăng nắm đèn hoa lướt giữa không trung mà đến, lần lượt như dòng sao chảy.

Niên hiệu Khai Nguyên (713–72) đời tiền Đường, Thôi Ký Công thăm dò nghi ngài yêu quặc, đích thân tự vào núi dừng ở qua đêm, dự cấm quanh bốn phía núi ngoài ba mươi dặm đều không có ánh lửa. Đến đêm thứ ba có hơn trăm ngàn ngọn đèn tỏa ánh áng sắc hồng cao hơn ngàn thước, Ký Công thốt nhiên đảnh lễ ngợi ca chưa từng có. Bấy giờ, giữa khoảng các cây tùng hiện ra hai cánh tay mà sắc vàng rồng dài độ bảy thước. Có hai vị Bồ-tát phóng sáng các sắc màu vàng trắng… sau đó, trên cây bách ở trước sân hiện lên một ngọn đèn sáng tỏ như ban ngày, chung quanh đều trang bày pha lê, phía dưới núi trong vòng ba dặm, các viên ngọc báu trọn độ một trượng lấp lánh thật đáng thích. Ở cửa núi Tây lãnh hiện trên cầu vồng lớn, trên cầu có các vị Phạm Tăng già có trẻ có, lại xuất hiện hai ngọn đuốc lớn soi sáng giữa không trung, phía dưới có bốn vị Bồ-tát hai đôi đối lập nhau phóng ánh sáng soi suốt tự thân cao đến bảy tám mươi thước. Lại thấy ở sau rừng tùng lớn, bỗng nhiên có biển nghạch chùa viết theo lối chữ triện hai chữ Tam Tuệ. Thêm nữa, phía dưới ngọn đèn rủ hai dãi vải lụa. Ở phía Đông lâm nửa đêm xuất hiện ra núi vàng, bấy giờ đang là tháng năm, vòng bạc màu nhăng đèn bên cạnh bảo tháp ngài Ngộ Đạt Quốc sư. Có Vĩ Nam Khương Cao mỗi ba tháng đến chùa thiết Đại trai hội cúng dường ba trăm vị Bồ-tát, ngài quả thật là Bồ-tát hiện tướng thân.

135. Thần tăng Nghĩa Phước

Sa-môn Nghĩa Phước, ngài người xứ Thượng đảng, phạm hạnh tinh tu, tướng đảo đoan nghiêm thanh khiết. Các hàng quan thần dân thứ đều rất quy ngưỡng. Ngài từng theo xa giá đến Đông đô, mọi người ở các quận huyện khi thấy ngài đi ngang qua đều nghiêng mình quy hướng, các nhà Đàn-việt thí chủ giàu có ngàn vạn đều giao phó mà đi.

Bỗng một sáng sớm, ngài gọi học chúng lại bảo là sắp thị tịch. Các quan thần binh bộ thị lang Trương Quân, trung thư thị lang Nghiêm Đĩnh Chi, hình bộ thị lang Phòng Quan, lễ bộ thị lang Vĩ Thiệp theo lệ thường đến tham yết. Ngày đó ngài cũng cho biết, ngài thăng tòa vì tất cả môn đồ mà nói pháp, ta sắp tịch nên nay quyết định từ biệt!

Trong giây lâu, Trương Quân nói với Phòng Quan rằng:

– Năm xưa, từ ngày ăn kim đơn đến nay chưa từng bất an.

Nói xong Trương Quân bèn lẫn trốn đi. Ngài nói cùng Phòng Quan rằng:

– Ta cùng với Trương Quân đi có vài năm, ông ấy có các lỗi khác thường, danh tiết đều khuyết thiếu. Từ trước đến nay nếu trọn pháp hội, thì đủ để miễn nạn, tiếc thay!

Rồi ngài bèn nắm tay Phòng Quan, bảo:

– Hẳn sẽ là Trung Hưng danh thần, ông nên cố gắng đó!

Nói xong, ngài liền thị tịch.

Lúc An Lộc Sơn tạo loạn, Trương Quân vùi lấp sân giặc trao thừa ngụy thụ, con Phòng Quan phò tá hai triều cuối cùng lập nên đại tiết.

136. Thần tăng Chân Biểu

Ngài Chân Biểu vốn người xứ Bách tế, nhà ở Kim sơn, đời đời theo nghề săn bắn. Sau, ngài vào núi sâu dùng dao cắt tóc, cần khổ sám hối, đem thân mình đập xuống đất, chì cầu giới pháp, lập nghiệp mong cầu Bồ-tát Di-lặc trao cho mình giới pháp. Đêm ngày hạ thủ công phu, đi nhiễu quanh khấu đầu vào một chiếc cốc, tâm niệm tương tục, trải qua bảy đêm, đến sáng sớm thấy Bồ-tát Địa Tạng, tay cầm gậy vàng, vì ngài khuyên hóa giáo phát giới duyên tác thọ tiền phương tiện. Cảm ứng được điềm ứng ấy, ngài càng dũng mãnh hơn trước. Đến hết ngày thứ mười bốn, có một con quỷ lớn hiện tướng đáng sợ, xô đẩy ngài rơi xuống dưới núi, nhưng thân mình không thương tổn gì, ngài lăn lóc bò lên trên một đàn đá, lại thêm nhiều tướng ma hiện, thôi dứt trăm ngàn manh mối. Đến gần sáng ngày thứ hai mươi mốt, có tiếng chim Cát tường hát lời nói:

– Bồ-tát đến!

