TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

 

53. Thần tăng Tuệ Thông

Thích Tuệ Thông, không biết ngài là người xứ nào. Khoảng trong niên hiệu Nguyên Gia (2-), đời tiền Tống, thấy ngài ở tại Thọ xuân. Đêm ngủ không nhất định, ngài thường đi trong xóm làng, ngài uống rượu ăn thịt chẳng khác mọi người thế tục. Ngài thường tự xưng là Trịnh Tán Kỵ. Nói việc chưa xảy ra thì một thời gian sau hẵn có chứng nghiệm.

Ở Giang lăng có người tên là Tăng Quy đến buôn bán ở Thọ xuân. Lúc sắp trở về quê, trên đường đi gặp ngài bảo là muốn gởi một ít đồ vật. Bấy giờ, Tăng Quy mang vác nhiều vật nặng, nên cố khước từ, ngài bèn cưỡng đặt lên trên gánh mà Tăng Quy cảm thấy không nặng nề gì. Đi được vài dặm, liền từ biệt đi lối khác, ngài nói với Tăng Quy rằng:

– Tôi có người chị ở Giang lăng là Ni cô Tuệ Tự trú tại chùa Tam tầng. Ông có thể vì tôi mà hỏi giúp và bảo tôi muốn sang thăm!

Nói xong, bỗng nhiên không thấy ngài nữa, ngoảy lại nhìn đồ vật gởi trên gánh thì cũng đã biến mất. Tăng Quy về đến Giang lăng, tìm gặp được Tuệ Tự kể lại sự việc đó.

Tuệ Tự đã không có người em đó và cũng không biết tại sao như vậy, đích thân đến Thọ xuân tìm kiếm Tuệ Thông mà không hề gặp. Sau, ngài tự đến Giang lăng, Ni cô Tuệ Tự đã viên tịch. Ngài vào trong phòng cũ của Ni cô Tuệ Tự thăm hỏi Ủy Tất. Nhân đó, ngài ở lại Giang lăng một thời gian ngắn. Phần mộ người nhà Lộ Do ngài đều biết, thậm chí người chết là dòng họ gì và cả năm tháng qua đời. Mọi người rỉ tai nhau cùng đến hỏi, ngài đều nói như vậy. Hoặc có lúc ngài nêu chỉ bọn trộm cướp, nói về tội trạng của chúng. Từ đó, bọn trộm cướp, từ xa vừa trông thấy ngài liền chạy bạt mạng.

Thêm nữa, tại Giang tân, trên đường đi, gặp một người, bỗng nhiên ngài lấy gậy đánh và bảo rằng:

– Sao chẳng về gấp xem thử nhà ngươi như thế nào?

Người đó về đến nhà, quả thật lửa cháy nhà, mọi vật hết sạch. Đầu niên hiệu Vĩnh Nguyên (99), đời Nam Tề, bỗng nhiên ngài đến Nhâm Dạng là chỗ quen biết để kiếm xin rượu rất gấp, bảo rằng:

–Vì phải đi xa, không còn gặp nhau nữa, vì thế nên từ tạ cùng các thiện tri thức. Đồng thời xin khuyên nên lấy việc tu phước thiện làm đầu.

Uống rượu xong, ngài đến nằm giữa đất bên chân tường, đến xem thì đã chết. Sau đó vài mươi ngày, lại có người thấy ngài trong chợ, vội đến cùng nói chuyện, một hồi lâu thì biến mất.

54. Thần tăng Thiệu Thạc

Ngài Thiệu Thạc người nước Khương Cư, rất thân thiện với ngài Chí Công. Vào ra kinh thành chẳng kể tối sớm, ý muốn tìm đến tức liền đi. Ngài đến Ích châu nói chuyện khôi hài, khiến mọi người cười vui, nhân đó đem điều thiện để khuyên dạy, mọi nhà đều vui vẻ. Đến nhà mà ngài nằm ngủ giữa đất thì trong nhà ấy hẳn có người chết. Còn xin chiếc chiếu nhỏ thì hẳn là có trẻ con qua đời. Người thời bấy giờ đều lấy đó làm lời sấm. Đến ngày mồng tám tháng tư, khi hành hóa ở Thành đô, ngài ở giữa đại chúng làm hình sư tử. Ngày đó, tại huyện Bì triệu cũng nói thấy ngài làm hình sư tử, mới rõ rằng ngài phân thân như vậy.

Thứ sử Tiêu Tuệ Khai và Lưu Mạnh Minh đều chú tâm phụng sự ngài. Mạnh Minh lấy áo của một gã nam tử và hai người thiếp để thử ngài, thưa rằng:

– Xin đem hai người này cung cấp ngài để hầu hạ hai bên có được chăng?

Ngài là người am hảo vận ngữ, bèn nói với Mạnh Minh rằng:

– Thà tự đi khất thực để thanh tịnh an hưởng, chứ không thể cùng với A Phu sống trọn năm tàn.

Sau, bỗng nhiên ngài mặc áo vải đội nón lá đến nhà Mạnh Minh, một thời gian ngắn thì Mạnh Minh qua đời. Trước đó là Mạnh Minh làm trưởng sử. Thẩm Trọng Ngọc đổi cách roi gậy thường khoa nghiêm trọng. Ngài nói với Trọng Ngọc rằng:

– Trời đất khóc gào từ đó mà ra, nếu trừ được cách roi thì được Thứ Sử.

Trọng Ngọc trừ nó. Đến lúc Mạnh Minh qua đời, quả thật Trọng Ngọc là thứ sử Hành Châu.

Tháng 9 năm đó, lúc sắp tịch, ngài nói với Sa-môn Pháp Tấn rằng:

– Xin được để thi hài dưới gốc tùng, nhưng chân phải mang guốc.

Pháp Tấn vâng theo như vậy. Đến lúc ngài tịch rồi, khiêng thi hài ngài để lộ bày, sáng ngày hôm sau đến xem thì không còn thấy. Bỗng chốc có người từ huyện Bì triệu đi lại nói:

– Hôm qua thấy ngài Thiệu Thạc mang một chiếc guốc đi trong chợ, bảo rằng nên vì ta mà nói với Pháp Tấn là Tiểu Nhi khinh thường chỉ làm cho ta một chiếc guốc gỗ.

Ngài Pháp Tấn kinh sợ hỏi đến vị Sa-di. Vị Sa-di ấy đáp:

– Lúc khiêng thi hài bị rơi mất một chiếc guốc, vì đi gấp nên không kịp lượm nhặt.

55. Thần tăng Pháp Nguyện

Ngài Pháp Nguyện vốn dòng họ Chung, tên là Vũ Lộ. Tổ tiên vốn người gốc ở Dĩnh xuyên Trường xã, đến đời ông nội ngài lánh nạn dời đến ở Ngô hưng, Trường thành. Gia đình vốn thờ thần, thân tập cổ vũ, các thứ tạp kỉ ở đời cũng như đoán tướng bói quẻ thi hào, ngài thảy đều thành đạt xảo diệu. Thường lấy kiếng soi mặt và tự bảo:

– Ta không bao lâu nữa sẽ thấy được thiên tử.

Bấy giờ, ngài ra thành đô trú tại Thẩm kiều chuyên hành nghề đoán tướng. Thuở nhỏ, Tông Xác và Thẩm Khánh nhờ ngài đoán tướng. Ngài bảo:

– Tông Xác sẽ làm thứ sử ba châu, còn Thẩm Khánh sẽ ở địa vị cao cùng là tam công.

Trải qua thời gian đoán tướng mọi người, ngài dự ghi những sự việc gần gũi có ứng nghiệm chẳng phải một. Bèn có tiếng đồn tới tai vua Thái Tổ thời Tiền Tống (Vũ Đế, 20-23). Vua Thái tổ đòi ngài đến rồi đem một kẻ tù và một đứa tớ gái có nhan sắc xinh đẹp, cho mặc áo quan, bảo ngài đoán tướng. Ngài chỉ kẻ tù, bảo:

– Ông là người mắc nhiều ách nạn ở cấp dưới hiện bị gông cùm xiềng xích.

Nói với tớ gái rằng:

– Còn ngươi là hạng người hạ tiện mới tạm được miễn ư?

Nhà vua lấy làm lạ liền, ban sắc ngài ở tại Hậu đường để liệu biết mọi bí thuật âm dương. Sau một thời gian ngắn, ngài trình xin xuất gia, ba phen tấu trình mới được nhà vua chấp thuận, ngài bèn đến chùa Định lâm làm đệ tử ngài Tuệ Viễn.

Đến thời Hiếu Vũ Đế (-6), đời tiền Tống, Tông Xác ra trấn tại Quảng châu, dẫn ngài cùng đi, kính phụng ngài là bậc thầy trao truyền ngũ giới. Gặp lúc Tiêu Vương phản nghịch, Tông Xác đem sự việc hỏi ngài, ngài bảo:

– Ông lại lầm giết hại người. Năm nay, Thái Bạch phạm nam Đẩu, pháp ứng hẳn giết đại thần. Ông nên mau đổi kế ắt được đại động.

Quả thật đúng như lời ngài nói. Tông Xác dời đến làm thứ sử Dự Châu. Cũng lại dẫn ngài cùng đi. Khi gần Cảnh lăng vương dối bày mọi sự, phơi bày can gián cũng như vậy. Tề Cao Đế phụng thờ ấu chúa, thường có những nỗi lo bất trắc, mỗi lúc như vậy hay đem hỏi ngài.

Ngài bảo:

– Sau bảy tháng sẽ yên định.

Quả đúng như lời ngài nói, đến khi Cao Đế lên ngôi (79-83), đời Nam Tề, Cao Đế giữ lễ tôn thờ ngài làm thầy, rồi vua Vũ Đế kế ngôi (83-9) cũng rất mực chí kính.

Đến năm Vĩnh Nguyên thứ nhất (99), đời Nam Tề, ngài viên tịch, thọ tám mươi hai tuổi.

56. Thần tăng Bảo Chí

Ngài Bảo Chí vốn dòng họ Chu, người xứ Kim thành. Đầu tiên, Người vợ của họ Chu nghe tiếng trẻ khóc trong ổ chim ưng, bèn leo lên cây mà được ngài, ẩm về làm con. Lên bảy tuổi, ngài nương theo ngài Tăng Kiệm ở Chung sơn xuất gia tu tập thiền pháp.

Ngài thường qua lại dưới kiếm thủy Hoàn sơn, mặt vuông mà sáng ánh như kiến soi, tay chân đều như móng chim. Ngài dừng ở chùa Đạo lâm tại Giang đông. Đến đầu niên hiệu Thái Thỉ (6), đời tiền Tống, ngài bỗng nhiên rất kỳ lạ, đi ở không nhất định, uống ăn không giờ giấc, để tóc dài vài tấc, thường đi chân không giữa ngã tư đường cũng như trong các ngõ hẻm, tay nắm một tích trượng. Trên đầu tích trượng có treo dao kéo và gương soi, hoặc treo một vài sắp lụa. Niên hiệu Kiến Nguyên (79-83), đời Nam Tề, ngài thường biểu hiện các điều lạ, như vài ngày không ăn cũng không tỏ vẻ đói khát. Cùng mọi người nói năng lúc đầu như khó hiểu, nhưng sau đều thông hiểu. Bấy giờ, các thứ thi phú của ngài nói như sấm kỷ, dân chúng ở Giang đông đều cùng nhau kính thờ. Vua Vũ Đế (83-9), đời Nam Tề, cho ngài là người mê hoặc quần chúng, nên bắt giam tại Kiến khương. Vừa sáng sớm, có người thấy ngài trong chợ, khi trở về kiểm tra trong ngục thì ngài có ở đó. Ngài nói với người cai ngục rằng:

– Ngoài cửa có hai xe chở thức ăn lại, bát vàng đựng đầy cơm, ông có thể đến nhận lấy.

