SỐ 293
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
Hán dịch: Đời Đường, Tang tạng Bát-nhã, người nước Kế Tân
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN

(Trọn bộ 40 Quyển)

Tôi nghe như vầy:

Một thời, ở lầu gác đại trang nghiêm, vườn Cấp cô độc, rừng Thệ-đa, thành Thất-la-phiệt, Đức Phật cùng năm ngàn Đại Bồ-tát. Đứng đầu là hai Đại Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền và các vị khác như: Bồ-tát Trí Tuệ Thắng, Bồ-tát Phổ Hiền Thắng Trí, Bồ-tát Vô Trước Thắng Trí, Bồ-tát Hoa Thắng Trí, Bồ-tát Nhật Thắng Trí, Bồ-tát Nguyệt Thắng Trí, Bồ-tát Vô Cấu Thắng Trí, Bồ-tát Kim Cang Thắng Trí, Bồ-tát Vô Thần Lao Thắng Trí, Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na Thắng Trí, Bồ-tát Tinh Tú Tràng, Bồ-tát Tu-di Tràng, Bồ-tát Bảo Thắng Tràng, Bồ-tát Vô Ngại Tràng, Bồ-tát Hoa Tràng, Bồ-tát Vô Cấu Tràng, Bồtát Nhật Tràng, Bồ-tát Diệu Tràng, Bồ-tát Ly Trần Tràng, Bồ-tát Tỳlô-giá-na Tràng, Bồ-tát Địa Oai Đức Quang, Bồ-tát Bảo Oai Đức Quang, Bồ-tát Đại Uy Quang, Bồ-tát Kim Cang Trí Quang, Bồ-tát Vô

Cấu Quang, Bồ-tát Pháp Nhật Quang, Bồ-tát Phước Sơn Quang, Bồtát Trí Diệm Quang, Bồ-tát Phổ Hiền Cát Tường Quang, Bồ-tát Phổ Hiền Diệm Quang, Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Tịnh Đức Tạng, Bồ-tát Pháp Hải Tạng, Bồ-tát Lô-giá-na Tạng, Bồ-tát Tê Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Cát Tường Tạng, Bồ-tát Diệu Nhãn, Bồ-tát Thanh Tịnh Nhãn, Bồ-tát Vô Cấu Nhãn, Bồ-tát Vô Trước Nhãn, Bồ-tát Phổ Kiến Nhãn, Bồ-tát Diệu Quán Nhãn, Bồ-tát Thanh Liên Hoa Nhãn, Bồ-tát Phổ Kim Cang Nhãn, Bồ-tát Bảo Nhãn, Bồ-tát Hư Không Nhãn, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Thiên Quan, Bồ-tát Biến Chiếu Pháp Giới Ma-ni Trí Quan, Bồ-tát Đạo Tràng Quan, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Thập Phương Quan, Bồ-tát Chư Phật Sở Tán Quan, Bồ-tát

Siêu Chư Thế Gian Quan, Bồ-tát Quang Minh Phổ Chiếu Quan, Bồ-tát Vô Năng Thắng Quan, Bồ-tát Trì Chư Như Lai Sư Tử Tòa Quan, Bồtát Đại Quang Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan, Bồ-tát Phạm Vương Kế, Bồ-tát Thích Chủ Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Chư Phật Biến Hóa Sai Biệt Quang Minh Kế, Bồ-tát Chân Thật Bồ-đề Tràng Kế, Bồtát Nhất Thiết Nguyện Hải Thanh Ma-ni Vương Kế, Bồ-tát Xuất Sinh Đại Xả Chư Phật Viên Quang Ma-ni Vương Kế, Bồ-tát Hiện Đẳng Hư Không Giới Nhất Thiết Bảo Cái Ma-ni Vương Kế, Bồ-tát Hiện Nhất Thiết Phật Thần Thông Quang Tràng Võng Thùy Phúc Ma-ni Vương Kế, Bồ-tát Xuất Nhất Thiết Phật Đại Pháp Luân Thanh Kế, Bồ-tát Đại Phước Viên Mãn Danh Tự Âm Thanh Kế, Bồ-tát Đại Diêm Quang, Bồ-tát Vô Cấu Diệm Quang, Bồ-tát Ly Cấu Oai Đức Diệm Quang, Bồ-tát Bảo Diệm Quang, Bồ-tát Tinh Tú Diệm Quang, Bồ-tát Pháp Diệm Quang, Bồ-tát Tịch Diệm Quang, Bồ-tát Nhật Diệm Quang, Bồ-tát Thần Thông Diệm Quang, Bồ-tát Thiên Diệm Quang, Bồ-tát Phước Tụ, Bồ-tát Trí Tụ, Bồ-tát Pháp Tụ, Bồ-tát Thần Thông Tụ, Bồ-tát Quang Diệm Tụ, Bồ-tát Hoa Tụ, Bồ-tát Bồ-đề Tụ, Bồ-tát Phạm Tụ, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Quang Tụ, Bồ-tát Ma-ni Bảo Tụ, Bồ-tát Phạm Thanh, Bồ-tát Đại Hải Thanh, Bồ-tát Đại Địa Hống Thanh, Bồ-tát Thế Chủ Thanh, Bồ-tát Sơn Vương Tự Tại Thanh, Bồtát Biến Mãn Nhất Thiết Pháp Giới Thanh, Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Hải Triều Thanh, Bồ-tát Tồi Phá Nhất Thiết Ma Lực Thanh, Bồ-tát Đại Bi Vân Lôi Giáo Thanh, Bồ-tát Tốc Tật Cứu Hộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Thanh, Bồ-tát Pháp Xuất Sinh, Bồ-tát Thắng Xuất Sinh, Bồ-tát Trí Xuất Sinh, Bồ-tát Phước Đức Tu-di Xuất Sinh, Bồ-tát Tối Thắng Công Đức Bảo Vương Xuất Sinh, Bồ-tát Danh Xưng Xuất Sinh, Bồ-tát Phổ Hiền Quang Xuất Sinh, Bồ-tát Đại Bi Xuất Sinh, Bồtát Trí Tụ Xuất Sinh, Bồ-tát Như Lai Chủng Tánh Xuất Sinh, Bồ-tát Quang Cát Tường, Bồ-tát Tối Thắng Cát Tường, Bồ-tát Chánh Dũng Xuất Sinh Cát Tường, Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na Cát Tường, Bồ-tát Liên Hoa Cát Tường, Bồ-tát Nguyệt Cát Tường, Bồ-tát Hư Không Cát

Tường, Bồ-tát Bảo Cát Tường, Bồ-tát Tích Cát Tường, Bồ-tát Trí Tuệ Cát Tường, Bồ-tát Sơn Tự Tại Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại Vương, Bồtát Thế Tự Tại Vương, Bồ-tát Phạm Tự Tại Vương, Bồ-tát Số Tự Tại Vương, Bồ-tát Long Tự Tại Vương, Bồ-tát Tịch Tĩnh Tự Tại Vương, Bồ-tát Bất Động Tự Tại Vương, Bồ-tát Oai Lực Tự Tại Vương, Bồ-tát Tối Thắng Tự Tại Vương, Bồ-tát Tối Tịch Âm, Bồ-tát Vô Đẳng Âm, Bồ-tát Địa Chấn Âm, Bồ-tát Đại Hải Triều Âm, Bồ-tát Đại Vân Lôi Âm, Bồ-tát Pháp Quang Âm, Bồ-tát Hư Không Âm, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Quảng Đại Thiện Căn Âm, Bồ-tát Diễn Tích Đại Nguyện Âm, Bồ-tát Hàng Phục Ma Vương Chúng Âm, Bồ-tát Bảo Giác, Bồtát Tu-di Giác, Bồ-tát Hư Không Giác, Bồ-tát Vô Cấu Giác, Bồ-tát Vô Trước Giác, Bồ-tát Quảng Đại Giác, Bồ-tát Khai Phu Giác, Bồ-tát Phổ Chiếu Tam Thế Giác, Bồ-tát Quảng Nghiêm Giác, Bồ-tát Phổ Quán Giác, Bồ-tát Pháp Giới Quang Minh Giác. Đó là những Đại Bồ-tát thượng thủ. Các vị ấy, đều sinh ra từ hạnh nguyện Phổ hiền, việc làm vô ngại; đến khắp các cõi nước của chư Phật, hiện vô lượng thân, để gần gũi các Đức Như Lai; xa lìa những triền cái, như vầng trăng sáng, làm hiện rõ tất cả các thần thông biến hóa của chư Phật; đạt đạt được trí giác, thấy được các cảnh giới thần thông tự tại của chư Phật, được vô lượng ánh sáng chiếu soi khắp biển lớn giáo pháp và ánh sánh trí tuệ của chư Phật; có đầy đủ biện tài vô ngại giải. Bằng biện pháp thanh tịnh, các vị ấy ở trong vô lượng kiếp, tuyên thuyết công đức của Phật vô cùng tận; an trụ trí tối thắng như hư không; việc làm thanh tịnh không nhiễm chấp, không nương tựa thị hiện sắc thân tùy theo tâm ưu thích của chúng sinh; xa rời những trở ngại; hiểu rõ các tướng: Ta, người, chúng sinh và tuổi thọ đều là không có. Trí tuệ bao trùm giống như hư không, dùng ánh sáng lớn như mạng lưới chiếu khắp pháp giới.

Lại có năm trăm chúng Thanh văn. Những vị ấy, có oai đức lớn đều là những bậc hiểu chân đế và đều chứng thật tế; thâm nhập pháp tánh, vượt khỏi biển hữu, nương vào cảnh giới hư không của Như Lai, xa lìa sự trói buộc của kết sử, không đắm vướng vào trú xứ, tâm được tịch tĩnh giống như hư không không còn nghi hoặc, tín tâm kiên cố đối với các Đức Phật và nhập vào biển trí của chư Phật. Lại vô lượng chư vị chủ thế giới. Các vị ấy, đã từng cúng dường vô lượng Đức Phật, thường làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, cùng chúng sinh kết làm bằng hữu, thường che chở cho những kẻ lạc loài, không bỏ rơi thế gian, thể nhập trí thù thắng, sinh ra nơi có Phật pháp, hộ trì chánh pháp của Như Lai, phát đại thệ nguyện, không đoạn giống Phật, nhờ vào sức hạnh nguyện, nên được sinh vào nhà Như Lai để chuyên cầu trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, các Đại Bồ-tát, các Đại Thanh văn cùng các vị Phạm vương và quyến thuộc của mình đều nghĩ: Nói đến cảnh giới, trí hạnh, thần thông, mười lực, vô sở úy, định, trụ xứ tối thắng cho đến thân và trí của Như Lai thì tất cả trời, người trong thế gian, đều không thể thông đạt, không thể thâm nhập, không thể tin hiểu, không thể biết hết, không thể phân biệt, không thể nghĩ suy, không thể quán sát, không thể lựa chọn cho đến không thể chỉ bày và cũng không có khả năng làm cho chúng sinh lãnh hội được. Ngoại, trừ sức gia hộ của chư Phật, sức thần thông, sức oai đức, sức bản nguyện cộng với sức từ thiện căn của đời trước, sức thân cận bạn lành, sức tin hiểu thanh tinh, sức mong muốn, sức hướng về tâm Bồ-đề thanh tịnh và sức hạnh nguyện rộng lớn cầu Nhất thiết trí.

Cúi xin Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện mà tùy thuận cho chúng con và chúng sinh; vì tâm lượng không đồng, tin hiểu không đồng, trí tuệ không đồng, ngôn ngữ không đồng, đến tên họ không đồng, chứng đắc không đồng, ngôi vị không đồng, căn thanh tịnh không đồng, ý phương tiện không đồng, cảnh giới tâm không đồng và chỗ nương tựa không đồng. Với công đức của Như Lai; chúng con sẽ tùy theo khả năng mà tiếp nhận. Những điều Như Lai thuyết giảng đó biểu hiện rõ: Đức Như Lai thuở xưa, đã cầu Nhất thiết trí, đã phát đại nguyện của Bồ-tát, đã viên mãn các hạnh Bồ-tát, từng đi trên đường trí trang nghiêm, đã hành các đạo thanh tịnh, đã ra khỏi biển pháp thù thắng, đã phát sinh thần thông diệu dụng từ biển đại trang nghiêm, đã gom góp vô lượng việc làm tương ưng với biển hạnh và hiển thị toàn bộ các môn như: Biển trí thần thông Như Lai hiện tiền thành Chánh giác, biển Như Lai tự tại chuyển pháp luân, biển thần thông Như Lai làm thanh tịnh cõi Phật, biển phương tiện quyền xảo của Như Lai điều phục tất cả chúng sinh; Như Lai khai trị thành trì Nhất thiết trí, Như Lai chỉ đường cho các chúng sinh, Như Lai khéo nhập vào nơi sinh tử của chúng sinh, Như Lai làm ruộng phước tối thượng cho tất cả chúng sinh, Như Lai giảng thuyết công đức bố thí cho các chúng sinh; Như Lai tuyên thuyết những tâm hạnh cho tất cả chúng sinh, Như Lai dạy bảo truyền trao cho tất cả chúng sinh, Như Lai có khả năng dùng thần thông Tam-muội hiện các hình tượng. Xin Như Lai thương xót cho tất cả chúng con mà diễn thuyết những pháp đó.

