TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

 

73. Thần tăng Phổ Minh

Ngài Phổ Minh vốn tên là Pháp Minh, dòng họ Chu, người xứ Cối kê. Thuở thiếu thời, ngài đã có một ít chí khí tiết tháo khác thường. Có vị Tăng đến nhà khất thực, nhân đó khuyên ngài rằng:

– Ông đã có thiện tánh, có thể đến núi Thiên thai xuất gia. Tại đó, có bậc Bồ-tát sơ địa hiện đang thường trú giảng pháp.

Năm Thái Kiến thứ 1 (83), đời nhà Trần, ngài vượt rừng băng suối tìm đến Thiên thai, gặp được Đại sư Trí Giả đang giảng pháp. Ngài Trí giả cười, nói:

– Do nguyện lực xưa kia, nay được cùng gặp.

Ngài theo ngài Trí Giả đến chùa Ngọc tuyền ở Kinh châu. Ngài thường ở bên dòng suối khổ luyện chuyên chú tư duy. Ngài Trí Giả trở lại núi Thiên thai, tạo một đại hồng chung để cúng dường tại núi Thiên thai, kẻ tăng người tục ở Giang lăng tranh nhau cúng dường để đúc chuông. Đương lúc gần rát đồng, có một người mù đến xem, ngài xem xét cơ duyên biết được tướng không thành tựu. Quả thật đúng vậy, khi đập vỡ khuông thì chuông bị phá sứt khuyết. Sau ngài trở về phòng riêng ở tịnh xá Quốc thanh, ở đó cách nước hơi xa, tại đầu phòng một khoảng đất trống thuần toàn đá cứng. Ngài hoài niệm rằng:

– Nếu như ở khoảnh đá này có dòng suối chảy ra thì còn gì khoái hơn bằng ư?

Nói xong, sau vài ngày sau đó, từ trong đá bỗng nhiên có dòng nước tuôn chảy khắp cùng Đông tây chùa Quốc thanh.

Trong khoảng thời nhà Tùy, vua Cao Đế trị vì (81-618), ngài cảm thấy giảng đường nhỏ hẹp nên muốn phá để xây rộng lớn hơn. Ngài cùng thương lượng với Thiền sư Đảnh. Thiền Sư Đảnh khuyên ngài chớ sửa lại. Có Hoạt Châu Đô Đốc Chu Hiếu Tiết từ xa nghe việc đó, nên đem cúng dường gỗ sam làm cột trụ bềnh bồng bằng đường biển đưa đến. Thiền sư Đảnh hướng về Xích thành cảm thấy ngài Phổ Minh thân cao hơn mười trượng, cao vượt trên rừng tùng. Có khoảng hai mươi người theo phụ giúp nói với Thiền sư Đảnh rằng:

– Huynh chớ khổ công cản ngăn, sự việc ước nguyện ắt sẽ thành tựu!

Thiền sư Đảnh biết đó là Thần Dị, bèn chắp tay đáp rằng:

– Không dám còn can gián, mỗi một đều y theo nhân giả.

Ngày dựng giảng đường cảm động đến Sơn vương, từ sáng sớm ẩn chẩn loáng thoáng, hình trạng tợ như sấm động, xô cây nghiêng cành mở rộng cả trăm bước từ nơi bệ Phật thẳng xuống đến chùa. Đến chiều tối thì hoàn phục lại vết tích y như cũ, âm Ba của đá văng rơi loảng xoảng tựa thế như mới đến.

Ngài lại nguyện cùng kẻ tăng người tục tạo lập điện đường, chú nguyện đúc tôn tượng Đức Tỳ-lô-xá-na, thân ngồi cao trượng sáu bằng vàng đồng. Bấy giờ có một người tự xưng là ở thôn Tào khê đến, đem cúng thí mười một lượng vàng để vào chú tượng. Hỏi đến họ tên thì không chịu nói, người đó lễ bái rồi từ biệt thoái lui. Sau, đi hỏi khắp thôn Tào khê, không ai biết người đó. Lại nữa, thị giả ở cạnh phòng thường nghe trong phòng ngài có tiếng nói chuyện với người khác, nhưng đến xem thì không thấy hình bóng ai khác. Và những tiếng được nghe toàn là khuyên tu thiện.

Thế rồi, hóa duyên sắp mãn, thời gian cũng đến, vào một sáng sớm, ngài gọi các đệ tử đến bảo:

– Phàm thọ mạng của người không thể trường tồn, khuyên cùng các vị nên khéo biết như thế!

Nói xong, ngài tự cởi bỏ chiếc áo mới sạch mà mặc vào chiếc áo cũ rách. Thay đổi mới xong, bỗng nhiên, ngài thị tịch.

74. Thần tăng Huyền Quang

Ngài Huyền Quang, người ở Hùng châu; Hải đông, tuy tuổi trẻ mà ngài đã thông minh đỉnh đạt, ngài đến Hành sơn, được gặp Hòa thượng Tư Đại. Sau, ngài chống tích trượng trở lại Giang nam thuộc bổn quốc, ngài nương thuyền lớn nhờ chở mới rời bờ. Khi đó, mây tơ loạn mắt, nhã nhạc vang giữa không trung ráng tiết cầu vồng. Giữa không trung có tiếng truyền hô rằng:

– Thiên Đế thỉnh mời Thiền sư Huyền Quang ở Hải đông.

Ngài khoanh tay lánh nhường, chỉ thấy một thanh y (kẻ tớ) dẫn đường, bỗng chốc vào cung thánh. Thả nhìn ở đó khác hẳn cung phi ở dân gian, bày thiết vũ vệ không khác gì các loài có vảy có vỏ, xen tạp 76 cả quỷ thần. Có người bảo:

– Ngày nay Thiên Đế xuống cung Long vương, thỉnh ngài nói pháp môn thân chứng. Bọn chúng tôi ở thủy phủ, mong ngài làm lợi ích!

Ngài đã lên bảo điện, kế đến là lên trên đài cao, tùy như điều mà luận bàn, sơ lược trải qua bảy ngày. Sau đó, Long vương đích thân tiễn biệt ngài. Thuyền lớn cứ bồng bềnh giữa bể khơi không đi, khi ngài bước lên thuyền rồi, mọi người trong thuyền cứ tưởng rằng chỉ mới được nửa ngày, ngài về lại Hùng châu, tại Công sơn dựng tích kết am mới thành Phạm vũ. Về sau, không biết ngài đi đâu!

75. Thần tăng Minh Đạt

Thích Minh Đạt, ngài vốn dòng họ Khương, tổ tiên ngài là người nước Khương Cư. Ngài xuất gia từ tuổi thơ bé, nghiêm trì trai giới, đến năm thọ giới cụ túc thì hạnh nghiệp đã cao xa. Hông ngài chưa đặt dính chiếu, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngoài thì biểu lộ nghi quỷ, trong chứa nhân đạo thọ, thường ôm hoài cứu tế, chuyên hành du hóa.

Khoảng đầu niên hiệu Thiên Giám (02), đời Nam Lương, từ Tây nhung, ngài đến Ích quận, bấy giờ tại Ba lăng, Man Di Cổ Xúy đánh cướp, khắp châu quận chúng binh định kỳ đánh giết. Ngài thương họ sắp phải chịu khổ nạn nên ý chỉ muốn cứu giúp, một mình ngài đến trong giặc leo lên trên thành lũy, an ủi khuyên răn chiêu dẫn chưa quen tình ý. Bỗng chốc, gió mưa úp tới tối mù, sấm sét chấn động nổ vang. Bọn giặc kinh hãi, xót xa ẩn cầu ai thiết. Ngài bèn dạy sắm đủ ngàn ngọn đèn, chí thành cầu nguyện Tam bảo. Sắm tạo lập xong thì trời tối dần dần, tan mưa, núi đầm thông khí, đất trời sáng rạng, hợp nhau trông nhìn lại nước nhà và mọi người đều theo Vương Hóa, các đường giao thông sông bộ qua lại thông thương không cản trở.

Sau, nhân đi thú, giữa đường gặp một người trói buộc con heo con giữa đất, con heo gọi tiếng người:

– Cầu xin thượng chánh cứu tôi!

Ngài liền cởi áo để chuộc lấy nó và thả ra. Ngài thường trong đêm đòi lấy nước rửa chân, đệ tử vâng làm, mà bùn dơ trọn chẳng sạch, lấy nướn nóng để rửa cũng không đi như trước, ngài bèn tự lấy nước dội rửa đi thì chân liền sạch. Ngài bảo đó là cá. Lại cũng chẳng biết từ đâu có.

Đến núi Ngưu đầu ở Tử châu, ngài muốn tạo dựng bảo tháp và tinh xá, không vì đó hỏi gỗ đá mà tìm ngay công thợ. Kẻ Tăng người tục đều lấy làm lạ điều ngài nói. Đến tháng 3, nước khô cạn liền xuống tìm cầu gỗ, mới ở trong nước có được một cây gỗ dài lớn, chính đáng làm cột trụ chùa, dài ngắn đều hợp độ, thêm dùng vui mừng, ngài bèn kéo lên dựng đứng dậy. Đến giữa tháng tư, sông Phù nước đầy tràn, gỗ trôi về ứ nghẹn cả dòng, tự cặp vào bờ thôn, đều không trôi chảy. Ngài dẫn cả kẻ tăng người tục cùng đến tiếp lấy dựng chất đầy núi, tạo dựng đường vũ giá tháp ba tầng, mọi người xa gần đều hợp lực tu tạo, khiến chẳng quá thời hạn mà tự nhiên thành tựu.

Ngài thường mặc ba y đều là vải bố thô xấu, rách thì liền vá, nóng lạnh chẳng đổi. Có lần, ngài đang nhập định tại thằng sàng, bỗng nhiên nổi lửa, Tăng chúng đến dập tắt, ngài chỉ cảm thấy trong mát. Sa-môn Tăng cứu trước kia bị hoạn tật co quắp đến xin cứu chữa, ngài bèn trao cho tích trượng vào bảo chống đi, chẳng rời tất bóng, thốt nhiên trở lại. Lại nữa, trong lúc cử hành lễ Bồ-tát, ngài ngồi trước chúng, nhân có kẻ trộm khoét tường vào lấy đồ vật đã mang ra ngoài, bèn liền mê loạn phương hướng nên mang trả lại chùa. Ngài bèn khuyên dụ rồi cho đi.

Đến năm Thiên Giám thứ 1 (16), ngài theo Thỉ Hưng Vương trở về lại Kinh châu. Qua mùa Đông tháng chạp, ngài viên tịch tại Giang lăng.

76. Thần tăng Đạo Thuấn

Thích Đạo Thuấn, không biết ngài la người xứ nào. Ở chốn suối rừng thanh vắng Vương đạo tự ẩn. Ngài nói năng thường hay mỉm cười, bàn thuật cao xa. Ngài thường dừng ở núi Dương đầu, Trạch châu, chỗ thần nông định dược, dựng nhà bằng cỏ tranh, ngoài ra không tích chứa gì khác. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngài thường ngồi trọn năm, cảm đến răn chuột đồng ở chung tại giường dây, mỗi loài tự ấp ủ sản sinh, chẳng hề làm não loạn nhau. Lại có hổ đến ngồi quỳ bên cạnh, ngài nhân đó nói pháp. Có người đến dừng ở, ngài bảo hổ đi, hoặc ngài nói với nó rằng:

– Ngày mai có người lại, ngươi khỏi phải đến.

Hổ liền theo lời ngài mà không đến. Các người cung cấp hầu cận ngài ở chung với hổ, thân thiết như chó với người trong nhà, chẳng lo sợ gì. Ngài thường mặc áo nạp thô xấu, chẳng hề chọn lựa, đi chân trần giữa núi rừng hay đồng nội, chẳng hề sớm tối.

Đầu niên hiệu Khai Hoàng (81), đời nhà Tùy, bỗng nhiên ngài đến trong tụ lạc nói pháp giáo hóa, dân chúng trong các thôn đều đến thọ pháp. Riêng chẳng vì một người nữ thọ giới, ngài bảo rằng:

– Ngươi sẽ sinh trong loài bò, tướng đó đã hiện, giới không thể cứu ngươi được, nghiệp bất định mới có thể cứu giúp.

Bấy giờ có người không tin, cho rằng ngài mê hoặc quần chúng và mọi người đều có sự nghi ngờ. Ngài muốn quyết dứt mọi mối luận bàn, bảo với mọi người rằng:

– Nếu không tin, hãy thử đạp vào đuôi bò, ảnh nghiệp hẳn sẽ chẳng khởi dậy.

Liền đưa chưng đá ra phía sau quần người nữ giữa khoảng đất trống, bảo:

– Đó là ảnh đuôi bò.

Người nữ ấy y theo lời nói, đứng dậy không được. Bấy giờ, mọi người đều kinh sợ tin nghe và cầu thỉnh ngài:

– Vậy làm sao đoạn trừ nghiệp báo ấy?

Nhà người nữ ấy cất chứa cả vài muôn thạch lúa thóc, do đã sợ nghiệp xấu ác nên đã xả bỏ, ngài đều vì tu tạo phước đức, bảo người nữ ấy sám hối, như vậy nghiệp ác chất chứa tạo tác bấy lâu, thảy đều tiêu hết, ngài nhân đó mà cho thọ giới.

