THÁNH DIÊM MẠN ĐỨC CA OAI NỘ VƯƠNG
LẬP THÀNH ĐẠI THẦN NGHIỆM NIỆM TỤNG PHÁP

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_ Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quán sát cung Trời Tịnh Cư, các Bồ Tát, tám Bộ Trời Rồng rồi bảo Văn Thù Sư Lợi rằng:”Quá khứ mười a tăng kỳ câu chi Như Lai đều ở nơi Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, nói Chân Ngôn, Giáo Pháp của Văn Thù Sư Lợi vì muốn cho Phật Pháp trụ lâu ở đời, gia trì quốc vương, hộ trì cõi nước, dùng Pháp Thập Thiện hóa đạo hữu tình. Nay đúng là lúc, ông hãy tuyên nói”

Thánh Diêm Mạn Đức Ca Oai Nộ Vương cỡi trên con trâu xanh, cầm mọi loại khí trượng, dùng đầu lâu làm Anh Lạc, mão trên đầu, mặc quần da cọp, thân dài vô lượng do tuần, khắp thân có lửa cháy sáng rực như Kiếp Hỏa, ngoái nhìn bốn phương như sư tử phấn tấn, nói Căn Bản Chân Ngôn là:

1_ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm

2_ A bát-la để hạ đa xá sa na nẫm

3_ Úm, yết la yết la

4_ Củ lỗ củ lỗ

5_ Ma ma, ca lị diêm

6_ Bạn nhạ bạn nhạ

7_ Tát phạ vĩ cận nam

8_ Nặc hạ nặc hạ

9_ Tát phạ phạ nhật la, vĩ nẵng dã kiến

10_ Mộ la-đà tra ca

11_ Nhĩ vĩ đán đa ca ra

12_ Ma ha vĩ cật-lị đa lỗ tỳ ninh

13_ Bát tả bát tả

14_ Tát phạ nột sắt-diêm

15_ Ma ha nga na bát để

16_ Nhĩ vĩ đán đa ca ra

17_ Mãn đà mãn đà

18_ Tát phạ nghiệt ra hám

19_ Sát mục khư

20 _ Sát bộ nhạ

21_ Sát tả ra nõa

22_ Lỗ nại-ra ma nẵng dã

23_ Vĩ sắt-nộ ma nẵng dã

24_ Một-ra hột-ma niên nê phạ na nẵng dã

25_ Ma vĩ lam phạ, ma vĩ lam phạ

26_ La hộ la hộ

27_ Mạn noa ra mạt đệ

28_ Bát-ra phệ xá dã

29_ Tam ma dã, ma nộ sa-ma ra

30_ Hồng hồng hồng hồng hồng hồng, sa-phả tra sa-phả tra, sa-phạ ha

Vừa mới tụng Chân Ngôn này thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách. Hết thảy cung điện, nơi cư ngụ của Thiên Ma, Tỳ Na Dạ Ca, loài gây chướng ở Thế Gian đều bị chấn động mạnh, sợ hãi chẳng an… đều đến vân tập đảnh lễ Đại Oai Đức Tôn mà bạch rằng: “Cúi mong Ngài thương xót làm cho chúng con hết sợ hãi”

_Bấy giờ Oai Nộ Vương bạch Phật rằng: “Nay con nói Chân Ngôn. Thập Địa Bồ Tát nghe Chân Ngôn này nếu chẳng tùy thuận Giáo Pháp còn có thể bị tiêu dung huống chi là các Thiên Long Bát Bộ, loài gây chướng nạn.

Trước tiên, tụng Chân Ngôn này mãn một vạn biến, tức hay làm mọi loại điều phục mãnh lợi.

Nếu có người ác, oan gia đối với người lành khởi ý ác muốn gây nguy hại. Nên dùng vàng, đồng đúc một tượng Oai Nộ Vương, lớn nhỏ tùy ý. Ở trong Tịnh Thất làm Đàn tam giác, an Tượng giữa Đàn, dưới Đàn vẽ hình kẻ ác hoặc viết tên tuổi, Tượng xoay mặt về hướng Bắc; người trì tụng, thân mặc áo đen, ngồi xoay mặt về phía Nam, kết Sóc Ấn, tiếng đọc rất giận dữ. Ngày ba thời niệm tụng, trong bảy ngày thì người ác kia hoặc bị ác tật, hoặc nhọt ác, hoặc thân bị tiêu tan