Khi ấy, biết được tâm niệm của các Bồ-tát và toàn thể chúng hội; Đức Thế Tôn lấy đại Bi làm thân, làm cửa, làm đầu và dùng pháp đại Bi làm phương tiện, đầy khắp hư không và bao trùm cả pháp giới. Tiếp đó, Đức Thế Tôn nhập vào Tam-muội Sư tử tần thân. Nhập Tammuội ấy rồi, khắp cả thế giới trở nên trang nghiêm và thanh tịnh. Lầu gác đại trang nghiêm bấy giờ, bỗng nhiên cao rộng uy nghi, tráng lệ khắp cả pháp giới, nền bằng kim cương, trang hoàng bằng các báu, giăng lưới bằng ngọc như ý và cờ Vô năng thắng được phân bố đều trong ấy, rải vô số hoa báu và ngọc ma-ni. Các báu vật ấy đầy dẫy khắp nơi; trụ cột bằng ngọc lưu ly, chiếu ánh sáng khắp chốn để trang nghiêm; khắp nơi được trang sức bằng vàng Diêm-phù-đàn và ngọc ma-ni. Tất cả các vật báu được ánh sáng từ bốn mặt cửa chiếu vào đan chéo nhau sáng rực. Thềm, hiên, lan can, tất cả được trang hoàng bằng bảy báu. Còn có những hình tướng kỳ lạ: Các vị Phạm vương và vô số tướng sai khác của chúng sinh, giăng lên trên là lưới báu ma-ni. Hai bên cửa đều có dựng cờ lọng, khắp pháp giới nơi nào cũng trang nghiêm và rực sáng. Bên ngoài lầu, gác, thềm cấp, lan can, nhiều vô lượng không thể kể hết. Tất cả đều làm bằng ngọc ma-ni, các báu vật được trang hoàng xen kẽ khắp nơi.

Bấy giờ, nhờ sức oai thần của Phật, rừng Thệ-đa bỗng nhiên rộng lớn ngang bằng với vô số cõi thế giới của chư Phật vốn đã nhiều như vi trần. Tất cả các báu xen lẫn tạo nên vẻ sáng đẹp, dùng vô số báu để trang nghiêm nơi đất. Tường được xây bằng vô số ngọc ma-ni và giữa những hàng cây Đa-la báu còn có vô lượng dòng sông mà nước thơm đầy ắp đang chảy cuồn cuộn. Theo dòng nước các hoa báu đều xoay về phía phải và phát ra những âm thanh nói về pháp Phật; các báu thật không thể nghĩ bàn. Sen trắng đẹp tuyệt vời, hương thơm ngào ngạt; những hoa sen báu màu đỏ tốt tươi phủ kín, vô số cây báu trồng bên bờ sông sum suê, cao vút và không thể kể hết các loại sang trọng khác như: Sàn, đà, lầu gác được xây dựng lên hai bên bờ sông thẳng tắp, bên trên giăng lưới báu ma-ni, vô số ngọc ma-ni sáng ngời, vô số tạp báu xen lẫn làm trang nghiêm thêm nơi mặt đất; nơi kho chứa các loại hương, từng đám mây hương bay lên thơm ngào ngạt cả pháp giới. Ngoài ra, còn có vô lượng cờ phướn báu như: Vô lượng cờ hương, vô lượng cờ y báu, vô lượng cờ phướn báu, vô lượng lụa báu, vô lượng cờ hoa báu, vô lượng cờ anh lạc báu, vô lượng vòng hoa báu, vô lượng cờ linh báu, vô lượng cờ lưới oai đức báu, vô lượng cờ lọng ma-ni bảo vương, vô lượng cờ ma-ni vương ánh sáng chiếu khắp, vô lượng cờ Ma-ni vương xuất sinh danh hiệu Như Lai âm thanh viên mãn, vô lượng cờ ma-ni vương Sư tử du bộ, vô lượng cờ ma-ni vương nói lên tất cả những việc làm của Như Lai khế hợp với biển hạnh, vô lượng cờ ma-ni vương thể hiện hình ảnh sai khác của pháp giới. Những cờ phướn báu ấy được trang nghiêm khắp chốn, cả mười phương thế giới.

Lúc ấy, trên hư không của rừng Thệ-đa, có vô số mây không thể nghĩ bàn như: Đám mây như lầu đài cung điện báu của chư Thiên, lại còn vô số mây hương thọ; không thể kể hết mây tòa Sư tử báu trải bằng áo trời, các Bồ-tát ngồi trên ấy, ca ngợi công đức của Phật; không thể kể hết mây báu ma-ni hình tượng Thiên vương; không thể kể hết mây trân châu trắng; không thể kể hết mây lầu gác báu làm bằng trân châu đỏ che khắp thật trang nghiêm; không thể kể hết mây các loại châu kim cương kiên cố làm mưa xuống để trang nghiêm.

Những loại mây báu ấy, đều đầy cả hư không pháp giới, trang nghiêm khắp nơi nơi.

Vì sao? Vì Đức Như Lai đã trồng căn lành thanh tịnh không thể nghĩ bàn; đã thành tựu pháp tụ bạch tịnh không thể nghĩ bàn; oai lực gia trì bí mật cũng không thể nghĩ bàn. Đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả chư Phật và cõi nước của chư Phật trong khắp mười phương đều thể nhập vào thân mình mà không thể nghĩ bàn. Trong một vi trần, Đức Như Lai có thể làm hiện tất cả những sai biệt của tất cả các thế giới mà không thể nghĩ bàn. Đức Như Lai có thể làm cho mỗi đầu sợi lông hiện được tất cả chư Phật thời quá khứ, tuần tự ra đời mà không thể nghĩ bàn. Đức Như Lai có thể làm cho mỗi chân lông, đều phóng ra ánh sáng lớn, mỗi áng sáng lớn đó đều có thể chiếu rõ tất cả thế giới mà không thể nghĩ bàn. Đức Như Lai có thể làm cho mỗi lỗ chân lông phóng ra được tất cả cõi Phật nhiều như số cực vi trần và biến hóa mây đầy khắp các cõi Phật mà không thể nghĩ bàn. Như Lai có thể làm cho mỗi lỗ chân lông hiện ra được toàn thể cảnh kiếp thành, trụ, hoại của thế giới nơi mười phương mà không thể nghĩ bàn.

Ở rừng Thệ-đa, vườn Cấp-cô-độc này, hiện đang là cả nước trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật ở khắp tận mười phương pháp giới, hư không giới, toàn thể các thế giới cũng đều thấy như vậy. Nghĩa là thấy thân Đức Như Lai có khắp nơi rừng Thệ-đa và đầy đủ các chúng hội Bồ-tát; thấy khắp nơi mưa những vật dụng, để xây dựng và trang nghiêm; thấy mưa từ những đám mây ánh sáng báu oai lực chiếu khắp thế giới, thấy mưa từ những vầng ma-ni báu trang hoàng khắp nơi; thấy mưa từ những vầng mây lọng báu trang nghiêm, che khắp thế giới; thấy mưa từ những vầng cây đầy cây hoa, hoa ấy nở giống như hải tạng; thấy mưa từ những vầng mây biến hóa thân trời để trang sức tốt đẹp; thấy mưa từ những vầng mây lụa ngũ sắc bay lượn uyển chuyển; thấy mưa từ những vầng mây y phục rơi xuống lớp lớp; thấy mưa từ những vầng mây đầy trăng hoa và ngọc anh lạc rơi liên tục không dứt; thấy mưa từ những vầng mây hương bột, mùi thơm lan tỏa đều khắp các thân chúng sinh mười phương; thấy mưa từ những vầng mây đầy những cờ phướn báu và lọng báu Thiên nữ cầm đứng kín cả hư không; thấy mưa từ những vâng mây được kết thành các báu bên trên trang sức hoa sen tuyệt đẹp, phát ra âm thanh vi diệu vang khắp giới; thấy mưa từ những vầng mây có nhiều tòa Sư tử báu như những hình tượng của chúng sinh. Tất cả các báu ấy cùng châu anh lạc tạo thành vòng lưới vô cùng trang nghiêm.

Khi Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na đang ở trong Tam-muội Sư tử tần thân này thì về phương Đông ở ngoài biển thế giới, cách không thể nói số cực vi trần cõi Phật; có biển thế giới tên là Kim sa đăng vân tràng, Đức Phật hiệu là Tỳ-lô-giá-na Cát Tường Oai Đức Vương. Trong chúng hội của Đức Phật, có vị Đại Bồ-tát tên là Tỳ-lô-giá-na Diệm Nguyện Tạng Quang Minh, cùng với số cõi Phật và số cực vi trần Bồ-tát, hiện đang tiếp nhận giáo pháp của Đức Phật. Mọi người từ chúng hội trong đạo tràng cõi ấy đều đến chỗ Đức Tỳ-lô-giá-na nơi cả Ta-bà này. Tất cả đều dùng thần lực, làm tuôn ra những áng mây để cúng dường như: Mây trời hoa, mây hương trời, mây hoa sen, mây tràng trời, mây báu trời, mây vòng ngọc anh lạc trời, tất cả mây thuộc các thứ báu trang nghiêm của cõi trời đều hiện khắp cả hư không pháp giới. Đến nơi, mọi người đảnh lễ nơi chân Phật, thiết lễ cúng dường. Việc cúng dường vừa xong, lúc ấy, ở phương Đông hiện ra một tòa gác lầu báu rất trang nghiêm, giăng lên trên bằng lưới báu ma-ni, bên trong hóa làm một tòa Sư tử tên Quang chiếu thập phương ma-ni bảo vương đại liên hoa tạng, các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên đó, dùng lưới báu đại như ý Ma-ni bảo che thân.

Về phương Nam, bên ngoài thế giới vượt qua không thể nói số cực vi trần cõi Phật; có biển thế giới tên là Kim cương hải tạng, Đức Phật hiệu là Phổ Quang Biến Chiếu Cát Tường Tạng Vương; trong đại hải chúng của Đức Phật có vị Đại Bồ-tát có tên là Nan Tồi Phục Tốc Tật Tinh Tấn Vương; cùng với vô số chúng Bồ-tát trong số cực vi trần biển thế giới, từ cõi Phật ấy đều hướng về trụ xứ Như Lai. Mọi người đều dùng thần lực mang nhiều hoa tươi đẹp và những vật cúng dường trang trí lẫn xen nhau đó là: Những vòng hương và hoa báu, những cờ bảo luân và vòng báu, những vòng hoa anh lạc báu, những vòng kim cương và anh lạc báu, những vòng ma-ni và lưới ma-ni báu, những vòng lụa ngũ sắc, những vòng hình tượng của anh lạc báu, những vòng ma-ni và anh lạc xuất hiện ánh sáng điềm lành, những vòng lưới báu tên là Tỳ-lô-giá-na ma-ni Trang Nghiêm, những vòng lưới sư tử du bộ bằng ma-ni, anh lạc báu. Mọi người đều dùng thần lực làm cho đầy khắp biển thế giới. Và khi đã đến nơi; mọi người đảnh lễ Phật và thiết lễ cúng dường. Sự việc hoàn tất, tức thì ở phương Nam, hóa làm gác lầu Tỳ-lô-giá-na bằng các báu trang nghiêm thù thắng, bên trên giăng lưới báu ma-ni, trong lầu hòa làm bảo tòa Sư tử tên Phổ chiếu thập phương ma-ni bảo liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên ấy, dùng lưới hoa Câu-tô-ma báu đẹp của cõi trời che nơi thân mình.

Về phương Tây, bên ngoài thế giới cách không thể nói số cõi Phật cực vi trần có biển thế giới tên là Tu-di sơn tràng Tỳ-lô-giá-na ma-ni bảo đăng, Đức Phật hiệu là Pháp Giới Trí Đăng Vương. Trong đại hải chúng của Đức Phật Như Lai ấy, có vị Đại Bồ-tát tên là Phổ Biến Xuất Sinh Cát Tường Oai Đức Vương cùng với vô số không đếm được chúng Bồ-tát trong số cực vi trần biển thế giới; đều từ đạo tràng của Đức Phật ấy mà hướng về trú xứ của Như Lai, mọi người đều dùng thần lực phóng ra vô số áng mây như núi Tu-di không thể kể hết vì nhiều như số cực vi trần cõi Phật. Đó là mây Tu-di các màu sắc tràng, đó là mây Tu-di với nhiều màu sắc hương bột: Hương đốt, hương xoa; đó là mây Tu-di bằng ngọc ma-ni báu và các vật khác nhiều màu sắc với ánh sáng hoàng kim trang nghiêm; đó là mây Tu-di như tràng sao với nhiều ánh sáng hoàng kim trang nghiêm, đó là mây Tu-di với nhiều màu sắc đẹp của kim cương nguyệt tạng và ma-ni bảo vương trang nghiêm cảnh giới; đó là mây Tu-di tràng Diêm-phù-đàn và ngọc ma-ni với những ánh sáng chiếu khắp pháp giới, đó là mây Tu-di bằng các tràng ma-ni mà ánh sáng chiếu khắp những pháp giới sai biệt, đó là mây Tu-di bằng ngọc ma-ni, hiện được tất cả những tướng tốt khác nhau của Như Lai, đó là mây Tu-di bằng tràng ngọc ma-ni có thể phát ra âm thanh vi diệu, nói lên những sự tu hành, các hạnh Bồ-tát, những nhân duyên, việc làm tương ưng với biển hạnh, đó là mây Tu-di bằng ngọc ma-ni hiện được tất cả Như Lai ngồi khắp đạo tràng, tất cả đầy khắp cả hư không pháp giới.

Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật, thiết lễ cúng dường, sự

việc hoàn tất thì ngay khi ấy, ở phương Tây lại hiện ra các gác lầu bằng hương ngọc, che bên trên bằng lưới trân châu, bên trong hóa làm tòa Sư tử tên là Nhân-đà-la sai biệt quang tràng ma-ni bảo vương diệu liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát lại đến ngồi kiết già trên ấy, đội mão làm bằng ngọc báu như ý ma-ni, che thân bằng lưới châu ma-ni có nhiều màu xinh đẹp khác nhau.