Ngài đến trong các xóm làng có người bị bệnh dịch lệ, thọ nhận sự cúng dường của họ, hoặc thấy có người bị máu mủ ràng rụa chạy tràn, đều đưa miệng mà hút lấy. Tâm tình ngài không khởi niệm ác, hoặc giặt rửa y phục cho người bệnh, hoặc điều trị yên tịnh tâm nghiệp của họ, làm như cho chính tự mình, biểu lộ tình cảm vui vẻ không có gì phiền muộn.

Sau, ngài đến các nơi Lâm Lự Hồng Cốc, phía Bắc đến đình Tấn bàng… các chùa núi ẩn, hợp cả thiền định tinh chuyên. Không biết cuối cùng ngài thế nào!

77. Thần tăng Đạo Tiên

Thích Đạo Tiên, ngài còn có một tên là Tăng Tiên. Vốn người nước Khương Cư. Đầu tiên, ngài lấy việc buôn bán làm nghiệp sống. Sau, ngài gặp được Thiền sư Tăng Đạt vì ngài mà giảng pháp, ngài bèn nhận chìm thuyền báu giữa dòng sông, giả từ vợ con, đến chùa Trúc lâm; Quán khẩu cầu xin xuất gia. Trong ngày xuống tóc, ngài đối trước đại chúng, phát nguyện rằng:

– Nếu không đắc đạo thì không ra khỏi núi này.

Liền vội dứt tuyệt vết trần, lập am nơi đỉnh non cao khúc khuỷu, các bạn đồng học thuyền lần lượt khó khăn. Mỗi lần xem kinh, vừa mới mở quyển, ngài liền thấy Phật tại chỗ ấy, không lúc nào chẳng nghẹn ngào thầm trách:

– Con sao không được gặp Phật mà chỉ được thấy Di Văn!

Song, ngài trội vượt cao vót hơn hẳn, chẳng cùng cầm thú nương náu trong đồng nội. Có người mới đến học hỏi, ngài đều khéo léo dẫn đáp hợp cùng chánh pháp.

Ngài từ lúc mới nhập định, mỗi lúc tọa thiền thường là bốn, năm ngày. Định biết có khách đến ngoài cửa, ngài điềm nhiên liền xả và ra cùng tiếp đón. Nếu không người đến, ngài đoan tọa trong tĩnh thất, vắng lặng như hư không. Có lúc ngài dự báo ngày mai có khách đến, cho đến cả trăm ngàn người đều đúng số lượng như ngài nói; không thiếu không thừa.

Thời Nam Lương, Thỉ Hưng Vương lặng lẽ vén màn Tam Thục, dùng lễ kính ngài dẫn đến Thiểm tây. Đến lúc, Đạo quán sùng mở khăn vải phân lớn; thuộc cùng bái kích rất là khổ tâm, mà ngài vẫn an nhiên như từng không gì khinh thường. Một đêm nọ, các Đạo sĩ bỗng thấy ở sườn núi phía Đông có lửa cháy, sợ rằng lửa trong đồng nội thiêu hại đến ngài, mỗi người vội mang bình nước đến cứu, thấy ngài ngồi ngay ngắn trong lửa dữ chói lọi sáng suốt, đều tán thán ngài là Hỏa Quang Thần Đức. Các Đạo Sĩ Lý Học Tổ… xả bỏ ruộng vườn tạo lập tôn tượng chùa tháp hoàn thành, mọi người xa gần quay về kính tin, trong mười nhà có hết chín nhà. Châu thứ sử Bà Dương Vương khôi cung kính lễ thọ pháp.

Cuối niên hiệu Thiên Giám (20), Thỉ Hưng Vương minh cảm, tạo tượng Tứ Thiên vương ở chùa Long thái, mỗi tháng cứ sáu ngày trai thiết bày tịnh cúng. Sau, ngài phó hội, trên đảnh tượng trí thiên vương tỏa phóng ánh sáng năm sắc. Lò hương ngài đang nắm trong tay, tự nhiên phát lửa.

Xưa kia, trong những tháng ngày vi tiện, thái úy Lục Pháp Hòa từng ở tại núi vài năm cúng dường cung cấp hầu hạ ngài, có vị Tăng tứ ý trách móc:

– Đó là Tam Đài Quý Công, duyên cớ gì mà mắng nhục? Bây giờ không thể lường nhưng về sau là quý!

Quả thật, Pháp Hòa bèn thăng Cổn Phục. Mỗi lúc, ngài bị lao nhọc tật bệnh, thấy có đồng tử mặc áo lụa từ trong nước khe xanh ra, bưng đầy bát diệu dược quỳ mà dâng ngài uống, không bao lâu liền khỏe mạnh.

Ngài sống trong núi hai mươi tám năm, sau đến các tỉnh lạc, đại hành hóa đạo. Bấy giờ gặp lúc hạn hán, trăm họ đều thỉnh cầu, ngài liền đến hang rồng, dùng gậy gõ cửa, gọi vài tiếng:

– Chúng sinh ơi! Sao ham ngủ vậy?

Nói rồi trở lên, bỗng nhiên mây phủ tứ phía, mưa tuông khắp nơi. Dân chúng thấm đượm ân trạch ấy, đếu đến cúng lễ đáp đền, khâm kính như thiên thần. Có pháp sự cần đến xá-lợi, ngài liền vì cầu thỉnh, ứng niệm liền đến như sự mong cầu.

Thời nhà Tùy, Thục Vương Tú trấn tại Môn lạc có nghe đến thanh danh ngài, liền sai sứ đến tìm mời. Ngài đến nhưng không vâng mạng, Thục Vương bỗng nhiên tức giận đổi sắc mặt, đích thân thống lãnh binh trượng đến núi tìm bắt ngài, hẳn nếu cố ý tức là gia hình. Ngài nghe binh lính đến, đều không tỏ ra lo sợ. Ngài lấy y Tăng-già lê đắp vào, đoan tọa niệm Phật. Thục Vương đến chân núi, bỗng nhiên mây mưa tụ tập, bảo tuyết đùng đùng lăn xuống, nước dâng tràn sông khỏa lấp xe cộ, vô phương kế tính, sự việc đã quẩn bách, Thục Vương mới từ xa hướng vọng lễ sám. Nhân đó, trời quang mây tạnh, mưa dứt, đường núi sạch sẽ thênh thang, nên đến được chỗ ngài cư trú. Thục Vương đích thân tận kính, ngài nhân đó nói pháp. Thục Vương lại phát khởi tín tâm, mới thỉnh đón ngài về thành đô, trú tại chùa tĩnh chúng, Thục Vương sùng ngưỡng lễ hậu, cả nước đều tôn kính, tôn xưng hiệu ngài là: Đạo Tiên Xà-lê.

Niên hiệu Khai Hoàng (90-601), ngài trở về chùa núi, đường sá sạch sẽ do thần núi quét dọn trước. Ngài thọ hơn trăm tuổi, ngài đoan tọa mà thị tịch.

78. Thần tăng Pháp An

Ngài Thích Pháp An, dòng họ Bành, người xứ Thuần cô; An định. Xuất gia từ thuở thiếu thời tại tinh xá Cửu lủng, núi Thái bạch. Ngài kính mộ chuyên tu thiền pháp, thường ăn mặc thô sơ chó đến tuổi già.

Niên hiệu Khai Hoàng (90-601) thời nhà Tùy, ngài đến Giang đô lệnh Thông Tấn Vương. Bấy giờ, vì tướng mạo ngài thấp xấu, nói cười khinh cử, chẳng tỏ vẻ thông minh. Ngày mới đến cửa, dụ khiến chẳng đi, thử bày thần thông. Nhà vua nghe vậy mời vào, cũng thấy như cũ, ngài bèn trú tại chùa Tuệ nhật, mỗi lần nhà vua du lý hẳn mang theo tùy tùng và xa giá, khi đến núi Thái, gặp phải khát nước nhìn xem bốn phía thảy đều núi cao, chẳng do đâu mà tìm nước, ngài dùng dao mổ đa dẫn nước đổ xuống để cấp dùng. Nhà vua lúc ấy vô cùng khen ngợi, hỏi ngài đó là thần lực gì. Ngài đáp:

– Đó là sức lực của nhà vua vậy!

Đến lúc ngài theo nhà vua vào sa mạc, đến trong biển bèn gặp phải biến loạn, ngài đều dự liệu lánh khỏi, không tổn hại gì. Sau, ngài đến chùa Thần thông ở núi Thái, có vị Tăng lại thỉnh bố thí, ngài vì đến đó, tự tay nhà vua viết lên vách chùa để ủng hộ. Lúc đầu cùng nhà vua mới vào hang, thấy một vị Tăng mặc áo xấu cởi con lừa trắng mà lại, nhà vua hỏi ngài:

– Đó là người nào?

Ngài đáp:

– Đó chính là Lãng Công, người sáng lập chùa Thần thông, nên lại đón dẫn.

Đến lúc vào tới trong chùa lại thấy một thần trạng rất vĩ đại, tại trên giảng đường, tay tựa vào mép chim cú tai mèo nhìn xuống mọi người. Nhà vua lại hỏi, ngài lại đáp:Đó là thần núi Thái bạch, người từng theo nhà vua.

Từ đó về sau, ngài có rất điều khác lạ không thể ghi chép hết.

Đến năm Khai Hoàng thứ 11 (601), đời nhà Tùy, khắp bốn phương có lắm biến nạn. Ngài không bệnh, tự nhiên viên tịch tại chỗ ngài ở, hưởng thọ chín mươi tám tuổi.

79. Thần tăng Trí Khải

Thích Trí Khải, ngài tự là Đức An, dòng họ Trần, người xứ Dĩnh xuyên. Thân mẫu của ngài dòng họ từ, mộng thấy khói hương năm sắc vầng quanh bào thai, nên muốn phá bỏ. Nghe người nói rằng:

– Do nhân duyên đời trước nương gá đường sinh, phước đức tự có, cớ sao muốn phá bỏ?

Llại mộng thấy ngậm nuốt chuột trắng, như vậy hai ba lần, bà lấy làm lạ nên đi bói xem, thầy bói đáp:

– Đó là điềm Bạch Long.

Đến đêm ngài chào đời, trong nhà sáng rực, suốt hai đêm sau, ánh sáng ấy mới hết. Bỗng nhiên có hai vị Tăng đến gõ cửa, bảo:

– Lành thay! đứa trẻ đức trọng hẳn sẽ xuất gia.

Nói xong, liền ẩn mất.

Năm mười tám tuổi, ngài đến chùa Quả nguyện ở Tương châu cầu xin Sa-môn Pháp Tự xuất gia. Một hôm, nhân nói về Thiền môn dùng biểu tâm thanh tịnh, trong khoảnh khắc mỗi mỗi tự nghĩ đến rừng đầm, ngài mộng thấy trên đỉnh núi cao vời muôn trùng, mây rủ nữa bóng mặt nhật, bên cạnh biển cả không bờ sâu lắng, ngài đến bên dưới đó. Lại thấy một vị Tăng vẫy tay duỗi cánh đến sườn núi kỳ kéo ngài lên. Ngài đem mọi điều thấy biết trong mộng nói cùng mọi người. Mọi người đều bảo:

– Đó là núi Thiên thai ở Cối kê, là chỗ các bậc Thánh hiền nương trú. Trước kia có ngài Định Quang, người xứ Thanh châu ở tại núi đó lâu bốn mươi năm, gồm thông định tuệ. Đó là thần nhân.

Sau đó, chưa tới hai năm, ngài dự báo với dân núi rằng:

– Có vị đại Thiện tri thức sắp đến đây, nên trồng đậu làm tương bện cỏ làm chiếu, xây dựng thêm phòng nhà để chuẩn bị tiếp đón.”

Ngài đến núi Thiên thai, lên đến núi, được gặp ngài Định Quang liền tỏ bày thường yếu. Ngài Định Quang bảo:

– Đại Thiện tri thức! ngài còn nhớ tôi năm trước đứng trên núi đưa tay vẫy gọi ngài chăng?

Ngài Trí Khải vô cùng ngạc nhiên, biết rõ có thật trong mộng. Lại nghe tiếng chuông vang khắp thung lũng, mọi người đều lấy làm lạ, ngài Định Quang bảo:

– Tiếng chuông là chiêu tập những ai hữu duyên. Các ngươi đã đắc trú.

Ngài bây giờ mới là đang ở thắng địa. Phía Bắc chỗ ở của ngài Định Quang là núi Phật lũng, phía Nam là dòng Loa khê. Ở chốn cao nhàn dễ được tầm chân, đất bằng suốt trong, bồi hồi dừng nghỉ qua đêm. Bỗng chốc thấy ba người chít khăn đen mặc áo khảm, đội sớ thỉnh rằng:

– Ngài có thể trú tại xứ này hành đạo.