Ngài bỗng thấy mây trắng dường như dần dần lẫn lộn, không còn có cao thấp, núi sông đều bằng đầy, toàn thành thế giới màu bạc. Thiên chủ cung trời Đâu-suất suốt quanh tự tại, nghi vệ sánh nhau vây cùng đàn đá, gió hương mưa hoa cùng lúc hòa reo. Bỗng chốc Đức Di-lặc Từ Thị từ từ bước đến chỗ đàn, đưa tay xoa đảnh đầu ngài, bảo rằng:

– Lành thay, Đại trượng phu! Cầu giới như thế. Đến lần thứ hai, đến lần thứ ba, sống mê khác rõ, tay đẩy mà khước từ. Song, tâm ngươi chọn chẳng thoái!

Ngài Di-lặc vì đó mà trao truyền pháp, thân tâm ngài hòa duyệt như đang trú tại Đệ tam thiền, Ý thức và Lạc căn tương ưng. Bốn vạn hai ngàn dòng sông phước thường lưu chảy khắp tất cả các thứ công đức. Bỗng nhiên phát sáng Thiên nhãn, Đức Di-lặc Từ Thị đích thân trao cho ba pháp y và bình bát, lại ban tặng ngài tên gọi là “Chân Biểu.” Và dưới gối chân Đức Từ Thị lưu xuất ra hai vật, không phải mà cũng chẳng phải ngọc, dùng chế làm thể kiểm, một cái đề là “Bát giả” và một cái đề là “Cửu giả” mỗi cái chỉ có hai chữ. Đức Di-lặc trao cho ngài và bảo:

– Nếu người cầu giới, trước phải sám hối, tội phước thì trì phạm tánh. Lại thêm một trăm lẻ tám cái thẻ, trên thể ghi danh mục một trăm lẻ tám phiền não, Đức Như Lai rắn dạy mọi người là hoặc ba mươi ngày hay bốn mươi ngày hay hai mươi mốt ngày, hành trì sám hối, rất mực tinh tấn, đến lúc mãn hạn, đem hai cái thẻ kiểm trước ra tham hợp với một trăm lẻ tám thẻ, đối trước Phật nhìn giữa không trung mà ném thẻ đó rơi xuống đất, dùng để kiểm tướng nó diệt tội hay không diệt tội. Nếu một trăm lẻ tám thẻ đó bay vòng quanh bên gốc, chỉ có hai cái 8 thẻ tám, chín (Bát–Cửu giả) sừng sững đứng giữa tim đàn, tức là đắc Thượng thượng phẩm giới. Nếu các thẻ tuy văng xa mà lại có vài thẻ xúc chạm cùng với hai thẻ tám chín, thì nên nhón lấy xem nó là tên phiền não gì, tức khiến người nên sám hối. Chính lúc đem các thẻ có tên phiền não sám hối lại ấy hợp cùng hai thẻ tám, chín để ném các thẻ phiền não, nó văng đi mất gọi là Trung phẩm giới. Nếu các thẻ phiền não đó vùi lấp hai thẻ tám, chín, thì tội chẳng diệt và chẳng đắc giới. Nếu lại thêm một lần thiết Đàn sám hối nữa trải qua chín chục ngày thì đắc Hạ phẩm giới.

Đức Di-lặc Từ Thị lại răn dạy ngài rằng:

– Bát giả–tám tức là Tân Huân và Cửu giả–chín tức là bổn hữu.

Chúc lụy xong, Đại trượng đã trở lui, núi sông mây tạnh.

Từ đó, ngài mang y trời, ôm bình bát trời, giống như vị Tỳ-kheo năm hạ, vì đạo quên mình mà xuống núi hằng hóa. Cây rừng rủ che đường, rất khác lạ không riêng có khe hang cao thấp, chim bay thú mạnh thuần phục đi trước. Lai nghe giữa không trung có tiếng xướng bảo mọi người trong thôn ấp tụ lạc lại rằng:

– Bồ-tát xuống núi, sao chẳng nghênh đón ngài?