Về phương Bắc, cách khoảng không thể tính đếm số cực vi trần cõi Phật, ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới tên là Bảo y quang diễm tràng, Đức Phật hiệu là Cát Tường Đại Quang Minh Biến Chiếu Nhất Thiết Hư Không Pháp Giới. Trong đại hai chúng của Đức Phật, có vị Đại Bồ-tát tên là Vô Ngại Cát Tường Thắng Tạng Vương, cùng với vô số cực vi trần không thể đếm chúng Bồ-tát; từ đạo tràng của Đức Phật ấy, mọi người đều dùng thần lực phóng ra những đám mây y báu đẹp trang nghiêm khắp cả hư không giới. Đó là: Mây y ánh sáng hoàng kim, làm bằng ngọc ma-ni bảo vương, đó là mây y tràng mặt trời, làm bằng ma-ni bảo vương sạch đẹp, đó là màu ánh lửa rực, tỏa ánh sáng an lành làm bằng ngọc ma-ni bảo vương, đó là mây y hòa lẫn ánh sáng các báu làm bằng ngọc ma-ni bảo vương, đó là mây y những hình tượng trăng sao thượng diệu làm bằng ngọc ma-ni bảo vương, đó là mây y ánh ngọc trắng như lưới Nhân-đà-la võng làm bằng ngọc Ma-ni bảo vương, đó là mây y Tỳ-lô-giá-na thù thắng vi diệu làm bằng ngọc ma-ni bảo vương sáng rực, đó là mây y các ánh sáng chiếu nơi cảnh giới khiến tất cả cõi trong mười phương đều phát ra ánh sáng hòa lẫn, đến nhập vào Tỳ-lô-giá-na làm bằng ngọc ma-ni bảo vương, đó là mây y đại hải trang nghiêm bằng ngọc ma-ni bảo vương; những áng mây như thế đấy khắp cả hư không pháp giới.

Khi đến nơi, mọi người lễ Phật và dâng vật phẩm cúng dường, sự việc xong; tức thì ở phương Bắc lại hiện ra gác lầu cát tên Đại hải xuất sinh ma-ni bảo vương và tòa Sư tử tên là Tỳ-lưu-ly bảo thắng liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát lại đến ngồi kiết già tên ấy, mọi người dùng cờ Tinh tú diệu trang nghiêm tạng ma-ni bảo vương, cột minh châu nơi búi tóc và đắp trên thân bằng lưới sư tử du bộ diệu oai đức vương ma-ni bảo.

Về phương Đông bắc, cách khoảng không thể đếm số cực vi trần

ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới tên là Nhất thiết đại địa vương, Đức Phật hiệu là Phóng Quang Võng Biến Chiếu Pháp Giới Vô Tướng Nhãn. Nơi hải chúng của Đức Như Lai ấy, có vị Đại Bồ-tát hiệu là Diệu Biến Hóa Hiến Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng với vô số không thể đếm như số cực vi trần số Bồ-tát ở nơi biển thế giới của cõi Phật ấy, cùng nhau hướng về trụ xứ của Đức Như Lai, tất cả mọi người đều dùng thần lực, hóa ra những áng mây lầu gác bằng các thứ quý báu trang nghiêm. Đó là những áng mây lầu gác bằng cờ báu, đó là những áng mây lầu gác bằng hương thượng hạng. Đó là những áng mây lầu gác băng hương đốt, đó là những áng mây lầu gác bằng hương chiên-đàn trắng, đó là những áng mây lầu gác bằng hương hoa câu Tô-ma, đó là những áng mây lầu gác bằng kim cương bảo vương, đó là những áng mây lầu gác vàng Diêm-phù-đàn, đó là những áng mây lầu gác y phục lụa, đó là những áng mây lầu gác bằng diệu liên hoa, những áng mây như thế che kín cả hư không pháp giới.

Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật và dâng lễ cúng dường. Việc cúng dường vừa xong, thì ở phương Đông bắc lại hiện ra lầu gác tên là Nhất thiết pháp giới môn diệu bảo sơn phong ma-ni bảo vương và tòa Sư tử tên Không gì sánh hương vương ma-ni bảo liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên đó, đội mão trang sức bằng những ngọc ma-ni, bảo vương nhiều màu, dùng Hoa Câu-tô-ma dệt thành lưới có đính bảo châu như ý khắp trên thân.

Ở phương Đông nam, cách khoảng không thể đếm số cực vi trần cõi Phật, ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới tên là Hương vân trang nghiêm tràng, Đức Phật hiệu là Long Tự Tại Vương. Trong hải chúng của Đức Như Lai ấy, có Đại Bồ-tát tên là Pháp Tuệ Quang Minh Oai Đức Vương cùng với vô số không thể đếm như vi trần số Bồ-tát từ nơi chúng hội của Đức Phật ấy đều cùng hướng về trụ xứ của Đức Như Lai. Mọi người đều dùng thần lực, biến hóa ra những áng mây sáng bằng các châu báu thượng diệu có đủ các màu sắc. Đó là mây ánh sáng của cờ phướn màu vàng ròng viên mãn, đó là mây ánh sáng của vô lượng sắc báu viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu nhục kế nơi đỉnh đầu Như Lai viên mãn, đó là mây ánh sáng viên mãn của tướng lông trắng ở giữa chân mày của Như Lai, đó là mây ánh sáng màu vô số báu viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu Liên Hoa tạng viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu cây báu tỏa cành viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu ma-ni bảo vương viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu Diêm-phù-đàn kim viên mãn, đó là mây ánh sáng của màu nhật nguyệt tinh tú viên mãn. Những áng mây như thế đều đầy khắp cả hư không pháp giới.

Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật và dâng phẩm vật cúng dường, việc cúng dường xong, họ đến phương Đông Nam, hiện ra lầu gác tên là Ly cấu ma-ni câu-tô-ma hoa Tỳ-lô-giá-na Cát Tường ma-ni bảo vương và tòa Sư tử tên là Kim cang ma-ni bảo liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều ngồi kiết già trên ấy. Mọi người dùng lưới Bảo quang diễm ma-ni vương che nơi thân mình.

Về hướng Tây nam, cách khoảng không thể đếm được như số cực vi trần nước số cõi Phật, ở bên ngoài thế giới có biển thế giới tên là Nhật tạng quang minh ma-ni bảo vương, Đức Phật hiệu là Phổ Chí Quang Chiếu Pháp Nguyệt Vương. Trong chúng hội của Đức Như Lai ấy, có vị Đại Bồ-tát tên là Tồi Toái Nhất Thiết Ma Lực Trí Tràng Vương, cùng vô số Bồ-tát nhiều như cực vi trần, từ chúng hội ấy, tất cả đều hướng về trụ xứ của Như Lai. Ở cõi này, từ các lỗ chân lông nơi thân của các Bồ-tát vọt ra mây có ánh lửa đầy khắp cõi hư không. Đó là: Vừng mây có ánh lửa báu bằng hoa Câu-tô-ma, đó là vầng mây có ánh lửa báu của nhiều loại âm nhạc, đó là vừng mây có ánh lửa báu của tất cả màu sắc, đó là vầng mây có ánh lửa làm báu bằng kim cương, đó là vầng mây có ánh lửa báu làm bằng hương ướp các loại áo quý, đó là vầng mây có ánh lửa báu như ánh chớp của loài rồng, đó là vầng mây có ánh lửa báu bằng Tỳ-lô-giá-na ma-ni, đó là vầng mây có ánh lửa báu của Đăng huy ma-ni bảo, đó là vầng mây có ánh lửa báu của Cát tường xí thạnh quang tạng ma-ni bảo. Những vầng mây như thế đều phóng ra từ lỗ chân lông, đầy khắp cả hư không. Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật và dâng phẩm vật cúng dường. Nghi lễ vừa xong, tức thì ở phương Tây nam, hiện ra lầu gác tên là Nhất niệm phổ hiện thập phương pháp giới chủng chủng quang minh ma-ni bảo vương và tòa Sư tử tên là Hương diệm đăng quang ma-ni bảo vương thắng liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên ấy, che thân bằng lưới Ly cấu tạng ma-ni bảo vương diệu quang minh.

Về hướng Tây bắc, cách khoảng không thể đếm tính như số cực vi trần số cõi Phật ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới tên là Tỳ-lôgiá-na nguyện tạng, Đức Phật hiệu Phổ Quang Biến Chiếu Tu-di Sơn Vương. Nơi đại hải chúng của Đức Phật ấy, có vị Đại Bồ-tát hiệu Tỳlô-giá-na Nguyện Trí Tinh Tú Tràng, cùng với vô số chúng Bồ-tát trong thế giới nhiều không thể đếm như số cực vi trần, từ cõi ấy tất cả đều hướng về chỗ của Đức Như Lai. Trong từng niệm, ở tất cả tướng tốt cùng toàn thể tứ chi và hết thảy các lỗ chân lông nơi thân của các vị ấy, đều phóng ra những vầng mây gồm hết thảy những hình tượng có trong ba đời. Đó là vầng mây có hình tượng của tất cả Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng của tất cả các Bồ-tát; đó là vầng mây có hình tượng về tất cả chúng hội của Đức Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng về tất cả các biến hóa luân chuyển của Đức Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng về bản sự và biển tướng ứng thân của các đức Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng của tất cả Thanh văn và Bíchchi-phật; đó là vầng mây có hình tượng về hào quang và những hình sắc Bồ-đề đạ tràng của tất cả Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng về thần thông của tất cả Đức Như Lai; đó là vầng mây có hình tượng về thân của tất cả các vị Tứ Thiên vương chủ các cõi; đó là vầng mây có hình tượng về các cõi Phật thanh tịnh. Từng niệm từng niệm những vầng mây như thế, đầy khắp cả hư không pháp giới. Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật, dâng phẩm vật cúng dường. Nghi thức vừa xong, tức thì ở phương Tây bắc, hiện ra lầu gác tên là Phổ chiếu thập phương tỳ-lô-giá-na ma-ni bảo vương trang nghiêm tạng và tòa Sư tử tên là Quang minh biến chiếu nhất thiết thế gian ma-ni bảo vương đại liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên ấy, đội mão báu Phổ diệm quang minh ma-ni và đắp trên thân bằng lưới trân châu Vô năng thắng quang minh.

*********

Bấy giờ, ở phương Dưới, cách khoảng không thể tính đếm như số cực vi trần số cõi Phật, ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới, tên là Nhất thiết Như Lai viên mãn phổ diệm quang, Đức Phật hiệu là Vô Trước Trí Tinh Tú Tràng Vương. Trong đại hải chúng của Đức Như Lai ấy, có vị Đại Bồ-tát tên là Phá Chư Cái Chướng Dũng Mãnh Trí Tự Tại Vương, cùng vô số chúng Bồ-tát nhiều không thể đếm như số cực vi trần số biển thế giới; từ chúng hội ấy mọi người đều hướng về trụ xứ của Đức Như Lai. Mọi người đều dùng thần lực, làm cho ở mỗi lỗ chân lông nơi thân của mình phóng ra những vầng mây âm thanh vi diệu, diễn thuyết giáo pháp, pháp nhiều như biển cả. Đó là: Mây âm thanh diễn thuyết về tất cả nghĩa của pháp sinh theo ngôn ngữ Đà-lani; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả phương tiện tu hành của Bồ-tát trong ba đời; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển phương tiện thệ nguyện của Bồ-tát, đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển Ba-la-mật thanh tịnh viên mãn của Bồ-tát; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển hạnh viên mãn ở khắp các cõi của Bồ-tát; đó là mây âm thanh duyễn thuyết về tất cả những biển thần thông luân chuyển thành tựu viên mãn của Bồ-tát; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển thần thông luân chuyển của Như Lai thẳng đến đạo tràng, phá quân ma, dứt trừ phiền não, thành Chánh đẳng giác; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả những câu cú tên nghĩa Tu-đa-la nhiều như biển cả, do Đức Như Lai chuyển diệu pháp

luân; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển hạnh và phương tiện của Đức Như Lai, tùy cơ ứng hóa, điều phục chúng sinh; đó là mây âm thanh diễn thuyết về tất cả biển phương tiện thiện xảo do Đức Như Lai, tùy theo thời, tùy theo thiện căn và tùy theo nguyện lực, làm cho tất cả đều đạt được trí Nhất thiết trí. Những mây ấy đều đầy khắp cả hư không pháp giới.

Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật và dâng phẩm cúng dường. Việc cúng dường vừa xong, tức thì phương dưới hiện ra lầu gác tên là Nhất thiết Như Lai cung điện quang minh chủng chủng sắc tàng bảo và tòa Sư tử tên là Nhất thiết diệu hình tượng bảo liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đến ngồi kiết già trên ấy, dùng Phổ hiện thiết bồ-đề tràng, hình tượng như cờ có đính ngọc ma-ni lấp lánh làm mão lớn che thân.

Về phương trên cách khoảng không thể tính đếm như số cực vi trần số cõi Phật ở bên ngoài thế giới, có biển thế giới tên là Vô tận Phật chủng tánh. Đức Phật hiệu là Phổ Trí Viên Mãn Sai Biệt Quang Minh Đại Thịnh Vương. Trong đại chúng hải của Đức Như Lai ấy, có vị Đại Bồ-tát hiệu là Phổ Biến Giáp Giới Đại Nguyện Tế, cùng với vô số Bồ-tát nhiều không thể đếm như số cực vi trần số, đang lãnh thọ giáo pháp của Đức Phật. Mọi người từ đạo tràng ấy đều hướng về thế giới Ta-bà chỗ của Đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai; tất cả đều dùng thần lực làm cho toàn bộ thân mà từng tướng hảo, từng phần của thân, từng chi phần chân, tay, từng lỗ chân lông chân, từng âm thanh lời nói, từng văn tự, câu cú và cả trong những vật để trang nghiêm, điều hiện ra Đức Tỳ-lô-giá-na cùng hết thảy các Đức Phật trong ba đời, cho đến chúng hội và các cõi nước lớn, nhỏ, rộng, hẹp, tịnh, uế trong mười phương. Cũng hiện sự thực hành Bố thí ba-la-mật của các Đức Phật, trong quá khứ, tùy thuận tích tụ tất cả hạnh thí, người nhận tài vật cùng những hình ảnh sinh hoạt tương ưng với biển hạnh, cũng hiện sự thực hành Trì giới Ba-la-mật của các Đức Phật trong quá khứ, tùy thuận, tích tụ các hình ảnh sinh hoạt tương ưng biển hạnh, cũng hiện sự thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật của các Đức Phật trong quá khứ, cắt đứt chi thể nhưng tâm không loạn động, tùy thuận tích tập những hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh, cũng hiện sự thực hành Tinh tấn ba-la-mật của các Đức Phật trong thời quá khứ; dũng mãnh không thoái lui, tùy thuận tích tập những hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh, cũng hiện sự thỉnh cầu Thiền định ba-la-mật của các Đức Phật thời quá khứ ở nơi các Đức Như Lai, tùy thuận tích tập những hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh, cũng hiện sự thỉnh cầu Trí tuệ ba-la-mật của các Đức Phật thời quá khứ ở nơi các Đức Như Lai, đã chuyển pháp luân, đã thành tựu pháp và phát tâm dũng mãnh xả bỏ tất cả, những hình ảnh sinh hoạt tương ưng với biển hạnh, cũng hiện sự phát thành tựu Phương tiện ba-la-mật của các Đức Phật thời quá khứ, muốn gặp tất cả chư Phật, muốn hành tất cả đạo hạnh Bồ-tát và muốn hóa độ tất cả chúng sinh, những hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh. Cũng hiện sự phát Thệ nguyện Bala-mật của chư Phật trong quá khứ và tất cả thệ nguyện rộng lớn của Bồ-tát để làm trang nghiêm thanh tịnh; những hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh. Cũng hiện sự thành tựu Lực ba-la-mật từ tất cả Bồ-tát của Đức Phật trong quá khứ để đạt được những hạnh thanh tịnh hòa hợp, hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh. Cũng hiện việc tu tập Trí ba-la-mật từ tất cả các Bồ-tát của chư Phật trong quá khứ được thanh tịnh viên mãn, pháp môn có những sai biệt cũng đều chứng ngộ, hình ảnh sinh hoạt ấy tương ưng với biển hạnh. Tất cả những hình ảnh sinh hoạt của Như Lai tương ưng với biển hạnh đã hiển hiện ra như thế làm đầy khắp cả pháp giới rộng lớn.