Thế rồi, Thái tử Tề Văn Tuệ và Cánh lăng vương tử Lương đều đưa thức ăn đến dâng tặng ngài, quả thật đúng như lời ngài nói. Kiến Khương bảo Lã Văn Hiển đem việc ấy tấu trình cùng triều đình. Vua Vũ Đế liền nghênh đón ngài vào cung, ban ở nơi hậu đường. Một thời dứt trừ trong yên, ngài cũng theo chúng ra ngoài. Vậy mà trên núi Cảnh dương còn có một Bảo Chí cùng với bảy vị Tăng hội chung, Vũ Đế tức giận sai người đi kiểm tra xem ngài có ở trong cung các không. Sứ thần tấu trình:

– Ngài Bảo Chí đã ra sống ngoài tỉnh từ lâu, vừa mới dùng mực bôi mình.

Bấy giờ, Sa-môn Tăng Chánh Pháp Hiến muốn dâng cúng ngài một chiếc y, sai sứ đến hai chùa Long quang và Kế tân tìm kiếm ngài, mà hai chỗ ấy đều bảo:

– Ngài đã rời khỏi nơi ấy từ hôm qua!

Kẻ sứ lại đến nhà Lệ Hầu Bá là nơi thường lui tới của ngài. Hầu Bá bảo:

– Hôm qua ngài hành đạo tại đây, sáng nay ngủ chưa dậy.

Kẻ sứ trở về nói cùng Pháp Hiến. Mới biết rằng trong một đêm mà ngài phân thân đến ba nơi. Giữa tiết đông giá lạnh, ngài thường để trần vai áo mà đi, Sa-môn Bảo Lượng muốn dâng áo nạp cúng ngài, chưa kịp mở lời, bỗng nhiên ngài đến lấy áo mà đi.

Sau, ngài giúp thần lực cho vua Vũ Đế, đời Nam Tề, khiến thấy Cao Đế (79-83), cha của Vũ Đế, ở dưới địa ngục thường chịu khổ bởi dao búa. Từ đó, Vũ đế vĩnh viễn phá bỏ hình luật bằng dao búa. Vua Vũ Đế lại thường mời ngài đến vườn hoa Lâm. Bỗng nhiên, một hôm, ngài mặc ba lớp áo vải bố đội nón mà đến. Sau đó không lâu, vua Vũ đế băng hà, rồi Thái tử Văn Tuệ cùng Dự Chương Vương cũng kế tiếp qua đời. Niên hiệu Vĩnh Minh (83-9), đời Nam Tề, ngài thường ở tại hậu đường đông cung. Một sáng sớm nọ, từ cửa vào ra, bỗng nhiên ngài bảo:

– Trên cửa cổng huyết dơ áo.

Ngài vén áo chạy qua. Kịp đến lúc Uất Lâm bị hại. Xe chở ra, đến đó, đầu nhà vua rơi máu nơi bậc thềm.

Quan vệ úy thời Nam Tề là Hồ Hài mắc bệnh, đến cầu thỉnh ngài. Ngài chủ sớ rồi bảo ngày mai sẽ khuất, ngày mai trọn không qua, ngày đó Hồ Hài chết chở thi hài về nhà.

Quan thái úy Tư Mã thời Nam Tề là Ân Tề Chi theo Trần Hiển đến trấn Giang châu, lúc đến từ tạ ngài, ngài lấy giấy vẽ một cây lớn, trên cây có chim. Ngài bảo:

– Lúc nạn cấp nạn có thể leo lên đó.

Sau, Trần Hiển nghịch tiết để Tề Chi trấn tại châu. Đến lúc thất bại, Tề Chi trở về Lô sơn, bị người rượt đuổi sắp kịp, Tề Chi thấy trong rừng có một cây, trên cây có chim đậu như chỗ ngài vẽ, bèn tỏ ngộ mà leo lên, bầy chim vẫn tự nhiên không bay, nên kẻ đuổi theo thấy chim cho là không có người nên bỏ quay lại. Cuối cùng Tề Chi được thoát khỏi. Tề Truân Kỵ Tang Yểu sắp muốn mưu phản, tìm đến chỗ ngài.

Ngài thấy từ xa mà vừa chạy vừa la lớn:

– Vi Đài Thánh muốn phản nghịch, chặt đầu mổ bụng.

Sau đó hơn mười ngày sự việc xảy ra, Yểu trở lại chạy đến Chu Phương, bị bắt được, quả thật là chặt đầu mổ bụng.

Thời Nam Lương, Đà Dương Trung Liệt Vương rất kính phục ngài. Bỗng nhiên, ngài bảo tìm gấp Kinh Tử, được rồi bèn đặt trên cửa, chẳng ai biết nguyên do gì, một thời gian ngắn sau, vương ra làm kinh châu thứ sử. Ngài dự định soi xét những việc như thế chẳng phải một.

Ngài thường qua lại nơi chùa Hưng hoàng và Tịnh danh. Đến lúc vua Vũ Đế (02-0), đời Nam Lương lên ngôi. Vũ Đế ban chiếu rằng:

– Hòa thượng Bảo Chí tông tích như trần cấu, thần đạo minh tịch, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể nhận chìm, rắn hổ không thể xâm hại khiến khiếp sợ. Giảng nói Phật lý từ hàng Thanh Văn trở lên, bàn về ẩn luân thì độn ẩn cao siêu. Đâu có thể dùng không tướng tục sĩ thường tình mà bó buộc thúc chế, sao có thể thô bỉ đồng một loạt như thế. Từ nay trở đi, mọi sự đi lại vào ra của ngài, mọi người đều không được cản ngăn cấm kỵ.

Từ đó, ngài thường tới lui chốn cung cấm. Ngài từng ở Đài thành cùng vua Vũ Đế ăn tiệt nem thịt cá, kêu gọi các vương tử đều hầu hạ chung quanh. Ăn xong, Vũ Đế nói:

– Hơn hai mươi năm lại đây, trẫm ăn uống không phân biệt mùi vị. Còn ngài thì thế nào?

Ngài liền nhả ói ra một con cá nhỏ đầy đủ đuôi vảy. Vũ Đế càng thêm kinh lạ. Hiện nay tại Mạc Lăng vẫn còn có nem cá.

Mùa Đông năm Thiên Giám thứ (06), hạn hán, tế cúng cầu mưa khắp nơi mà chưa có mưa. Bỗng nhiên, ngài tấu rằng:

– Bảo Chí tôi mắc bệnh chưa lành, nhờ quan cầu xin sự sống. Nếu chẳng tấu trình quan thì đáng bị tội roi trượng. Xin nên ở điện Hoa quang giảng kinh Thắng-man tạnh mưa.

Vua Vũ Đế liền mời Sa-môn Pháp vân giảng Kinh Thắng Man.

Trọn đêm bèn mưa lớn. Ngài lại bảo:

– Phải một bồn nước thêm con dao ở trên.

Bỗng chốc mưa càng lớn nhiều, cao thấp đều thấm đủ.

Tại Dã châu, núi Tiềm rất tuyệt đẹp, dưới chân núi cảnh trí rất xinh. Ngài Bảo Chí và Đạo Nhân Bạch Hạc đều muốn ở đó, năm Thiên Giám thứ 6 (07), hai vị đều tỏ ý với Vũ Đế. Vũ Đế cho rằng hai người đều có linh thông, nên bảo mỗi người tự dùng vật để ghi nhận chỗ đất được đâu thì ở đó. Đạo Nhân nói:

– Tôi sẽ dùng Hạc bay đến dừng ở đâu tức làm dấu ở đó.

Ngài Bảo Chí nói:

– Tôi dựng đứng tích trượng để làm dấu vậy.

Thế rồi, Hạc bay đi trước đến chân núi, sắp dừng lại, bỗng nghe tiếng bay của tích trượng trên không trung, Tích trượng của ngài Bảo Chí dựng đứng sừng sững ở chân núi và Hạc kinh sợ nên dừng đậu ở chỗ khác. Đạo Nhân chẳng vui lòng, nhưng vì không thể nuốt lời nói trước, nên đành chịu mỗi người theo chỗ ghi nhận làm dấu của mình mà tạo dựng am thất.

Có gia đình Trần Chung Lỗ phụng sự ngài Bảo Chí rất thuần kính. Ngài thường vì Chinh Lỗ mà hiện hình thật, ánh sáng rạng ngời như tôn tượng Bồ-tát. Ngài biết thanh danh hiển trước đã hơn năm. Các sĩ nữ cúng dường thờ phụng không thể kể xiết. Nhưng ưa thích sử dụng tiểu tiện tẩy gội râu tóc như hàng tục Tăng mê muội, do đó có người chê trách. Ngài cũng biết trong lòng chúng Tăng có nhiều người chưa dứt bỏ rượu thịt mà chê trách đó, bỗng nhiên ngài bảo:

– Các người cười ta gội đầu bằng nước bùn dơ, vậy sao ngươi ăn đầy các thứ phân dãi?

Từ đó, mọi người khiếp sợ mà khâm phục. Ngày chào đời của Tấn An Vương …, vua Vũ Đế sai xứ đến hỏi ngài. Ngài chắp tay bảo:

– Hoàng tử ra đời vận may đến, nhưng oan gia cũng lại đồng sinh!

Sau đó, suy tầm lịch số thì Hầu Cảnh cũng sinh đồng ngày tháng năm với Tấn An Vương.

Có vị đại đức Tăng ở chùa Lâm hải; Cối kê thường nghe tại quận hạ Dương châu có Chí Công nói năng điên cuồng, phóng túng tự tại, nên bảo rằng:

– Ấy hẳn là sự dối bày của Hồ Ly

Nên nguyện đến quận hạ tìm chó săn lùng để đuổi bắt. Khi đó,

bằng phương tiện đi thuyền vào biển, hướng cửa bến muốn tiến đến hướng Tây, bỗng nhiên gió lớn xoay đảo, trong ý cho là đang đi về hướng Đông nam suốt năm, sáu ngày. Ban đầu, đến trong một đảo nhỏ trông thấy Bảo tháp vàng rồng, ngàn mây xim đẹp xuất hiện, bèn ven theo mà qua tới một ngôi chùa. Trong đó, phòng viện trang nghiêm hoa cỏ thơm tho, có khoảng năm, sáu vị Tăng tuổi độ ba mươi, dáng vẻ uy dung đắp mặc ca-sa chống trượng nơi cửa, cùng nhau đàm đạo dưới gốc cây. Vị Tăng đó thưa rằng:

– Tôi muốn đi đến thành đô, bị gió dữ cuốn thổi phiêu bạc. Không biết các ngài ở đây là nơi chốn đất nước nào, nay xem thấy bốn bên hoàn toàn là biển, sợ rằng cố hương không còn trông thấy nữa!

Các vị tăng ở đó đáp:

– Ông muốn đến Dương châu tức đến liền. Nay chúng tôi xin nhờ ông gửi một bức thư đến chùa Chung sơn, từ phía Tây đi sang phía Nam đến phòng thứ hai tìm gặp Hoàng Đầu mà giao giúp.

Vị Tăng ấy nhân đó nhắm mắt ngồi vào thuyền, nghe tiếng gió, định mở mắt, như chỗ nói bỗng nhiên đã tới bờ Tây. Vào bến sông rồi đi chừng vài mươi dặm là tới thành đô, tìm đến chùa Chung sơn thăm hỏi, chư Tăng ở đó không có ai tên là Hoàng Đầu, chư Tăng đều nói quanh co bảo rằng:

– Từ phía Tây đi sang phía Nam đến phòng thứ hai tức là phòng của phương trượng đạo nhân.

Ngài Bảo Chí tuy nói là trú tại chùa đó, nhưng thường ở trong tụ lạc dưới thành đô. Trăm ngày chưa chắc có một lần đến đó, phòng thường để trống không. Trong lúc hỏi đáp qua lại, chẳng ai biết ngài Chí Công. Tại nhà trú của chùa có người say mèm ăn xin, mọi người ở đó cho là đã chiều muộn nên không cho thức ăn. Giây lâu, người đó vung văng mắng chưởi. Tăng chúng trong chùa thử sai một vị Sa Di chạy quanh nhà trú kêu lớn hai chữ:

– Hoàng Đầu.