Sau, ngài Trí lưu tại ngọn núi Hoa đảnh phía Bắc chùa, hành hạnh Đầu-đà. Gió lớn thổi lay nhổ cây, sấm sét rống động, ly mỵ ngàn đàn một hình trăm trạng, nhổ khạc phun lửa, tiếng kêu hãi hùng khó tả. Ngài mới nén tâm an nhẫn, điềm nhiên tự mất. Lại mắc phải bệnh hoạn, thân tâm thống não như bị lửa đốt. Lại thấy song thân đều qua đời kê đầu trên đầu gối, tỏ bày khốn khổ, ai cầu cứu giúp. Ngài lại y nương pháp. Nhẫn chẳng động như núi, nên khiến hai duyên cương như chiêu cảm đều diệt. Bỗng nhiên đến Tây Vực, có vị Thần tăng bảo rằng:

– Chế phục thắng oán ấy mới là dũng.

Mỗi năm đến mùa Hạ, ngài thường giảng kinh Tịnh Danh, bỗng thấy ba đạo thềm báu từ không trung giáng xuống, có vài mươi vị Phạm Tăng nương thềm mà đến, vào trong giảng đường lễ bái, tay bưng lò hương đi nhiễu quanh ngài ba vòng, lâu sau mới biến mất.

Ngài đến núi Ngọc tuyền, huyện Đang dương dựng lập tinh xá, triều đình sắc cấp biển ngạch chùa đề hiệu là Nhất âm. Chỗ đất đó xưa kia chỉ là hoang vắng nguy hiểm, thần chú rắn bạo. Từ sau khi tạo lập chùa trở lại, an lạc không ưu hoạn. Mùa xuân năm đó trời nắng hạn, mọi người đều cho là bởi thần tức giận, ngài đến nguồn suối dẫn chúng tụng kinh, liền cảm mây nhóm mưa tuông. Các lời hư cuống tự diệt.

Tấn Vương Tiêu Phi bị bệnh khổ, các thầy thuốc hết phương chữa trị. Tấn Vương sai khai phủ Liễu cố ngôn… mang thư đến cầu thỉnh xin ngài cứu giúp bệnh khổ. Ngài lại dẫn chúng thiết lập trai pháp bảy ngày, hành trì sám pháp kim quang minh. Đến hôm thứ sáu, bỗng có con chim khác lạ bay đến trai đàn, uyển chuyển mà chết, phút chốc lại bay đi. Lại nghe tiếng heo ngâm. Cả chúng đều đưa mắt chăm chú nhìn. Ngài bảo:

– Tướng ấy hiện tức Tiêu Phi sẽ lành bệnh vậy. Chim chết mà sống lại tức biểu thị nắp quan tài mở lại, heo ngâm ra tiếng nói tối tăm tức hiển bày trai phước tương thừa.

Đến ngày hôm sau quả nhiên bệnh tật lành hẳn.

Năm Khai Hoàng thứ 17*, đời nhà Tùy, ngày 2 tháng 11, ngài an nhiên đoan tọa như nhập định mà thị tịch trước tượng đá lớn ở núi Thiên thai, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi.

80. Thần tăng Trí Khoáng

Thích Trí Khoáng, ngài dòng họ Vương. Đầu tiên, thân mẫu ngài sắp mang thai, mộng thấy tắm giữa dòng sông, có một đồng tử cởi thuyền báu lại lao đầu, liền tỉnh giấc mà có thai ngài. Đến lúc sinh trưởng, ngài thông mẫn mà chuộng thực hành. Cuối thời nhà Lương*, ngài làm tráng sĩ. Sau lìa tục theo đạo học thuật trường sinh, kịp đến lúc gặp được vị cao tăng trao truyền giới pháp làm đệ tử Phật.

Ngài, mỗi lúc đức hạnh vang động đến người tạm bày liền vội tiềm ẩn vết tích. Tại Giang lăng, có gia đình Trương Thuyên hai đời mù mắt, ngài bảo:

– Phần mộ người thân trong nhà ngươi gối đầu trên giếng xưa, dời phần mộ đạp phá thành giếng thì hẳn được khỏi tai ương.

Nhân đó, Trương Thuyên liền làm theo lời ngài nói, người mù bèn thấy đường đi. Và cầu xin ngài xuống tóc xuất gia. Mọi người thảy đều kinh sợ về ngài, ngài thường chặt củi cúng thí chư Tăng, ngài trú nơi không nhàn tĩnh lự.

Ngài lại bảo:

– Trong khe suối có tiếng chuông xưa, nên đã đào bới lên đem treo ở chùa.

Nhân Châu thứ sử cho rằng ngài dối hoặc, bèn đánh lưng trăm gậy rồi thả xuống, ngài không tỏ vẻ thảm khốc, không bị tàn phá thân hình, liền đưa ra khỏi đài, câu thúc ở Thượng phương. Bảo người có sức mạnh dùng dây xiềng xích dài 8 thước kéo treo lên; đấm gối. Những người đứng xem chung quanh đều cho là nát nhừ. Song, dung mạo ngài đã không nhiễu loạn và thân thịt cũng không vết sẹo gì. Quan cai ngục bảo:

– Thừa lúc cư sĩ hay nhẫn chịu đót khát.

Liền bắt tuyệt thực bảy ngày, nhưng thân sắc ngài vẫn như cũ. Ở ngoài chợ, nơi đường cái, thấy ngài đi lại nhưng xem xét trong ngục thì vẫn còn có, mới tin là ngài phân thân.

Năm Đại Định thứ 3*, ngài xin giày cỏ, bảo là đêm này đi gấp. Đêm đó, đến canh ba, khắp thành bốc lửa, ở bốn cửa, người ra không lọt nên bị chết thiêu đến bảy ngàn người. Ngài ở tại trong ngục dẫn hai trăm kẻ tù an ổn đi bộ mà ra.

Tuổi gần bốn mươi, ngài mới mong xuống tóc, sau khi tấn đàn thọ giới, ngài chuyên tu hạnh Đầu-đà, có rắn ở nghỉ bên cạnh giường nằm, mỗi đêm, ở bốn góc núi có bốn ngọn đèn đồng soi chiếu. Các hàng sĩ tục tụ hội bỗng chốc biến thành chùa hoa. Có người làm thịt vịt mà thiết trai, tối đến thần vịt bảo rằng:

– Cớ sao có sự sát sinh mà sung vào tịnh cúng?

Từ đó liền chấm dứt, mùa Hạ ngài từng qua sông cùng với đồ chúng khoảng vài mươi người ở không được, không muốn đi theo, bờ phía trước có hai con thuyền không có người sắp đến, ngài cười mà cất tiếng gọi nó, thuyền tự cắt dòng tới thẳng, nhân đó mà ngài đưa tất cả qua sông. Ngài căn dặn chớ được loan truyền.

Hơn nữa, ngài đến Hàm dương tạo lập chùa Phật tích, có một con trâu mẹ sinh con trâu nghé mà đầu vẫn núp ẩn đã qua hai hôm, trâu mẹ sắp chết, có vị Tăng đến bảo cùng ngài. Ngài biết mà xót xa, bảo:

– Trâu nghé đó là cư sĩ ở trong chùa, lạm dụng vật của Tăng chúng, nay lại đền trả quả báo. Nó xấu hổ mà không chịu ra khỏi bụng mẹ vậy.

Nhân đó, ngài nắm hương răn trâu nghé rằng:

– Mau phải đến trả quả báo sao lại xấu hổ chẳng chịu sinh ư?

Trâu nghé liền ứng lại lời ngài nên chui ra. Những điều thần dị minh vi của ngài không thể viết chép đầy đủ.

Năm Khai Hoàng thứ 29 (?), ngày 2 tháng 9, ngài thị tịch ở chùa Tứ Vọng Khai Thánh. Ngài tự định biết thời kỳ thị tịch, hương trời phảng phất đầy thất, khắp chùa âm nhạc nổi vang. Ngài xoay về hướng Tây nam mà tịch.

81. Thần tăng Pháp Sung

Thích Pháp Sung, ngài vốn dòng họ Tất, người xứ Cửu giang. Ngài thường tụng kinh Pháp Hoa và đọc kinh Đại Phẩm khó nhớ rõ là bao nhiêu biến, kiêm chuyên tu sửa chùa viện, tính ở trú trì. Cuối cùng ngài trú tại chùa Hóa thành khoảng lưng chừng đảnh Lô sơn. Những vị Phi Tăng chưa từng vọng tạo. Ngài thường khuyên Tăng chúng không nên để người nữ vào chùa. Bởi vì trên thì tổn hại Phật hóa, dưới thì rơi lạc trong lời bịa đặt của người đời. Nhưng ở đời bởi vì có nghiệp sự trọng có những kẻ chẳng vâng theo. Ngài thường than rằng:

– Sinh ra không gặp Phật, ấy là tội duyên của chính mình, chẳng hành trì chánh pháp, thì nghĩa phải sớm diệt. Sao lo ở phương này chẳng kính phụng giới!

Ngài bèn lên đỉnh Hương lô trong núi ấy, tự gieo mình xuống thệ nguyện phân toái thân cốt này để cầu sinh Tịnh độ. Những ở giữa khoảng không bỗng nhiên đầu ngài xoay dựng lại từ từ mà xuống chỗ hang sâu, chẳng tổn hại một mảy lông. Đầu tiên, Tăng chúng trong chùa không ai biết, sau có người lên đỉnh núi, giữa đường nhìn xuống hơn ngàn nhận nghe tiếng người nói, bèn đến mà tìm, mới chính là ngài, thân mạng vẫn còn, miệng tụng niệm như cũ, thỉnh đón ngài trở về chùa. Chư Tăng cảm động nghĩa khí lấy cái chết để can gián của ngài nên đoạn tuyệt người nữ đến chùa. Trải qua sáu năm sau, ngài mới thị tịch, bấy giờ thời tiết đang lúc nắng nóng gay gắt mà nhục thể ngài chẳng hôi thối mà có mùi thơm tợ như dưa chín quá. Lúc đó là cuối niên hiệu Khai Hoàng.

82. Thần tăng Tuệ Khản

Thích Tuệ Khản, ngài vốn người xứ Khúc a, trú tại chùa Đại quy thiện ở Tương châu. Ngài linh thông u hiển, người đời chẳng thể suy lường, mà ngài vô cùng sùng kính tôn tượng phụng thờ như Phật thật. Mỗi lúc ngài thấy tượng đứng, thì chẳng dám liền ngồi. Ngài khuyên người tạo tượng chỉ nên tạo tượng ngồi. Sau, ngài đến Lãnh nam, chuyên tu thiền pháp, thành đạt sự tỏ ngộ. Lúc trú tại Thê hà, ngài thường qua yết kiến Pháp sư Tư. Pháp sư Tư thấy làm lạ giử lễ tiếp đón ngài. Đến lúc sắp trở về lại núi, Pháp sư Tư thỉnh ngài biểu hiện thần lực, ngài liền từ trong cửa sổ đưa tay duổi đến trên biển ngạch điện Phật chùa Tề hy. Nhân đó, ngài nói với Pháp sư Tư rằng:

– Người đời chẳng biết xa thấy nhiều nên kinh dị. Vì thế, tôi chẳng thi vi vậy”.

Năm Đại Nghiệp thứ nhất (60), thời nhà Tùy, ngài thị tịch tại chùa Đại quy thiện. Trước ngày viên tịch, ngài đem ba y hoàn lại chúng Tăng, nói:

– Nay tôi xả báo thân này, đồ chúng hãy khéo chung sống!

Nói xong bèn trở vào trong phòng. Đại chúng kinh sợ, mở cửa tìm ngài, mới thấy trong phòng hài cốt trắng tinh trong tư thế ngồi kiết già trên giường, đến lay động thì vang tiếng bong bong tự nhiên chẳng rời rả.

83. Thần tăng Pháp Hỷ

Thích Pháp Hỷ, ngài người xứ Nam hải. Tướng mạo lùn thấp xấu xí yếu đuối. Năm ngài bốn mươi tuổi mà các bậc già lão thông hiểu nhiều điều nói thời họ còn bé thơ đều đã thấy biết ngài hình dáng dung mạo vẫn như nay không khác. Ở Máng diện tương truyền là ngài đã ba trăm tuổi. Và ngài cũng tự nói xưa kia có biết Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, ngài nói về mọi sự trong triều Tấn Tống đều rõ ràng lớp lang như tin hôm trước vậy.

Lúc bình thường, ngài lặng yên không nói, nhưng khi nói thì hàm ý sâu sắc, nên bày tốt xấu như có ảnh hưởng mọi người cũng ít muốn gặp ngài, vì sợ ngài nói thẳng có các ý tai ác ngỗ nghịch.

Trong thời nhà Trần (7-89, thuộc Nam Triều), Mã Tĩnh làm Quảng châu thứ sử, mới lên nhậm chức, ngài đi thẳng vào châu, lại sinh sự vẽ giữa đất hình đầu ngựa, để chỉ bày cho ông ta mà đi. Mã Tĩnh vốn có tiếng là dòng họ có nhiều võ lược, đến nơi đó hành bộ tùng giáp sĩ vài vạn, dùng cờ xí kiếm kích ra oai chiếm mốc giới. Mã Tĩnh xa xỉ quá độ, bị người vu cáo là mưu phản. Nhà vua sai Lâm Nhữ Hầu xét án, tha lợi tài sản, bắt mà chém giết. Đó là chứng minh hiệu nghiệm về việc họa vẽ đầu ngựa giữa đất của ngài.