Khi đến nơi, mọi người đảnh lễ Phật, dâng lễ cúng dường, sự việc vừa xong thì nơi phương trên hóa ra lầu gác tên là Nhất thiết kim cang bảo vương chủng chủng trang nghiêm tạng và tòa Sư tử tên là Đế thanh kim cang bảo vương liên hoa tạng. Các chúng Bồ-tát đều đến ngồi kiết già trên ấy, dùng biển đại âm thanh diễn thuyết danh hiệu của Như Lai trong ba đời, lấy ngọc ma-ni bảo vương minh châu cột nơi búi tóc, đội mão báu trang nghiêm và che thân bằng lưới ma-ni vương có các báu vi diệu sáng rực rỡ.

Như thế, tất cả Bồ-tát trong mười phương đều dùng thần thông phóng ra những vầng mây để cúng dường đến đạo tràng và đầy khắp pháp giới. Những Bồ-tát ấy và quyến thuộc đều được sinh từ hạnh nguyện của Phổ hiền. Mọi người dùng mắt trí thanh tịnh để thấy hết các Đức Phật trong ba đời và họ thích nhìn những biển tướng, mọi người đạt được Tai vô ngại để nghe trọn các biển Tu-đa-la từ các đức Thế Tôn đã chuyển pháp luân trong khắp mười phương. Cuối cùng hết thảy Bồ-tát đều muốn đạt cảnh Niết-bàn hoàn toàn tự tại và tối thắng. Trong từng niệm đều hiện ra đại thần biến, có thể thân cận các Đức Phật khắp mười phương. Một thân biến đầy khắp các thế giới hiện rõ chúng hội đạo tràng của chư Phật, ánh sáng ấy chiếu khắp cả thế giới. Trong một hạt bụi hiện được tất cả cảnh giới mười phương cho đến tận cảnh giới hư không. Mỗi thế giới trong tất cả thế giới, đều hiện vô số thân để tùy thuận giáo hóa chúng sinh, làm cho họ được thuần phục không bỏ lỡ dịp. Toàn thể các lỗ chân lông nơi thân đều phát ra âm thanh lớn, nghe khắp cảnh giới trong mười phương đang diễn xướng pháp luân vi diệu của Như Lai, như mây rộng lớn trùm khắp cảnh giới: Biết các chúng sinh đều như huyễn, biết các Đức Như Lai đều như bóng, biết hành nghiệp, thọ, sinh của chúng sinh trong các cảnh giới đều như mộng, biết quả báo của thế gian như bóng trong gương, biết sự phát sinh của các hữu tình trong thế gian như ánh lửa và biết các cõi nước là dựa vào chỗ tâm tưởng của chúng sinh nên đều như biến hóa. Thông đạt được mười trí lực của Như Lai, oai đức tự tại như trâu chúa và được vô sở úy, có khả năng cất tiếng gầm của tư tử. Thâm nhập vào biển lớn biện tài vô tận, thì hiểu rõ biển bí mật của chúng sinh, thâm nhập vào biển trí ngôn ngữ văn tự, thì hiểu biết pháp giới giống như hư không. Được thần thông trí tuệ của các Bồ-tát, oai lực mạnh mẽ, trừ diệt quân ma, trí lực sáng suốt thông đạt ba đời. Biết các pháp không tranh cãi nên thường cầu quả vị Nhất thiết trí. Dùng trí vô đoạn nhập vào thế gian. Dùng trí pháp giới tuôn ra biển giáo pháp. Được sức thần thông thì có khả năng làm cho tất cả thế giới trong mười phương luân phiên giao kết, được sức của căn lành thì sẽ được thọ sinh tự tại ở các thế giới. Được Thiên nhãn thì thấy khắp mười phương thế giới, lớn, nhỏ, rộng, hẹp, được trí vô ngại thì thấy được cõi nước rộng lớn trong cảnh giới vi tế và thấy cõi nước vi tế trong cảnh giới rộng lớn. Bằng sức tự tại, vị ấy ở nơi một Đức Phật mà được biết tất cả công đức trí tuệ của Đức Phật và được oai thần gia trì của Phật để có thể thấy khắp mười phương không có nghi hoặc. Trong một niệm, có thể vận thần thông đi khắp tất cả biển cõi trong mười phương với đầy đủ vô lượng công đức như thế, các Đại Bồ-tát đang đầy khắp rừng Thệ-đa ấy, đều là nhờ nơi sức oai thần của Đức Như Lai.

Khi ấy, những Thanh văn thượng thủ như Đại trí Xá-lợi-phất, đại thần thông Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ly-bà-đa, Tu-bồ-đề, Anậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Ca-chiên-diên, Phú-lâu-na, Di-đa-la-ni Tử tất cả đều ở trong rừng Thệ-đa nhưng không thấy được thần lực, tướng tốt trang nghiêm, cảnh giới diệu dụng, thần biến, tôn thắng, diện hạnh, oai đức sự gia trì và cảnh giới của Như Lai. Cũng không thấy được cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Bồ-tát như: Sự vân tập, sự biến nhập, sự thân cận, thần thông, diệu dụng, quyến thuộc, phương hướng, toàn sư tử, cung điện, oai nghi, thiền định, quán sát khắp cùng, Sư tử tần thân, dũng mãnh, cúng dường, thọ ký, thành thục, thân nghiệp thanh tịnh, trí thân viên mãn, nguyện thân rõ ràng, sắc thân biến khắp, tướng tốt đầy đủ, ánh sáng tròn đầy, phóng lưới đại quang, khởi phát mây biến hóa, lưới giăng khắp nơi, các hạnh viên mãn. Những hình ảnh ấy, tất cả đều không thấy. Vì sao? Vì căn lành của họ không đạt tới đó. Do nguồn gốc đời trước, những vị ấy không tu tập căn lành, để được thấy tất cả các Đức Phật và những thần thông biến hóa; không khen ngợi về công đức làm thanh tịnh trang nghiêm khắp các cõi nước trong mười phương; không khen ngợi những thần thông biến hóa của các Đức Phật Thế Tôn; không thể ở trong sinh tử mà phát tâm vô thượng chánh đẳng Bồ-đề; không khuyến khích cho tất cả chúng sinh để họ an trụ nơi tâm Bồ-đề rộng lớn; không nuôi dưỡng chủng tánh Như Lai để khỏi đoạn tuyệt, không chuyên cần tiếp nhận tất cả chúng sinh; không chuyên cần tu các Độ (Ba-la-mật) của Bồ-tát; không khuyên chúng sinh ở trong sinh tử mà cầu trí nhãn, không tu tập theo những căn lành về Nhất thiết trí; không hiểu rõ căn lành thù thắng khi Như Lai xuất thế; không đạt trí tuệ và thần thông để làm thanh tịnh trang nghiêm tất cả cõi Phật; không đạt được sự hiểu biết về cảnh giới rộng lớn và mắt thanh tịnh của Bồ-tát; không mong cầu vượt khỏi cảnh giới thế gian; không trồng căn lành lớn; không phát sinh tất cả thệ nguyện lớn và trí xuất ly của Bồ tá; không sinh trong những nơi có oai lực gia trì của Đức Như Lai; không thể biết tất cả các pháp đều như huyễn; không thể biết được tư tưởng sự hiểu biết và sự nắm giữ của Bồ-tát đều là như mộng, không thể đạt được ý chí dũng mãnh, rộng lớn và tâm hết mực hoan hỷ của Bồ-tát. Những việc như thế đều là cảnh giới trí nhãn của Phổ Hiền, chứ không phải của hàng Nhị thừa. Chính lẽ đó, nên những bậc đại đức Thanh văn thượng thủ không thể nghe, không thể tin, không thể hiểu, không thể thấy, không thể ghi nhớ, không thể quán sát, không thể đo lường, không thể suy nghĩ, không thể chứng nhập và không thể phân biệt được. Vì sao? Vì cảnh giới cũng như thần thông của Phật và Bồ-tát không giống vối cảnh giới và thần thông hạn hẹp của hàng Nhị thừa. Thế nên, tuy ở tại rừng Thệ-đa, nhưng mọi người không thấy được chỗ thần biến rộng lớn của Như Lai. Hơn nữa, các Thanh văn ấy, không tu thiện căn tối thắng như các Bồ-tát; nên không thấy được thần thông và mắt trí thanh tịnh của Phât; không quán sát chi tiết vào phần sâu xa của định; không được sự gia trì của thần lực rộng lớn; không được môn giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, không được thần thông tự tại; không được uy lực rộng lớn, không được oai đức rộng lớn; không được chỗ ở tối thắng. Không đạt được cảnh giới hoạt động của trí nhãn cho nên các vị ấy không biết, không thể thấy, không thể nhập được, không thể đạt được, không thể mở rộng hiểu biết, không thể làm phát sinh, không thể quán sát, không thể thọ nhẫn, không thể tu hành, không thể an trú, không thể trình bày, không thể vì người mà giảng thuyết, không thể khen ngợi, không thể hướng dẫn, không thể truyền trao, không thể gìn giữ, không thể khuyến tấn, cũng không thể dạy bảo để mọi người tu tậ p, an trú và chứng nhập cảnh giới của chư Phật. Vì sao? Vì hàng Thanh văn không có trí tuệ lớn như thế, chỉ dựa theo giáo pháp Thanh văn để giải thoát, nhập đạo Thanh văn để đạt trí tuệ. Họ tự mãn ở hạnh tu của Thanh văn, trụ nơi quả Thanh văn là cứu cánh, chỉ lo giác ngộ Trí thật đế của Thanh văn, trụ vào khía cạnh sai biệt của thật tế, thích trụ chỗ vắng lặng, cho là Niết-bàn, không có tâm đại Bi đối với thế gian, xa lìa sự cứu hộ các chúng sinh, chỉ lo việc của mình và vui với tịch diệt. Thế nên, tuy họ ở rừng Thệ-đa nhưng không thấy được các pháp thần biến như vậy. Vì sao? Vì đối với tánh Nhất thiết trí của Như Lai họ không thể mong cầu, không thể tích tập, không thể ham muốn, không thể làm phát sinh, không thể tu tập, không thể làm thanh tịnh và đối với thiền định, thần thông của Như Lai họ cũng không có khả năng nhập, không thể hành, không thể thấy biết, không thể chứng đắc. Vì sao? Vì cảnh giới như thế chỉ có hàng Bồ-tát với mắt trí rộng lớn thì mới có thể thấy biết được, chứ không phải cảnh giới hành động của Thanh văn. Vì nhân duyên ấy, nên tuy ở rừng Thệ-đa mà hàng đại Thanh văn không thể thấy được những thần biến, những sự gia trì, những cõi Phật, những sự thanh tịnh trang nghiêm của Như Lai và Bồtát đã hiện khắp toàn thể chúng hội; cho đến những thần thông hiện bày diệu dụng đều cũng không thấy. Ví như hai bên bờ sông Hằng có hàng trăm, hàng ngàn vạn ức, đến vô số ngạ quỷ lõa lồ, đói khát, ốm yếu, tiều tụy chỉ còn da bọc xương, bị thiêu đốt cả trong lẫn ngoài, nắng táp, gió quét, toàn thân khô rốc. Những loài ác cầm, dã thú, như ưng, sói tranh nhau đến giày xé, bị khổ vì đói khát bức bách, đám ngạ quỷ bèn cần uống nước thì dù có đứng trên bờ sông cũng không thấy sông. Giả sử chúng có thấy được đi nữa thì cũng không chỉ thấy dòng sông khô, hoặc thấy dòng lửa cháy hoặc thấy than hồng. Vì sao? Vì chúng bị nghiệp chướng sâu dày che phủ. Các đại Thanh văn cũng thế, tuy họ ở rừng Thệ-đa, nhưng không thấy được thần biến rộng lớn của Như Lai. Vì sao? Vì họ bị vô minh che mắt nên không thích Chủng trí và chưa từng trồng thiện căn với quả vị Nhất thiết trí. Ví như trong chúng hội có người vừa nằm mê, chợt mộng thấy cung thành Thiện kiến chỗ ở của Đế Thích, trên đỉnh núi Tu-di, có vườn thượng uyển trang nghiêm, bảo điện thù thắng, có hàng trăm, hàng ngàn vạn ức, Thiên tử, Thiên nữ, ở đấy đất báu mịn màng hoa trời rải khắp. Những cây y, sinh y phục đẹp. Những cây hoa, nở ra những hoa đẹp. Các cây trân bảo sinh toàn châu báu. Cây trang nghiêm, sinh những phẩm loại để trang nghiêm. Cây âm nhạc, hòa tấu nhạc trời. Trong ấy có vô lượng chư Thiên dạo chơi. Người ấy tự thấy mình mặc y phục cõi trời, ở khắp nơi ấy hưởng các thú vui. Toàn thể mọi người khác trong hội tuy cùng ở chung một chỗ nhưng không biết, không thấy và không thể xem xét về giấc mộng ấy. Vì sao? Vì cảnh giới của người thấy trong mộng thì khác, người trong hội không thể thấy được. Cảnh giới của tất cả Bồ-tát và các vị chủ các cõi đang thấy trước mặt cũng lại như vậy.