Bỗng nhiên ngài bảo:

– A! Ai gọi tên ta vậy?

Và liền theo vị Sa-di đi đến trong Tăng, ngài nói với vị Tăng ấy rằng:

– Ngươi đã muốn đem chó săn bắt ta, tại sao không lại?

Vị Tăng ấy biết ngài là chẳng phải người thường, bèn đầu thành đảnh lễ sám hối, trao thư cho ngài. Ngài xem thư xong, bảo:

– Phương trượng đạo nhân muốn gọi ta. Không lâu nữa, ta tự trở về.

Ngài bèn bấm tay, bảo:

– Ngày… tháng… năm là ta đi, tức không còn gặp lại.

Chư Tăng nói cùng chúng ghi rõ ngày tháng đó.

Đến mùa Đông năm Thiên Giám thứ 13 (1), tại hậu đường ở Đài thành, ngài nói với mọi người:

– Bồ-tát sắp đi.

Sau đó chưa được mười ngày, tự nhiên không bệnh mà ngài viên tịch. Thi hài mềm mại thoảng hương thơm, hình mạo xinh đẹp. Lúc sắp tịch, ngài đốt một ngọn đuốc đưa cho Ngô Khánh là người nhà ở hậu các. Ngô Khánh bèn tâu trình cùng nhà vua. Vua Lương Vũ Đế than rằng:

– Đại sư chẳng còn lưu lại! Trao đuốc đem việc hậu sự mà giao phó ta ư?

Nhân đó, Vũ Đế gia tâm thiết lễ, an táng ở đồi Độc long ở Chung sơn. Và ở bên cạnh phần mộ, dựng chùa Khai thiện, ban sắc Lục thùy, chế khắc bài minh tại trong phần mộ. Nhà vua đều khắc chạm văn bia ở cổng chùa, ban truyền di tượng của ngài, ở mọi nơi vẫn còn vậy.

57. Thần tăng Hương Xà-lê

Thần tăng Hương Xà-lê, không biết ngài từ đâu lại, dừng ở chùa núi tại Ích châu Thanh thành. Người thời bấy giờ, cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba đều rủ nhau lên núi thưởng ngọn vui chơi, phần nhiều là mang theo rượu thịt để mua vui. Ngài thường khuyên răn mà họ không bỏ. Sau, một năm nọ, cũng vào dịp ấy, mọi người nhóm tụ như trước, ngài bảo mọi người vượt qua hầm đi vào phương trượng để cùng hưởng vui. Bỗng nhiên, ngài bảo:

– Quý vị Đàn-việt thường tự ăn uống với nhau, chưa từng cùng chung vui với Hương tôi, ngay nay phải cùng chung vui một bữa.

Mọi người đua nhau kính dâng rượu thịt, nhận bao nhiêu, ngài ăn uống hết bấy nhiêu như trút vào lỗ hỏng lớn. Đến chiều, ngài bảo:

– Ta no say quá, nên dìu ta đến hầm.

Bỗng chốc mồ hôi đổ vãi giữa đất, kịp khi tới hầm, ngài há miệng lớn ẩu nhả, thịt chim sẻ từ miệng tuông ra tức liền bay hót, thịt dê từ miệng tuông ra liền chạy nhanh. Rượu thịt lẫn lộn ào ra sắp muốn đầy hầm, cá hộp ngỗng vịt bơi lội đụng nhau. Mọi người đều kinh sợ thán phục, thệ nguyện dứt bỏ nghiệp giết hại. Từ đó về sau, việc mua vui bằng rượu thịt tại trên núi dứt hẳn. Đó là phong đức của ngài Hương Xà-lê.

Sau, nhân ngài Chí Công gởi thư đến, ngài bèn viên tịch tại chùa. Các đệ tử tạo dựng phần mộ, lúc sắp an táng lấy làm lạ không biết tại sao kim quan nhẹ bổng, bèn mở nắp quan xem thì chỉ thấy ghế và trượng của ngài mà thôi!

58. Thần tăng Đạo Lâm

Ngài Thích Đạo Lâm vốn người ở Sơn âm, Cối kê. Xuất gia từ thuở thiếu thời, ngài rất có giới hạnh, khéo giảng nói các kinh Niết-bàn; Pháp Hoa, thường trì tụng kinh Tịnh Danh. Trương Tự ở nước Ngô luôn kính lễ phụng sự ngài.

Sau, ngài trú tại chùa Lâm tuyền huyện Phú dương, trước kia ở đó thường có quỷ quái, từ lúc ngài đến ở thì tiêu mất. Đệ tử của ngài là Tuệ Thiều làm nhà bị sập đè vùi lấp đầu tới ngực, ngài về cầu nguyện, đến tối, Tuệ Thiều thấy hai đạo nhân người nước Hồ đến kéo đầu ra, sáng sớm thức dậy liền được bình phục. Lúc đó, ngài thiết trai cúng dường Thánh tăng, rải một tấm lụa mới trên sàn, sau khi trai hợi hoàn tất có dấu chân người dài hơn ba thước. Mọi người đều kính phục sự chứng cảm ấy. Và dân chúng ở Phú dương mới bắt đầu lập tòa Thánh tăng để cúng dường trai phạn.

Đến đầu thời Nam Lương (khoảng năm 02), ngài ra trú tại chùa Tề hy. Năm Thiên Giám thứ 18 (19), ngài viên tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi.

59. Thần tăng Tung Đầu-đà

Pháp sư Tung Đầu-đà ở cách Vụ Châu, Song lâm bốn mươi dặm nơi một ngọn núi cao tạo lập chùa Hương sơn. Đến lúc tạo lập chùa Linh xong, kẻ Tăng người tục dẫn cây ma cây tạc lên trồng khắp chùa. Cây tạc bỗng nhiên gãy ngang và đều ngã nhào, ngài mới nói:

– Có ma quái gì mà khiến như vậy?

Nhân đó, lấy bình bát dựng đầy nước, khuấy quanh cả trong ngoài rồi chú nguyện mà tác lễ, ngài bưng bình bát đi nhiễu quanh chùa khắp một lượt, vậy mà các cây chẳng nhờ công sức người, tự nhiên dựng dậy.

Sau, ngài lại đến Lai sơn tạo lập chùa, ngài thường nói:

– Lai sơn có vua mà chẳng lâu. Hương sơn lâu mà chẳng có vua.

Sau, quả thật đúng như lời ngài nói. Không biết cuộc đời của ngài về sau như thế nào!

60. Thần tăng A Chuyên Sư

Thần tăng A Chuyên Sư, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì. Ngài vân du ở Định châu. Bấy giờ ở trong Châu lý nghe người có hội xả trai cúng bao quát cả gia thú và tang lễ. Hoặc ít năm thả chim săn chó săn lùng đuổi mọi chỗ an tập chưa từng chẳng tại. Lúc ấy, đấu tranh huyên thuyên cũng yểm trợ thành bè đảng, như vậy nhiều năm. Sau, vào đêm rằm tháng giêng năm nọ, gặp phải mọi người lớn nhỏ ngồi cùng chung chiếu tụ miệng mắng chưởi, người chủ muốn đánh giết họ, thì bọn chợ đường cứu giải dẫn đi. Sáng sớm, anh em nhà đó tìm bắt, thấy ngài ngồi trên đường bị hư phá vui cười. Ngài bảo với họ:

– Các ngươi lúc này làm sao có thể yểm tàn ta được? Ta bỏ các ngươi mà đi đây.

Kẻ đuổi bắt lại rung gậy muốn đánh, người phía trước lại ngăn ước lấy ngài. Ngài bảo:

– Định yểm tàn ta thì ta đi!

Ngài dùng gậy đánh vào tường và quát lớn. Đoạn tường ngài ngồi, khoảng một đổ, tự nhiên bay bổng khoảng vài mươi nhận. Ngài đưa tay từ tạ cố hương, bảo:

– Hãy sống trong tốt đẹp an lành.

Mọi người trông thấy không ai chẳng lễ bái ăn năn lỗi cũ, phút chốc, sáng ngời mây tan mà diệt mất. Qua một năm sau, tại Trường an, ngài trở lại hình thái như xưa. Từ đó về sau, không biết cuộc đời ngài như thế nào.

61. Thần tăng Đạt-ma

Ngài Bồ-đề Đạt-ma, người xứ Nam Thiên Trúc, thuộc chủng tộc Bà-la-môn. Thần tuệ thông suốt, nghe qua đều liền hiểu ngộ. Chí giữ Đại thừa minh Tâm hư tịch, thông triệt vi số, định học cao thâm.

Đầu niên hiệu Phổ Thông (20), đời vua Vũ Đế; Nam lương, ngài đến Quảng châu. Thứ sử dâng biểu tấu trình lên, vua Vũ Đế sai sứ mang chiếu nghênh đón ngài đến Kim lăng. Đích thân vua Vũ Đế hỏi ngài:

– Từ ngày lên ngôi đến nay, trẫm đã tạo lập chùa viện trải qua mấy lược tiếp Tăng độ chúng số không xiết kể. Vậy có công đức gì?

Ngài đáp:

– Đều không công đức gì cả.

Vũ Đế hỏi:

– Tại sao đều là không công đức gì cả?

Ngài đáp:

– Đó chỉ là tiểu quả của trời, người, thuộc nhân hữu lậu, tuy là có nhưng chẳng phải thật.

Vũ Đế hỏi:

– Vậy thế nào là công đức chân thật?

Ngài đáp:

– Tịnh trí Diệu viên, thể tự không tịch. Công đức như vậy, không thể tìm cầu tại thế gian.

Vũ Đế hỏi:

– Thế nào là Thánh đế Đệ nhất nghĩa?

Ngài đáp:

– Khoách nhiên vô thánh.

Vũ Đế hỏi:

– Vậy, người đối diện với trẫm là ai?

Ngài đáp:

– Không biết.

Vua Vũ Đế không tỏ rõ huyền chỉ. Ngài biết căn cơ chưa khế hội. Ngày 19 (?) năm ấy ngài rời bỏ đất Nam lương, bẻ một cành lau làm bè vượt qua sông, đến ngày 23, thẳng hướng Bắc, ngài đến đất Ngụy, tìm tới Lạc ấp, ban đầu, ngài dừng ở tại chùa Thiếu lâm; Trung sơn. Trọn ngày xoay mặt vào tường ngồi suốt chín năm rồi thị tịch tại đó, an táng tại núi Hùng nhĩ. Ngụy Tống Vân vâng phụng sứ đi Tây Vực trở về, gặp ngài tại Thông lãnh, thấy tay ngài xách một chiếc giày còn một chiếc đã mất. Tống Vân hỏi ngài đi đâu. Ngài bảo:

– Đi về Tây Trúc.

Ngài lại bảoTống Vân rằng:

– Chúa nhà ngươi đã băng hà!

Tống Vân nghe thế, hoảng hốt vội từ biệt ngài trở về phương Đông xa để kịp phục mạng thì Hiếu Minh Đế (16-28), đời Bắc Ngụy, quả thật đã băng hà. Đợi đến khi Hiếu Trang Đế tức vị (28), Tống Vân mới tấu trình cụ thể sự việc gặp ngài. Trang Đế bảo quật đao phần mộ, chỉ còn cổ quan tài rỗng không và một chiếc giày hiện còn ở đó.

62. Thần tăng Thông Công

Đạo nhân Thông Công, không biết ngài là người dòng tộc gì, cư xử bất thường, nói năng cuồng dối nhưng lại có ứng nghiệm, ngài thường uống rượu ăn thịt, lui tới trong dân gian.