Mọi nười nam nữ trải tóc lấp bùn sình, cởi áo phủ đường, dùng các thứ dạ len lông đệm nối tiếp gót chân. Đệm đẹp nhiều hoa che lấp hầm hố, ngài cảm nhân tình cảm sâu đậm ấy nên từng bước đi qua để san sẻ những tấm lòng ấy. Có một người nữ bay nữa tấm bạch điệp trải ngay giữa đường, bỗng nhiên ngài có sắc thái rất kinh sợ, lánh bước mà đi. Người nữ lấy làm lạ cho rằng ngài không bình đẳng, ngài bảo:

– Tôi không có tâm từ chẳng bình đẳng đâu! Chỉ vừa thấy ngay tấm bạch điệp đều là lợn con, tôi ngại tổn thương chúng sinh nên tránh sự lầm phạm ấy.

Bình sinh nhà người nữ đó làm nghề giết hại, buôn bán nên cô mới có tấm bố ấy. Từ đó về sau, thường có hai con hổ đi theo hai bên ngài, ngài nói với nó rằng:

– Tôi không vào thành quách, các ngươi có thể dẫn đường, đến nơi có thể tu hành thì mới hoảng bộ mà đi.

Đi chừng ba mươi dặm, đến một sườn núi, hai con hổ quỳ dài hướng tới trước, khi đó, ngài treo bát lên cành cây, trải cỏ làm tòa an tọa. Các tín sĩ khắp nơi tự đến cùng xây dựng một ngôi già-lam đặt hiệu là chùa Kim sơn.

137. Thần tăng Minh Đạt

Sa-môn Thích Minh Đạt, không biết ngài từ đâu đến, ngài trú tại ngôi chùa cổ Vạn hồi ở huyện Văn hương.

Khách qua lại thường đến tham yết ngài để hỏi mọi sự tốt xấu, ngài không đáp, mọi người chỉ thấy được chỉ thú của ngài mà thôi. Có người đến tham yết, hỏi ngài rằng:

– Tôi muốn lên kinh đô để thăm người thân, không biết người thân của tôi hiện có bình an không?

Ngài trao cho một cành trúc. Đến kinh đô, thì người thân của người đó đã qua đời.

Lại có người đến hỏi ngài, ngài đem con ngựa nhà chùa trao cho bảo cỡi lấy nó rong ruổi khắp Nam bắc, xong rồi buộc nó lại. Người đó kinh đô trao cho Phán quan, cỡi ngựa đi khắp nơi. Lại có người đến tham yết ngài, ngài dùng cây gậy đang nắm trong tay vẽ xuống đất làm thành ụ gò cao rồi dùng gậy đánh xuống ụ đất ấy. Nhân đó, đất lõm thành hình cái cối. Người ấy không hiểu gì, đi đến kinh đô thì sau lưng nổi ung nhọt sưng đau, cắt bỏ nó đi máu chảy tới đất.

Lý Lâm Phụ làm hoàng môn thị lang, Hồ Tùng từ phương Tây trở về đến tham yết ngài, ngài đeo thêm cái cân lên vai ông ta. Lâm Phụ về đến kinh đô thì làm tướng. Có Lý Ung Môn làm hồ thành lệnh, ngài bỗng nhiên xin lấy con ngựa nhỏ của ông ta, Ung Môn không cho, sau đó một ngày khi ông cỡi ngựa đi ra, ngựa còn ở trong sân, người đứng ở cửa chùa té xuống ngựa mà chết. Các thứ tương tợ như thế rất nhiều.

Ngài thường đứng ở cửa chùa nhìn về hướng Bắc, nói rằng:

– Trong sông này binh mã sao lắm thế!

Lại than dài rằng:

–Trong đây xuất xứ toàn quân đội.

Kịp đến lúc Ca Dã Hàn ưng binh ở ải chương chống cự nghịch Hồ, dưới ải Văn hương hết thảy đều là chiến trường.

138. Thần tăng Pháp Tú

Thích Pháp Tú, chưa rõ ngài là người xứ nào, ngài đến trú tại kinh đô, khi ngài đến Hàm hạo khuyên dẫn mọi người làm việc thiện, cho đến tuổi già, bận rộn ngài không có thời gian nghỉ ngơi.

Cuối niên hiệu Khai Nguyên (…–72) đời tiền Đường, vua Huyền Tông mộng thấy có người bảo rằng:

– Đem năm trăm khăn tay và năm trăm chiếc áo ca-sa đến chùa Hồi hướng để cúng thí.

Đến lúc tỉnh giấc hỏi mọi người chung quanh, đều bảo không biết chùa Hồi hướng. Nhà Vua mới tìm đến dò hỏi các bậc Sa-môn đạo cao, ngài liền bảo:

– Tôi biết chỗ chùa Hồi hướng.

Nhà vua hỏi ngài cần bao nhiêu người cùng đi. Ngài đáp:

– Chỉ cần được mang các vật đi và một cân danh hương là đủ.

Nhà vua bèn trao cho ngài, ngài đi vào Trung nam, trải qua hai ngày, đến chỗ núi hiểm hóc sâu thẳm đều không thấy gì. Bỗng nhiên gặp một con lăn bằng đá, ngài kinh ngạc bảo:

– Ở đây không có người đến thì làm gì có vật này.