Các Đại Bồ-tát nhờ sự gia trì của các Đức Phật và từ lâu đã tích tập sức thiện căn, kèm theo đó là những pháp như: Phát nguyên rộng lớn về Nhất thiết trí, tu tập công đức thù thắng của Như Lai, khéo an trụ đạo trang nghiêm của Bồ-tát, viên mãn môn Nhất thiết chủng trí, thành tựu được các hạnh nguyện của Phổ Hiền thể nhập hết thảy trí địa thanh tịnh giải thoát của Bồ-tát, dạo vào tất cả định và biển thần thông của Bồ-tát, quán sát tất cả cảnh giới trí vô ngại của Bồ-tát.

Thế cho nên tất cả đều thấy được cảnh giới thần thông diệu dụng tự tại không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn và họ cũng có khả năng hội nhập, khả năng hiểu biết.

Ngược lại, những đại đệ tử Thanh văn, tuy họ có đủ trí tuệ và thần thông thù thắng, nhưng tất cả đều không thể thấy, không thể biết. Vì sao? Vì họ không có con mắt thanh tịnh như Bồ-tát. Ví như trên núi Tuyết có nhiều loại thuốc, như đã được ươm trồng khắp nơi. Bấy giờ, có vị đại lương y, có trí tuệ, biết được công năng khác biệt của từng tánh dược. Thuốc hợp với bệnh nào thì ông đến đó lấy về. Nhưng những người đi săn bắn qua lại trong đó thì không thấy, không biết, huống là có thể hái mang về. Trường hợp này cũng thế, các Bồ-tát do đã thể nhập vào toàn bộ cảnh giới trí tuệ của Như Lai, nên phát sinh ra các thứ diệu dụng của Bồ-tát. Vì vậy, các Bồ-tát có khả năng hiểu biết được các cảnh giới định của Như Lai. Còn các đại đệ tử, vì không thể tu tập Nhất thiết chủng trí, không làm lợi ích cho toàn thể chúng sinh nên tuy ở rừng Thệ-đa nhưng họ không biết Tam-muội và thần biến rộng lớn của Như Lai. Ví như đại địa là chỗ chứa các báu. Trong đó ẩn chứa đầy ắp khắp nơi hàng trăm ngàn vạn ức loại trân châu kỳ lạ cũng như tạp bảo. Mỗi thứ đều mang một dáng vẻ trang nghiêm hoàn bị. Nếu có một người đàn ông trí tuệ thông đạt, khéo biết nơi nào có kho báu và biết công năng trọng lượng của chúng. Người ấy lại có đại phước đức được tự tại lấy vật báu theo ý muốn của mình, để phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ thân tộc, đối với những kẻ đói nghèo, tuổi già sức yếu bệnh tật, người đàn ông ấy đều cung cấp và đáp ứng sự mong mỏi của mọi người. Ngược lại, những người không có phước, không trí tuệ, thì dù đi, đứng, nằm, ngồi trên kho báu, họ cũng không biết, không thấy.

Việc này cũng thế, các Đại Bồ-tát nhờ mắt trí tuệ thanh tịnh thấy khắp; nên tuy ở rừng Thệ-đa, mà có khả năng nhập vào cảnh giới sâu xa chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, có khả năng thấy thần thông biến hóa rộng lớn của chư Phật, có khả năng hiểu tất cả các pháp môn của chư Phật, có khả năng nhập biển Tam-muội vô biên của Phật, có khả năng thường phụng sự các Đức Như Lai, có khả năng dùng pháp thù thắng khai ngộ chúng sinh, có khả năng dùng bốn Nhiếp pháp thâu nhận chúng sinh. Các hàng Thanh văn tuy ở trong rừng này, nhưng không thấy được thần lực của Như Lai cũng không thấy chúng hội Bồtát. Ví như người dùng lụa dày che mắt, được đến nơi đảo châu báu lớn, đi, đứng, nằm, ngồi ở đó; nhưng không thể thấy được cây báu, quả báu, y báu, hương báu và các công dụng hình sắc cao thấp của chúng. Nếu có một người khác sáng mắt đến đó, thì sẽ thấy được, biết rõ được tất cả.

Các Đại Bồ-tát cũng thế, nếu đến châu Đại pháp bảo công đức tối thắng trang nghiêm của Như Lai thì được thấy hoàn toàn. Những đệ tử tuy ở trong rừng Thệ-đa, thân cận Đức Thế Tôn, nhưng không thấy cảnh giới Tam-muội và thần biến tự tại của Như Lai, cũng không thấy toàn thể chúng hội Bồ-tát trang nghiêm. Vì sao? Vì hàng Thanh văn không tương ưng với trí tuệ của Phật. Họ bị vô minh che mắt. Họ không có trí vô ngại của Bồ-tát, cũng không thấy Tam-muội tự tại và thần biến sai biệt của Như Lai. Ví như có một loại thuốc, tên là Vô cấu quang, người nào dùng nó đắp lên mắt mình, thì mắt liền được sáng tỏ, không bị bóng tối ngăn che, người ấy có khi ở nơi bóng đêm với vô số người đi, đứng, nằm, ngồi trong đó, từng oai nghi cử chỉ của họ, người ấy đều thấy hết những hình tướng, cử chỉ đến lui của anh ta thì những người kia không có ai thấy được. Việc này cũng tương tự như vậy. Những Bồ-tát ấy, thành tựu mắt trí thanh tịnh của Như Lai, nên có khả năng thấy rõ rất cả thế gian không bị chướng ngại. Họ đã diễn đạt cảnh giới rộng lớn của Tam-muội và thần thông cùng với chúng Đại Bồ-tát đang nhìn quanh và cúng dường, nhưng các đại Thanh văn thì đều không thể cảm thấy. Ví như Tỳ-kheo ở trong chúng hội, nhập Định biến xứ. Những Định biến xứ ấy là: Định biến xứ đất, Định biến xứ nước, Định biến xứ lửa, Định biến xứ gió, Định biến xứ màu xanh, Định biến xứ màu vàng, Định biến xứ màu đỏ, Định biến xứ màu trắng, Định biến xứ về các vị thiên, Định biến xứ về các loại thân của chúng sinh, Định biến xứ về các âm thanh, ngôn ngữ, Định ịnh biến xứ về tất cả đối tượng duyên. Người nhập định này, thấy các thứ để duyên như đất, nước… tướng ánh sáng trùm khắp đối tượng duyên trong cảnh giới định cho đến hết thảy, còn những người khác trong đại chúng đều không thể thấy được. Ngoại trừ những người đang định nhập ấy. Sự việc này cũng như vậy. Cảnh giới thần thông rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của Đức Như Lai hiện ra thì tất cả các Bồ-tát đều có khả năng biết và nhập, còn hàng Nhị thừa thì không biết, không thấy. Ví như có người được thuốc tàng hình lấy bôi lên mắt thân liền mất. Dù đi, đứng, qua, lại trong chúng nhưng mọi người không ai thấy cả, ngược lại, mọi việc trong chúng sinh đều thấy cả. Nên biết Đức Như Lai cũng thế. Như Lai thành tựu trí nhãn siêu việt vượt thế gian, khắp thế gian không bị chướng ngại và đã hiện cảnh giới Tammuội và thần thông. Tuy nhiên, việc ấy không phải là khả năng hiểu biết của hàng Thanh văn, ngoại trừ những người đang hướng về cảnh giới Nhất thiết trí. Việc này chỉ có Đại Bồ-tát mới có thể thấy được. Ví như đứa bé sinh cùng lúc với vị thiên, họ cùng tuổi, cùng tên, như vậy Trời và người tuy có điểm giống nhau, nhưng trời thường thấy người, mà người không thấy được trời. Cũng vậy Đức Như Lai an trụ vào cảnh giới Trí Nhất thiết trí chẳng thể nghĩ bàn, Tam-muội thần thông rộng lớn cùng các Đại Bồ-tát và chúng hội trang nghiêm, nhưng các Thanh văn thì không thể thấy. Ví như Tỳ-kheo được tâm tự tại nhập vào định diệt tận, thọ tưởng đều dứt, sáu căn không hoạt động, không còn tạo nghiệp, cũng không phải là Niết-bàn, nước vỡ, động đất vị ấy không hay không biết. Vì sao? Vì nhờ sức định của gia trì. Các đại Thanh văn này cũng như vậy, tuy ở rừng Thệ-đa, đầy đủ sáu căn nhưng đối với cảnh giới tự tại thần biến rộng lớn của Như Lai, họ lại không thấy, không biết, không hiểu, không nhập và cũng không thấy thần thông Tam-muội và chúng hội Bồ-tát. Vì sao? Vì cảnh giới của Như Lai sâu xa, vi tế, rộng lớn, bí mật, khó thấy, khó biết, khó lường, khó tính, siêu việt và cũng không phải là lĩnh vực hiểu biết của Thanh văn và Bích-chi-phật. Thế nên, từ thần lực tự tại Như Lai đã hiện cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, quyến thuộc trang nghiêm, chúng hội Bồ-tát và rừng Thệ-đa, là để làm cho thanh tịnh khắp vô lượng a-tăng-kỳ thế giới. Những việc như thế tất cả hàng Nhị thừa đều không thể thấy. Vì sao? Vì họ chẳng phải là bậc pháp khí rộng lớn như Bồ-tát.

Bấy giờ, ở phương Đông, Đại Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na Diệm Nguyện Tạng Quang Minh, nương nơi oai lực của Đức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Các vị quán trí Phật
Vi diệu khó nghĩ bàn
Tuy ở rừng Thệ-đa
Thần biến vượt tất cả
Sức oai thần của Phật
Hiện rõ vô số hạnh
Người đời vì mê hoặc
Không hiểu pháp sâu xa.
Pháp thâm diệu vương Pháp,
Vô lượng khó nghĩ bàn
Những thần thông được hiện
Thế gian không lường được.
Hiện tướng của chư Phật
Tán dương không cùng tận
Tuy dùng tướng đoan nghiêm
Nhưng lại hiện vô tướng
Phật có nhiều thần biến
Hiện nơi rừng Thệ-đa
Sự hiển hiện sâu xa
Ngôn từ không diễn hết
Vô số ức cảnh giới
Hàng Bồ-tát đức tài
Trong chúng hội trang nghiêm
Phụng kính Phật, vân tập
Đại nguyện đều viên mãn
Oai nghi không chấp trước
Cảnh giới tâm khó nghĩ
Thế gian không thể biết
Hàng Bích chi lợi trí
Và hàng Đại Thanh văn
Tất cả đều không rõ
Lãnh vực Bồ-tát làm
Trí Bồ-tát sâu rộng
Tối thắng khó vượt qua.
Dựng trụ cờ tinh tấn
Không gì làm lay động
Đã nhập định vô lượng.
Đã được tiếng khen lớn
Hiển hiện đại thần thông
Biến khắp cả pháp giới

Ở phương Nam, Đại Bồ-tát Nan Tồi Phục Tốc Tật Tinh Tấn Vương; nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Các Phật tử nên quán
Tạng công đức diệu trí
Thường tu hạnh Bồ-đề
Làm an lạc thế gian
Định oai thần vi diệu
Trí tuệ không ngằn mé
Cảnh giới và tâm đó
Tất cả đều thâm diệu.
Hôm nay rừng Thệ-đa
Nơi đấng Chánh tri ngự
Chúng Bồ-tát vân tập
Khắp nơi đều trang nghiêm
Nên quán biển đại chúng
Bồ-tát không chấp trước
Đều ngồi tòa hoa sen
An trụ nơi đạo tràng
Không đến cũng không đi
Không nương, không đắm chấp
Cứu cánh lìa phân biệt
Hiện khắp ở mười phương
Cờ đại trí dũng mãnh.
Kiên cố không lay động
Thường ở biển vô tướng
Mà hiện tướng khắp nơi
Khắp cõi khắp mười phương
Nơi các Đức Phật ngự
Đều đến không phân thân
Xa cả tướng hữu vô
Nên quán thích sư tử
Đủ loại sức thần thông
Hiện bày oai đức lớn
Khiến Bồ-tát vân tập
Hãy sánh vai đức lớn
Pháp giới không phân biệt
Thân Phật cũng như vậy
Thế gian là giả danh
Phật tử đều thông hiểu
Chư Phật trụ chân thật
Nơi tịch diệt bình đẳng
Chuyển Pháp luân sai biệt
Không động, không phân biệt.

Ở phương Tây, Đại Bồ-tát Phổ Biến Xuất Sinh Cát Tường Oai Đức Vương, nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Nên quán Vô thượng sĩ
Trí rộng lớn viên mãn
Bất kỳ vào lúc nào
Thường nói pháp vô lậu
Diệt trừ các ngoại đạo
Và nhiều tà kiến khác
Tùy theo tâm chúng sinh
Mà hiện sức thần thông
Chánh giác chẳng có lượng
Cũng chẳng phải không lượng
Hoặc lượng hoặc phi lượng
Tịch tĩnh vẫn trên hết
Mặt trời ở hư không
Ánh sáng luôn chiếu mãi
Trí Phật cũng như thế
Luôn trừ tối ba đời
Ví như vầng trăng sáng
Mọi người đều thích ngắm
Khi Phật đức viên mãn
Người chiêm ngưỡng đều vui
Như mặt trời trên không
Vận hành không dừng nghỉ
Chư Phật hiện thần thông
Liên tục không hề tận
Như hư không mười phương
Không trở ngại các cõi
Đèn trí chiếu thế gian
Tâm cũng không hề ngại
Ví như đất thế gian
Tất cả đều nương tựa
Đối với các chúng sinh.
Chư Phật chỗ nương tựa.
Như cơn gió mạnh thổi
Không gì ngăn lại được
Trí của Phật cũng thế
Không ngại với thế gian
Ví như đại thủy luân
Thế giới nương trên đó
Phật ba đời cũng vậy
Thường nương trụ trí luân.