Hầu Cảnh rất kính tin ngài. Ngày chưa vùi dập Dương châu, vất bỏ vô số đầu cá chết chất đầy ngoài cửa Tây minh, lại nhổ cỏ xanh gai gốc trồng trong chợ, khi Hầu Cảnh sang sông, trước tiên giết chết một Thánh Đông Phủ nghiêng ngả giữa đường, đem đầu số người chết đó để ngoài cửa Tây minh làm thành Kinh quán. Chợ đông tan rã trở thành hoang vu. Ngài Thông Công nói chuyện được mất đối với Hầu Cảnh không tiện, nên Hầu Cảnh sinh ác ý ghét tức ngài. Lại sợ ngài là người phi thường nên Hầu Cảnh không dám mưu hại, lén sai tiểu tướng Vu Tử Duyệt dẫn bốn võ sĩ đến hầu cận ngài. Hầu Cảnh nói cùng Tử Duyệt:

– Nếu ngài biết đến giết thì chớ nên hại. Còn như không biết thì kín bắt lấy ngài.

Tử Duyệt dẫn bốn người đến, bảo đứng ngoài cửa, riêng một mình Tử Duyệt đi vào thấy ngài đang cởi áo hơ lửa. Ngài hỏi ngược lại Tử Duyệt:

– Ngươi đến giết ta. Ta là người gì? Ngươi dám thì nên liền giết.Tử Duyệt lễ bái, nói:

– Không dám!

Khi đó, liền vội trở về báo cùng Hầu Cảnh. Hầu Cảnh lễ bái cảm tạ, cuối cùng không dám giết hại ngài. Sau, nhân Hầu Cảnh thỉnh mời ngài, ngài đem thịt đè ướp muối đến dâng Hầu Cảnh, và hỏi: “Có ngon chăng?

Hầu Cảnh nói:

– Quá mặn!

Ngài bảo:

– Không mặn thì thối.

Đến khi Hầu Cảnh chết khoảng vài ngày, người ta dùng năm thạch muối đổ vào trong bụng, đưa thi hài đến chợ Kiến khương, mọi người tranh nhau mổ nem canh ăn đều hết. Về sau, không biết ngài Thông Công đi về hướng nào!

63. Thần tăng Tăng Lâm

Ngài Tăng Lâm vốn người đất Ngô, đức sâu dày hay cảm hóa đến mọi vật.

Trong niên hiệu Đại Đồng (3-6), đời Nam Lương, ngài đến đất Thục. Phía Tây Bắc thành Chương châu cách một trăm bốn mươi dặm có núi Đậu đồ, trên núi có miếu thờ thần, dân chúng ở đó rất sùng kính thường luôn cúng tế, ngài đến an trú tại đó, thiền định nhiều ngày, bỗng nhiên có một con trăn lớn đến quấn quanh trước sàng tòa, ngẩn đầu như vái chào. Ngài vì nó mà truyền trao pháp Tam quy, lãnh thọ xong, trăn bèn bỏ đi. Từ đó an định không xảy ra bất cứ điều gì. Ở phía Bắc núi đó, trên dòng sông Phổ vốn không có vượn, từ khi ngài đến dừng ở trở lại, bèn có hai con nương vượn ngài mà ở. Có người mới thấy cho rằng nó lội sông mà lại. Về sau, khi ngài ra khỏi cửa núi vượn lại bơi lội qua, như vậy chẳng phải một lần, trải qua năm tháng lâu dài, chúng ấp ủ sản sinh đến vài mươi con, có khi vượn đưa ngài đến cửa Long môn đứng trông đợi ngài về. Sau, ngài lại dừng ở lại trong chùa Cổ xích thủy nham, phòng nhà đều phá hết, chỉ còn lại rừng tùng, ngài bày sàng tòa, có con hổ đến ngồi trước mặt, đưa mắt trông nhìn ngài, ngài mới vì nó nói pháp, giây lâu, hổ đứng dậy bỏ đi. Từ đó về sau, một mình ngài lui tới trong dáng vẻ oai hùng không tránh né ác thú. Ngài thường dùng đức nhân tế độ, nên cảm hóa rất nhiều, cuối cùng, ngài viên tịch ở quận Chương.

64. Thần tăng Tuệ Ước

Thích Tuệ Ước tự là Đức Tố, ngài vốn dòng họ Lâu, người xứ Đông dương ô thương. Đời ông nội ngài làm quan Đông Nam sĩ tộc. Có người bói đoán phần mộ của ông mà bảo rằng:

–Đời sau sẽ có người tu hành khổ hạnh đắc đạo, làm thầy của Đế vương.

Thân mẫu ngài dòng họ Lưu, mộng thấy một người to lớn nắm tượng vàng đưa bảo nuốt lấy, lại thấy ánh sáng sắc tía vây quanh thân, nhân đó mà có thai ngài. Và bà ta cảm thấy tinh thần sảng khoái, nghĩ lý tỏ ngộ, đến ngày hạ sinh ngài, ánh sáng mùi thơm xông khắp cùng, thân ngài trắng như tuyết, người đời nhân đó gọi tên ngài là Linh Sản. Ở tuổi nhi đồng, ngài thường lấy cát tạo làm tháp Phật, chất đá làm tòa cao. Năm lên bảy tuổi, ngài cầu xin vào Đạo. Ngài liền tụng đọc các sách Hiếu Kinh, Luận Ngữ, cho đến sử truyện, xem qua văn ngài đều hiểu ý.

Ở phía Nam nhà ngài, có một vườn cây trái, trẻ nhỏ chung quanh hay đua nhau hái phá, ngài cho đó là tai họa, bèn bỏ tất cả những gì có được, ngài trở về nhà với hai bàn tay không. Dân chúng trong xóm làng lấy việc nuôi tằm làm sự sống, ngài thường luôn bùi ngùi buồn thương. Từ đó, ngài không chụi ươm tơ. Người chú út của ngài ưa vui thích săn bắn, ngài khuyên hóa mà chẳng sửa đổi. Ngài thường than rằng:

– Loài chim bay thú chạy, cách người rất xa. Song tánh thức ham sống sợ chết đâu có khác gì!

Ngài liền đoạn tuyệt các thứ thịt máu tanh hôi, người chú ngài trốn tìm đến ở làng khác, phóng túng vui thú chặn giết, ông ta mộng thấy sứ giả mặc áo đỏ, tay nắm mâu kích đến bảo rằng:

– Ông suốt ngày sống với sự sát sinh, Bồ-tát chỉ bảo mà không thôi bỏ, bắt lại đến chết.

Ông ta kinh sợ đến nỗi toát mồ hôi, đến sáng sớm bèn phá bỏ tất cả dụng cụ săn bắn, ăn năng hối cải lỗi trước nhưng sai lầm. Ngài lại đến chỗ chú ngài thường săn bắn, thấy các loài mể lộc đến vài mươi con nhảy nhót nương theo thuyền, như có sự quý chuộng cảm tạ ngài. Tại chỗ ở hẹp hôi nên chẳng thường thấy chùa, bỗng nhiên gặp được một vị Tăng, ngài liền thăm hỏi đến sự truyền giáo. Vị đó bèn đưa tay chỉ về hướng Đông, bảo:

– Trong đất Diệm, Phật sự rất thạnh hành.

Sau đó, không thấy vị Tăng ấy nữa, ngài mới ngộ rằng ấy là Thần nhân.

Năm mười hai tuổi, ngài bắt đầu đến đất Diệm tham lễ khắp mọi tháp miếu, tứ ý đi cùng sông núi xa xăm, với tâm trong sáng ngài muốn tham cứu nhiều kinh điển. Năm Thái Thỉ thứ (68), đời tiền Tống, ngài đến chùa Đông sơn ở Thượng ngu, giả từ song thân, xuống tóc xuất gia. Bấy giờ ngài đã mười bảy tuổi, ngài theo hầu Sa-môn Tuệ Tỉnh ở chùa Nam lâm, ngài theo ngài Tuệ Tĩnh đến ở chùa Phạm cư tại đất Diệm. Ngài chuyên cần kính dưỡng thầy suốt mười hai năm. Đến lúc ngài Tuệ Tỉnh viên tịch, ngài lại tận tâm lễ phục tang lễ. Sau khi mãn tang, ngài dứt bỏ dùng gạo cơm, gá mình trên đỉnh non cao, chỉ dùng củ thuật củ tùng để trừ tật bệnh, nhiều năm liền đều có hiệu quả.

Tề thái tể Văn Giản Công Trử Uyên thường thỉnh ngài giảng kinh Tịnh Danh, Thắng-man. Trử Uyên mắc bệnh ngủ ngày, thấy một vị Phạn Tăng bảo:

– Bồ-tát sẽ đến, bỗng nhiên có đạo nhân đến.

Trong chốc lát, ngài đến, liền khiến bệnh liền tiêu dứt và lập tức xin thọ ngũ giới.

Tề cấp sự Trung Lâu Ấu Du, thuở thiếu thời có học thuật, cùng dòng tộc với ngài, mỗi lúc thấy ngài liền đứng dậy kính lễ, ngài bảo: – Tôi đây là lớp dưới của ông, cớ sao lại cung kính?

Ấu Du nói:

– Bồ-tát xuất thế là bậc thầy của thiên hạ, đâu phải chỉ một mình lão phu kính lễ mà thôi.

Mọi người thời bấy giờ đều không hiểu được ý chỉ đó, chỉ một mình Vương Văn Hiến là hiểu nghĩa thú. Sau, trở về kinh đô ngài trú tại thảo đường. Trong niên hiệu Long Xuân (9), đời Nam Tề, thiếu phó Thẩm Ước ra trấn nhậm bên ngoài, dẫn ngài cùng đến ở quận, ngài chỉ lấy sự tĩnh mặc, vui với thiền tụng, hương thơm khác lạ ngát thất, thú dữ dần đến bậc thềm, ngài thường vào núi Kim hoa hái kết, hoặc dừng nghỉ dưới khe suối Xích tùng. Có Đạo sĩ Đinh Đức Tỉnh ở quán mộ qua đời. Mọi người truyền rao rằng:

– Chỗ Sơn tinh chết mới cần đại trị dùng rượu cúng tế chỗ ấy, yêu tinh còn dòm ngó khắp cùng.

Trường Sơn Linh, Từ Bá Siêu lập bàn thỉnh ngài dời đến ở, chưa đầy mười ngày mà thần mỵ tiêu dứt. Sau, giữa ban ngày, ngài nằm thấy hai người nữ mặc áo xanh từ trong khe suối ra, đảnh lễ sám hối rằng:

– Do túc chướng sâu nặng nên đọa làm thủy tinh ở đó, ngày đêm thường sinh phiền não.

Ngài liền trao truyền cho tam giới, từ đó tai ương yêu quái dứt tuyệt.

Năm Thiên Giám thứ 18 (19), đời Nam Lương; nhằm ngày mồng tám tháng tư năm Kỷ Hợi, vua Vũ Đế phát tâm hoằng thệ thọ giới Bồtát, ngài mới đến điện Đẳng Giác. Từ Hoàng Trử trở xuống cho đến kẻ Tăng người tục sĩ thứ, đều mong được độ thoát. Hàng đệ tử có ghi chép lại gồm bốn mươi tám ngàn người. Đương lúc thọ giới có một con Càn thứu bước qua từng bậc thềm mà lên, tướng trạng như được hưởng thọ thức ăn ngon. Đến lúc thuyết giới xong, sau đó mới bay đi. Lại, đang lúc thuyết giới, có hai con chim Khổng tước, đuổi nó chẳng đi, ngài bảo cho nó đến nghe, dần dần nó tìm đến nơi đàn cuối đầu nghe pháp. Ngài bảo:

– Hai con chim này hẳn muốn trút bỏ báo thân để thọ quả báo khác.

Ngài khuyên nó nên chí thành, lại vì nó mà nói pháp. Tự nhiên, hai con chim cùng xả bỏ báo thân.

Sau, ngài an trú tại một tĩnh thất, có một bà già mang đến vài quyển sách đặt trên án kinh, không nói lời nào mà đi, rồi mang đến một cây khác lạ trồng tại giữa sân và nói:

– Đây là cây Thanh đình.

Ngài bảo:

– Sách này đẹp thật, không đợi phải xem nó, còn như nó xấu cũng chẳng nhọc trông nhìn.