Khi ấy ngài lên đó, đốt hương đang mang theo, lễ bái chúc tụng ai cầu khẩn thiết từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến tối. Giây lát từ trong hang sương mù tỏa ra xa xa không được rõ, gần lại thì dần tan. Ở giữa lưng chừng núi có cột trụ màu đỏ vách tường phấn bóng lộ như họa, chỉ trong khoảnh khắc dường như rõ hẳn. Thấy một ngôi chùa như tại giữa mây, ba cửa ngạch lớn. Đến xem kỹ thì chính là chùa Hồi hướng. Ngài rất mừng, liền đến đó. Bấy giờ đã là hoàng hôn, nghe tiếng chuông và tiếng lễ Phật. Có người đứng ở cửa hỏi ngài từ đâu đến, liền dẫn vào, thấy một vị Lão tăng bảo rằng:

– Đại vương ở thời Đại Đường vạn phước, ban bảo người đi theo qua các phòng ban rải khăn tay…, chỉ thừa lại một phần. Có một phòng chỉ có giường trống chẳng có người, có một bộ y phục tòa chiếu, tợ như để chỗ cho người đến, liền đi qua thấy vị Lão tăng. Vị Tăng bảo:

– Qua canh sẽ lại.

Ngài muốn trở lại để trao khăn tay nhưng lại là một phòng rỗng không, giường và người đều không có, ngài bèn đi lui nói cùng vị Lão tăng. Lão Tăng cười bảo:

– Ngài ngồi.

Rồi xoay lại bảo thị giả rằng:

– Đi đến phòng kia lấy chỉ bát lại.

Vị thị giả đem đến là chỉ bát bằng ngọc, Lão tăng bảo ngài:

– Ông có thấy vị Phạm tăng kia chăng?

Ngài đáp:

Có thấy.

Lão tăng bảo:

– Vị đó thay chủ của ông. Trong nước nhà sắp có biến loạn, người chết vô số, đó gọi là vua Ma diệt. Ngôi thất kia là phòng của chủ ông vậy. Chủ của ông ở tại chùa vì ưa thích thổi chỉ bát, nên biến khí ở nhân gian. Ở đây thường làm như thế. Nay hạn cũng đã mãn, nên phải khước về.

Sáng ngày mai dẫn đến trai đường thọ thực, xong rồi bảo:

– Ông nên trở về và có thể đem chỉ bát này trả lại cho chủ của ông và áo ca-sa khăn tay, bảo tự giữ lấy!

Ngài vái lạy rồi trở lui, có một Đồng tử đưa tiễn ngài đi ra chỉ mới vài bước lại thấy mây sương khắp bốn phía. Đến lúc tan hết thì không còn thấy chùa nữa.

Ngài mang khăn tay, áo ca-sa, chỉ bát… về kính dâng lại vua Huyền Tông và đem tất cả những gì thấy biết thuật lại từ đầu đến cuối. Vua Huyền Tông rất cảm kích vui mừng, nắm lấy chỉ bát mà thổi, y nhiên như chỗ trước kia chấn ngụ vậy. Sau hơn mười năm có họa của Lộc Sơn, chỗ thấy vị Phạm Tăng tức là Lộc Sơn, ngài cảm chỗ gặp nên càng tinh tấn gấp bội thiết tha. Không biết cuối cùng ngài thế nào.

139. Thần tăng Lãn Tàn

Sa-môn Lãn Tàn, khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (72) đời tiền Đường, ngài đến chùa Hành nhạc chấp lao phục dịch chư Tăng. Mỗi lúc chúng Tăng thọ thực xong, ngài lượm nhặt lấy các thức ăn thừa mà ăn. Bởi tánh lười biếng nên hay ăn vật dư thừa nên gọi là Lãn Tàn. Ban ngày ngài chuyên lo công việc trong mật thất, tối lại nắm ngũ với đàn trâu, thường không tỏ vẻ mệt mõi, như vậy suốt hai năm.

Bấy giờ có Nghiệp Hầu Lý Sa ở trong chùa đọc sách, đến xem ngài quả thật là phi phàm, nghe ngài trong đêm xướng tụng lời kinh âm vang thấu suốt núi rừng, Lý Sa có biết được âm thanh rõ ngộ được mừng buồn cho rằng:

– Tiếng ngài tụng kinh trước buồn thảm mà sau thì vui vẻ, hẳn là người biến khí rơi đọa, thời sắp đi.

Nên trong đêm Lý Sa Lẫn đến tham yết, trông vào cửa chiếu thông danh mà lạy. Ngài tức giận mắng lớn, ngửa lên mặt giữa trời mắng rằng:

– Đó là sắp hại ta.

Lý Sa càng thêm cẩn tụng cung kính, chỉ lạy mà thôi, ngài khêu lấy phẩn trâu trong lửa ra, ăn khoai hồi lâu mới bảo:

– Có thể lấy chiếu mà trải đất.