Ở phương Bắc, Đại Bồ-tát Vô Ngại Cát Tường Thắng Tàng Vương, nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Ví như núi báu lớn
Lợi ích khắp chúng sinh
Thấy Phật cũng như vậy
Thường sinh trí xuất thế
Ví như nước biển cả
Sâu rộng và trong sạch
Thấy Phật cũng như thế
Thường tiêu những khát ái
Ví như núi Tu-di
Cao vượt trên biển cả
Núi trí cũng như vậy
Đứng sâu trong biển pháp
Ví như nơi biển sâu
Các báu sinh ở đấy
Biển giác ngộ cũng thế
Thường sinh các trí báu
Trí Thế Tôn sâu xa
Vô lượng và vô số
Đã hiện các thần thông
Người không thể suy lường.
Ví như nhà ảo thuật
Tạo nên những tướng huyễn
Phật trí cũng như vậy
Hóa hiện khó nghĩ lường
Ví như ngọc ma-ni
Mong cầu đều toại ý
Báu của Phật cũng vậy
Thỏa mãn những nguyện lành
Ví như ánh sáng báu
Chiếu tỏa khắp hư không
Báu của Phật cũng vậy
Chiếu sáng khắp hữu tình
Ví như ngọc tám cạnh
Chiếu hiện rõ các phương
Đèn đại trí vô ngại
Chiếu khắp cả thế giới.
Ví như ngọc thủy thanh
Khả năng làm trong nước
Được thấy Phật cũng vậy
Các căn đều thanh tịnh

Ở phương Đông bắc, Đại Bồ-tát Diệu Biến Hóa Biến Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Ví như ngọc đế thanh
Chiếu vật đều cùng màu
Khi chúng sinh thấy Phật
Cùng một sắc Bồ-đề
Trong vô số các cõi
Chư Phật hiện thần biến
Luôn luôn không gián đoạn
Giáo hóa đều thanh tịnh
Trí sâu xa hy hữu
Không thể nghĩ bàn được
Bồ-tát có thể biết
Chúng sinh không thể hiểu
Thân Phật rất thanh tịnh
Đầy đủ trướng trang nghiêm
Thể nhập khắp pháp giới
Thành tựu các Bồ-tát
Các cõi không nghĩ bàn
Điều hiện thành Chánh giác
Ngồi đạo tràng hàng ma
Chúng Bồ-tát vây quanh
Đức Thích-ca vô thượng
Với pháp hằng tự tại
Các cõi như cực vi
Thần thông không thể lường
Bồ-tát với nhiều hạnh
Vô ngại diệu minh quang
Phật lực không nghĩ bàn
Tất cả đều hiển hiện
Phật tử nên khéo học
Các Phật pháp sâu xa
Chứng nhập trong các pháp
Không chấp cảnh giới trí
Pháp vương oai lực lớn
Thường chuyển pháp vi diệu
Thể hiện các thần thông
Làm thanh tịnh mười phương
Trí sâu xa viên mãn
Báu chân thật của đời
Trí Phật là rồng chúa
Tùy tâm cứu tất cả

Ở phương Đông nam, Đại Bồ-tát Pháp Tuệ Quang Minh Oai Đức Vương, nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Khắp mười phương ba đời
Tất cả đại Thanh văn
Không biết hết diệu pháp
Của các Đức Như Lai
Lại suốt cả ba đời
Mười phương các Duyên giác
Không biết việc thần thông
Biến hóa của Như Lai
Huống là những phàm phu
Mù tối trong luân hồi
Bị kết sử buộc ràng
Lường sao được cảnh Phật
Trí vô ngại của Phật
Vượt lượng và phi lượng
Dứt hẳn đường ngôn ngữ
Tất cả không thể nói
Thân Phật tướng trang nghiêm
Tỏa sáng như trăng tỏ
Nhờ nhiều kiếp nhẫn nhục
Hóa hiện khắp mười phương
Dùng Tam-muội thần thông
Quán chiếu lực của Phật
Trải nhiều kiếp suy nghĩ
Không thể biết phần ít
Quán sát trí chư Phật
Tự giác thật khó lường
Trong mỗi môn công đức
Không đo được giới hạn
Người nào phát đại nguyện
Yêu thích nơi pháp Phật
Đều thông hiểu dễ dàng
Đối với cảnh giới khó
Nếu dùng tâm thanh tịnh
Chuyên cần tu phước trí
Đầy đủ đại công đức
Nghe pháp tùy lãnh hội
Người nào nương tuệ Phật
Mang chí nguyện sâu rộng
Là hướng đến Bồ-đề
Sẽ thành Nhất thiết trí.

Ở phương Tây nam, Đại Bồ-tát tên Tồi Toái Nhất Thiết Ma Lực Trí Tràng Vương, nương nơi sức oai thần của Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Thân trí không chấp trước
Xa lìa tướng của thân
Cảnh giới Phật khó lường
Thánh chúng không thể biết
Tịnh nghiệp khó nghĩ bàn
Phát sinh thân vi diệu
Tướng tốt và ánh sáng
Xuyên suốt cả ba đời
Chiếu khắp cả thế gian
Pháp giới thường thanh tịnh
Phật mở cửa Bồ-đề
Thường sinh Nhất thiết trí
Thể sạch không trần cấu
Lìa xa những chướng ngại
Giống mặt trời thế gian
Ánh sáng trí chiếu khắp
Dứt hẳn dòng ba cõi
Trừ sợ hãi sinh tử
Thành tựu các Bồ-tát
Viên mãn nguyện Bồ-đề
Hiển thị vô lượng sắc
Sắc ấy không nương trụ
Tuy biểu hiện vô lượng
Nhưng tất cả khó lường
Phật ở trong một niệm
Việc hiển hiện khó nghĩ
Cảnh giới giác ngộ sâu
Không thể nào lường biết
Phật ở trong một niệm
Hiển hiện Phật ba đời
Sự kiện tuy không cùng
Nhưng niệm tánh không khác
Người trí cần khéo nghĩ
Từng niệm nối tiếp nhau
Tu trí nghiệp không khác
Hướng thẳng đến Bồ-đề
Pháp ấy khó nghĩ bàn
Tánh rời xa ngôn ngữ
Không phải cảnh giới tâm
Chư Phật từ đây sinh.

Ở phương Tây bắc, Đại Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na Nguyện Trí Tinh Tú Tràng, nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:

Tịnh niệm lìa loạn si
Dũng mãnh pháp luôn trì
Trí năng quán tròn đầy
Biển Bồ-đề vô tận
Nếu biết được chân thật
Tức sẽ nhập cảnh Phật
Trí tự tại phát sinh
Đoạn trừ những nghi hoặc
Tâm từng niệm tăng tiến
Việc làm luôn chuyên cần
Với pháp trường trí cầu
Đến cứu cánh pháp Phật
Từ những căn lành ấy
Sinh niềm tin rộng lớn
Thường vui và quán sát
Không tướng, không nương trụ
Ức kiếp luôn tu tập
Viên mãn các căn lành
Mục đích vì quả Phật
An vui chứng vô thượng.
Đi, đứng trong sinh tử
Không chấp trước tử sinh
Không nghi hoặc nơi pháp
Thường vui cảnh giới Phật
Với các pháp hữu vi
Thế gian vui hư vọng
Xa hẳn tâm tham vướng
Cầu công đức của Phật
Phàm phu không Phật trí
Chìm nổi trong sinh tử
Tâm Bồ-tát không chấp
Nên cứu thoát tất cả
Bồ-tát hành không động
Thế gian không thể lường
Hiện khắp tùy loại thân
Để làm vui chúng sinh
Trí Bồ-đề đã tịnh
Khởi từ bi với đời
Như mặt trời mọc lên
Ánh sáng chiếu khắp nơi.

Ở phương dưới, Đại Bồ-tát Phá Chư Cái Chướng Dũng Mãnh Trí Tự Tại Vương, nương nơi sức oai thần của Phật quán sát khắp mười phương, rồi nói kệ rằng:

Vô lượng ngàn ức kiếp
Danh Phật khó được nghe
Huống ngay trong lúc này
Thấy Phật, bỏ nghi hoặc
Trí Như Lai vô tận
Chiếu sáng khắp thế gian
Như sông phước ba đời
Làm chúng sinh thanh tịnh.
Sắc thân Phật vi diệu
Thanh tịnh chẳng lỗi lầm
Trí thanh tịnh không vướng
Dù ức kiếp chiêm ngưỡng
Tâm không hề biết chán.
Phật tử khéo quán sát
Sắc thân Phật vi diệu
Trí thanh tịnh không vướng
Làm lợi mình lợi người.
Như Lai trí lực sâu
Biện tài cũng vô tận
Mở cửa ngôi chánh giác
Thuyết giảng đều không ngại.
Mâu-ni tôn chiếu khắp
Hướng dẫn chúng khó bàn
Thọ ký quả Bồ-đề
Được vào cửa giải thoát.
Phước đức chứa rộng lớn
Ban bố cho thế gian
Khai ngộ cho chúng sinh
Tu tập hạnh Bồ-đề
Từng cúng dường chư Phật
Trí độ luôn thanh tịnh
Hay phá những “lưới hoặc”
Trừ đường ác sợ hãi
Thường quán Bậc Lưỡng
Túc Phát đại nguyện Bồ-đề
Được sức Phật tự tại
Sánh ánh sáng đại trí
Ai thấy Bậc Trung Tôn
Tâm quyết định cầu Phật
Nên biết người như thế
Tất đạt trí Như Lai.

Ở phương trên, Đại Bồ-tát Phổ Biến Pháp Giới Đại Nguyện Tế; nương nơi sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương, rồi nói kệ rằng:
Đấng Mâu-ni đặc biệt
Các đức đều viên mãn
Người thấy, tâm thanh tịnh
Hướng về ngôi Chánh giác
Đức Như Lai xuất thế
Vắng lặng, đại Từ bi
Chuyển khắp diệu pháp luân L
ợi ích cho mọi loài.
Phật từ vô lượng kiếp
Luôn khổ vì chúng sinh
Làm sao các chúng sinh
Báo đáp được ân sư
Thà chịu khổ ba đường
Trải qua vô lượng kiếp
Quyết không bỏ Như Lai
Để mong cầu Niết-bàn.
Thà thay thế chúng sinh
Chịu nỗi khổ luân hồi
Quyết không bỏ Như Lai
Để cầu chút an lạc.
Ở đường ác nhiều kiếp
Chịu khổ được nghe Phật
Còn hơn ở đường thiện
Mà không được nghe danh
Đọa địa ngục nhiều kiếp
Chịu khổ thường thấy Phật.
Không cầu thoát tam đồ
Sinh nơi không Phật pháp.
Vì sao ở đường ác
Mà không sinh nhàm chán?
Nhờ được thấy Pháp vương
Nên trí tuệ tăng trưởng
Thấy sức Phật tự tại
Trừ được tất cả khổ
Được nhập các Như Lai
Cảnh giới trí sâu xa
Nếu khi được thấy Phật
Đường ác được diệt trừ.
Tăng trưởng mầm phước trí
Tất đạt quả Bồ-đề
Chúng sinh được thấy Phật
Dứt phá các nghi ngờ
Vui thế và xuất thế
Hạnh nguyện được viên thành.

*********

Bấy giờ, vì muốn khai triển pháp đại Tam-muội tối thượng Sư tử tần thân của Như Lai Đại Bồ-tát Phổ Hiền quán sát khắp chúng hội Bồ-tát, rồi dùng những phương tiện của các bậc như là: Phương tiện cùng vơíi hư không giới, phương tiện cùng với ba đời, phương tiện cùng với pháp giới, phương tiện cùng với tất cả thế giới, cùng với tất cả nghiệp, phương tiện cùng với hết thảy tâm chúng sinh, phương tiện cùng với tất cả chúng sinh, phương tiện cùng với căn của tất cả chúng sinh, phương tiện cùng với hết thảy chúng sinh khi thành thục, phương tiện cùng với hình ảnh ánh sáng của tất cả pháp, và bảo các Bồ-tát:

–Này Phật tử! Nay ta sẽ dùng mười pháp môn rõ tên rõ nghĩa thanh tịnh để diễn nói, chỉ bày cảnh giới thần thông rộng lớn của Tammuội Sư tử tần thân cho các ông. Mười pháp ấy là:

Pháp môn danh cú một: Như Lai biến hiện khắp pháp giới, khắp hư không giới; trong tất cả cõi Phật và trong số cực vi trần các Đức Phật tuần tự ra đời, cùng với sự thành hoại của các cõi thế giới theo thứ lớp.

Pháp môn danh cú hai: Tất cả cõi Phật trong khắp thế giới hư không, trong tất cả kiếp cùng tận đời vị lai đều khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai.

Pháp môn danh cú ba: Tất cả cõi Phật trong khắp hư không giới, khi Đức Như Lai xuất thế sẽ hiển hiện vô lượng biển pháp môn giác ngộ.

Pháp môn danh cú bốn: Tất cả cõi Phật trong khắp hư không giới, cảnh giới viên mãn của chúng hội Bồ-tát là nơi đạo tràng tối thắng, là chỗ Đức Như Lai an tọa.

Pháp môn danh cú năm: Từng niệm từng niệm, nơi tất cả lỗ chân lông phóng ra những vầng mây thân của chư Phật biến hóa trong ba đời đầy khắp pháp giới.