Vua Dương Đế (Dương Quảng 60-617) đời nhà Tùy nghe đến ngài, nên mới đến Dương châu, an trú trong cung. Đến lúc trong cung tạo dựng một ngôi nhà vừa mới hoàn tất, bỗng nhiên ngài lên ngôi nhà ấy xem xét rồi kinh hãi chạy xuống bậc thềm, xoay ngược lại bảo:

– Ấy yểm hại ta.

Trong đêm đó tự nhiên trời mưa lớn, ngôi nhà ấy sụp đổ đè chết vài mươi người. Sau, cũng tại trong cung, ngài chạy quanh tìm kiếm đầu dê, vua nghe mà giận ghét, cho là ngài nói cuồng, bảo xiềng xích ngài trong một cái thất. Vài ngày sau, có ba thị vệ thấy ngài bình hảng đi giữa chợ, trở về trình tấu là “Ngài Pháp Hỷ hiện tại ở trong chợ.” Vua liền khiển trách Quang Ty, xem xét lại chỗ cấm chế thì cửa vẫn khóa như cũ. Người giữ cửa cũng bảo:

–Ngài ở trong thất.

Lúc ấy mở cửa vào thất, thấy chiếc y ca-sa phủ trên một tụ cốt trắng, xiềng xích ở trên cổ. Bèn viết văn trạng trình tấu, Dương Đế sai Trưởng Sứ Vương Hằng kiểm nghiệm xem cũng vậy. Dương Đế do đó mới tin ngài là người phi thường, ban lệnh chớ nên kinh động. Đến chiều tối, ngài trở về trong thất, hoặc nói, hoặc cười. Người giữ lại tấu trình, Dương Đế sai Quang ty Sở cởi mở xiềng xích phóng thả tự do ngài ra vào. Sau Dương Đế bị giết hại tại Giang đô, mọi người mới tỏ ngộ kiểm nghiệm việc tìm kiếm đầu dê của ngài.

Có một lúc, trong một ngày, vài mươi nơi thiết trai cúng dường, ngài đều đến dự, mọi nơi đều thấy ngài, thời gian đó, ngài cũng uống rượu ăn thịt. Bỗng chốc, ngài hiện thân có bệnh, nằm trên giường cách chiếu, bảo người đổ chất tro lửa rất nóng ơ dưới giường. Vài ngày sau, ngài viên tịch, tro lửa cháy xém hết nữa thân mình, an táng tại chùa Hương sơn.

Đến năm Đại Nghiệp thứ (608), thời nhà Tùy, ở quận Nam Hải tấu trình là “Ngài Pháp Hỷ hiện đã trở về ở quận”, vua Dương Đế ban sắc quật mở quang tài xem thì không thấy gì cả.

84. Thần tăng Phổ An

Thích Phổ An, ngài vốn dòng họ Quách, người xứ Kinh triệu, Kinh dương. Thuở nhỏ, ngài theo Thiền sư Viên xuất gia, khổ hạnh Đầu-đà. Sau, ngài đến Pháp sư Yết, ngài thông rành Tam tạng, thương chuyên về kinh Hoa Nghiêm, tụng đọc thiền quán tư duy, chuẩn làm phiếu nghỉ.

Trong thời Bắc Chu, Phật pháp bị tiêu diệt ngài ẩn trú tại trong hang Tiện tử ở núi Trung nam. Bấy giờ có trọng chiêu mộ những ai bắt được một vị Tăng thì được thưởng mười đoan vật, có người ứng sự chiêu mộ, đến muốn bắt ngài. Ngài liền an ủy dẫn dụ rằng:

– Ta xem ông có phần nghèo khó, đang muốn cấp giúp đây!

Ngài vì bày cho ăn rồi cùng đến kinh đô, Chu Vũ Đế nói cùng người ấy rằng:

– Luật pháp nước ta đang gấp không cho đạo nhân ở trong dân chúng. Người lại giúp gấp không cho đạo nhân ở trong núi. Nếu người bảo những kẻ đấy đến xứ khác thì được sống. Nên thả người này vào núi chẳng phải kiển hiệu.

Khi đó, ngài an nhiên được trở về. Qua thời nhà Tùy, vua Văn Đế (81-60) lên ngôi, Phật giáo trở lại hưng thạnh, rộng chiêu mộ các vị Tăng còn sống sót ẩn dật, mà an trí chỗ ở. Lúc ấy, chỉ trong một hang Tiện tử có hơn ba mươi vị Tăng ứng đáp chiếu dụ xuất gia đều ra trú ở chùa Quan. Riêng mình ngài vẫn nương chỗ cũ giữ hang Tố lâm. Ngài thường đi trong thôn ấp tụ lạc Hoằng hóa làm lợi ích quần sinh. Cuối cùng có người ở rừng Ngọ hổ đến bên cạnh hai hang hợp khe đục khám làm am thỉnh ngài an trú tại đó. Ngày ngài mới đến, thấy trên khám có tảng đá lớn sợ rơi lấp bít khám, ngài liền niệm rằng:

– Nguyện dời tảng đá này sang nơi khác chớ khiến sụp nát hang khám.

Tảng đá bèn y theo lời nói, xoay lánh nơi khác. Mọi người đều cho là quái lạ. Ngài bảo:

– Đó là thần lực của Hoa Nghiêm!

Như vậy nhưng chưa phải là kỳ lạ.

Ở phía Đông khám bên trái khe tường đá có Sách Đà, tung hoành dọc ngang khắp xóm làng chẳng phải một, lại âm thầm ganh ghét đức hạnh của ngài, thường nghĩ cách giết hại, Sách Đà cùng ba người bạn mang cung cầm nhận, dương tay kéo dây cung muốn phóng tên, mũi tên chẳng lìa khỏi dây và tay trương ra cũng không dừng nghĩ, găng mắt cứng lưởi đứng yên suốt đêm, tiếng đồn vang động, mọi người xa gần đua nhau kéo đến. Những người trong làng cúi đầu chí thành cầu xin ngài cứu giúp. Ngài bảo:

– Bởi vốn không biết, chứ đâu chẳng phải thần lực của Hoa Nghiêm?

Nếu muốn giải trừ an khiên, chỉ nên sám hối, như lời tôi chỉ dạy mới mong giải thoát.

Lại ở phía Tây khám, thôn Ngụy, có Trương Huy, trước kia vô cùng hung ác, chuyên lấy sự trộm cướp làm nghề sinh sống. Ban đêm đến chỗ ngài lén lấy dầu thắp Phật, một bình đến năm thăng, mang trên lưng mà ra, đã đến cửa viện, bèn hôn mê mất cả tâm tánh, như có sự buộc ràng không thể chuyển động. Bà con ở thôn xóm đều đến vì sám tạ. Ngài bảo:

– Tôi không biết. Đó là bởi thần lực của Hoa Nghiêm! Nói bảo sám hối giúp lấy lại bình dầu. Mọi người làm theo như lời ngài dạy, liền được.

Thêm nữa, ở phía Nam khám, có Trương Khanh, đến trộm tiền trong tay áo ngài, lấy đi về đến trong nhà, tháo không ra, cứng miệng không nói được, liền tìm đến sám hối rồi theo đường mà trở về.

Có Trình Huy Hóa ở thôn Trình Quách, rất sùng mộ kính tín, thường đến chỗ ngài nghe thọ pháp yếu. Nhân bị bệnh hoạn, thân chết đã trải qua hai đêm, buộc thi hài để nơi đất chuẩn bị nhập liệm. Trước đó, ngài đến huyện Ngạc, trở về giữa đường đi tới chùa Đức hạnh ở phía Tây nam, phía Đông cách thôn Huy Hòa ở đến năm dặm. Từ xa, ngài cứ gọi: “Trình Huy Hòa cớ sao không thấy ngươi đến đón? Gọi luôn không dứt. Có người làm ruộng bảo rằng:

– Huy Hòa chết đã lâu, còn đâu mà đến đón?

Ngài bảo:

– Đó là lời đồn nhảm ta không tin!

Ngài lại đến thôn đó, gắng tiếng gọi lớn. Huy Hòa bèn chuyển động thân mình. Các người thân đang ở bên cạnh cắt bỏ các dây ràng buộc quanh thân. Ngài vào tới trong sân, lại gọi lớn tên Hòa. Huy Hòa liền vùng dậy lăn lóc đến bên ngài. Ngài bảo dẹp bỏ rương hòm, mọi vật vào một cái sọt, ngài dẫn Huy Hòa đến bàn thờ Phật, bảo đi nhiễu quanh, sau đó bình phục lại như cũ, sống thọ thêm hai mươi năm. Sau, mắc phải trọng bệnh, lại đến cầu xin ngài cứu giúp, ngài bảo:

– Thả cho ngươi du đảng, ngoài điều ta xét biết!

Huy Hòa liền qua đời!

Ở phía Bắc hồ Côn minh, tại Thôn bạch, có bà già bị bệnh nằm liệt giường gối mất tiếng đã trăm ngày, đưa tay chỉ đập con trai con gái tỏ ý muốn thấy được ngài. Các người con hiểu được ý mẹ nên thỉnh ngài lại nhà. Người mẹ đang bệnh đã thấy được ngài, thốt nhiên xuống giường nghênh đón, ngài hỏi han rất dắt dậy, bỗng chốc trở nên bình thường như mọi ngày, tật bệnh lành hẳn. Từ đó, thanh danh ngài càng vang dội, khắp thôn ấp tụ lạc đều nhóm hội, thiết lễ lớn âm nhạc hòa vang đi vòng quanh nhà.

Trong thôn Đại Khường, có Điền Di Sinh, nhà không tường vách mà có bốn người con gái, người vợ chỉ mặc tấm vải xấu ngang gối mà thôi, bốn người con gái đều để trần truồng. Người con gái lớn tên là Hoa Nghiêm chỉ có tấm vải thô hai thước, trộm nghĩ muốn bố thí. Ngài dẫn chúng vào thôn, lần lượt đến cửa nhà Di Sinh, thương xót sự bần khổ ấy đến đi qua không ghé vào. Hoa Nghiêm suy nghĩ rằng: “Do ta bần tiện, chưa từng tạo phước, nay lại chẳng tu, tương lai sẽ khổ gấp bội bây giờ.” Bèn tìm chung quanh chẳng thấy vật gì, nên ngửa mặt buồn khóc, thấy trên rui nhà một nắm rơm vụng dùng bịt lỗ hỏng, bèn kéo xuống tung rủ nhặt lượm được hơn mười hạt thóc, bóc làm thành gạo, và đem tấm vải trước, nghĩ dùng tùy hỷ. Bởi thân hình không y phục nên đợi đến đêm tối lăn lóc mà đến chỗ trai hội, đứng xa ném vật vào trong chúng, còn hơn mười hạt gạo riêng dâng nấu cơm. Nhân đó phát nguyện rằng: “Thân nữ bần cùng bởi nghiệp xa xưa tự gieo lấy, nay khốn khổ nghèo khó thực hành bố thí dùng làm hy vọng phước báo tương lai. Và nay đem mười hạt gạo vàng này để vào rồi nấu cơm, hẳn như sự chí thành thì nghiệp bần khổ sẽ hết, đồng thời nguyện rằng cơm nấu trong nồi đều biến thành sắc vàng. Như không ứng cảm, mạng biết làm sao!” Phát lời nguyện xong, gạt lệ mà trở về. Khi ấy, năm thạch gạo trong nồi nấu cơm chin đều biến thành sắc vàng. Đại chúng kinh ngạc tán thán mà chưa biết nguyên nhân nên tìm hiểu nhân duyên. Ngài bảo:

– Đó là do nguyện lực của con gái Điền Di Sinh!

Cả trai hội đều đem mười hộc thóc tìm đến nhà Di Sinh mà giúp đỡ, còn ngài thì đem pháp y mà cho Hoa Nghiêm và đưa vào chùa Kinh.

Trong thôn bên cạnh khám, có người trói buộc ba con heo, sắp giết hại chúng, ngài nghe biết, bèn đến chuộc. Người trong xã sợ không được giết nên đòi tăng tiền đến mười ngàn, ngài bảo:

– Bần đạo hiện tại chỉ có được ba ngàn, đã gấp bội giá gốc cả mười lần, có thể cùng cho bần đạo xin chuộc!

Mọi người đều không chấp nhận lại cùng nhau phẩn hận tranh giành, nhân đó theo xin rượu cùng uống ca múa xoay chuyển rực rỡ khắp cùng, thế rồi cả già trẻ mắt đều hết thấy, bỗng chốc tự ẩn chẳng biết ở đâu. Ngài liền dùng dao tự cắt thịt ở đùi vế, bảo:

– Đây và kia đều là thịt, nhưng heo ăn các loại phẩn uế mà ngươi lại ăn thịt nó. Huống hồ con người ăn cơm gạo, đúng lý là đủ quý.