Và đem nửa phần khoai ăn còn thừa trao cho Lý Sa. Lý Sa nhận lấy ăn hết rồi từ tạ. Ngài nói cùng Lý Sa rằng:

– Cẩn thận chớ lắm lời, hẳng nhận lãnh mười năm làm tể tướng!

Lý Sa bái lạy mà lui về.

Ở đó một tháng thì Tứ Sử Thái Nhạc sửa chữa đường rất nghiêm chỉnh, bỗng trong một đêm gió thổi, sấm nổ chấn động làm sụp đổ một ngọn núi, bởi thế nên bậc thềm đường lên núi bị tảng đá lớn làm cản trở liền dùng mười con trâu lấy dây buộc lại để kéo đi, lại dùng vài trăm người cổ vũ mạnh mẽ để đẩy đi, sức lực của vật đã cạn kiệt mà tản đá càng kiên cố, không còn con đường nào khác để tiếp tục công việc tu sửa đường đi. Ngài bảo rằng:

– Chẳng cần nhờ vã đến sức người để ta thử trừ nó đi.

Mọi người đều cười lớn, cho ngài là người điên cuồng. Ngài bảo:

– Đâu đã thấy mà cười, thử đã mới có thể biết!

Chư Tăng trong chùa cười mà chấp thuận để ngài làm, ngài bèn đạp đá lay động rồi bỗng nhiên chuyển quanh mà lăn xuống, tiếng va chạm như sấm chấn động. Đường núi đã mở thông, chư Tăng trong chùa đều chí thiết bái lạy ngài, khắp cả một quận đều tôn xưng ngài là bậc Chí thánh, Thới Sử kính phụng ngài như thần. Ngài lặng yên mà ý muốn ra đi, phía ngoài chùa tự nhiên hổ báo tụ họp thành bầy, hằng ngày có sự sát hại thương tổn không gì có thể cấm ngăn, ngài bảo:

– Đưa cho ta cái giỏ, ta sẽ vì các ngươi mà đuổi bỏ nó đi.

Mọi người đều nói:

– Đá lớn còn có thể đẩy ngăn, hổ báo sẽ dễ chế ngự.

Bèn trao cho ngài cây gai thẳng và đều men theo và quán xét, vừa mới ra cửa, thấy một con hổ ngậm lấy mà đi, ngài đi thì dấu vết của hổ báo cũng mất theo.

Về sau quả thật Lý Sa làm tướng đến mười năm.

140. Thần tăng Người Xứ Tây Vức

Sa-môn người nước Tây Vực không nhớ rõ tên và chưa rõ ngài là người xứ nào ở Ấn Độ, diện mạo của ngài rất xấu xí, sắc da như người xứ Càn Đà, mặc y phục man điều, chân đi giầy da, kéo lê tích trượng bằng sắc.

Ngài đến hoằng hóa ở kinh điển, đương lúc Vĩ Cao chào đời, vừa mới ba ngày mà trong gia đình có thỉnh mời chư Tăng thiết trai cúng dường, ngài là vị Tăng không mời mà tự đến, trong nhà họ Vĩ, từ thằng nhỏ cho đến người lớn thảy đều tức giận, đem chiếc chiếu rách trải giữa sân cho ngài. Sau khi thọ trai xong, nhà họ Vĩ bảo bà vú nuôi bồng ẩm đứa bé tức Vĩ Cao ra, thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cầu cho nó được thọ. Bỗng nhiên ngài bước lên thềm cấp, nói với đứa bé rằng:

– Xa cách từ lâu không thấy tăm dạng!

Đứa bé dường như rất vui mừng, mọi người đều lấy làm lạ. Có một người lớn t rong nhà họ Vĩ bảo:

– Đứa bé này vừa mới sinh ba ngày, cớ sao ngài bảo là xa cách từ lâu?

Ngài bảo:

– Việc ấy không phải là chỗ biết của thí chủ đâu.

Mọi người trong nhà họ Vĩ cố nài nỉ hỏi, ngài mới nói rằng:

– Đứa trẻ này là hậu thân của Gia cát Võ Hầu. Võ Hầu ở cuối đời Đông Hán làm thừa tướng đất Thục. Người dân đất Thục thọ nhận sự ban tặng của Võ Hầu rất lâu. Nay sinh ra ở đời hẳn sẽ làm thục môn Soái và thọ nhận phước của người xứ Thục, ta năm xưa ở tại Kiếm môn cùng với đứa bé này là bạn thân thiện. Nay nghe ra đời ở nhà họ Vĩ, nên chẳng vì xa xôi mà lại đến thăm.

Người nhà họ Vĩ lấy làm lạ lời nói đó, nhân đó, lấy chữ Võ Hầu mà đặt tên tự cho đứa bé.

Sau này, Vĩ Cao tuy từ thiếu thời đã là Kim Ngô thống lãnh Kiến nam quân nhiều năm rồi dời đổi làm thái úy kiêm trung thư lệnh, ở tại Thục môn mười tám năm. Quả thật khế hợp như lời của ngài nói.