Sau đó bảy ngày, lại thấy một ông già đến xin sách mà đi. Cây ấy lá xanh hoa hồng phù sơ hiện còn. Ngài lại chiêu cảm hoài chim khác thân đỏ môi dài hình như Phỉ Thúy, cùng theo vào ra đậu nghỉ ở cây ấy.

Năm Đại Thông thứ (?), ngài mộng thấy ngôi nhà cũ vách tường trắng cửa đỏ rực tráng lệ, ngài bèn phát nguyện lập chùa, ban chiếu đề hiệu là Bổn Sinh, lại sắc cải đổi làng đang ở là Trúc Sơn thành làng Trí giả. Tháng tám năm Đại Đồng thứ nhất (3), đời Nam Lương, ngài sai người chặt cành cây ngoài cửa, bảo rằng:

– Kiệu giá sắp đến, chớ nên để ngăn cản đường.

Mọi người chưa suy tính được. Đến ngày mồng sáu tháng chín, ngài ngã bệnh, đầu xoay về hướng Bắc, nghiêng phía phải mà nằm, thần thức ngài vẫn an nhiên không biểu hiện thống khổ, ngài bảo các đệ tử:

– Ta mộng thấy bốn bộ đại chúng cầm nắm tràng phan hoa lọng khắp đầy giữa không trung đến nghênh đón ta lướt mây mà đi. Phước bảo sẽ xong.

Đến ngày 16, sai người nhà là Từ Nghiễm thăm bệnh. Đáp rằng:

– Đêm nay sẽ đi.

Đến canh năm hai xướng, hương lạ thơm ngát thất, chung quanh đều nghiêm túc, ngài mới nói rằng:

– Phàm có sinh ắt có tử, ấy là số thường tự nhiên, phải siêng năng tu tập niệm tuệ, chớ khởi loạn tưởng.

Nói xong, ngài liền chắp tay thệ tịch, hưởng thọ tám mươi bốn tuổi; sáu mươi ba hạ lạp.

Lúc ngài mới hiện bệnh, thấy một ông già nắm tích trượng lại, và đổi ngày thị tịch, chư Tăng đều bói là Đông Nham của chùa, vua Vũ Đế mới cải táng ở Độc long, ước đoán ông già thấy trước kia thì là ngài Chí Công nên đến cùng nghênh đón. Lại đêm ngài sắp tịch thì có con bò xanh, bỗng nhiên kêu rống rơi lệ thành dòng. Đến ngày an táng, sai sử dẫn đồ Bộ ngũ. Cả chùa đến núi rống khóc rơi lệ không thôi. Lại nữa, khi mới khởi công xây dựng tháp, có hai con hạc trắng liệng quanh phần mộ kêu thương thảm thiết. Sau ba ngày an táng, tự nhiên đi mất.

65. Thần tăng Đàn Đặc Sư

Ngài Đàn Đặc còn có một tên gọi là Tuệ Phong, là Tỳ-kheo, không biết ngài là người xứ nào, ngài uống rượu ăn thịt, nói năng bất thường. Ngài luận nói sự việc sắp đến đều trái nghịch, nhưng sau nghiệm lại đúng với sự việc.

Ngài đến Lương châu, Vũ Văn Trọng Hòa làm thứ sử thỉnh ngài đến Châu nội, xem qua cứu xá một lượt, ngài nói:

– Ý nghĩ sao mà tích chứa ngựa và vật của quan khác?

Trọng Hòa không hiểu ý chỉ đó, tức giận không để ngài ở Lương châu. Sau đó không bao lâu, Trọng Hòa chống cự không chịu thay, Triều Đình bảo Độc Cô Tín bắt lấy, Trọng Hòa thân chết, tất cả của cải đều mất xung vào của quan. Chu Văn đưa thư mời ngài, ngài đến Kỳ

Châu, gặp Tề Thần Vũ đến cướp Ngọc Bích, ngài bảo – Chó đâu có thể đến Long môn.

Thần Vũ quả thật không đến được Long môn đành phải trở lui.

Trước khi Hầu Cảnh chưa tạo phản lại Đông Ngụy, nhặt lượm được một cây gậy, trên đầu gậy khắc chạm hình con Nhĩ hầu, khiến nó mặt thường xoay về hướng Tây, ngày đêm mân mê ngấm nghía nó. Lại tìm cầu được một khúc cung khiên kéo nó. Bỗng chốc mà Hầu Cảnh khải giáng, tầm lại bối phản, mọi người đều lấy đó làm điều lạ.

Đến mùa Xuân năm Đại Thống thứ 17 (2), đời Tây Ngụy, đầu tiên bỗng ngài đội mũ vải, Chu Văn và mọi người kinh sợ hỏi ngài, ngài bảo:

– Ông cũng phải đội và vua cũng phải đội.

Đến tháng ba thì vua Văn Đế, đời Tây Ngụy băng hà. Sau đó, ngài lại dùng mảnh lụa trắng quấn mũ mà đội, mọi người lại hỏi ngài, ngài lại bảo:

– Các ông cũng phải đội và vua cũng phải đội.

Sau đó không lâu thì phu nhân của Quan thừa tướng qua đời. Thêm một lần nữa, ngài lại đội mũ lụa trắng, mọi người lại hỏi. Ngài cũng bảo:

– Các ngươi cũng phải đội, vua cũng phải đội.

Bỗng chốc người con thứ hai của thừa tướng là Vũ Ấp Công qua đời. Những sự kiện như thế ngài biết rất nhiều.

Bỗng nhiên, ngài thị tịch, Chu Văn ban mạng lo lễ an táng.

66. Thần tăng Thực Tướng

Thích Thực Tướng, ngài vốn dòng họ Hác, người xứ Tử đồng phù. Ngài đã từng nhậm chức Ba tây quận Sứ, quan thái thú Trịnh Trinh bảo ngài mang vật hiến cống, đến Dương đô, ngài thấy vua Vũ Đế, thời Nam Lương và các Vương Công sùng kính Phật giáo, nên ngài bèn phát nguyện xuất gia. Trở về đất Thục, ngài quyết thực hiện chí nguyện, quyến thuộc và vợ con đều đồng chí nguyện của ngài cùng một lúc xuống tóc xuất gia. Từ sau khi xuất gia, ngài chuyên tập khổ hạnh, ngày ăn một bữa thường ngồi ít nằm, đặt tâm nói Phật lý, lấy mạng sống làm kỳ hạn.

Bấy giờ ở quận Nam vẽ, có Đạo nhân Pháp Ái khoe khoang đạo thuật, ngài đến đó xem sao. Đến nửa đêm, Pháp Ái dùng chú lực hiện hình một thần lớn, thân mặc áo đội mũ, dung mạo khôi vĩ, đến nâng giường dây cách đất bốn, năm thước. Ngài trì tụng giới bổn, thần liền vội bỏ chạy, lát sau trở lại nâng giường, cẩn trọng động đến một gốc, ngài lại tụng giới và thần cũng bỏ đi như trước. Sau đó, thần lại đến đứng trước mặt ngài, ngài giữ ý chánh niệm thanh bạch không mảy may lay động, bỗng chốc thần lại bỏ đi. Ở nóc nhà, thần hiện đầu mặt chạm đòn dong, tiếng va chạm rất lớn, ngài cũng không tỏ vẻ lo sợ. Thần thấy không thể làm lay động, bèn lại lễ bái cầu xin sám hối. Đến sáng sớm, ngài nói với Pháp Ái rằng:

– Chỗ quý trọng của ông đó chỉ là tà thuật, chẳng phải là chánh pháp. Ông nên bỏ đi.

Nhân đó, mà ngài đi đường thường ghé nghỉ qua đêm ở đạo quán. Đạo sĩ Hữu Tố nghe thanh danh ngài, sợ ngài giáo hóa đồ chúng quyến thuộc của mình nên chẳng chịu mời đón ngài. Đêm đó, bầy hổ chạy rảo quanh quán viện cùng nhau gầm thét. Các đạo sĩ thâu đêm không an ổn, đến sáng sớm tìm đuổi theo ngài cầu xin thọ giới Bồ-tát. Ngài lại đã từng hành hóa nơi vùng làm nông, thấy người câu cá, ngài đến khuyên răn nên bỏ, người đó không nghe theo lời ngài, ngài liền thóa nhổ vào trong nước, bỗng nhiên có một con rắn lớn ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía rồi hướng đến người câu cá. Nhân đó người câu cá liền quy mạng tìm đến ngài cầu xin xuất gia.

Sau, cuối thời Nam Lương (…-7) binh lính nổi loạn, ngài vào núi Thanh thành, nhóm chúng tập nghiệp. Chưa rảnh rỗi kinh qua, ngài bèn thị tịch. Đầu tiên, ngài đặt chân đến chùa Bá lâm ở phía Tây thành Niên châu, chùa viện tạo lập thành tựu. Ở đầu giảng đường, ngài trồng một cây ngô đồng rất xanh tốt. Bỗng nhiên mùa Hạ, không nguyên cớ gì mà lá rơi rụng. Lại nữa, vào sáng sớm, vị Duy Na thỉnh kinh không kêu, mọi người lớn nhỏ đều nghi ngờ điềm lạ, song, chẳng biết được được nguyên nhân. Thượng tọa Tăng cho là có biến động lớn bèn chống tích trượng lánh đi, bỗng chốc có tin báo ngài đã thị tịch, mới biết rằng cây khô chuông câm là ứng hiện điềm trong sáng sớm ngài thị tịch. Đệ tử ngài mạng để lộ nhục thể ngài dưới cây Tùng.

67. Thần tăng Lục Pháp Hòa

Lục Pháp Hòa, không biết ngài là người ở xứ nào. Ngài ẩn cư tại Giang lăng, Bách lý châu, ngài ăn mặc cư xử một mực, mỗi một cử chỉ đồng như Sa-môn giới hạnh. Các bậc kỳ lão từ nhỏ thấy ngài dung mạo nghi sắc thường an định, mọi người đều kính phục. Hoặc có người cho rằng ngài xuất hiện từ Tung sơn đi khắp mọi nơi xa gần rồi vào kinh châu ở quận Vấn dương. Ngài ở tại núi Tử thạch huyện Cao yếu, vô cớ, tự nhiên ngài bỏ chỗ ở, bỗng chốc có loạn của rợ man giặc Văn Đạo Kỳ, người thời bấy giờ cho rằng ngài dự biết được điềm chưa xảy ra.

Đến lúc Hầu Cảnh mới cho biết đánh phá Nam lương, ngài nói với Nam quận Chu Nguyên Anh rằng:

– Đàn-việt cùng bần đạo đánh Hầu Cảnh.

Nguyên Anh nói:

– Hầu Cảnh vì nước nhà lập công hiệu. Ngài bảo đánh đi nghĩa là sao?

Ngài bảo:

– Chính vì như vậy.

Khi Hầu Cảnh vượt qua sông, ngài đã ở tại núi Thanh khê, Nguyên Anh đến hỏi ngài:

– Nay Hầu Cảnh vây quanh thành, việc ấy thế nào?

Ngài bảo:

– Phàm người hái trái cây phải đợi đến khi chín.

Nguyên Anh cố nằn nì hỏi, ngài bảo:

– Cũng có thể khắc phục cũng không thể khắc phục.

Hầu Cảnh sai tướng Nhậm Ước đánh dẹp Lương Tương Đông vương ở Giang lăng, ngài mới đến Tương đông xin đánh dẹp Nhậm Ước, chiêu tập tám trăm đệ tử người rợ man ở Giang tân, chỉ hai ngày liền phát khởi ở Tương đông. Ngài sai Hồ Tăng giúp thống lãnh hơn ngàn người đồng hành. Ngài leo lên thuyền hạm, cười lớn bảo:

– Vô lượng binh ngựa.