Lại có Pháp. Vẽ Thiết Đổ Rô (Śatrū: Oan gia) trên lá bối, hoặc trên vỏ cây hoa. Vẽ xong, kết Sóc Ấn , án trên trái tim của kẻ ấy, tụng Chân Ngôn gia trì 108 biến. Sau đó để bên dưới Tòa của tượng, chọn ngày Huỳnh Hoặc, giờ Ngọ làm Pháp. Lại mỗi ngày, ở giữa đêm dùng Sóc Ấn án trên trái tim của Tượng ấy, tụng Chân Ngôn 21 biến, tưởng Thiết Đổ Rô kia ở ngay dưới tượng thời kẻ đó và doanh tòng quyến thuộc đều bị suy tàn.

Lại có Pháp. Trước tiên vẽ Đàn tam giác, trong Đàn vẽ hình Thiết Đổ Rô (Oan gia), lấy cây Khư Đà La làm cái Quyết (cây đinh, cái cọc) dài khoảng bốn tấc (tấc Tàu), đầu của cái Quyết như hình Độc Cổ. Dùng Chân Ngôn gia trì 108 biến, trong Chân Ngôn xưng tên người ấy, thêm ở cuối câu, rồi đóng trên trái tim kẻ ấy. Một ngày ở trước Tượng ba thời niệm tụng, mỗi thời 108 biến, tùy sức cúng dường, đốt An Tất Hương. Mãn một tháng thì Thiết Đổ Rô (oan gia) đứng ngồi không yên, bỏ đi nơi khác, sau đó thân bị bệnh đến chết. Người trì tụng khởi lòng thương xót, làm Pháp Hộ Ma để Tức Tai thì kẻ kia bình phục như cũ.

_Tiếp nói Đại Tâm Chân Ngôn Pháp. Chân Ngôn là:

“Úm, hột-rị, sắt-trí-rị, vĩ ngật-rị đa na nẵng, hồng. Tát phạ thiết đốt-luân, nẵng xả dã, tắc-đam bà dã, tát-đam bà dã, sa-phả tra sa-phả tra, sa-phạ hạ”

Đối trước tượng Đại Thánh làm Đàn tam giác, tụng Chân Ngôn này một vạn biến thì công hạnh liền thành. Sau đó lấy bùn đen nắm làm hình Thiết Đổ Rô (Oan gia) nằm ngửa, bỏ phân lừa ở trong bụng. Lại lấy xưng con lừa làm cái Quyết (cây đinh) dài 6 tấc, mỗi một cái đều tụng Chân Ngôn 108 biến. Xong lấy hai cây Quyết đóng ở hai vai, hai cây Quyết đóng ở hai bắp vế, một cây đóng trên trái tim. Ngồi xoay mặt về phía Nam, đốt An Tất Hương, tụng Chân Ngôn một vạn biến thì Xả Đổ Rô (oan gia) ấy liền bị bệnh, thổ huyết mà chết.

_Lại có Pháp. Đối trước tượng làm Hỏa Đàn tam giác, Hộ Ma bảy đêm. Dùng cây có gai góc làm củi nhóm lửa, lấy lá Khổ Luyện viết tên hai người yêu nhau, đem lưng lá dựa nhau, dùng da rắn bao lại, lấy lông chuột buộc ràng trên hai cái lá, dùng 108 cái như vậy. Ở trong câu Chân Ngôn, xưng tên người đó, tụng Chân Ngôn một biến rồi ném vào trong lửa thời hai người kia tăng thêm hiềm khích, không còn hòa thuận.

_Lại có Pháp. Muốn khiến người ác đi xa, lấy 108 cái lông chim quạ thấm dầu hạt cải (giới tử) rồi thiêu đốt trong lò tam giác, dùng cây có gai góc làm củi nhóm lửa , Hộ Ma một đêm. Ở trong câu Chân Ngôn xưng tên người đó, một biến thì một lần ném vào lửa thiêu đốt thời người kia chẳng được tự do liền bỏ đi, đến phương xa

_Lại có Pháp. Muốn ở quân trận được thắng. Lấy 108 cái lá cỏ tranh dài 12 ngón tay thấm dầu mè rồi thiêu đốt trong lò tam giác, dùng cây có gai góc làm củi nhóm lửa, Hộ Ma bảy đêm, tụng Chân Ngôn 108 biến. Ở trong câu Chân Ngôn xưng tên tướng soái của giặc, một biến thì một lần ném trong lửa, liền phá được quân trận ấy, được thắng.