Pháp môn danh cú sáu: Dùng sức oai thần, làm cho tất cả cảnh giới đều hiện ra nhiều kiểu thần biến về toàn thể các Đức Phật trong ba đời; hiển hiện rõ ràng như nhìn trong lòng bàn tay.

Pháp môn danh cú bảy: Do sức oai thần, nên có thể ở trong tất cả cảnh giới hiện bày khắp tất cả chư Phật ba đời, với vô số thần biến đều hiển hiện rõ ràng như xem nơi bàn tay.

Pháp môn danh cú tám: Có khả năng làm cho vô số cõi Phật như số cực vi trần trong ba đời đều hiện khắp tất cả cõi Phật của ba đời với số cực vi trần số Phật hiển hiện những cảnh giới thần thông trải qua nhiều kiếp, liên tục không gián đoạn.

Pháp môn danh cú chín: Có khả năng làm cho tất cả lỗ chân lông phát ra âm thanh, diễn nói đại nguyện của chư Phật trong ba đời cho đến tận đời vị lai, để trợ giúp cho các Bồ-tát được ra đời.

Pháp môn danh cú mười: Có khả năng làm cho chỗ để tòa Sư tử lớn bằng pháp giới, với đại chúng Bồ-tát lại giác ngộ tối thắng, làm trang nghiêm đạo tràng ở khắp mọi nơi; cho đến tận đời vị lai lại chuyển diệu pháp luân để thành tựu đầy đủ cho thế gian liên tục không dứt.

Này các Phật tử! Mười pháp danh cú này là đứng đầu. Ngoài ra còn có vô số pháp môn danh cú thanh tịnh vi diệu nhiếu như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Tất cả đều là cảnh giới trí tuệ của Như Lai, chứ không phải khả năng chứng biết của ta và chư vị.

Khi ấy, vì muốn lập lại một phần nhỏ của cảnh giới, do Đức Như Lai nhập Tam-muội Sư tử tần thân rộng lớn, nên Bồ-tát Phổ Hiền, nương vào thần lực Đức Phật, nhiệt tâm chiêm ngưỡng và quán sát biển chúng Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Quán sát sự không thể nghĩ bàn về Tam-muội thần thông được biểu hiện đủ loại của Như

Lai, quán sát sự không thể nghĩ bàn khi ra vào các thế giới của Như Lai, quán sát sự thể nhập chẳng thể nghĩ bàn vào tất cả cảnh giới pháp huyễn trí của Như Lai, quán sát sự thể hiện chẳng thể nghĩ bàn của tất cả chư Phật trong ba đời đều bình đẳng của Như Lai. Quán sát sự chẳng thể nghĩ bàn về vô lượng, vô biên ngôn ngữ mở bày giác ngộ cho tất cả pháp môn của Như Lai, rồi nói kệ rằng:

Biển cõi trong từng lỗ chân lông
Cùng tất cả cõi như vi trần
Trong ấy Phật ngồi ở đạo tràng
Chúng hội Bồ-tát cùng vây quanh
Thế giới trong từng lỗ chân lông
Trong ấy Phật ngồi ở đạo tràng
An tọa nơi tòa sen tối thắng
Thể hiện thần thông khắp pháp giới
Mỗi đầu sợi lông đều có Phật
Tất cả cảnh giới như vi trần
Đều ở trong chúng hội Bồ-tát
Đều tuyên dương hạnh nguyện Phổ hiền
Như Lai an tọa ở một cõi
Mà hiển hiện ra khắp các cõi
Vô tận Bồ-tát khắp mười phương
Cùng về nhóm họp nơi hội ấy
Hải hội Bồ-tát đức sáng ngời
Nhiều như cực vi trăm ngàn cõi
Tất cả đứng lên tán dương Phật
Đến khắp mười phương cùng pháp giới
Đi lại tự tại khắp cõi pháp
Trụ hạnh vô đẳng của Phổ Hiền
Hiện phóng ánh sáng nơi các cõi
Đi vào pháp hội Phật vô biên
Ở nơi các cõi khắp mười phương
An trụ tối thắng nơi chư Phật
Lắng nghe chánh pháp để tu hành
Mỗi cõi trải qua vô lượng kiếp
Bồ-tát thường tu rất nhiều hạnh.
Đều vào Hải nguyện của Phổ Hiền
Trụ nơi cảnh giới Phật đức vô biên
Biển pháp sáng ngời chiếu khắp chốn
Thông đạt đại hạnh của Phổ Hiền
Chư Phật ra đời Pháp vô tận
Khen biển công đức Phật không bờ
Hiện các thần thông đầy pháp giới
Phân thân hiện khắp như vi trần
Mỗi niệm thường đi khắp các cõi
Mưa pháp cam lồ thấm chúng sinh
Làm cho pháp giới đều khai ngộ.

Bấy giờ, vì muốn vì muốn cho chúng hội Bồ-tát được an trụ nơi đại Tam-muội Sư tử tần thân, bằng niềm vui tối thắng, rộng lớn sâu xa, Đức Thế Tôn chánh niệm tư duy, rồi từ nơi tướng bạch hào phóng ra ánh sáng lớn, tên là Chiếu khắp hiện môn pháp giới ba đời. Vì tất cả quyến thuộc, Bồ-tát dùng ánh sáng nhiều không thể kể như cõi Phật số cực vi trần số, chiếu khắp tất cả cõi trong mười phương. Lúc này, chúng hội Bồ-tát trong rừng Thệ-đa, đều thấy hết các số cực vi trần ở tất cả các thế giới, hư không giới, thuộc pháp giới khắp mười phương. Mỗi vi trần đều có số cực vi trần cõi Phật trong các cõi nước của chư Phật với rất nhiều các tên gọi khác nhau, rất nhiều các sắc tướng khác nhau, rất nhiều sự trang nghiêm sự thanh tịnh khác nhau, rất nhiều các y trụ, các hình trạng khác nhau. Trong các cõi nước như vậy, đều có Bồ-đề đạo tràng tối thắng; nơi mỗi mỗi đạo tràng đều có tòa Sư tử báu trang nghiêm và trên mỗi tòa báu, đều có Bồ-tát thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Hết thảy các Bồ-tát cung kính nhiễu quanh. Tất cả Phạm vương đều cung kính cúng dường. Hoặc thấy chúng hội trụ trong không thể nói cõi Phật, thì sẽ chuyển bánh xe chánh pháp, dùng âm thanh vô ngại làm vang động khắp Pháp giới. Hoặc thấy ở nơi cung của Thiên vương, cung Long vương, cung Dạxoa vương, cung Càn-thát-bà vương, cung A-tu-la vương, cung Ca-lâula vương, cung Khẩn-na-la vương, cung Ma-hầu-la-già vương, người, phi nhân và những người trong thế gian, thành ấp, xóm, làng, đô thị, dinh trấn, thôn xã cho đến ở những chỗ ở khác nhau của chúng sinh thì sẽ hiện các thần lực khác nhau, nói nhiều pháp môn khác nhau; nghĩa là sinh trong các dòng họ khác nhau sẽ thọ những sắc thân khác nhau, sẽ trụ nhiều oai nghi khác nhau, sẽ biểu hiện các tướng tốt khác nhau, mang những ánh hào quang khác nhau, phóng lưới ánh sáng khác nhau, nếu ở những chúng hội khác nhau, sẽ nhập những Tam-muội khác nhau, phát sinh những thần biến khác nhau, hiện những oai lực khác nhau, phát những âm thanh khác nhau, nói những từ ngữ khác nhau, dùng các văn tự khác nhau, diễn thuyết nhiều giáo pháp khác nhau. Như chúng Đại Bồ-tát đang trong pháp hội này, thấy được Tammuội sâu xa thần biến rộng lớn của Như Lai như vậy cứ thế tận pháp giới, tận hư không giới, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng, trên, dưới sự chuyển biến bằng nhiều cách khác nhau, tưởng trụ trong các phương khác nhau, sinh ra trong các phương khác nhau, giới hạn trong các phương khác nhau, vượt qua trong các phương khác nhau, biển cả trong các phương khác nhau. Tất cả đều nương vào tâm tưởng của chúng sinh mà tồn tại. Từ trước tới nay, tất cả thân cõi nước, tất cả thân chúng sinh; trong các lỗ chân lông, trong những số cực vi trần và trong tất cả những thế giới hư không ấy, nơi mỗi đầu sợi lông, đều có tất cả các cõi nhiều như số cực vi trần. Các biển cõi khác nhau, các nghiệp khởi khác nhau, gắn liền nhau không đứt, tuần tự trước sau mà tồn tại. Trong ấy, cũng có chúng hội, có đạo tràng và mọi người ở đấy cũng thấy thần lực của Phật như vậy: Nhờ được thấy sức thần thông của Phật, nên họ đều có khả năng biến nhập và hiện bóng mình, vào tâm của chúng sinh khắp tất cả thế giới nơi mười phương, ba đời; tùy theo những sự ưa thích của chúng sinh mà phát ra âm thanh, lời nói tốt đẹp, tùy theo những nhu cầu mà các vị sẽ diễn thuyết các pháp, đi vào trong chúng hội hoặc hiện trước chúng sinh; dù sắc tướng có khác nhau, nhưng về mặt trí tuệ thì như nhau; khắp tất cả các cõi nước cho đến tận đời vị lai; thị hiện tự tại không dừng nghĩ để giáo hóa thu phục tất cả chúng sinh. Nếu có người được thấy đức thần thông đó là nhờ từ quá khứ ở nơi Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na, đã biết tu tập nguyện lực thâu nhận căn lành; hoặc từ xưa đã từng tu bốn Nhiếp pháp mà căn lành tích tụ. Hoặc từ xưa đã nhờ thấy, nghe, ghi, nhớ, sự thành tựu, do thân cận cúng dường; hoặc từ ấy đã khiến cho họ phát tâm vô thượng chánh đẳng Bồ-đề; hoặc từ xưa đã từng ở chỗ Đức Như Lai trải qua nhiều thời gian, tu hạnh Bồ-tát, qua lại nhiều nơi thu phục sự dũng mãnh tinh tấn và thiện căn; hoặc từ xưa ở chỗ các Đức Phật, cũng đã trồng nhiều loại căn lành tương tự, hoặc thời quá khứ vì cầu Nhất thiết trí vô thượng nên Đức Như Lai đã dùng nhiều phương tiện giáo hóa để được thành thục, vì thế mà mọi người đều được nhập vào đại thần biến Tam-muội sâu xa không thể nghĩ bàn, khắp pháp giới, hư không giới của Như Lai. Hoặc có người được thấy và thể nhập Pháp thân Phật; hoặc có người được thấy và thể nhập trí thân Phật; hoặc có người được thấy và thể nhập vào biển hạnh thanh tịnh của Phật, đã tu tập thời quá khứ; hoặc có người được thấy và thể nhập công đức giải thoát, viên mãn, rốt ráo của Như Lai, hoặc có người được thấy và thể nhập vào hạnh luân trang nghiêm của Bồ-tát; Hoặc có người được thấy và thể nhập vào các địa mà Bồ-tát đã chứng, hoặc có người được thấy và thể nhập trí thành Chánh đẳng giác của Như Lai; hoặc có người được thấy và thể nhập vào các môn Tam-muội thần biến bình đẳng mà Phật đã an trụ; hoặc có người được thấy và thể nhập mười Trí lực, bốn Vô sở úy của Như Lai; hoặc có người được thấy và thể nhập bốn Vô ngại giải và biển lớn biện tài của Như Lai. Nhập hơn mười không thể nói như số cực vi trần số cõi Phật như vậy; ngoài ra Đức Như Lai còn có cả biển đại thần biến nữa.

Những Đại Bồ-tát ấy, còn dùng nhiều đức tin khác nhau, hiểu biết khác nhau, đạo khác nhau, pháp môn khác nhau, thể nhập khác nhau, giáo hóa khác nhau, tùy thuận khác nhau, nơi chốn khác nhau, căn khí khác nhau, cõi nước khác nhau, thế giới khác nhau, trí tuệ khác nhau, pháp tụ khác nhau, thần biến khác nhau, phương tiện khác nhau, Tam-muội khác nhau. Các vị ấy dùng những pháp như thấ để thể nhập vào biển cả thần biến của Như Lai.