Tại Giang lăng có nhiều miếu Thần là chỗ người đời thường cầu đảo, quân của ngài ra vào không một chứng nghiệm gì, mọi người cho đó là thần, nên đều đi theo. Đến hồ Xích sa cùng đối đầu với Nhậm Ước. Ngài cởi thuyền nhẹ không mang mặc áo dày mũ trụ, ven theo dòng mà xuống, cách quân của Nhậm Ước độ chừng một dặm, ngài trở lại nói với tướng sĩ rằng:

–Hãy lại quan sát ngựa của kia ngủ say bất động, còn ngựa của quân ta rất dõng dước, nên liền công kích đến. Nếu đánh được nó, thề sáng mai sẽ chẳng tổn thương một người khách hay chủ mà đánh bại được quân giặc.

Nhưng có chỗ xấu, phải phóng lửa đốt thuyền mà gió ngược chẳng tiện, ngài liền nắm quạt lông trắng vẫy gió, gió liền xoay trở về hướng quân Nhậm Ước. Mọi người đều thấy binh lính nhà Lương chạy bộ trên sông. Khi đó, vở lỡ lớn đều nhào xuống nước, Nhậm Ước trốn chạy, không biết ở đâu. Ngài bảo:

– Ngày mai vào giờ ngọ, sẽ bắt được nó.

Đến kỳ hạn mà chưa thấy Nhậm Ước, mọi người hỏi ngài. Ngài bảo:

– Trước kia, ta ở tại châu này, trong thời gian nước khô cạn có xây dựng một ngôi chùa. Nói cùng với các Đàn-việt… Đây tuy là làm chùa nhưng kỳ thật là tiêu điểm của giặc. Nay sao không đến tiêu điểm đó mà tìm giặc?

Đúng như lời ngài nói, đến trong nước thấy Nhậm Ước ôm lấy chùa ngưỡng đầu lên để hở lỗ mũi, bèn bắt lấy Nhậm Ước. Nhậm Ước nói:

– Xin được chết trước mặt ngài.

Đưa đến nơi ngài, ngài bảo cùng Nhậm Ước:

– Đàn-việt có chung cùng thì hẳn sẽ không chết mất binh lính. Vả lại, Tương Đông vương có duyên, nhất định không phải lo lắng gì. Về sau, Tương Đông vương sẽ được Đàn-việt giúp sức.

Quả thật, Tương Đông vương tha cho Nhậm Ước mà dùng làm quận thú. Đến khi quân Ngụy vây quanh Giang lăng, Nhậm Ước viện binh giúp lực đánh chiến. Ngài đã bình trị được Nhậm Ước, lại tiến tới thấy Tương Đông vương làm thêm ở Ba lăng, ngài bảo:

– Bần đạo đã trừ bỏ một cánh tay của Hầu Cảnh, Hầu Cảnh sao còn có thể đánh phá. Đàn-việt nên mau bắt lấy.

Và xin trở lui. Ngài nói cùng Tương Đông vương rằng:

– Hầu Cảnh tự nhiên sẽ yên định vậy không có gì phải lo lắng.

Quân giặc Thục sắp kéo đến, ngài xin nên giữ ở Vu hạp để đợi nó. Và dốc hết sức lực binh lính để chuyển đá chấn sông, ba ngày nước nghẽn không chảy, cùng gông sắt, Võ Lăng Vương nhóm tụ quân Thục đến Hạp Khẩu, gặp thế bức bách tiến thoái đều không được. Vương Lâm cùng ngài kinh lược một trận đế tiêu diệt hết.

Quân lính lần lượt trở về tấu trình cùng Đế Vương:

– Có người nói Gia Cát Lượng; Khổng Minh đáng gọi là danh tướng, ta tự thấy như thế, ở bên cạnh thành này có vùi chôn một hộc nỏ tên thốc.

Nhân đó, cắm dấu, bảo người đào bới lên, quả thật đúng như lời nói.

Lại nữa, ngài từng đến phía Bắc thàng Tương dương, dưới một gốc cây lớn, ngài vẽ ô vuông hai thước giữa đất, bảo đệ tử đào lên có được con rùa lớn mét rưỡi. Ngài dùng gậy gõ vào rùa, bảo:

– Nhà ngươi muốn ra mà không thể được đã vài trăm năm. Nếu không gặp ta thì đâu thấy được mặt trời?

Ngài vì rùa mà trao truyền pháp Tam quy, rồi rùa mới bò vào cỏ.

Đầu tiên, tại núi Bát điệp, có nhiều người mắc bệnh hiểm ác, ngài vì họ mà hái thuốc điều trị, uống không quá ba lần bệnh đều lành hẳn. Họ liền xin làm đệ tử. Trong núi có nhiều trùng độc thú dữ, ngài trao cho nó cấm giới, từ đó không còn cắn chích nọc độc. Tại ngọn núi cao bên cạnh hồ Bạc giang, ngài treo biểu rằng:

– Đây là chỗ phóng sinh.

Các ngư phủ đều không được đánh bắt cá, có người vừa mới đánh bắt được ít con, liền có sấm sét gió lớn nổi lên, người ngồi trên thuyền lo sợ nên liền thả và gió mưa yên định liền. Chiều tối tuy có quân lính chiếm đóng nhưng còn cấm quân lính không được bắt cá, có người lén trộm làm trái, nửa đêm thú dữ đua nhau kéo đến muốn cắn xé kẻ đó hoặc đánh mất neo thuyền.

Có vị đệ tử nhỏ vui đùa, chặt đầu rắn, đi đến nơi ngài, ngài bảo:

– Sao ngươi dám giết hại?

Nhân đó mà ngài chỉ cho thấy, vị đệ tử nhìn thấy đầu rắn cắn mắc nơi trên quần chưa rơi. Ngài bảo đệ tử sám hối, phải vì rắn mà tu tạo công đức. Lại có người dùng dao chặt thử đầu trâu, chỉ chặt một dát thì đầu trâu dứt lìa. Người đó đến chỗ ngài, ngài bảo:

– Ngươi chặt đứt đầu trâu, hẳn nó lấy mạng ngươi rất mau, nếu không tu tạo công đức thì nội trong một tháng quả báo sẽ đến.

Người đó không tin, quả thật ít ngày sau người đó chết.

Ngài lại vì người mà đặt để hướng nhà bói xem phần mộ để tránh họa cầu phước. Ngài từng bảo người ấy rằng:

– Chớ nên buộc ngựa nơi trụ đá.

Người ấy đi đến Hương khúc, bên cạnh cửa có trụ, nên bèn buộc ngựa vào đó. Đi vào trong cửa rồi bỗng nhớ lời ngài răn bảo, vội chạy ra để mở thì ngựa đã ngã lăn chết vậy.

Vua Nguyên Đế (2-), đời Nam Lương tôn xưng ngài là Đô Đốc, Dĩnh Châu thứ sử Phong Giang Thừa huyện Công. Ngài chẳng xưng thần (Bề tôi), các bản văn khải của ngài trên ấn đỏ đề danh ngài tự xưng là cư sĩ. Sau xưng là Tư đồ. Vua Nguyên Đế nói với Bậc Xạ Vương Bao rằng:

– Trẫm chưa từng có ý dùng Lạc Pháp Hòa làm Tam công. Người tự xưng, vậy là sao?

Vương Bao nói:

– Ngài Pháp Hòa tự dùng đạo thuật tự ban dung là biết trước.

Vua Nguyên Đế cho rằng công nghiệp của ngài có phần quan trọng, bèn thêm tước Tư đồ; đô đốc thứ sử như cũ. Các bộ khúc đến vài ngàn người đều tự xưng với ngài là đệ tử. Ngài chỉ dùng đạo thuật mà giáo hóa, không dùng pháp luật tù ngục mà hình xử đối với người. Lại bày chỗ hàng buôn bán không lập người trông coi giúp chợ, cách thức thâu giúp không người lãnh nhận. Chỉ đặt một cái củi không khóa lại tại giữa đường, mặt trên mở một lỗ nhỏ để nhận tiền, khách thương buôn bán tùy vật ít nhiều tính theo cổ hạn mà bỏ phiếu vào trong cũi. Người có chức trách cai quản nhận lấy thì tối đến mới mở lấy, điều chỉnh lỗ mục thâu nạp vào kho.

Bình thường, ngài nói như không mở lời, đến lúc luận bàn thì hùng biện không ai bằng, nhưng vẫn còn sót lại âm ba dân tộc man. Ngài giỏi bày thế kích trận, cụ thể là tại Giang hạ, nhóm tụ binh hạm muốn đánh vào Tương dương mà lại vào võ quan, vua Nguyên Đế, Nam Lương sai sứ đến đình chỉ, ngài bảo:

– Bần đạo là người cầu làm Phật, còn không mong cầu chỗ ngồi của Đế Thích Phạm vương, há Khuy Truất ngôi vị của chủ? Chỉ bởi tại thời Đức Phật không vương, bần đạo với chúa thượng có nhân duyên hương hỏa, nay thấy chúa thượng cần phải có sự báo đáp nên cứu viện như thế. Vậy mà, nay lại bị nghi ngờ, ấy là nghiệp định không thể mở giải!

Khi đó, ngài bày cúng các vật thực đủ cả bánh nướng. Đến lúc quân Ngụy dấy binh, ngài từ Dĩnh châu vào Hán khẩu, sắp đến Giang lăng, vua Nguyên Đế sai người đi ngược lại bảo:

– Ở đây tự đủ khả năng phá giặc, ngài nên trấn tại Dĩnh châu chẳng cần nên lo động.

Ngài bèn trở về Dĩnh châu, trát bít cửa thàng mặc áo quần vải bố sắc trắng bịt khăn, dùng dây lớn thắt co lưng ngồi trên chiếu cỏ trọn ngày mới cởi ra. Đến lúc được tin vua Nguyên Đế bại trận chết mất, ngài lại lấy hung phục trước đó mặc vào, khóc than thọ điếu. Người xứ Nam Lương vào đất Ngụy quả thật thấy có bánh nướng.

Khi đó, ngài mới bắt đầu ở bách lý châu tạo lập chùa Thọ vương, đã giá điện Phật rồi, ngài lại khắc vào trụ và đòn dong rằng:

– Hơn bốn mươi năm sau, Phật pháp sẽ gặp phải sấm sét bão bùng, chùa này ở nơi u tịch, có thể được thoát nạn.

Kịp đến lúc nhà Ngụy bình trị được kinh châu, tất cả các cung thất đều bị thiêu hủy, quan tổng quản muốn chiếm lấy điện Phật chùa Thọ vương, hiềm nổi gỗ ngắn nên thôi. Sau, nhà Chu hoại diệt Phật pháp, vì chùa này cách xa trần cảnh nên thoát khỏi nạn.

Mùa xuân năm Thiên Bảo thứ 6 (), đời Bắc Tề, Thanh Hà Vương Nhạc tiến quân đến Lâm giang, ngài đưa cả Dĩnh châu vào nhà Bắc Tề, vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương, Bắc Tề) dùng ngài làm đại đô đốc, mười châu các quân phụng sự Thái úy công, phía Tây nam đại đô đốc năm châu các quân phụng sự Kinh châu thứ sử. An Tương quận công Tống Lỵ sai làm Tán kỵ thường theo hầu Nghi Đồng Tam Ty Tương Châu thứ sử Nghĩa Hưng huyện Công. Tướng của Nam Lương là Hầu Chấn đến bức chiếm Giang hạ, quân của Bắc Tề bỏ thành mà chạy. Ngài cùng với anh em Tống Lỵ vào chầu. Vua Văn Tuyên Đế nghe ngài có đạo thuật kỳ lạ, nên hư tâm tưởng muốn được thấy, bèn cùng đầy đủ Tam công lỗ bộ, đến phía Nam thành cách 12 dặm, nhằng trướng đợi đón ngài. Ngài từ thấy Nghiệp Đô bèn xuống ngựa đi bộ. Tân Thuật nói với ngài:

– Ngài từ xứ xa vạn dặm về thành, chúa thượng đang nóng lòng trông đợi, sao lại bày thuật như thế?