_Lại có Pháp. Lấy sáu lạng bột sắt, tụng Chân Ngôn, trong câu xưng tên người kia. Sau đó lấy một nhúm, dùng Chân Ngôn gia trì, một biến thì một lần ném vào trong lò tam giác, Hộ Ma bảy đêm thời Thiết Đổ Rô (Oan gia) kia liền tự suy tàn

_Lại có Pháp. Lấy cây Khư Đà La làm cái Quyết (cây đinh) dài bốn ngón tay. Ở trong Đàn tam giác, dùng tro của Tử Thi (xác chết) vẻ hình Xả Đổ Rô (Oan Gia), tụng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi đóng trên trái tim của Xả Đổ Rô, tụng Chân Ngôn một ngàn biến, trong câu Chân Ngôn xưng tên người ấy thì người đó liền bị diệt vong.

_Tiếp nói Tâm Trung Tâm Pháp Chân Ngôn là:

“Úm, sắt-trí-rị, ca la lỗ ba, hồng, khiếm, sa-phạ hạ”

 

Lúc niệm tụng tác Pháp này thời tụng Tâm Chân Ngôn này, ấn năm nơi trên thân để Hộ Thân với dùng Tịch Trừ, Kết Giới. Nếu có thể mỗi ngày tụng một ngàn biến thì tất cả người ác, oan gia chẳng có dịp thuận tiện hãm hại, khiến cho người kia tác Pháp ác chẳng thành; thảy đều phá hoại Chú Trớ ếm đối. Nếu thấy mộng ác, tụng bảy biến thì mộng ác chẳng ứng.

_Lại có Pháp. Kết Tâm Trung Tâm Ấn, khua chỉ về phương của Thiết Đổ Rô (Oan Gia) thì cõi nước ấy khởi bệnh dịch, hạn hán, nước dâng tràn. Nếu muốn giải thời khởi tâm Đại Bi , khua Ấn tưởng nghĩ mọi người trong nước ấy trợ nhau khởi tâm Từ, xem nhau như cha, như mẹ, như con trai, như con gái. Tụng Chân Ngôn một vạn biến liền ngưng dứt tai nạn.

_Tiếp kết Căn Bản Ấn Pháp. Hai tay xoa nhau nắm lại thành Quyền, dựng thẳng hai ngón giữa cùng hợp đầu ngón liền thành.

Ấn này có oai lực lớn, có Đại Thần Nghiệm. Vừa mới kết Ấn này tụng Chân Ngôn thì người đó ngang bằng với thân của Đại Oai Đức Phẫn Nộ Minh Vương không có khác.

_Tiếp nói Tâm Ấn Pháp. Như Căn Bản Ấn lúc trước, duỗi hai ngón trỏ rồi co lại như Tam Kích Xoa tức thành.

Kết Ấn này tụng Chân Ngôn thì việc Pháp đã làm đều được thành tựu.

_Tiếp nói Tâm Trung Tâm Ấn. Như Tâm Ấn lúc trước, dựng đứng hai ngón trỏ tức thành.

Kết Ấn này tụng Chân Ngôn hay thành biện tất cả việc.

_Lại có Pháp. Nếu muốn đập nát kẻ địch, cần phải làm Đàn tam giác, ổ trong vẽ Đại Oai Đức Minh Vương với thân màu mây đen huyền, khắp thân sanh lửa mạnh, cầm nắm các khí trượng đủ màu. Thân an ba chữ là: Đảnh an chữ Úm (輆- OṂ), miệng an chữ Ác (猱- ĀḤ), trái tim an chữ Hồng (猲- HŪṂ). Thành tựu Tôn Thân xong, ở dưới tượng ấy để các Xả Đổ Rô (Oan gia) kèm an tên gọi. Đối trước tượng này cần phải bày chữ ở thân mình giống như Pháp Tượng trong Đàn, oai nghiệm thảy đều như vậy. Liền kết Ấn tụng Đại Tâm Chân Ngôn lúc trước 1080 biến, ở trong nghĩa của câu Chân Ngôn, bên dưới Xả Đổ Rô (oan gia) xưng tên gọi kẻ ấy sẽ khiến cho bè đảng của kẻ ấy tự nhiên lui tan, hoặc khiến bị nhiều bệnh, thổ huyết mà chết.