Mọi người trong xã nghe thấy, một lúc đồng phóng thả. Heo đã được thoát chết, đi nhiểu quanh ngài ba vòng, đưa mũi mõm xúc chạm vào ngài như tỏ sự kính ái. Nên khiến phía Tây nam của ban giao trong vòng năm mươi dặm dứt tuyệt heo gà cho đến ngày nay. Sự cảm phát từ thiện ấy đều là loại này.

Đến năm Đại Nghiệp thứ (609), đời nhà Tùy, ngài thị tịch tại thiền viện tĩnh pháp, hưởng thọ tám mươi tuổi.

85. Thần tăng Đạo Anh

Thích Đạo Anh, ngài dòng họ Trần, người xứ Kỳ thị, Bồ châu. Thuở ấu thơ, ngài theo luật sư Thúc Hưu xuất gia. Ngài đến Tinh châu nương Pháp sư Cự học đạo. Sau, ngài nhập thiền định, hiển bày dị tích.

Niên hiệu Đại Nghiệp (60-617), đời nhà Tùy, ngài thường nhậm Trực ruế, cùng người đời tranh giành đất đai, đấu tranh hoài không dứt, ngài bèn nói với kẻ kia rằng:

– Ta hẳn chết vậy.

Bỗng nhiên, ngài ngã lăn cứng đờ như chết, người đời cùng nhau bình phẩm cho rằng:

– Đạo nhân lắm điều luống dối.

Dùng kim châm chích vào mai, tuy rất đau nhưng ngài vẫn bất động, hơi thở ngừng dứt, sắc da biến đổi sắp muốn trướng phình, bên cạnh có bậc trí giả khiến ngài quy mạng, thề không dám tranh giành nữa, xin ngài sống lại vậy. Vừa dứt lời, ngài ngồi dậy, nói cười như cũ. Lại nữa, ngài đến đầm hồ Long đài, đứng trên bờ, thấy cá bơi lội, ngài bảo:

– Tôi cùng ngươi tranh nhau xem thử ai thắng. Ngươi không kịp ta, ta có thể không kịp ngươi.

Ngài liền cởi áo nhảy xuống nước. Đệ tử ôm giữ áo ngài đứng đợi trải qua mười sáu ngày đêm. Ngài từ trong nước ra, bảo rằng:

– Trong nước chỉ có đất dơ làm lấm bụi ta.

Thêm nữa, đang lúc mùa Đông tuyết trời giá lạnh, băng đóng tuyết rơi, ngài bảo:

– Đây là chỗ yên tỉnh vắng vẻ, sao bị mất ngủ.

Ngài bèn cởi áo nằm ngửa trải qua ba đêm, vừa dậy, liền nói rằng:

– Bấy lâu bị than lửa thiêu hại ta.

Sau, ngài trở lại Bồ châu, trú tại chùa Phổ cứu, ngày thì khuyên chúng Tăng chuyên cần mọi sự, đêm thì trải tòa ngồi kiết già vì nói giảng thiền quán. Bấy giờ, hoặc xử đoán người lao nhọc, ngồi nghe pháp chẳng biết mỏi mệt. Một ngày nọ, đang giảng nói luận khởi tín, bỗng nhiên ngài ním lặng. Đại chúng lấy làm lạ đem xem thì hơi thở ngài đã dứt thân lạnh ngắt, mọi người biết ngài diệt tưởng, liền tự nhậm ý. Trải qua nhiều đêm, ngài mới từ trong định dậy.

Bấy giờ, tại Hà đông, có danh tăng Đạo Tốn Cao Thế là bạn đồng học của ngài, đến khi Đạo Tốn xả bỏ báo thân, ở cách xa ngài một trăm năm mươi dặm, chưa kịp đến báo. Đêm cuối, ngài biết Đạo Tốn đã mạng chung, ngài biết sự cảm thông vi diệu như thế đó.

Đến lúc trước đêm thị tịch, ngài nhóm chúng, bảo rằng:

– Sớm phải thu gọn, ngày mai có nhiều người đến, cần nên chuẩn bị thóc gạo rau quả lương thực.

Cả chúng chẳng ai lường được lời ngài dạy. Và ngài cũng tự điều vận thúc dục rất gấp, đến tối mọi việc đều xong, ngài tìm cầu nước cạo tóc tắm rửa, về lại chỗ ngồi lấy đại y đắp lên mình, bỗng nhiên thâu thần thị tịch.

86. Thần tăng Pháp Tấn

Thích Pháp Tấn, không biết ngài là người thuộc dòng tộc gì. Ngài trú tại chùa Ngọc Nữ, núi Hưởng ứng, huyện Miên trúc, Ích châu làm đệ tử của Thiền sư Huy. Sau, ngài đến Pháp sư Định cầu thọ giới Sa-di, ngài thường chuyên cẩn trọng chí thành cung kính, chỉ hành trì thiền tọa. Ngài thường tọa thiền nơi rừng Trúc sau chùa, có bốn con hổ vây quanh, ngài bảo chớ có tiết lộ sự tướng. Sau ngài dạy Thủy quán, có người đi hái củi, thấy trên giường dây có nước trong sạch, bèn lấy hai viên đá trắng bỏ vào trong nước. Đến chiều tối, ngài trở về chùa, người ấy cảm thấy sau lưng thốn đau, ngài hỏi thì trả lời là có bỏ đá vậy, ngài bảo ngày mai phải vất bỏ đi. Đến sáng sớm, ngài tọa thiền, người ấy trở lại thấy nước trong như lúc đầu, liền nhặt bỏ đá ra, chỗ đau liền hết. Nhân đó chuyên tập thiền định, chẳng ra khỏi núi ấy.

Niên hiệu Khai Hoàng (81-601), đời nhà Tùy, Thục Vương Tú đến Ích châu, bà phi mắc bệnh trong tim bụng, các thầy thuốc chữa trị đều không lành. Có Đạo sĩ Văn Phổ Thiện ở núi Xương long bạch nhai; Miên Châu hay đi trên dao vào trong lửa cháy. Chim ngỗng trời kêu trên núi có hai Đạo sĩ có khả năng gọi bảo quỷ thần, tế chương phù ấn, vào nước không chìm, cùng đến chữa trị đều không hiệu nghiệm, Thục Vương mới sai Trưởng sứ Trương Anh… đến núi thỉnh ra vì bà phi mà chữa trị, báo rằng:

– Tôi sống ở núi đã tám mươi năm, tánh đồng như nước.

Từ từ lại khổ cầu thỉnh mời. Ngài đáp:

– Mạng tận như thế, có thể tự sớm trở về.

Tin đưa về báo lại đầy đủ, Thục Vương sai quan nhân sáu ty đem xe bốn trâu nghé và trăm người tùy tùng đến nghinh thỉnh. Ngài bảo:

– Thục Vương tuy quý hơn nhưng mạng có sở thuộc.

Ngài vẫn giữ chí như lúc đầu. Tin lại đưa về, Thục Vương vô cùng tức giận, đích thân vào núi muốn ra tay xử tội, nhưng khi đã đến núi, vào chùa lễ Phật, thấy ngài thì bất chợt thân đổ mồ hôi, Thục Vương nói:

– Kính thỉnh thiền sư vì phi thiếp mà trị bệnh. Thiền Sư từ bi nguyện xin cứu khổ này!

Ngài đáp:

– Giết hại dê ăn thịt, tâm há chẳng thống khổ ư? Hết thảy chúng sinh đều là con Phật, cớ sao bà phi riêng mến tiếc sự sống của chính mình?

Thục Vương hổ thẹn sám hối, rồi thỉnh ngài xuống núi. Ngài bảo:

– Vương mạng đã quý trọng, không thể không thực hành, song bệ hạ tự đi về trước, Bần Đạo sống chẳng quen nương cởi sẽ có thể đi sau.

Thục Vương thưa:

– Đệ tử đi bộ theo cùng ngài đồng đi.

Ngài bảo:

– Người gia khác với người thế tục, nên bệ hạ cử đi trước, hẳn sẽ cùng đến.

Thục Vương đi suốt hai ngày mới về đến, ngài chỉ đi trong buổi sáng liền tới. Ngài đi qua phòng bà phi, bà phi thấy ngài đổ mồ hôi, nhân đó lành bệnh. Cúng dường ngài năm trăm đoạn vải lụa, cùng các vật áo nạp ca-sa… Ngài bảo Thục Vương và bà phi lấy nước rửa tay, bưng nắm mọi vật mà chú nguyện, đều dùng đưa vào làm cơ nghiệp ở chùa pháp tụ. Và ngài liền từ tạ trở về núi. Thục Vương và bà phi thấy chân ngài đi cách đất khoảng bốn, năm tất.

Năm Đại Nghiệp thứ 13 (617), đời nhà Tùy, ngày mồng tám tháng giêng, ngài thị tịch tại trong núi, rồng ngâm vượn hú suốt ba ngày mới thôi.

87. Thần tăng Tăng Lãng

Thích Tăng Lãng, ngài còn có một tên là Pháp Lãng, ngài dòng họ Hứa, người xứ Nam dương. Hơn hai mươi tuổi, ngài vui thích muốn xuất gia, dự tầm xuống tóc. Ngài nương ở bất định phần nhiều là hay trú tại Ngạc châu. Ngài ăn uống đồng như người đời, bị người thời bấy giờ cùng khinh. Ngài thường nuôi một con khỉ và một con chó, thân hình nó rất lớn đều màu vàng đỏ, chẳng đùa bởn với người khác, chỉ gần quanh ngài, người ngày đêm cùng theo, chưa từng rời bỏ. Đến giờ ăn thì dùng chén gỗ để ăn, ngài ăn no rồi, thức ăn còn thừa đưa cho chúng nó, và cùng đồng ăn trong chén bát của ngài. Ăn xong, con khỉ đem chén đeo mang trên lưng con chó mà đi trước ngài. Như có ai cướp lấy thì nó liền lên tiếng. Ngài để tùy con chó chạy quanh, lược không thường độ.

Khoảng cuối thời nhà Trần, đầu thời nhà Tùy (80-90), ngài đến ngoài Giang lãnh, ăn mặc thô xấu, oai nghi trác tuyệt tường tự, mang roi gậy đi theo hộ dưỡng sinh mạng. Bấy giờ ngài lại tụng đọc các Kinh, riêng lấy kinh Pháp Hoa làm chí nguyện chính, nhân vì thiếu hơi tiếng ít trong chẳng đầy, ngài mới mỗi một lần ngồi trì tụng đến bảy biến, như vậy, chẳng bao lâu, âm thanh ngài như sấm động. Biết được phước lực đã có sự tiến triển, ngài hẳn lấy số bảy làm kỳ hạn, cho đến bảy mươi, bảy trăm, bảy ngàn, rồi đến bảy vạn. Thanh vận hài hóa điều xướng tùy ý mà khởi tợ như tiếng đàn tranh tiếng sáo tùy phát rõ ràng. Nên lúc ngài tụng kinh, những bên cạnh quán xét xem đều nghe. Môi miệng ngài chẳng động mà chuyển khởi tù trong cổ họng. Xa gần đều thấu rõ, nhân đó mà hiển danh. Nhưng cánh tay, cẳng chân và tay ngài co duỗi tùy ý có như rùa rút ẩn. có lúc như ngài chứa thịt hoặc đến quán rượu cùng mọi người yến ẩm, mà cắn nhai thịt heo chẳng lường từ đâu lại. Nên người đời nói rằng:

– Ngài tăng lãng tụng kinh Pháp Hoa, năm nơi đồng một lúc rúc thịt heo đầy miệng trán.

Những lúc ngài tuần du trên sông, đi ngược dòng nước, ngài chỉ khoanh tay trong thuyền, khỉ và chó đều ngồi bên cạnh, đều không ghé bến nào không có mái chèo, tùy ý mà qua, tuy lướt trên sóng gió nhưng chỉ trong nháy mắt tức liền tới nơi.

Có vị Tỳ-kheo-ni bị quỷ dựa nhập, siêu ngộ huyền giải, biện luận giảng nói kinh pháp, dựa tông giảng dẫn, thính chúng tụ hội, đều chẳng thể lường, không ai chẳng tán thán sự thông minh đạt ngộ của Tỳ-kheoni ấy. Ngài nghe vậy, tự bảo:

– Ấy là tà quỷ gia nhập đâu có chánh lý, phải đến kiểm hiệu.

Vào một sáng sớm nọ, khỉ và chó đi đến chùa Ni trước, ngài đi sau, tới nơi, ngài lễ Phật đi nhiễu quanh tháp rồi đến trước giảng đường, vị Ni đó đang còn giảng nói, ngài gắng tiếng quở mắng:

– Tiểu yêu, ta nay đã đến, sao không xuống tòa?

Vị Ni ấy nghe tiếng ngài nói, liền xuống chạy ra đứng trước giảng đường đối diện với ngài từ giờ mão cho đến giờ thân, sững sờ chẳng đổi chỗ, mồ hôi tuông đổ giữa đất, nín lặng chẳng nói năng gì, nghe tuệ giải ấy bỗng nhiên như điếc như ngay, sau trăm ngày mới hồi phục bổn tánh. Ngài giáng hành cảm thông đều cùng loại như thế.