Ngài trên tay bưng lò hương đi bộ từ đường xe đến quán, sáng sớm mai dẫn thấy cấp thông… dầu lạc võng xa, đến cung quyết, thông danh ngài chẳng xưng quan tước, chẳng xưng thần, chỉ tự xưng là Kinh Sơn Cư sĩ. Vua Văn Tuyên Đế sắp đặt ngài và tùng chúng ở điện Chiêu dương. Ban tặng ngài trăm vạn tiền, vạn đoạn vật, đệ nhất giáp, khu đất ruộng trăm khoảng, hai trăm nô tỳ. Tư sinh kế vật xứng vậy. Các nô tỳ được ngài cho miễn hết, bảo rằng:

– Mỗi người nên tùy duyên phận mà đi.

Tiền bạc, ngài ban thí trong một ngày bèn hết sạch, dùng các nhà quan tặng tạo lập thành chùa thờ Phật. Ngài tự sống ở một phòng chẳng khác người thường. Trong vòng ba năm, ngài lại làm thái úy, người đời bấy giờ còn gọi ngài là cư sĩ.

Tự nhiên không bệnh mà ngài nói với đệ tử về ngày ngài tịch. Đến thời hạn, ngài đốt hương lễ bái Phật, rồi ngồi trên giường dây mà thị tịch, mọi người tắm rửa xong, đến lúc sắp tẩm liệm thi hài tự nhiên bé nhỏ lại chỉ ba thước. Vua Văn Tuyên Đế bảo mở nắp quan tài ra xem thì quan rỗng không mà thôi. Ngài viết chỗ ở trên tường vách mà bôi xóa, đến lúc bóc rơi có đoạn văn viết:

Mười năm Thiên tử đáng chuộng thay,
Trăm ngày Thiên tử nhanh như lửa
Quanh năm Thiên tử đổi thay tòa …

Lại viết: “Một người mẹ sinh ra ba vị vua, trong đó hai vua chỉ được năm năm.”

Có thuyết cho rằng: Lâu Thái Hậu sinh ra ba Thiên Tử (có lẽ ba vị thiên tử là:

– Phế Đế (Cao ân, 60-60)

– Hiếu Chiêu Đế (Cao Diễn, 60-61)

– Vũ Thành Đế (Cao Chạm, 61-6)

Đều là con của Văn Tuyên Đế (Cao dương, 0-60) và bà hoàng hậu dòng họ Lâu (?), thuộc thời Bắc Tề.

Từ Hiếu Chiêu Đế lên ngôi (60) đến Vũ Thành Đế được truyền ngôi (61). Vị chúa sau tổng cộng chỉ có năm năm (61-6).

68. Thần tăng Thượng Viên

Thích Thượng Viên, ngài vốn dòng họ Trần, sau khi xuất gia, ngài chuyên dùng chú thuật cứu giúp mọi vật. Thời nhà Lương (?), Võ Lăng Vương ở trong cung Tiêu kỷ, quỷ quái hay quấy rối, hoặc ca hát, hoặc khóc lóc, phân vân tạp loạn khắp cùng. Lăng Vương mới sai người có tài nghệ giỏi bắn dương cung đón bắn. Quỷ mới hiện hình, liền phóng tên bắn, quỷ bèn từ xa tiếp nhận trở lại ném vào người, suốt một thời gian lâu dài mà không chấm dứt. Nghe ngài trì chú, Lăng Vương thỉnh ngài vào trong cung, các loại quỷ lại đua nhau biến hiện các thứ thân hình rồng rắn, bỗng chốc trên không giữa đất biến hiện lắm thứ quái lạ. Ngài ngồi yên, bảo rằng:

– Này các quỷ nhỏ kia! Cớ sao dám vào trong cung vua? Nếu có khả năng biến hóa thân ta thì có thể biến ra muôn thứ. Chỉ là các ngươi dừng lại nghe ta nói một lời!

Các quỷ bèn chắp tay đứng yên. Ngài bắt đầu phát ra lời: Nammô Phật-đà.

Các quỷ đều biến mất ngay lập tức. Từ đó mọi người được yên tỉnh. Vua Vũ Đế (Tiêu Diễn, 02-0), đời Nam Lương nghe thế bèn mời ngài thết tiệc thưởng đãi lớn. Ngài hưởng thọ tám mươi mốt tuổi, viên tịch ở tại Đô thành.

69. Thần tăng Pháp Thông

Thích Pháp Thông, ngài vốn dòng họ Mai, người ở Nam dương, Tân dã. Năm tám tuổi, ngài xuất gia, Trác nhiên thần tú, tánh ngay thẳng trinh khiết, thân hình như ngọc. Chỉ ăn dùng rau lá sơ sài, không mong cầu cao lương mĩ vị. Nhân đến Tương dương, ở suối Bạch mã, núi Tản cái tạo lập phương trượng, nương vào nơi đó làm nhà mà ở, giữa thung lũng đặt hai cơ sở Lan-nhã xá. Nay những người tuần du núi đó vẫn còn biết những sự kiện này.

Vào thời nhà Lương, (?) Tấn An Vương đến Đô tương ung, thừa lúc gió thổi đến nên lại hỏi. Khi sắp đến thiền thất, cỡi ngựa đi theo, bỗng nhiên vô cớ, ngựa khựng lại thoái lui. An Vương hổ thẹn mà trở về, đêm đó cảm thấy ác mộng. Sau, đi đến một lần nữa, ngựa cũng thoái lui như trước, An Vương mới khiết trai rất mực thành kính mới được đến thấy. Lúc mới đến bên cạnh chùa, chỉ thấy một hang lửa dữ sáng rực, đứng nhìn giây lâu bỗng nhiên thấy lửa biến thành nước, phút chốc, nhìn lại trong nước thấy nhà hiện ra. An Vương đem việc ấy hỏi mới biết lúc đó là ngài đang nhập định Thủy hỏa. Trong nhà nơi tòa ngồi, ở hai đầu giường dây có hai con hổ, An Vương không dám bước đến. Ngài liền đưa tay đè đầu hổ xuống đất bịt hai mắt hổ lại rồi bảo An Vương đến trước, mới được hành lễ. Nhân đó, An Vương báo với ngài là ở nơi đây thường xuyên xảy ra tai nạn vì hổ, cầu xin ngài cứu giúp. Ngài liền nhập định, bỗng chốc có mười bảy con hổ lớn cùng nhau kéo đến, ngài trao truyền cho hổ pháp Tam quy giới, dạy răn chớ can phạm hại đến trăm họ. Ngài lại bảo đệ tử lấy vải y cũ buộc vào nơi cổ hổ. Ngài hẹn sau bảy ngày hãy lại đây. Đến kỳ hạn, An Vương tập chúng thiết trai và các con hổ cũng đến, liền cùng ăn và mở vải ở cổ hổ ra. Từ đó không còn có tai hại gì. Cũng trong ngày đó, ngài dẫn An Vương đến suối Bạch mã, trong suối có con rùa trắng lội đến trong tay ngài để lấy thức ăn.

Ngài nói với An Vương rằng:

– Đó là Hùng Long.

Hơn nữa, ở suối Lâm linh có con cá chép năm sắc cũng đến nơi tay ngài lấy thức ăn, ngài bảo:

– Đó là Thư Long.

An Vương cùng với các kẻ sứ đều tán thưởng điều đó, cùng ban thí cho cả hai loại vật đó. Có bạo hung đảng vây quanh khoảng vài mươi người, ban đêm đến muốn cướp trộm vật của người cúng thí, gặp hổ gầm thét ngăn chặn đường đi. Lại có một người lớn đứng dựa ở thiền thất, bên cạnh có cây tùng chỉ cao tới đầu gối, người ấy cầm chày vàng thủ hộ. Cuối cùng đêm cũng qua mau, đến trưa mai mới trở về. An Vương lấy làm quái lạ sự việc từ chiều hôm qua trở lại, mới đem mọi sự viết thành bài văn, bèn tấu trình triều đình xét biết. Triều đình ban chiếu tạo chùa Thiền cư, ngài không đến ở, mà cho người đến đó ở. Ngài ở tại thiền đường, thường có con nai trắng, chim tước trắng dần dần thuần phục đến nương ở. Ngài đi đứng luôn lấy tâm từ cứu hộ làm đầu. Có lần ngài gặp các người đồ tể trói buộc hơn trăm con heo, ngài ba phen trì tụng Thủ-lăng-nghiêm để cởi mở cho dân chúng, đàn heo đều bỏ chạy xa, các người đồ tể tức giận muốn hành hung, song, cả thảy đều cứng đờ bất động, bèn xoay về lỗi quá sám hối tội lỗi, nhân đó mà bỏ nghiệp sát sinh. Thêm nữa, ngài đến sông Hán, thấy các ngư phủ kéo lưới giăng cá, ngài cũng trì chú như trước, các ngư phủ kéo lưới không được cá, mới lại quy tâm mang lưới không mà trở về.

Tại Kinh châu gặp nạn khổ hạn hán, chùa Trường sa sai Tăng đến chỗ ngài cầu mưa, ngài bảo trở về, thì mưa lớn, nước đầy ngập cả bờ hồ. Tương Đông vương nhân nghe thế, vội xa giá đến cửa núi bày lễ tương sư thỉnh ngài xuống thành đô, nhưng ngài khước từ không chấp nhận. Tương Đông vương mới rủ bỏ cung các tạo lập chùa Thiên cung. Rồi thỉnh đón ngài. Ngài mãi trú trên Ba Hạp Không Tấn Hồng. Tương Đông vương dùng gỗ bách làm chánh điện. Đến lúc cảm ứng phóng ánh sáng hơn mười ngày chẳng hết. Bên cạnh chánh điện, Tương Đông vương lại dựng lập bảo tháp, tăng phòng, giảng đường và dùng các thứ vương thục quý báu làm lộ bàn. Lập chùa Bảo quang, thỉnh ngài đến đó ở. Tương Đông vương thuật nghĩa Bát-nhã, mỗi sáng mai sắp dựng nghĩa, trong chánh điện thì ban đêm phóng ánh sáng chiếu soi đến vài dặm, không cần dùng đến đèn đuốc. Mọi người bàn luận đó là ánh sáng đại Trí tuệ Bát-nhã chiếu soi đến chốn u tối.

Tháng 9 năm Đại Định thứ (61), đời Hậu Lương, ngài bỗng nhiên không bệnh mà ngài thị tịch, ngài đoan tọa như lúc sinh tiền, thân hình mềm mại, trên đỉnh đầu ấm nóng, tay cong lại, hai ngón tay có hương thơm lạ phảng phất không thôi. Ngài hưởng thọ chín mươi hai tuổi.

70. Thần tăng Tăng An

Thích Tăng An, ngài vốn người ở đâu không được rõ, ngài rất tinh chuyên giới nghiệp khổ hạnh, khéo hay tọa thiền giảng giải. Người thời bấy giờ tôn xưng ngài là Bậc Đa năng. Trong thời vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương, 0-60), đời Bắc Tề, ngài đến núi Vương ốc, nhóm chúng khoảng hai mươi người giảng kinh Niết-bàn. Ban đầu mới khai đề, có con chim trĩ mái (thư trĩ) đến bên tòa lắng nghe. Đến giờ chư Tăng thọ thực thì lại ra ngoài uống ăn, buổi chiều, ngài lên tòa giảng thì chim trĩ lại đúng giờ tìm tới. Ngài giảng chưa hết quyển ba thì tuyệt nhiên chim trĩ không đến nữa, chư Tăng đều lấy làm điều lạ. Ngài bảo:

– Con chim trĩ ngày nay đã sinh trong loài người, không có gì phải lấy làm lạ.

Đến năm Vũ Bình thứ tư (73), đời Bắc Tề, ngài dẫn chúng đến Việt châu hành hạnh Đầu-đà, bỗng nhiên ngài bảo:

– Chim trĩ mái năm xưa ứng sinh tại vùng này.