141. Thần tăng Bổn Tịnh

Thích Bổn Tịnh, chưa rõ ngài là người ở đâu. Đạo khí cao kháng, nghe nói tại Mân lãnh có nhiều vị tri thức thiền Tông nên tìm đến tham yết. Lại nghe ở núi Hoắc đồng, Trường khê có nhiều động phủ Thần tiên, nhưng trong núi không dung chứa người phàm tục, ngài mới vào núi kết cỏ tranh làm thất, bên cạnh thất có hang đá của rồng độc. Con rồng ấy thường giả dạng mà ra, biến hiện chẳng thường, ngài bèn gọi nó lại nuôi dạy cho thuần. Lại có các con hổ mạnh dữ, ngang dọc giữa đường làm hại, các người lượm củi chẳng dám vào sâu, ngài đưa tay vỗ lên đầu hổ răn dạy đinh minh, hổ liền chuôi tai mà đi. Có lần, giữa đêm thanh vắng, có chín người đều đội mũ quấn khăn vén tóc, áo quần xếp lớp đến xin nương ngủ qua đêm. Ngài đều chấp thuận vào ở trong am thất. Đến sáng mai, cáo từ, đều hóa thành chim Hạc kêu hót giữa không trung mà đi. Không biết cuộc đời của ngài cuối cùng như thế nào.

142. Thần tăng Hoài Ngọc

Thích Hoài Ngọc, ngài dòng họ Cao, người xứ Đơn khưu, ngài giữ gìn luật pháp, danh tiết cao vời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngồi hoài nên chấy rận tự ý sản sinh, ngài chỉ mặc một áo vải, hành trì pháp sám hối. Thời khóa ước định mỗi ngày xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà mỗi ngày năm vạn biến, tụng kinh Di-đà suốt ba mươi vạn quyển. Này hôm sau bỗng nhiên thấy Thánh tượng Tây phương nhiều đến vô số. Có người cầm đài bạc màu trắng từ cửa sổ mà vào. Ngài bảo:

– Tôi đáng được đài vàng.

Đài bạc liền lui ra. Ngài càng chí thành gấp bội. Sau, tự nhiên giữa không trung có tiếng báo rằng:

– Trên đầu đã có ánh sáng soi chiếu, thỉnh ngài kiết già kết ấn Phật A-di-đà.

Khi đó, ánh sáng soi chiếu khắp thất. Ngài đưa tay hạn chế người thoái lui, bảo rằng:

– Chớ nên xúc phạm đến ánh sáng ấy.

Vài ngày sau, lại có sánh sáng bạch hào hiện, Thánh chúng đông đầy giữa không gian, ngài bảo:

– Nếu nghe được mùi hương khác lạ tức là hiện báo của tôi sắp hết.

Bỗng chốc có hơi thơm đầy giữa không trung và khắp cùng Thánh chúng. Thấy Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí thân sắc màu vàng cùng ngự trên đài Kim Cang đến nghênh đón. Ngài mỉm cười an nhiên thị tịch.

143. Thần Tằng Vô Tướng

Thích Vô Tướng, ngài là người con thứ ba của vua nước Tân La, vua Huyền Tông vời thỉnh ngài ở chùa Thiền định, hiệu là Vô tướng, ngài vào trong khe sâu dưới hang núi tọa thiền. Có hai con trâu màu đen húc nhau phía dưới tòa, gần sát thân rất nguy cấp, lông tay rơi rụng trong tay áo, nó lạnh như băng sờ mó đến trong bụng, ngài vẫn bình thảng không giao động.

Mỗi lần nhâp định, phần nhiều là năm ngày một lượt, bỗng từ trong tuyết sâu có hai con thú dữ lại, ngài tự tẩy rửa lau chùi chỗ mình nằm trước nó, phát nguyện đem thân thí cho nó ăn, hai con thú ngửi quanh một vòng từ đầu đến chân rồi bỏ đi. Thường thường trong đêm ở dưới giường ngồi có lượm nhặt được râu lông của hổ. Thế rồi, ngài sống trong núi rừng khá lâu, nên áo rách nát, tóc dài ra, các người thợ săn nghi là thú lạ, muốn dương cung bắn, rồi lại dừng thôi. Ngài lại dựng lập tinh xá ở chỗ mồ loạn, thành đô. Huyện lệnh Dương nghi ngài huyễn hoặc mới tìm đến, bảo hơn hai mươi lính bắt dắt ngài về, bọn lính đi gần tới ngài thì thân đều run sợ tâm thần bấn loạn, bỗng chốc gió lớn nổi dậy, cát đá tung bay thẳng vào quan sảnh, thổi rèm quấn màn. Dương Dực khấu đầu bái phục, gằn thở không dám nói. Sám lễ xong, gió liền ngừng hẳn, bèn cung kính đưa ngài trở về chỗ cũ. Cùng đến thành đô, bỗng có một lực sĩ nói là bỏ sức chặt củi cúng dường nhà trù chư Tăng sử dụng. Bấy giờ, em của ngài là vị Tân Vương ở Tân La, sợ người ấy trở về nước mình hẳn khốn nguy ách nạn, nên sai thích khách đến giết trừ đi. Ngài đã thầm biết điều đó, bèn bảo rằng:

– Này thiền giả tạm ở lại đây, ta nói là tối nay có khách nói là đất nướng!