Đến cuối niên hiệu Đại Nghiệp (…-617), đời nhà Tùy, ngài thị tịch.

88. Thần tăng Tuệ Tường

Thích Tuệ Tường, ngài dòng họ Chu. Năm mười lăm tuổi, ngài xuất gia, tu hạnh Đầu-đà thường đi khất thực. Ngài tự nhiên tọa thiền tụng kinh chẳng đồng chúng.

Năm mười chín tuổi, ngài bị nhiễm bệnh, cứu chữa suốt ba tháng chẳng lành. Một đêm nọ, đang yên tọa, ngài tự than rằng:

– Là đại trượng phu muốn dùng thân theo đạo ở trong đời mạt pháp mà phá dẹp phi pháp. Cớ sao chí nguyện ấy chưa đạt mà bệnh hoạn làm khốn khổ!

Đến lúc gần sáng, có một người thân cao hơn một trượng đến nói với ngài rằng:

– Chí nên trì tụng kinh Niết-bàn chớ lo buồn không lành.

Đến sáng sớm, ngài liền phát nguyện trì tụng, ba ngày sau bệnh bèn lành hẳn. Khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (…-617), đời nhà Tùy, giữa mùa Hạ, nhân lúc đang thọ thực, trong miệng có được xá-lợi, ngài không biết, bèn quăng bỏ ra đất, thì liền trở lại trong miệng, cứ như thế đến mấy lần, ngài nghi là chân thân, dùng chày đá đập không vỡ nát. Bèn gióng chuông báo cùng đại chúng, kẻ Tăng người tục đều nhóm tụ, ngài rơi lệ đốt hương nguyện cầu ban giảng uy thần, bỗng chốc, xá-lợi phóng tỏa ánh sáng năm sắc, hương thơm phảng phất khắp thành. Đại chúng thấy điều hy hữu, tự nhiên thân thể ngài mập trắng cao hơn tám thước. Những người đi đường không biết, không ai chẳng lấy làm lạ mà chiêm ngưỡng.

Quan thứ sử Lý Thăng Minh đến chùa, cho là điều lạ, nói cùng các quan rằng:

– Dung mạo da dẻ của Đạo nhân ấy như vậy, có thể một ngày ăn hết con dê.

Nói xong, cảm thấy tay chân rã rời, cỡi ngựa tự mất sự chế phục. Các quan đem sự thật chỉ bảo, Thăng Minh bèn sám tạ nên được hoàn phục. Đại sứ Quyền Mậu đi đến Đặng châu lại sinh quái lạ, Thăng Minh nói rằng:

– Vị đại đức đó là người phi phàm, có nói đủ duyên trước kia.

Quyền Mậu không tin, xin bảy ngày đem thức ăn không ngon để ngài ăn, mà sắc da càng tươi nhuận sáng đẹp. Quyền Mậu hổ thẹn phủ phục sám hối tội không tin trước kia.

Đến lúc sắp tịch, tay ngài bưng kinh, quỳ nói cùng các đệ tử:

– Nay, tôi đi đây, các vị hãy khéo gìn giữ chớ để dứt mất.

Lại cảm dị hương khắp thành. Lúc đó là tháng tám năm Đại Nghiệp cuối cùng (617), đời nhà Tùy, ngài thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tuổi, khí mạng tuy dứt tuyệt mà ngài vẫn quỳ, tay bưng kinh như lúc ban đầu, mọi người xa gần đua nhau đến chiêm ngưỡng sự vượt hẳn bình thường ấy và đều tán thán.

89. Thần tăng Vô Tướng

Thiền sư Vô Tướng ở chùa Tướng trung, Phi châu, ngài không phải là người xứ Ba thục, chẳng biết ngài từ đâu lại. Bỗng nhiên thấy ngài đến chùa Núi theo chúng mà thôi, ngài chẳng khác người thường.

Chùa đó ở thượng lưu Phù châu, phía Bắc dòng sông lớn. Bên cạnh sườn núi có một bia Minh lớn vuông năm thước, chữ lớn như bàn tay, mọi người không ai biết, phía dưới có dấu chân Phật, cách chừng chín thước dài ba thước. Ngài đạp đá như bùn, kẻ Tăng người tục đều kính trọng. Nhân một lúc nọ, ngài qua sông Tề trở về không có thuyền, ngài đưa bình bát bỏ xuống nước và nói:

– Cớ sao ta phải thường ôm lấy ngươi, ngươi có thể tự vượt qua sông vậy.

Ngài bèn lấy lá chuối đặt trên nước và đứng lên trên mà qua sông, bình bát cũng theo sau mà lại, trong khoảng khắc liền tới bờ. Khi đó, có người lượm củi thấy vậy. Ngài cho rằng đã có người hiểu biết về mình bèn từ biệt mà đi. Đồ chúng khổ thiết lưu giữ mà ngài không ở lại. Xuống sông, ngài vào thuyền, mọi người lễ thỉnh chẳng đưa cho sào chống. Ngài nắm lấy mạn thuyền thẳng theo dòng nước, chẳng nhìn lại mà đi. Mọi người liền đuổi theo, song chẳng lường biết ngài ở đâu.

90. Thần tăng Minh Cung

Thích Minh Cung, ngài trú tại chùa Hội thiện ở Trịnh châu. Sức lực của ngài như thần, ngài từng đi trong núi, thấy hổ và heo giao đấu với nhau. Heo gần như chẳng ngang sức, ngài bảo hổ rằng:

– Có thể tha nó đi.

Hổ không chịu. Ngài dùng một tay nắm lấy đầu một tay tóm lấy đuôi ném hổ xuống núi.

Thêm nữa, ngài đem y của chư Tăng để dưới tảng đá. Chư Tăng lấy làm lạ, ngài cười, bưng cột trụ mà lấy y ra. Cuối niên hiệu Đại Nghiệp (…-617), đời nhà Tùy, giặc nổi dậy bắt cướp, buộc trong chùa làm thịt heo lớn đủ cho vài mươi người ăn. Ngài mời giặc ăn, giặc nhường ngài ăn trước. Ngài mới bày vài mươi chiếc bánh đặt thịt heo vào mà ăn, bỗng chốc ăn hết. Bọn giặc vô cùng kinh phục, ngài với bọn giặc làm Đàn-việt ủng hộ chùa. Bọn giặc chấp nhận. Nên trong thời nhà Tùy

nhà Đường giao quân tranh đấu, tại địa phận đó dứt tuyệt không có giặc tới lui. Đó là do sức lực của ngài.

91. Thần tăng Đàm Tuân

Thích Đàm Tuân, ngài dòng họ Dương, người xứ Hoằng nông, Hoa âm, sau dời nhà đến quận Hà đông. Năm hai mươi hai tuổi, ngài mới xả bỏ việc đời, tham vấn phương xa ẩn cư non cao. Ngài đến chùa Lạc tuyền ở cánh rừng phía Bắc núi Bạch lộc, gặp được Thiền sư Đàm Chuẩn, xin xuống tóc xuất gia. Sau ba mùa Hạ, ngài dời đến ở cốc Lộc thổ tu thiền, vừa gặp lúc suối khô cạn có nước lại nên loài Nai mi đi nhiễu quanh viện. Có được dòng nước trong lành, dần dần loài thú ngày một đến gần bên đường. Chúng Tăng cùng học cùng nhau vui mừng điềm lành ấy.

Có lần nọ, nhân thỉnh pháp tạm qua Vân môn, đi giữa đường gặp phải sương phủ mờ nên lạc mất đường, nhờ thần núi chỉ dẫn mới gặp được đường chính. Có lần kẻ trộm vào trộm rau quả, sắp muốn ra khỏi vườn, bị đàn ong chích nọc độc, ngài nghe vậy bèn đến cứu, với tâm từ đem ra chữa trị mà được toán mạng thừa.

Có người xứ Triệu từ xa đến, ân cần thiết lễ trình bày rằng:

– Nhân bị bệnh chết mà sống lại. Được thấy vua Diêm vương cật vấn tội trạng, đáng để cửa ngục may nhờ Thiền sư Đàm Tuân đến vì xin tha mạng. Diêm vương nhân đó tha cho. Được thoát khỏi nên nay đến lễ tạ!

Ngài đi trên núi gặp hai con hổ giao đấu với nhau thời gian lâu không dứt, ngài bèn nắm tích trượng phân ra, dùng thân ngăn chận, nói rằng:

– Đồng sinh sống trong rừng chầm, tính làm điều đại trái ngược, mong rằng mỗi mỗi hãy tự chia đường.

Hai con hổ cúi đầu vâng mạng, bèn hớp hơn mà phân tán. Ngài thường gặp gấu hổ giao tranh, sự việc đại lược đồng như thế. Và hoặc mở ở nơi bụi cây rậm rạp um tùm, chỉ có vết chân ngài vào mà chim muông chẳng bay loạn, loài thú thấy như ngẫu nhiên.

Mỗi lần ngài nhập định thường lấy bảy ngày làm kỳ hạn. Có con hổ trắng vào phòng bèn làm hang ổ, riêng mình con hổ sống trong tỉnh viện suốt mười năm chẳng ra. Từ khi có dấu vết thiền, người ở đó ít bắt chước làm theo, lúc ban đầu mới gặp, tật bệnh càng đình trệ. Bỗng nhiên có thần quang chiếu rọi hương đèn gió thoảng phất phới, hoặc cảm loài chim khác lạ cổ trắng mình đỏ, nhiểu quanh viện bay liệng giữa không trung, tiếng kêu bi thương buồn thiết. Khi đến lớn dần, chim đậu nơi nền giảng đường. Từ đó về sau quen nương tựa, không còn sợ hãi người vật. Hoặc đến trên cửa phòng hay vào trong chiếu nằm, kêu buồn càng rất thảm thiết đến nỗi máu xông lên trong mắt. Ngài bèn sang giáo hóa, chim liền bay ra ngoài xoay chuyển giữa không trung, bỗng nhiên liệng đi mất. Lại cảm hổ dữ nhiễu quanh viện, kêu rống buồn thương suốt hai đêm, mây mù phủ tối ba ngày, trời đất kết thảm lại thân, mù lở đá rơi, cây rừng gãy khe suối đều khô… Những ai cảm những linh tướng của ngài vẫn chưa thể ghi chép hết được.

Sau, đến năm Vũ Đức thứ (622), đời tiền Đường, ngài thị tịch. Các vị đệ tử như Tĩnh Hưu, Đạo Nguyện, Tuệ Phương…, cử hành lễ tràtỳ, nhặc lượm di cốt tạo tháp dựng bia.

92. Thần tăng Trí Mãn

Thích Trí Mãn, ngài dòng họ Giả, không biết là người xứ nào, giới hạnh cao thâm thanh khiết, ngài trú tại chùa An lạc.

Thời nhà Đường, Thái Tông (627-60), khi ở tại Tấn dương cùng với Lưu Văn Tỉnh. Đêm thủ mưu, vua Cao Tổ (618-627), mộng thấy từ trên giường rơi xuống, lại thấy trùng giòi nhóm ăn. Trong ý cho đó là rất xấu ác nên đem hỏi đến ngài. Ngài đáp:

– Đó nên lễ mừng. Phàm trên giường xuống, đó gọi là bệ hạ, đàn giòi rúc tụ nhóm ăn tức là quần sinh cùng nhau ngưỡng một một người mà sống.

Cao Tổ vui mừng với lời nói ấy. Ngài lại bảo:

– Bần đạo cũng có biết về dịch học. Dùng tượng quái để thấy rõ điềm công bằng, căn cứ theo dịch học nói: Tồn tại dưới giường phân như không lỗi mà trước cát sau hung. Đó hẳn là thể đại không thể dùng tiểu, dùng tiểu thì thất bại, dùng đại thì tế giúp. Nên cần làm việc lớn để cứu giúp quần sinh, không qua chẳng thông mới thành!

Cao Tổ đổi sắc mặt, nói:

– Chỉ mong nhờ khéo dụ, chưa dám đáng nhân!

Ngài liếc nhìn Thái Tông, bảo:

– Lang Quân cùng với đại nhân đều hiệp điềm mộng. Đó đáng gọi là làm lại được việc người trước đã làm hỏng, khảo dùng không lỗi. Phàm, lý trời sự người rõ ràng đáng biết, không thể cố chống cự điều trời ban cho vậy. Trời ban cho mà không nhận lấy, hẳn phải chịu lỗi ấy.

Không là chẳng thể vậy.

Vua Cao Tổ lễ bái mà cảm tạ rằng:

– Đệ tử sao mong lại phiền ý trinh trọng đinh ninh mà dám chẳng kính vâng!

Về sau, không biết cuộc đời của ngài như thế nào!