Đi đến một nhà nọ, từ xa, ngài gọi: “Thư trĩ”, có một bé gái chạy ra mừng rỡ như gặp gỡ người quen biết từ xưa, lễ bái hoan hỷ. Cha mẹ của bé gái lấy làm lạ, mới vào thiết trai cúng dường, ngài bảo: – Cớ sao bé gái này đặt tên là Thư Trĩ?

Đáp:

– Vì thấy bé lúc mới sinh, tóc trên đầu như lông chim trĩ, vì thế nên đặt tên bé là Thư Trĩ.

Ngài cười lớn, thuật lại duyên xưa. Bé gái nghe xong, rơi lệ khóc lóc cầu xin xuất gia. Song thân vui vẻ liền chấp thuận. Ngài nhân đó mà giảng kinh Niết-bàn cho bén gái nghe, bé liền lãnh hội hiểu hết, không một sai lầm sót mất, đến cuối quyển ba thì mịt mờ không hiểu gì nữa.

71. Thần tăng Phó Hoằng

Đại sĩ Phó Hoằng, ngài trú tại chùa Song lâm, huyện Ô thương quận Đông dương, thể quyền ứng đạo, tiếp nối Duy-ma, thời bấy giờ, ngài phân thân thường chuyên tế độ, ngài trú tại chùa Song lâm hoằng đạo giáo hóa, hoặc hiện ánh sáng vàng rồng phóng ra từ trước ngực, hương thơm khác lạ phảng phất từ trong lòng bàn tay. Hoặc hiện thân hình cao lớn hơn một trượng, tay dài quá gối, gót chân dài hai thước, ngón tay dài sáu tất. Hai mắt ngời sáng tỏ rạng như mặt trời mới mọc, sắc mạo đoan trang súc tích, có tướng Đại nhân. Lương Hiếu Vũ* nghe thế, mời ngài đến ở Kiến nghiệp. Ngài mới đến ở chùa Định lâm phía dưới Chung sơn, ngồi dưới bóng cây tùng cao, nằm trên bàn thạch, bốn bên thông suốt, sáu phía rộng thênh thang, hoa trời cam lồ thường rải nơi đất. Tại điện Trùng vân trong vườn Hoa lâm, nhà vua mở hội giảng kinh Bát-nhã, bày một giường tòa cùng với Thiên chỉ đối dương. Đến lúc xe ngọc lên điện mà ngài vẫn an nhiên tại tòa. Hiến Tư Nghị hỏi, ngài bảo:

– Pháp địa bất động, nếu động thì tất cả không an.

Vả lại, ngài biết thời vận nhà Lương sắp hết nên thương xót cứu hộ binh tai, mới đốt cánh tay làm đốt mang tế xua họa đến.

Đến năm Đại Kiến thứ nhất (69), đời nhà Trần, giữa mùa hạ, ở tại Bổn châu, ngài nghiêng về phía hữu mà nằm, bỗng nhiên thị tịch. Bấy giờ, mặt trời hừng đỏ, thân thể ngài ấm nóng, sắc vẻ tươi vui, dáng hình sáng sạch, có hương thơm thoảng cùng, tay chân co duỗi như thường, mọi người trông thấy, đều tán phục. Liền an trí ngài vào trong khám, trong suốt vài tuần, hương hoa tam tụ. Sau, bỗng nhiên biến mất, mọi người đều chiêm ngưỡng không thấy, bèn gào khóc kính mộ càng sâu xa, tiếng ngất buồn thương nghẹn cả hang núi.

Đầu tiên, ngày ngài còn tại thế, thường vì kinh mục phiền nhiều, mọi người không thể đọc xem hết, mới đến trong núi tạo lập một khám lớn chỉ một cột trụ, có tám mặt, bởi kinh vận hành không trở ngại, nên gọi khám đó là Luân Tạng và ngài có lời nguyện rằng: “Nếu ai lên đến nơi cửa Luân Tạng của tôi thì đời đời kiếp kiếp chẳng mất thân người.” Ngài từng khuyên người đời, nếu ai phát tâm Bồ-đề hay đến Luân Tạng thì cũng giống như đã trì tụng các kinh công đức rồi. Ngày nay, trong thiên hạ kiến lập Luân Tạng cũng đều thiết trí tượng Đại sĩ. Trong núi có cây tùng xưa, ngài từng trú tại cây tùng ấy, nguyện độ chúng sinh, dùng búa bặt mà phát lời thề, đến nay vết dấu búa vẫn còn. Ngài đem cơm thừa thí cho hổ ăn quăng vải giữa rừng đều hóa thành đá xanh trắng hổn tạp có thể dùng làm hạt tràng, gọi đó là cơm đá, đến nay hãy còn, những vết tích linh dị, không thể ghi hết.

72. Thần tăng Tuệ Tư

Thích Tuệ Tư, ngài vốn dòng họ Lý, người xứ Võ tân. Thuở thiếu thời, tâm ngài rộng lượng bao dung có tiếng trong xóm làng, ngài thường mộng thấy có vị Phạm Tăng khuyên ngài xuất tục. Ngài thức giấc tỉnh ngộ điềm lành đó, bèn từ thân nhập đạo. Một vài lần, ngài mộng thấy Thần tăng khuyên nên hành trì trai giới. Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa, không thọ biệt cúng, ngài nương ở nơi một am cốc, có kẻ dã nhân thiêu đốt chỗ ngài ở bèn bị bệnh dịch lệ, cầu khẩn chí thành sám hối, bệnh hoạn tiêu trừ nên được bình phục. Ngài lại mộng thấy vài trăm vị Phạm Tăng thân hình trang phục khắc viền khác lạ lên tòa, bảo ngài rằng:

– Ông trước kia thọ giới luật nghi chẳng phải ưu việt, làm sao có thể khai mở chánh đạo? Nay đã gặp được thánh chúng thanh tịnh nên lại lập đàn, thỉnh cầu sư Tăng bốn mươi hai vị tác pháp Yết-ma.

Sau khi thành tựu giới cụ túc bỗng nhiên ngài đại ngộ mới biết rằng thọ giới trong giấc mộng.

Ngài lại mộng thấy Đức Di-lặc, được Đức Di-lặc nói pháp khai ngộ, nên ngài tạo hai tôn tượng và đều cúng dường. Ngài lại mộng thấy được theo Đức Di-lặc cùng các quyến thuộc đồng hội Pháp hoa. Trong tâm ngài tự suy nghĩ rằng: “Ta ở trong thời mạt pháp của Đức Thích-ca thọ trì kinh Pháp Hoa, nay gặp được Đức Di-lặc Từ Tôn bỗng nhiên khai ngộ.” Ngài lại càng tinh tấn. Các điềm linh dị lại chồng chất như trong bình nước thường đầy, cúng dường nghiêm trang hoàn bị như có Thiên đồng đến hầu vệ.

Từ núi Đại tô, ngài dẫn hơn bốn mươi vị Tăng đi đến Nam nhạc. Đã tới nơi rồi, ngài nói với đồ chúng:

– Ta nương náu núi này với kỳ hạn mười năm, từ đó về sau ắt sẽ viễn du.

Ngài nói:

– Ta đời trước từng ở nơi đây nhiếp lãnh đồ chúng.

Leo lên một đỉnh núi thấy có Lâm Tuyền thắng dị, ngài bảo:

– Đó là chùa xưa. Xưa kia ta ở tại đó!

Mọi người đào bới đất lên, quả thật thấy có các thứ khỉ mảnh vật dụng của Tăng và nền móng điện vũ. Ngài lại chỉ dưới hai tảng đá đào lên nhặt được hài cốt, bèn xây dựng tháp. Nay là tháp Tam sinh. Lại ở phía Đông bờ bên cạnh của Linh nham, xây dựng đài. Ngài vì chúng giảng pháp Bát-nhã. Ngay giữa tim của đại nhạc, nay là chùa Bát-nhã.

Bấy giờ, học chúng khắp cả Nam bắc tụ hội, ngài sợ lo không có nước, bỗng thấy dưới lớp đá nham có ẩm ướt, ngài dùng gậy thọc xuống, quả thật có được khe suối, song, vẫn chưa nhiều nước. Có hai con hổ dẫn ngài lên đỉnh núi, nhảy cẫn giữa đất gầm gừ, nước suối tuông chảy tán loạn, nay là suối Hổ bào. Có người hỏi:

– Sao ngài không xuống núi để giáo hóa chúng sinh mà mãi ngắm nhìn mây nước lững lờ làm gì?

Ngài bảo:

– Ba đời chư Phật, ta đều ngậm nuốt hết trong miệng, làm gì còn có chúng sinh đáng độ ư?”

Tại Giang đông, Phật học rất thạnh môn học nghĩa. Từ lâu ngài đến Nam nhạc thì Định Tuệ đều song hành, Đạo Phong đã thạnh, tiếng tăm vang cùng. Có vị đạo sĩ sinh tâm ganh tỵ muốn hại, kính báo cùng Trần chúa vu khống về ngài là chúng Tăng phương Bắc nhận khoáng nước Tề chặt đẽo trên núi đóng đá dựng yêu. Trần Chúa mới sai sứ lùng đuổi bắt ngài, kẻ sứ vừa đến cầu Đá, bị hai con hổ tức giận và rắn lớn ngăn chận đường. Kẻ sứ kinh sợ mới lập lời thề rằng:

– Ta được thấy Thiền sư Tuệ Tư thì cứ tưởng như là Phật, nếu ta khởi tâm ác thì tùy ý các ngươi làm hại thương tổn.

Hổ và rắn bèn lui nhường đường. Kẻ sứ đến được thấy ngài, liền đảnh lễ và đem sự việc trình thưa. Trước lúc kẻ sứ chưa đến, ngài thấy một con ông nhỏ đến đốt ngay mặt ngài, bị một con ông lớn cắn giết nuốt ngay trước mặt ngài. Ngài bèn nhập định để quán chiểu, nên biết đó là oan khiên đời trước muốn cùng nhiễu hại. Ngài bảo kẻ sứ rằng:

– Sứ giả nên đi về trước, bần đạo sẽ theo sau.

Bảy ngày sau, ngay nay tích trượng rảo quanh bốn cửa, sứ thần trông coi các cửa đều vào tấu trình ngài vào. Trần Chúa đã kinh dị, đến lúc ngài đến ra mắt, Trần Chúa bèn xuống nghênh đón. Trần Chúa hỏi quần thần:

– Các khanh, thấy vị Tăng này là người như thế nào?

Tâu rằng:

– Tăng bình thường.

Trần Chúa bảo:

– Trẫm thấy ngài đạp hoa báu cởi giữa khoảng không mà đến.

Trần Chúa bèn nghênh đón ngài vào điện và cúng dường. Vị Đạo sĩ kia bởi tội khi dối nên Trần chúa muốn giết, ngài khẩn cầu, nói với Trần Chúa rằng:

– Đây là oan khiên đời trước, mong bệ hạ tha cho.

Trần Chúa bèn ban lệnh đạo sĩ ấy lo cung cấp hầu hạ ngài. Ngài tâu khước từ trở về lại núi. Trần Chúa dùng lễ đặc thù tiễn đưa ngài. Sau đó không lâu, đạo sĩ đó lại vu khống ngài là “Một người bạo tử, là một người bị chó cắn mà chết nên có điềm ông chính như.”

Từ đó, mỗi năm, Trần Chúa ba lần thăm hỏi, sự vinh thạnh chẳng thêm mà thần dị khó thể lường. Ngài đi trong mưa chẳng ướt, lội giữa bùn sình chẳng dơ, hoặc hiện hình lớn nhỏ, hoặc vắng lặng ẩn tàng thân…. Tháng sáu năm đó, trước lúc viên tịch, ngài nói pháp liên tục ngày nay sang ngày khác, đinh ninh tha thiết ha trách, người nghe đến nỗi lạnh tim. Đến ngày 22, giữa chúng bình lặng, ngài thị tịch, ngài Linh Biện khóc gào, ngài mở mắt ra bảo:

– Cớ sao kinh động ta? Kẻ si sống ngoài chánh pháp!

Nói xong, ngài viên tịch.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9