Lại vẽ Tượng ấy với tưởng thân của mình thuần màu xanh đen có 6 chân, 6 đầu, 6 cánh tay tức là Tịnh sáu nẻo, mãn sáu Độ, thành sáu Thông.

_Tiếp lại tụng Tam Tự Minh tùy theo nơi chốn, mỗi mỗi bày Chân Ngôn là:

“Úm. ác hồng”

_Tác gia trì này thành tựu thân xong, liền tụng Đại Oai Đức Minh Vương Tán

“Nẵng mô phạ ra na, phạ nhật-ra nghiệt-ra (1) mạn nhu cụ sái, ma hạ ma ra (2) sa hạ sa-ra phệ ngộ vĩ nhạ dị (3) vĩ cận-nẵng ra sắt tra-ra bả mạt na ca”

 

_Tiếp nói 23 loại cúng dường hay khiến cho Pháp đã làm mau được thành tựu.

_Tiếp Tùy Tâm Chân Ngôn là:

“Úm, sắt-trí-rị, ca la lỗ ba, hồng, khiếm, tát-phạ hạ”

 

_Tiếp Tâm Đảnh Khẩu Tâm Chân Ngôn là:

“Úm. ác hồng” 

(Bắt đầu kết Ấn niệm tụng, trước tiên tưởng ba chữ màu xanh tức thành Bổn Tôn là sáu chân, sáu đầu, sáu tay tức là Tịnh sáu nẻo, mãn sáu Độ, thành sáu Thông)

 

THÁNH DIÊM MẠN ĐỨC CA PHẪN NỘ VƯƠNG NIỆM TỤNG PHÁP

Tiếp nói 23 loại cúng dường.

Trước tiên nhiếp tụng là:

Đầu tiên quét đất (tảo địa) tụng

Thỉnh Triệu đến Át Gia

Hiến tòa, tắm rửa, Linh (cái chuông)

Áo (y), Đồ hương (hương xoa bôi) , Thiêu (hương đốt) ,

Hoa Gia trì phấn năm màu

Quanh Đàn tụng Chân Ngôn

Tiếp tụng Bảo Tràng Phan (phan phướng báu)

Bảo hiên (mái hiên báu), bảo lâu các (lầu gác báu)

Phiến (cây quạt) với báu trang nghiêm

Đèn, Chân Ngôn hiến thực

Với hiến Niệm Tụng Số

Cuối cùng phụng tống Phật (đưa tiễn Phật)

Tụng xong, y họa tượng

Thứ tự đều như vậy

Chân Ngôn đó theo đây

Tính đếm hai mươi ba (23)

Nay từ Tảo Địa khởi

 

_Tảo Địa Chân Ngôn là:

“Úm (1) nễ ma tha, nễ ma tha (2) tát phạ bộ đán”

_Thỉnh Triệu Chân Ngôn là:

“Úm (1) sát mục khư (2) sát bộ nhạ (3) sát tả ra nõa (4) a đồ mưu sa ra (5) bả ra thú, bá xả, ha sa-đa”

 

_Át Già Chân Ngôn là:

“Úm, ma ha vĩ cận-nẵng, già đa ca”

_Hiến Tọa Chân Ngôn là:

“Úm, hồng hồng, mật-phả tra, mật-phả tra”

_Táo Dục Chân Ngôn là:

“Úm, tát phạ bộ đa, bà dã tra-ca ra”

_Kim Cương Linh Chân Ngôn là:

“Úm, a tra tra, ha sa nẵng nễ ninh”

_Hiến Y Chân Ngôn là:

“Úm, vĩ-dạ già-la, tả ma nễ phạ sa nẵng”

 

_Đồ Hương Chân Ngôn là: “Úm, củ lỗ củ lỗ, tát phạ yết ma nê”

_Phần Hương Chân Ngôn là:

“Úm, thân na thân na, tát phạ mãn đát-ra”

_Hoa Chân Ngôn là:

“Úm, tần na tần na, bả-ra mẫu nại-lam”

_Gia Trì Ngũ Sắc Phấn Vi Đàn Chân Ngôn là;

“Úm, tát phạ nột sắt-diêm, bát-ra phệ xả dã, bát-ra phệ xả dã, mạn trà ra, mạt đệ”

_Bảo Trướng Chân Ngôn là:

“Úm, ma vĩ lam phạ, ma vĩ lam phạ”