93. Thần tăng Trí Hy

Thích Trí Hy, ngài dòng họ Trần, người xứ Dĩnh xuyên. Năm hai mươi tuổi mới được theo nguyện, một lần được phụng gặp liền định thầy trò, luật nghi đầy đủ, bẩm thọ thiền quyết, thân tu tịch định. Ngài thường trú tại Phật lũng tu thiền đạo tràng. Những hành giả ưa thích Tam-muội đều cùng quy ngưỡng. Đến lúc nhàn rỗi yên tọa ngài lại chỉ huy tạo dựng già-lam, điện, đường, phòng nhà, đều nghiêm chỉnh. Chỉ còn kinh đài chưa tạo lập được, ban đầu muốn thuê công. Có đảnh hương lô, núi cao nguy hiểm cây rừng tú dị, nhưng thần kỳ ở đó rất có linh nghiệm, từ xưa trở lại không ai dám ngửa mặt trông nhìn đến ven sườn đỉnh núi huống gì là leo lên lượm củi chặt cây. Lúc ấy, Đại chúng cùng bàn luận với nhau rằng:

– Nay đã tạo lập kinh đài cúng dường Pháp bảo, chỉ chuộng sự tinh hoa đâu có thể khinh suốt vậy mà thôi. Ở trong đảnh núi Hương lô có các thứ cây bách cây sinh rất là tinh khiết ưu việt, có thể cùng lấy để đủ tạo lập cúng dường.

Bàn luận tường tất, rồi đến hỏi ngài, trình bày rõ ràng sự việc như trên. Giây lát lâu, ngài đáp:

– Thần núi giữ gìn mến tiếc, không thể tháo!

Mọi người không dám nói lại một lời nào, mỗi người tự về chổ cũ.

Đêm đó, ngài mộng thấy có người đưa sớ tấu rằng:

– Các thứ cây sinh cây bách trong đảnh núi Hương lô đều có thể xả thí cung cấp để tạo lập kinh đài.

Thời đó, có vị Tăng tên là Pháp Vân muốn vào đảnh núi Hương lô tu hạnh Đầu-đà, ngài can ngăn, bảo:

– Thần núi ấy kiên cường, ông đạo lực còn yếu kém, nếu đến đó ắc không được an, cẩn thận mà qua vậy.

Pháp Vân không nghe theo, bèn đến núi đó, chưa tròn hai đêm, thần núi liền hiện hình đuổi bảo trở về. Pháp Vân tự bày việc ấy mới nhớ lời dạy trước kia của ngài, rất sinh kính ngưỡng.

Có vị đệ tử tên là Đạo Tuyên tụng kinh tại phòng, ngài tự qua gọi, bảo:

– Chiều nay sẽ có vị Tăng đến.

Nói xong, bèn nhìn xuống cửa liền thấy một vị Tăng đắp mặc áo nạp, tay nắm tích trượng, ôm bình bát, hình thần sáng rỡ tài tuấn, có tướng dị thường, từ ngoài đi lại, cách khoảng hơn hai mươi bước mới đi về con đường phía Đông và ẩn mà chẳng hiện. Chỉ trong chốc lát liền nghe ở phía Đông núi có tiếng chuông trống nỗi vang chấn động cả hang cốc. Ngài bèn nói:

– Ôi! Gọi ta.

Trước khi viên tịch vài ngày, ngài nói cùng đệ tử:

– Thọ mạng ta không còn bao lâu nữa, nên tạo cho ít nước ấm nóng hương thơm để tắm rửa.

Vừa xong, từ trong núi, các loài cầm thú hình sắc khác lạ thường ngày chẳng từng thấy đều cùng nhau tụ hội bên cạnh phòng, đạp nhảy giữa đất, phóng vọt trên không, buồn thương kêu gào, trãi qua ngày sau mới tan. Bấy giờ là ngày 18 tháng12 năm Trinh Quán thứ nhất (627), thời tiền Đường, vào giờ ngọ, ngài ngồi kiết già ngay thẳng nghiểm nhiên, hơi dứt nhẹ dần như nhập thiền định, nhân đó thị tịch, chẳng còn trở lại. Khi ấy giữa không trung có tiếng đàn sáo, cả chúng đều nghe, lâu sau mới dứt. Để yên như thế trải qua vài ngày mới nhập vào khám đá, nhan sắc vẫn đầy đủ hòa duyệt, tay chân mềm mại chẳng khác gì lúc bình sinh. Ngài hưởng thọ bảy mươi hai tuổi.

94. Thần tăng Tuệ Chủ

Thích Tuệ Chủ, ngài dòng họ Giả, người huyện Vĩnh quy, Thỉ châu. Lên sáu tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Pháp sư Bân. Ở tại huyện Hoàng an, ngài tạo dựng bảy ngôi chùa, ở huyện Tử đồng mười ngôi chùa, ở huyện Vũ liên ba ngôi chùa. Năm hai mươi tuổi, muốn thọ giới Cụ túc, ở tại bổn xứ không có người mới vào kinh đô chọn mời tăng đức, ở chùa Cam lồ thọ giới, ngài chỉ nghe Tứ phần luật, còn lại các nghĩa đều thông qua.

Ngài mộng thấy ba ngày ba đêm trời đất tối tăm mịt mù, chúng sinh không có mắt, qua thời gian đó, bỗng nhiên có mắt sáng trở lại sáng sạch. Tỉnh giấc thì mồ hôi đã đổ, trăm ngày sau thì khắp nơi hủy bỏ kinh đạo, mới biết đó là điềm ứng chứng nghiệm. Ngài bèn trở về cố hương tại Nam sơn sống ẩn dật chỉ ăn lá tùng. Có các loài cầm thú khác nhau cùng đồng tụ tập không phát tiếng động. Lại có thần núi đưa phục linh cam tùng hương lại, ngài nhận sự cúng dường đó mà sáu thời hành đạo. Cầm thú đi theo lễ Phật tụng kinh, tợ như thính ngưỡng. Ngài mới vì các loài u hiển cho thọ giới Bồ-tát.

Sau, có bầy My hầu cùng nhau sửa đường. Ngài hỏi:

– Các ngươi tánh tình nóng nảy nhiễu loạn, làm vậy để làm gì?

Đáp rằng:

– Thời ngài khác, ngày nay thời hưng thịnh Phật!

Ngài rất lấy làm lạ lời nói đó, bỗng nhiên lại có điềm lành khác lạ, rồng bay, thú nhóm, hương thơm đầy núi, các loại như thế rất nhiều. Sau, có tám người cầm nắm cung gỗ, ngài rất kinh hãi. Các người đó liền an ủi ngài rằng:

– Thánh giả! Có bậc quân vương xuất thế hiệu là Khai Hoàng*.

Liền cùng xuống núi, đem sự việc tấu trình triều đình, mong dự phận xuất gia.

Niên hiệu Đại Nghiệp (60-617), đời nhà Tùy, vua Dương Đế (Dương Quảng) ban sắc ngài về bổn châu trú tại chùa Trúc lâm. Ngài thường xiển dương Tứ phần luật; lấy đó làm việc chính.

Niên hiệu Vũ Đức (618-627), đời tiền Đường, Thể Lăng, Dương, Công Lâm, Ích Châu, vốn ít có tín tâm, đem hơn trăm con lạc đà cùng mọi vật đến Thỉ châu, bảo an trí trong chùa, giảng đường, điện Phật, tăng phòng. Không ai dám chống trái, ngài từ trang trại trở về, thấy mọi thứ uế tạp như thế, liền vào trong phòng lấy tích trượng và ba chiếc y ra, than rằng:

– Sống chết là ngay ngày nay!

Ngài đưa tích trượng chỉ, cả đàn lừa loa đồng một lúc ngã dào như chết. Hai tay ngài mỗi tay nắm một con lạc đà ném xuống dưới hố. Quan dân khắp châu huyện rất kinh hãi nhớ in phong thái của ngài. Lăng Dương rất mừng không một gì lấy làm lạ, viết thư gởi đến ngài: “Đệ tử mắc vài bệnh, chẳng gặp, hại quỷ, may nhờ luật sư phá cho cái đãy xan tham, rất là lợi lớn. Nay gởi mười cây trầm hương và mười đoạn lụa mỏng kính tặng.” Sau, trở về kinh đô, bèn theo thọ giới Bồ-tát.

Năm Trinh Quán thứ 3 (629), đời tiền Đường, trong chùa, có Thiền sư Minh, thanh tịnh cao vượt khác chúng, giữa ban ngày ngồi một mình không thấy nửa thân hình, hướng cùng Đại chúng thuật lại rằng:

– Tôi cùng với Luật sư tạo dựng chùa này, hai người đồng một tâm chí, bỗng nhiên mất hết nửa thân hình, Luật sư Tương Bất đi trước.

Tương Bất tức là Thiền sư Minh ấy mất. Bỗng nhiên, đến giờ Ngọ, ngài không bệnh hoạn gì mà thị tịch, hưởng thọ tám mươi chín tuổi.

95. Thần tăng Minh Tịnh

Thích Minh Tịnh, ngài người xứ Cao mật, xuất gia từ thuở thíếu thời, chuyên tu thiền định. Sau, đi đến phương nam vượt qua phương Đông đến các núi Thiên thai… Ngài ôm hoài Thiền quán, chẳng tập học thế pháp và thường ăn mặc lam lũ, động chỉ đúng thời. Các bạn đồng tu thiền pháp chưa biết ngưỡng vọng cao xa của ngài đến nỗi gạo thóc trên núi đều hết sạch, hằng ngày ngài đến trong thôn xóm khất thực. Lúc mang trở về gặp bầy hổ đều nhắm mắt há mồm như tưởng đói khát. Ngài bảo:

– Ta kinh hành trong núi đầm đã lâu, gặp các loài hổ hủy lòng đều không sợ hãi. Nay bày liệt bên cạnh đường, hà chẳng là vì cầu ăn?

Ngài bèn dùng thìa xớt cơm vào miệng nó, phần còn lại thì ngài đối mặt với chúng nó mà ăn hết. Ngài bảo:

– Biết các ngươi lại, mà thức ăn ít, ta và các ngươi khác nhau thật chẳng xứng, ta rất lấy làm hổ thẹn!

Ngày hôm sau, ngài đi khất thực, hổ lại đến như trước.

Ngài đã từng gặp năm hạn hán lúa mà đều khô. Các loại dâm từ vọng cầu mời thỉnh, tuy thêm sự khẩn thiết ẩn trắc mà trọn chẳng được gì. Ngài bảo:

– Nên bãi bỏ các thứ cầu đảo tà ngụy, riêng mình tôi có thể cầu nguyện ban giáng.

Ngài bèn kết trai ở trong tĩnh thất bảy ngày, bỗng một sáng sớm mây nhóm mưa tuôn, khắp nơi cao thấp đều ngập tràn, trăm họ được lợi lớn.

Từ mùa Đông năm Trinh Quán thứ 3 (629) đến mùa Hạ năm sau, đời tiền Đường, suốt sáu tháng không có mưa. Vua Thái Tông ban chiếu cúng tế cầu mưa ở các đền miếu khắp mọi nơi sông ngòi non núi. Thời gian đó, trong khắp muôn dặm đều làm cho mọi người lo sợ và toàn không có ứng nghiệm gì. Có Phan Thị Lang, từng trấn nhậm ở mật châu, bíết ngài có khả năng chiêu cảm, bèn viết trạng văn tấu trình. Vua Thái Tông liền ban chiếu mời ngài đến ở trong kinh đô để cầu mưa. Ngài bảo:

– Điều cần có là không một tổn phí, chỉ nguyện tỉnh niệm Tam bảo từ bi tế độ tứ sinh. Sau bảy ngày hẳn sẽ ban giáng mưa móc cam lộ.

Ngài bèn đến chùa Trang nghiêm, trú tại một phòng tĩnh lặng thiền quán. Đến ngày thứ bảy, lúc trời sắp sáng, ngài hỏi người giữ gìn rằng:

– Ở phía Tây bắc giữa bầu trời đang ứng có vầng cầu vồng, nên ra xem thử.

Bỗng theo lời ngài ra xem thì có thật. Ngài bảo:

– Mưa đến!

Bỗng chốc mây nhóm tụ, chợt nhiên mưa lác đác, ngày đó đến trưa chiều trong biển cũng đều thông thấm, nên năm đó được mùa. Vua Thái Tông bèn ban sắc độ ba trăm vị Tăng để báo đáp ân đức của ngài. Những điều cảm ứng chứng nghiệm của ngài khó nghĩ nghì quyết tưởng không thể suy lường. Chỉ vì ở tại kinh thành xe cộ ồn náo huyên tạp mà tánh ngài thì không quen như thế, nên xin trở về chùa Nghĩa thắng ở quê hương, sống ở đó tiếp tục sự nghiệp hàng đạo. Cuối cùng không biết ngài còn mất như thế nào.

96. Thần tăng Trí Tảo

Thích Trí Tảo, ngài dòng họ Trương, người xứ Thanh hà. Năm ngài hai mươi tuổi, song thân đều qua đời, tang buồn vừa mới mãn, bèn nhiễm bệnh tật, trải qua nhiều năm tháng, thầy thuốc chạy chữa đều không hiệu nghiệm. Trong một đêm vắng, ngài nương roi gậy với thế mệt nhọc ra giữa sân ngước nhìn ánh trăng mà nằm, chỉ tâm chuyên niệm danh hiệu Bồ-tát Nguyệt Quang, chỉ nguyện đại bi cứu giúp nỗi khổ trầm kha của con. Ngài buộc niệm như thế, trải qua tuần đầu, nửa đêm, ngài bỗng mộng thấy một người hình sắc khác thường từ phương Đông đi đến, nói với ngài rằng:

– Ta nay đến đây vì ngươi mà chữa trị.