Ngài lại bảo:

– Chớ làm tổn thương đến Phật tử!

Đến tối, kẻ thích khách cầm dao cặp chiếu đến bên cạnh tòa tọa thiền, vừa mon men đến gần, liền cảm thấy tợ như từ trên tường vách có vật rơi xuống, bèn nhảy dậy vung dao, cự hồ thân đều văng rơi giữa đất, cảm thấy sau cửa có một cái hầm lớn muốn bị kéo đến đó chôn lấp đi, dùng đất bôi xóa các dấu vết rồi bỏ đi. Đến sáng mai, ngài gọi người chặt củi đến mà cảm tạ thì lại không thấy.

Ngài chỉ ngôi tháp ở trước cây bách và nói rằng:

– Cây bách và tháp ấy đồng thời với nhau, nhưng ngôi tháp ấy sẽ bị hủy diệt.

Đến trong những năm thuộc niên hiệu Hội Xương (81–87) đời tiền Đường, phá hủy chánh đường lúc với ngôi Tháp ấy. Ngài lại nói:

– Trước chùa có hai cái hồ nhỏ, hồ bên trái là canh, hồ bên phải là cơm. Những lúc ít có trai hội thì khơi đào nó lên, quả nhiên có người đến thiết trai cúng dường. Các sự thần diệu của ngài hầu như đều như vậy.

Đến năm Trí Đức thứ nhất (76)thời Tiền Đường, ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi.

144. Thần tăng Tung Nhạc

Hòa thượng Tung Nhạc đập phá Táo thần ẩn cư, ngài ở ẩn tại núi Tung, trong núi có ngôi miếu rất linh, chỉ an trí một tượng Thần Táo, cúng tế không ngày nào ngơi nghỉ, ngài đến miếu ấy, dùng gậy đập tượng Thần táo, bảo:

– Đồ đất ngói hợp thành, Thánh từ đâu lại. Linh từ đâu khởi?

Lại dộng xuống ba cái, tượng Thần Táo nghiêng ngã rơi rớt. Bỗng chốc có ngưới mặc áo xanh thiết lễ kính bái trước ngài thưa rằng:

– Con vốn là Thần táo đây, từ lâu nhận chịu nghiệp báo, may nhờ ngài nói pháp vô sinh mà thoát được kiếp này. Vì vậy, nay con đến lễ tạ.

Nói rồi bèn lễ bái mà đi. Giây lát sau đồ chúng hỏi ngài:

– Thần táo được ý chỉ kinh gì mà bèn được sinh lên cõi trời?

Ngài bảo:

– Ta chỉ hướng Thần táo mà nói là chỉ có bùn đất nói gạch hợp thành, riêng không đạo lý gì khác.

Mọi người im lặng không nói. Giây lâu ngài bảo:

– Hiểu chăng?Chúng nói:

– Không hiểu!

Ngài bảo:

– Tánh bổn hữu là gì mà không hiểu?

Chúng Tăng bèn cùng nhau lễ bái. Ngài bảo:

– Phá ấy, đọa vậy!

Khi ấy, cả đại chúng tỏ ngộ được huyền chỉ.

145. Thần tăng Nghi Quang

Thiền sư Nghi Quang, ngài trú tại chùa Thanh long. Hạnh nghiệp rất cao. Nhà triều sĩ có tang người vợ nên thỉnh ngài đến nhà thiết trai cúng dường tu phước. Ngài đến nhà đó ở lại vài ngày, dừng nghỉ ở trước phòng nhà, trong nhà thiết bày lễ cúng dường. Có tục lệ, mỗi lúc trong nhà có người qua đời, thì đến thầy bói hộ đồng. Thầy đồng bảo:

– Người ấy chết phạm phải ngày sát, ắt gây tai họa, những người trong nhà tốt nhất phải tránh ra ngoài.

Đêm đó cả nhà triều sĩ đều ra ngoài phía Bắc cửa, lẫn trốn đi không báo với ngài. Ngài chỉ ở trước phòng nhà dưới ánh đèn sáng tụng đọc kinh văn, đệ tử ngài cả thảy có mười một người theo hầu. Đến gần nửa đêm, nghe trong nhà có tiếng người dậy lấy y phục mở cửa, có một người phụ nữ bước ra, đi đến nhà trù thổi lửa nấu nước làm thức ăn, ngài chỉ cho là người trong nhà không biết ấy là điều lạ. Đến lúc gần sáng, Người phụ nữ ấy bưng mâm thứa ăn đến trước ngài, còn mang áo mật để chân trần, bái lạy thưa:

– Nhọc phiền ngài giáng lâm, nay người trong nhà đều ra ngoài hết, sợ cúng dường cháo không đúng thời, nên đệ tử cố dậy để sắm sửa.