 

_Tràng Phan Chân Ngôn là:

“Úm, phệ phạ sa-phạ đa, nhị vĩ đán đa, ca ra”

 

_Phan Chân Ngôn là:

“Úm, củ lỗ củ lỗ, ma ma, ca lị-diêm”

 

_Bảo Hiên Miện Chân Ngôn là:

“Úm, tát phạ xá bả lị , bố ra ca”

_Bảo Lâu Các Chân Ngôn là: “Úm, tam ma gia, ma nỗ sa-ma ra”

_Phiến Chân Ngôn là:

“Úm, tắc-bố tra dã, tắc-bố tra dã”

_Trang Nghiêm Chân Ngôn là:

“Úm, a yết ra sái dã, a yết ra sái dã”

 

_Đăng Chân Ngôn là:

“Úm, na ha na ha, bát tả bát tả”

 

_Hiến Thực Chân Ngôn là:

“Úm, khư khư, khư hứ khư hứ, nột sắt-tra tát đát-phạ nẵng ma ca”

 

_Hiến Niệm Tụng Biến Số Chân Ngôn là:

“Úm, hệ hệ, bà nga phạm”

 

_Phụng Tống Chân Ngôn là:

“Úm, khẩn chí ra dã tỉ”

_Phất Chân Ngôn là:

“Úm, vĩ cật-rị đa nẵng nẵng

 

Các Chân Ngôn bên trên, người tu hành chỉ tụng ba biến hoặc bảy biến tức đủ 23 loại cúng dường như trên, mau được thành tựu Tất Địa mong cầu

Lại trong 23 loại Minh ở trên, Gia Trì Ngũ Sắc Phấn Minh thì ở chỗ tạo lập Đàn xong nên dùng Chân Ngôn này gia trì vào phấn ấy rồi vẽ quanh Đàn

Phụng Tống Chân Ngôn ấy, khi niệm tụng xong rồi, muốn ra khỏi Đạo Tràng thì nên tụng Minh này để khiển (đưa tiễn) Thánh Chúng.

_Lại có Pháp. Muốn khiến cho Thánh Giả mau giáng lâm, mau trừ chướng nạn, mãn Bổn Nguyện. Dựa theo lúc trước, tạo dựng Hỏa Đàn tam giác, nên lấy An Tất Hương với Bạch Giới Tử (hạt cải trắng) và Ma Nỗ Sa, Lỗ Địa La (Rudhira: máu) hòa với các thuốc độc, Xích Giới Tử (hạt cải đỏ), 108 cái lá của cây có một lá, 108 cành cây Khổ Luyện, vót hai đầu xong đem thấm dầu, tụng Chân Ngôn là:

1_ Nẵng mô tam mãn đa một đà nẫm

2_ A bát-ra để hạ đa xá sa nẵng nẫm

3_ Đát nễ-dã tha: Hệ hệ, ma hạ câu-lỗ đà

4_Sát mục khư

5_ Sát bộ nhạ

6_ Sát giả ra nỏa

7_ Tát phạ vĩ cận-nẵng gia đa ca

8_ Hồng hồng, khẩn chi ra dã tỉ , ma hạ vĩ nẵng dã ca

9_Nhị vĩ đán đa, ca la

10_ Nậu sa-phạ bả-nan minh, nẵng xả dã

11 _ Ra hộ ra hộ, tam ma dã, ma nỗ sa-ma ra

12_ Sa-phát tra, sa-phát tra

13_ Sa-phạ ha

 

Tụng một biến xong, ném các Hương Dược từng cái một cho đến khi hết 108 cái thì Nguyện đã mong cầu đều được thành tựu. Lúc đó Thánh Giả chẳng trái ngược Bổn Thể mau đến Đạo Tràng để làm gia hộ.

Nếu có mộng ác, do lực gia trì thảy đều chẳng hiện, rốt ráo bị tiêu diệt.

Hành Giả làm các Pháp lúc trước, niệm tụng xong. Khi ra khỏi Đạo Tràng nên khởi Tâm Từ Bi, đừng để sanh oán hại, đi Kinh Hành, tùy ý chuyển đọc Đại Thừa.

 

THÁNH DIÊM MẠN ĐỨC CA OAI NỘ VƯƠNG

LẬP THÀNH ĐẠI THẦN NGHIỆM NIỆM TỤNG PHÁP

_Hết_

27/12/2008