Bèn đưa miệng đến thân mình ngài lần lược hút nhổ, như vậy ba đêm liền, nhân vậy mà bệnh được lành. Ngài bèn phát nguyện lìa tục, đến chùa An tỉnh làm đệ tử Pháp sư Tuệ Bằng.

Nghe ngài Trí Giả Đạo hạnh nghi tắc vượt hẳn mọi người, ngài theo thuyền mành bềnh bồng thẳng đến Thiên thai, phủ phục cầu xin thọ đạo. Ngài Trí Giả bảo ngài hành trì Pháp Hoa để sám hối. Đến tuần thứ hai, đầu đêm mới lễ sám xong, đến thiền sáng như muốn an tọa, bèn thấy chín con rồng từ dưới đất vọt lên vượt thẳng giữa không trung. Sáng sớm mai, ngài đem thưa hỏi, ngài Trí Giả bảo:

– Đó là biểu tượng chúng sinh trong chín đường nghe kinh Pháp Hoa, ở đời vị lai sẽ phá trừ vô minh trú địa mà chứng nhập pháp tánh không.

Thời nhà Trần, năm Pháp Đức thứ (?), Vĩnh Dương, Vương Bá Trí làm thâu tiên đô, thỉnh mời ngài Trí Giả đến chỗ trấn nhậm, ngài bèn theo thầy thọ thỉnh, đồng đến núi Cối kê. Sau chín tuần xong pháp sự, ngài từ biệt Vương Bá Trí, về trú tại chùa núi Bảo lâm, hành trì Tam-muội Pháp hoa. Đầu đêm của ngày thứ nhất, như có người đến lay động cánh cửa, ngài bảo:

– Ngươi là ai mà nửa đêm đến lay cửa?

Liền có tiếng nói to lớn đáp rằng:

– Ta lại trông xem đèn.

Trải qua vài lần hỏi và đáp đều như vậy. Trong chùa đó trước đây có vị đại đức Thiền sư Tuệ Thành ban đêm đều nghe đủ như thế.

Bèn nói với đệ tử rằng:

– Ở trong nhà đó từ trước đến giờ có đại ác quỷ, nay nghe tiếng nói ấy, hẳn là quỷ đến lấy mạng người.

Trời gần sáng, Tuệ Thành đến gõ cửa và gọi ngài. Ngài chưa kịp đáp lời lại thì Tuệ Thành đi nhiễu quanh nhà đó, xướng rằng:

– Khổ thay! Khổ thay! Người ấy xong rồi!…

Ngài liền mở cửa, hỏi ý nói điều gì. Tuệ Thành đáp:

– Ông còn đó ư? Tôi nghĩ rằng đêm hôm qua quỷ đã làm hại ông, nên than như thế.

Qua đêm thứ hai, quỷ vào thẳng trong nhà vác chày vồ đập tường đánh cột khắp cả Đông tây. Trong nhà có sáu cây đèn, ngài tắt hết năm cây chỉ để lại một cây, mà hành đạo. Ngài tọa thiền tụng kinh thảng nhiên không khiếp sợ. Trong vòng ba tuần sự việc xảy ra thường như thế. Hành pháp sắp xong, ngài thấy một đồng tử mặc áo xanh, đến khen ngợi:

– Lành thay!

Nói xong bèn không thấy.

Ngài lại nhân có Phật sự nên ra qua đường Cối kê, vào khất thực trong thôn Hiếu hạnh, Huyện diệm, người chủ lầm nấu nấm độc thiết cúng, thọ thực xong ngài thẳng đường trước mà đi. Sau đó người chủ ăn thức ăn còn lại, tất cả đều bị khổ oái lỵ như chết. Người hàng xóm thấy thế liền mang thuốc tìm đuổi theo ngài, đi hơn mười dặm mới kịp, thấy ngài đi khoan khoái không việc gì. Ngài hỏi:

– Cớ gì mà tìm kiếm ngài?

Người đó trình bày đầy đủ việc trên, ngài cười, đáp:

– Bần đạo không sao, có thể đổ bỏ thuốc đi mà trở về chẳng cần phải đuổi theo.

Năm Trinh Quán thứ 12 (638), đời tiền Đường, ngài thị tịch ở chùa, hưởng thọ tám mươi ba tuổi.

97. Thần tăng Tri Uyển

Sa-môn Tri Uyển ở U châu, ngài khổ công tinh luyện rất có học thức.

Niên hiệu Đại Nghiệp (60-617), đời nhà Tùy, ngài phát tâm tạo hết kinh tạng bằng cách khắc viết chữ trên đá để phòng bị Pháp diệt. Ngài đã ở tại Tây sơn, U châu đục đá làm thạch thất, mài bốn phía tường dùng để tả kinh. Lại dùng đá riêng từng tấm vuông mài láng viết khắc kinh, cất chứa đầy trong mật thất rồi dùng đá lấp bịt cửa, nấu sắt chảy mà hàn lại. Bấy giờ vua Dương Đế (60-617), đời nhà Tùy đang yên ở Sông trác (xứ Trực Lệ), nội sứ thị lang Tiêu Vũ là em của hoàng hậu, tâm tánh rất kính tin Phật pháp, đem sự việc của ngài nói cùng hoàng hậu. Hoàng hậu bèn cúng dường một ngàn xấp lụa, Tiêu Vũ cúng dường năm trăm xấp lụa. Mọi người từ chốn cung đình cho đến vùng quê nghe thế, cùng đua nhau xả thí cúng dường, nên công việc của ngài được hoàn thành.

Ngài thường vì công thợ đã đông mà kẻ tăng người tục cũng hay tụ hội, nên muốn ở phía trước núi, tạo lập ngôi nhà bằng gỗ để thờ Phật, cũng như trai đường, nhà nghĩ mà nghĩ rằng cây gỗ ngói gạch khó có đủ sợ tốn kém nhiều kinh phí nên chưa thể khởi công. Bỗng một đêm nọ mưa lớn, sấm sét chấn động cả núi. Sáng sớm mai trời đã tạnh, nhìn xuống dưới núi thấy có cả ngàn muôn cây tùng lớn bị nước cuốn trôi tấp bên đường, kẻ Tăng người tục kinh hãi không biết từ đâu lại. Từ đó xa gần mọi người đều thán phục, ngài bèn bảo thợ chọn lọc gỗ đó, còn lại đều phân chia cho thôn ấp. Mọi người trong thôn ấp mừng thẹn mà hổ trợ ngài tạo dựng nhà cửa điện đường, chỉ trong thời gian ngắn thì hoàn thành như chí nguyện của ngài. Ngài khắc kinh trên đá chứa đầy bảy thất.

Đến năm Trinh Quán thứ 13 (639), đời tiền Đường, ngài thị tịch, các vị đệ tử tiếp nối sự nghiệp của ngài.

98. Thần tăng Đại Chí

Ngài Đại Chí dòng họ Cố người ở Cối kê, xuất gia từ thuở bé, phụng thờ ngài Trí Giả làm thầy. Ngài Trí Giả thấy ngài hình thần phóng khoáng cao vượt bình thường, nhân đó mà đặt cho tên là Đại Chí.

Ngài trì tụng kinh Pháp Hoa sách nhiên nhân tĩnh, âm thanh trong suốt, người nghe quên cả mỏi mệt. Sau, ngài trú tại chùa Cam lồ ở Lô sơn hành hạnh Đầu-đà, có lúc ngài lao mình đến loài thú dữ nhưng chúng nó né tránh. Gạo thóc nếu hết thì ngài chỉ ăn dùng bánh trái để kéo dài sự sống mà thôi. Suốt bảy năm, ngài hành trì thiền tụng như thế không ngừng nghỉ. Về sau, ngài trú trì chùa Phước lâm. Gặp thời gian trong niên hiệu Đại Nghiệp (60-617), đời nhà Tùy, phá hoại Phật pháp, ngài bùi ngùi vì Đại pháp đang bị tàn khốc, bèn đắp mặc áo hiếu đến trong Phật đường gào khóc thảm thiết cả ba ngày, phát nguyện xả bỏ hình hài để thân minh Phật pháp. Ngài liến đến Đông đô, dâng biểu tấu trình: “Nguyện xin bệ hạ hưng long Tam bảo, bần đạo sẽ đốt cánh tay để báo đáp ân trạch của nước nhà!” Vua Dương Đế chấp thuận. Ngài bèn thiết đại trai hội, thất chúng đều tu hội, ngài tuyệt thực ba ngày leo lên trong một rạp lớn, lấy vải bố quấn cánh tay dùng sáp rát vào như một bó đuốc, ánh sáng chiếu soi khắp cả núi hang lung lay tỏa sáng. Đại chúng thấy ngài hành khổ, đau xót tận tim tủy, mà ngài hình sắc vẫn không đổi thay, hoặc là tụng đọc kinh văn, hoặc là tán thán công đức chư Phật, hoặc vì đại chúng nói pháp…, tiếng tiếng chẳng dứt. Thiêu xong, ngài xuống khỏi rạp, ngồi kiết già nhập định, bảy ngày sau ngài thị tịch.

99. Thần tăng Trí Thông

Ngài Trí Thông trú tại chùa Bạch mã, ở Dương châu. Chuyên tu tập Tam luận. Ngài lại vượt sông qua trú tại chùa An lạc, gặp lúc nhà Tùy mất ngài muốn trở về nhưng không phương kế, bèn ẩn trong cỏ lau ở bờ sông, trù tụng kinh Pháp Hoa, suốt bảy ngày chẳng biết đói, thường có bốn con hổ đi nhiểu quanh ngài. Ngài bảo:

– Ta đã mười ngày không ăn, mạng sống chỉ còn trong hơi thở, các ngươi có thể cứ ăn lấy.

Hổ liền nói tiếng người rằng:

– Từ lúc tạo lập đất trời không có lý ấy.

Bỗng thấy một ông già kẹp dưới nách một chiếc thuyền nhỏ, đi đến bảo:

– Ngài muốn qua sông hãy mau lên thuyền.

Bốn con hổ thấy thế mà rơi lệ. Ngài bảo:

– Giữ nguy nhổ nạn chính ở ngày nay!

Liền cùng bốn con hổ nhanh nhẹn vượt đến bờ nam. Thuyền vừa cập bờ thì ông ấy bỗng nhiên không thấy nữa. Ngài dẫn bốn con hổ đến dừng nghỉ ở phía Tây tháp Thê hà, kinh hành thiền tụng, thề chẳng nằm ngủ. Đại chúng an trú hơn tám mươi người.

Bỗng nhiên như có hung sự, hổ lại gầm thét lớn, do đó mà cảnh giác. Trong niên hiệu Trinh Quán 99 (?), nhân ngày Phật Đản sinh, ngài đốt hương đãnh lễ khắp các thánh tượng rồi trở về tĩnh thất đoan tọa thị tịch.

100. Thần tăng Thiện Đạo

Pháp Sư Thiện Đạo, ngài người xứ Lâm Chuy. Với tín tâm vào nơi Đại tạng tự tay chọn lấy được quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, ngài bèn chuyên tâm niệm Phật, tu pháp Thập lục diệu quán. Kịp đến khi ngài đến trú tại Lô sơn, đọc xem Di trục của ngài Tuệ Viễn, bỗng nhiên tăng trưởng tư duy. Sau ngài ẩn tích tại Chung nam tu pháp Ban châu Tam-muội vài năm, ngài thấy rõ các báu Hồ ngọc hiện ngay trước mắt.

Ngài lại đến Tấn dương trao cho Thiền sư Đạo Xước kinh Vô Lượng Thọ. Ngài nhập định bảy ngày, Đạo Xước thỉnh ngài quán chiếu về chỗ sinh. Ngài đáp rằng:

– Sư phải sám hối ba tội mới có thể được vãng sinh, đó là:

  1. Sư thường an trí tượng Phật dưới diềm cửa sổ mà tự ở chỗ phòng sâu kín.
  2. Đang tại trước Phật lễ sám lại thường sai sứ người xuất gia.
  3. Đang tại trước tứ phương tăng lễ sám.

Lại nhân đó làm nhà tổn hại sinh mạng côn trùng rất nhiều. Sư phải đối trước hết thảy chúng sinh mà sám hối.

Ngài Đạo Xước tĩnh tọa tư duy những lỗi lầm xưa trước bèn tẩy tâm sám tạ. Thời gian lâu sau, ngài Thiện Đạo xuất định nói cùng Đạo Xước rằng:

– Tội sư đã tiêu diệt. Sau này, lúc có ánh sáng sắc trắng soi chiếu thì đó là tướng vãng sinh.

Ngài Thiện Đạo hoằng hóa tại chốn kinh đô, mọi người quy tụ đông như chợ. Bỗng nhiên, ngài hiện chút bệnh, bèn đóng thất, an nhiên niệm Phật mà thị tịch, có hương thơm khác lạ, tiếng nhạc cõi trời hướng về phía Tây mà ẩn.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9