Ngài biết đó là người chết, liền nhận sự biếu cúng ấy mà cầu chúc, chúc chưa xong, nghe có tiếng mở cửa phòng nhà ở phía Bắc, người phụ nữ vội nói:

– Các con của con đến vậy!

Nhân đó vội chạy vào trong nhà, thì ngài nghe có tiếng khóc. Khóc xong, người nhà ra tham yết, hỏi ngài có an không, thấy cháo trong mâm, bèn hỏi ngài rằng:

– Chúng con trong đêm qua thật là trốn lánh ương họa, vậy ai sắm sửa cháo này vậy?

Ngài chỉ cười không đáp. Đứa tớ trong nhà kinh sợ bảo:

– Người chết đêm qua nằm ngang, tay còn dính bùn, chân vấy bùn dơ, ấy là cổ sao?

Ngài mới chỉ cháo ấy là do người chết nấu vậy. Cả nhà thảy đều thất kinh.

146. Thần tăng Tuệ Nhân

Ngài Tuệ Nhân thông suốt Tam luận và các bộ kinh Pháp Hoa, Kim Cang, ngài thường về giảng nói.

Niên hiệu Trí Đức (76–78) đời tiền Đường, vào một chiều hoàng hôn, có người vào cửa phòng ngài nói:

– Đại Vương kính thỉnh Pháp sư!

Nhân đó ngài liền ngã lăn ra chết, chỉ ở tim và trên đỉnh đầu còn nóng ấm, bảy ngày sau sống lại, ngài kể:

– Theo kẻ sứ đi đến một thành, thành ấy rất rộng lớn tráng lệ, vào thấy nhà vua có vài trăm người tùy tùng, từ dưới Điện ra ngoài cửa các, bái lại thưa rằng: “Đệ tử bất hạnh, làm chư danh lục ở đời kiêm việc tụ tội, thường kham khổ, nghe nói ở trên cõi người, ngài thường giảng kinh Kim Cang, mong ngài vì chúng con mà thuyết diễn!”. Khi ấy ngài thăng tòa, giảng kinh xong, nhà vua cúng dường ngài ba trăm xấp lụa, bèn bảo kẻ sứ đưa về. Kế đến thấy có một giảng đường, trong đó có hơn trăm vị Tăng, lúc đầu thì cùng nhau đàm luận, rất giữ lễ pháp, chỉ khoảng khắc thì lại tranh cãi, khi ấy trên tay của mỗi vị móng tay bằng sắt mọc dài ra họ cấu cào lẫn nhau, máu thịt đổ rơi giữa đất. Có lính lớn đầu trâu dùng lửa thiêu đốt các vị Tăng đều cháy thành tro bụi. Phút chốc thì hoàn phục thân hình như cũ.” Nhân đó mà kinh sợ khước từ sống lai, tự nhiên tuôn đạp mà dậy, số lụa đã có ở hòm, kiểm lại đúng như số nói trước. Ngài bèn lấy đó bố thí tu tạo phước đức. Từ đó, ngài trọn không còn giảng nói, chỉ thường trì kinh mà thôi.

147. Thần tăng Phổ Mãn

Sa-môn Phỗ Mãn, ngài thường tùy hỷ, chẳng câu nệ Tăng tướng, hoặc ca hát, hoặc cười nói, chẳng hiểu ý chỉ ngài thế nào. Nhưng lời nói việc làm cua ngài thường có ứng nghiệm, nên người thời bấy giờ tiếp đãi ngài như ngài Vạn Hồi. Sau, tại trong một ngôi nhà thờ Phật, ngài đề thơ được vài thiên rồi tịch. Trong đó, ngài ghi rằng:

Nước này liền nước kinh
Hai châu huyết đầy sông
Trâu xanh đến hổ đỏ
Gọi niên hiệu Thái bình.

Thơ ngài để, người sau chẳng hiểu gì cả. Kịp đến lúc giặc Thử dấy binh, mọi người mới tỏ rõ. Nước Thử là chỉ cho chữ cho chữ Thử. Nước Kinh, tức binh giặc dấy kởi từ Châu kinh. Hai Châu tức là chỉ cho “Thử” và “Thao”. Trâu xanh tức chỉ năm Hưng Nguyên thứ hai là năm Ất Sửu (78) Ất thuộc Mộc, Sửu tức là trâu. Năm sau, đổi niên hiệu là Trinh Nguyên, tức năm Bính Dần (786) Bính thuộc Hỏa, Dần tức là Hổ. Đến đó thì giặc đã lắng yên bình trị, nên nói là Trâu xanh đến Hổ đỏ, lại gọi năm thái bình.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9