Thế nào là Bồ-tát có những thứ loại Tam-muội khác nhau? Đó là: Nhập tất cả Tam-muội Bồ-tát phổ biến trang nghiêm pháp giới, Tam-muội Bồ-tát quang chiếu tam thế vô ngại cảnh, Tam-muội Bồ-tát pháp giới vô đoạn trí quang minh, Tam-muội Bồ-tát trụ nhất thiết Phật cảnh giới, Tam-muội Bồ-tát quang chiếu vô biên hư không tế, Tammuội Bồ-tát nhập xuất diệu dụng Như Lai tự tại lực, Tam-muội Bồ-tát dũng mãnh vô úy phấn tấn trang nghiêm, Tam-muội Bồ-tát nhập nhất thiết pháp giới phương tiện toàn phục, Tam-muội Bồ-tát biến pháp giới như nguyệt phổ hiện dĩ vô ngại âm diễn nhất thiết pháp, Tammuội Bồ-tát chủng chủng pháp vân bình đẳng trang nghiêm, Tammuội Bồ-tát ly cấu hội hệ đỉnh Pháp vương tràng, Tam-muội Bồ-tát quán nhất thiết Phật trí tuệ, Tam-muội Bồ-tát vô phân biệt quang tràng chiếu nhất thiết thế gian sai biệt thân, Tam-muội Bồ-tát nhập Như Lai vô phân biệt cảnh giới thân, Tam-muội Bồ-tát đại bi tạng tùy nhất thiết thế gian chuyển, Tam-muội Bồ-tát an trụ nhất thiết pháp vô y tích uy lực, Tam-muội Bồ-tát chiếu nhất thiết pháp tối cực tịch tĩnh viên mãn trí, Tam-muội Bồ-tát tri chư pháp không xảo năng hóa hiện biến nhất thiết thế gian, Tam-muội Bồ-tát oai lực bình đẳng phổ xuất sinh nhất thiết Phật sát, Tam-muội Bồ-tát ư nhất thiết Phật sát hiện thành chánh giác trang nghiêm tướng, Tam-muội Bồ-tát quán nhất thế gian sắc không, Tam-muội Bồ-tát bất trước nhất thiết thế gian tối thắng viên mãn không, Tam-muội Bồ-tát xuất sinh nhất thiết Như Lai oai lực mẫu, Tam-muội Bồ-tát tu hạnh nhập nhất thiết Phật cứu cánh công đức hải, Tam-muội Bồ-tát quán sát nhất thiết cảnh giới xuất sinh thần biến tận vị lai thế oai lực, Tam-muội Bồ-tát nhập nhất thiết Như Lai thứ đệ bản sự hải, Tam-muội Bồ-tát năng dĩ oai lực tận vị lai tế hộ trì nhất thiết Như Lai chủng tánh, Tam-muội Bồ-tát dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhất thiết Phật sát giai thanh tịnh, Tammuội Bồ-tát nhất sát-na trung phổ chiếu nhất thiết Phật sai biệt trụ xứ, Tam-muội Bồ-tát thâm nhập quán sát vô ngại tế, Tam-muội Bồ-tát năng dĩ oai lực linh nhất thiết thế giới vi nhất Phật sát, Tam-muội Bồtát xuất sinh nhất thiết Phật biến hóa thân, Tam-muội Bồ-tát dĩ kim cương trí tri nhất thiết chư căn hải, Tam-muội Bồ-tát tri nhất thiết Như Lai đồng nhất thai tạng thân, Tam-muội Bồ-tát tri nhất thiết pháp giới tùy sở an lập tất trụ tâm niệm tế, Tam-muội Bồ-tát ư nhất thiết pháp giới quảng đại sát trung hiện thành chánh giác cập Bát-niết-bàn đại oai lực, Tam-muội Bồ-tát linh trụ tối thượng oai lực xứ, Tam-muội Bồtát chiếu nhất thiết Phật sát chúng sinh thân vô phân biệt oai lực, Tam-muội Bồ-tát nhập nhất thiết Phật trí tuệ toàn chuyển tạng, Tammuội Bồ-tát tri nhất thiết pháp tánh tướng sai biệt, Tam-muội Bồ-tát nhất sát-na trung dĩ vô phân biệt trí phổ kiến tam thế pháp, Tam-muội Bồ-tát niệm niệm trung phổ hiện pháp giới tạng thân, Tam-muội Bồtát dĩ dũng mãnh trí như sư tử vương tùy thuận ngộ giải nhất thiết Như Lai chủng tánh, Tam-muội Bồ-tát quán nhất thiết pháp giới viên mãn trí tuệ nhãn, Tam-muội Bồ-tát chánh dũng mãnh thú hướng thập lực, Tam-muội Bồ-tát dĩ phổ biến nhãn quán sát nhất thiết viên mãn công đức, Tam-muội Bồ-tát biến chiếu xuất sinh nhất thiết chúng sinh sắc tướng viên mãn, Tam-muội Bồ-tát toàn chuyển bất động tạng, Tammuội Bồ-tát diễn thuyết nhất pháp phổ nhập nhất thiết pháp, Tammuội Bồ-tát ư nhất pháp dĩ nhất thiết ngôn từ sai biệt huấn thích biện tài, Tam-muội Bồ-tát diễn thuyết nhất thiết Phật vô nhị pháp cú oai lực tràng, Tam-muội Bồ-tát tri tam thế vô ngại tế, Tam-muội Bồ-tát tùy thuận ngộ giải nhất thiết kiếp vô sai biệt, Tam-muội Bồ-tát nhập vi tế thập lực phương tiện, Tam-muội Bồ-tát dĩ kim cương trí khởi nhất thiết Bồ-tát hạnh, Tam-muội Bồ-tát năng ư thập phương tùy tâm tốc tật phổ hiện thân vân, Tam-muội Bồ-tát hiện biến pháp giới thành chánh giác thân chủng chủng thần biến, Tam-muội Bồ-tát thọ nhất thiết xúc an lạc tràng, Tam-muội Bồ-tát xuất nhất thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới, Tam-muội Bồ-tát niệm niệm trung xuất đẳng nhất thiết thế gian số biến hóa hình tượng vân, Tam-muội Bồ-tát Như Lai vô cấu nguyệt quang chiếu hư không, Tam-muội Bồtát nhất thiết Như Lai gia trì, Tam-muội Bồ-tát nhất quang chiếu nhất thiết pháp căn bản sai biệt trang nghiêm, Tam-muội Bồ-tát quảng diễn nhất thiếp pháp nghĩa đăng, Tam-muội Bồ-tát chiếu thập lực cảnh viên mãn, Tam-muội Bồ-tát tam thế chư Phật tinh tú tràng, Tammuội Bồ-tát nhất thiết Phật nhất mật tạng, Tam-muội Bồ-tát quán nhất thiết tướng giai cứu cánh, Tam-muội Bồ-tát vô tận phước đức tạng, Tam-muội Bồ-tát kiến tận vô biên Phật cảnh giới, Tam-muội Bồ-tát kiến nhất thiết pháp như kim cương sư tử hống oai lực, Tammuội Bồ-tát hiện nhất thiết Như Lai biến hóa chánh kiến bình đẳng, Tam-muội Bồ-tát nhất thiết Phật nhật niệm châu hành, Tam-muội Bồtát nhất niệm phổ chiếu tam thế pháp, Tam-muội Bồ-tát phổ âm diễn thuyết tịnh quang đẳng chiếu nhất thiết pháp tự tánh thanh tịnh, Tammuội Bồ-tát kiến nhất thiết Phật sai biệt lực, Tam-muội Bồ-tát kiến nhất thiết Phật giác nhất thiết sai biệt pháp giới như liên hoa khai phu, Tam-muội Bồ-tát quán sát chư pháp như hư không vô trụ xứ, Tammuội Bồ-tát nhất phương phổ xuất thập phương hải toàn chuyển tạng, Tam-muội Bồ-tát nhập nhất thiết pháp giới môn, Tam-muội Bồ-tát nhất thiết pháp hải sai biệt tạng thân, Tam-muội Bồ-tát dĩ tịch tĩnh thân phóng sai biệt quang chiếu nhất thiết chúng sinh thân, Tam-muội Bồ-tát nhất sát-na tâm dĩ đại nguyện lực xuất sinh nhất thiết thần thông, Tam-muội Bồ-tát thường ư nhất thiết xứ chánh giác oai lực phổ biến, Tam-muội Bồ-tát tùy thuận ngộ giải dĩ nhất trang nghiêm, nhập nhất thiết pháp giới, Tam-muội Bồ-tát chánh niệm nhất thiết Phật thân phổ chiếu, Tam-muội Bồ-tát ngộ giải tối thắng thần thông trí biến nhất thiết thế giới, Tam-muội Bồ-tát nhất niệm linh vô lượng giáo tự bản mẫu phổ biến pháp giới, Tam-muội Bồ-tát dĩ nhất giáo pháp trang nghiêm nhất thiết pháp giới quang minh, Tam-muội Bồ-tát nhất thiết Phật oai lực quang minh viên mãn luân, Tam-muội Bồ-tát dĩ hạnh nguyện võng nhiếp nhất thiết chúng sinh giới, Tam-muội Bồ-tát kiến nhất thiết thế giới bất đoạn tuyệt, Tam-muội Bồ-tát liên hoa cát tường chủng chủng thần biến phổ du bộ, Tam-muội Bồ-tát tri nhất thiết chúng sinh thân toàn chuyển trí, Tam-muội Bồ-tát oai lực phổ hiện nhất thiết chúng sinh tiền, Tam-muội Bồ-tát ngộ giải nhất thiết chúng sinh, âm thanh ngôn từ bí mật hải, Tam-muội Bồ-tát quán nhất thiết chúng sinh sai biệt trí, Tam-muội Bồ-tát vô phân biệt đại bi tạng, Tam-muội Bồ-tát nhập nhất thiết Như Lai tế, Tam-muội Bồ-tát quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tân thân.

Các Bồ-tát này đã dùng những Tam-muội của Bồ-tát nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết, để làm phương tiện nhập vào đại công đức tu tập từ quá khứ của Đức Tỳ-lô-giá-na, từng niệm sung mãn tất cả pháp giới và biển Tam-muội đại thần biến của chư Phật. Những Bồ-tát ở rừng Thệ-đa, tuy không rời chúng hội đạo tràng của Như Lai nhưng đều được thấy toàn thể số cực vi trần cõi Phật rộng lớn khắp mười phương thế giới, ngồi ở những tòa Sư tử bảo liên hoa tạng; các vị đều đã có đầy đủ trí tuệ rộng lớn, thể hiện toàn bộ những cảnh giới thần thông; đã an trụ trong cảnh vắng lặng nơi quả vị Bồ-tát, thản nhiên phát sinh trí tuệ nhạy bén; đã đạt được sự tùy thuận phổ biến hạnh trí, nhờ vào trí tuệ của Phật mà phát sinh chủng tánh; đã chứng hiện tiền về Nhất thiết trí, được mắt trí vô ngại thanh tịnh; khéo điều phục tất cả chúng sinh, an trụ nơi toàn thể pháp tánh bình đẳng của Phật. Đối với các pháp nếu đã tỏ ngộ thì đã có khả năng quán chiếu tự tánh thanh tịnh của chúng, biết những chỗ cứu tánh tịch diệt của thế gian không có nơi nương tựa, đi khắp mười phương hết thảy các cõi nước mà không bị đắm vướng, chuyên cần quán chiếu khắp thế gian nhưng không có chỗ để trụ; đi đến khắp thế giới nơi mười phương nhưng không có điểm để đến, đã nhập vào tất cả các cung điện diệu pháp nhưng không có chỗ để vào, với toàn thể các pháp thấu đạt được tánh không và biết không có tính tích tụ; nhưng vẫn thường giáo hóa làm cho chúng sinh thành thục, chỉ cho chúng sinh an vui nơi việc làm, mở toang trí tuệ và cảnh giới giải thoát cho họ, thường dùng trí thân sống xa lìa cõi tham, vượt trên tất cả biển khổ sinh tử, chỉ rõ cho chúng sinh về thật tế của các uẩn. Ánh sáng trí viên mãn soi chiếu xuyên suốt tất cả định lực kiên cố không thể lay động, thường phát khởi thương tưởng đối với các chúng sinh, hiểu rõ tất cả các pháp đều như huyễn, biết toàn thể thế gian đều như mộng, quán tất cả các thân sai khác do Phật hóa hiện đều như bóng, biết tất cả ngôn ngữ âm thanh để thuyết pháp đều như tiếng vang, thấy các pháp sinh ra và tồn tại đều biến hóa, có thể khéo tích tụ hạnh nguyện tối thắng, làm cho trí tuệ thanh tịnh tròn đủ, khéo léo tùy thuận để được rốt ráo vắng lặng, khéo nhập cảnh giới Đà-la-ni Nhất thiết chủng trí, đầy đủ sức vô úy của các Tam-muội, tinh tấn dũng mãnh tu toàn thể các hạnh; trụ vào pháp giới, được mắt trí sáng, đến tất cả pháp không có chỗ trụ, tu tập vô biên biển hạnh trí tuệ, đến Trí tuệ độ là bờ cứu cánh; được sự hộ trì của Trí tuệ độ, dùng thần thông Ba-la-mật cứu độ các chúng sinh; nương Thiền định độ nên tâm được tự tại, chứng được tất cả cảnh giới chân thật của Phật. Bằng trí thiện xảo, khai vị pháp tạng, bằng trí thông sáng giải thích từ ngữ, bằng sức biện tài thuyết pháp vô tận, tiếng trầm hùng dũng mãnh vô úy có thể gầm vang như sư tử. Luôn thích thú quán sát các pháp không sai biệt, bằng mắt tịnh tuệ quán khắp tất cả, vầng trăng vô sinh trí chiếu sáng thế gian, quán các chúng sinh thấy chân thật đế, phước trí vững chắc như núi kim cương; bao nhiêu ví dụ nói cũng không cùng. Làm tăng trưởng tất cả trí tuệ căn bản, tinh tấn dũng mãnh hàng phục chúng ma, vô lượng trí tuệ oai quang tròn đầy, thân tướng thù thắng hơn cả thế gian, đạt tất cả pháp trí tuệ vô ngại, hiểu rõ các pháp tận và không tận, trí tuệ thanh tịnh ở khắp nơi, có khả năng tùy thuận và nhập chân thật tế; quán trí vô tướng thường hiện tiền; kheó léo làm tròn các hạnh Bồ-tát, dùng trí không hai quán chiếu thế gian, biết được những cảnh giới qua lại của chúng sinh khắp các cõi Phật sẽ được trí viên mãn. Đối với các pháp lìa các mờ ám, phóng ra ánh sáng chiếu khắp thế giới nơi mười phương, làm ruộng phước tối thắng cho thế gian; bánh xe đại nguyện như vầng trăng hiện khắp nơi; phước đức tối thắng như núi Tu-di, tất cả thế gian không ai vượt qua, khuất phục các tà niệm của ngoại đạo, hiện thân này ở khắp các cõi, dùng âm thanh vi diệu diễn thuyết các pháp, được gặp các Đức Phật, tâm không biết chán. Đã được oai lực tự tại của chư Phật, tùy theo sự ứng hóa mà hiện các thân, đi con thuyền đại trí vào biển sinh tử để cứu vớt tất cả, để việc đi lại không bị trở ngại. Trí tuệ viên mãn sắc thân sáng rực như mặt trời xuất hiện chiếu sáng thế gian; tùy tâm chúng sinh mà hiện các hình sắc, biết căn tánh sở thích của chúng sinh, nhập cảnh giới thanh tịnh không tranh cãi, biết tự tánh vô sinh của tất cả các pháp. Bằng trí tự tại, làm cho tất cả cảnh giới lớn nhỏ hòa nhập lại với nhau; hiểu rõ sự lý sâu xa của các quả vị Phật, biết các loại văn tự câu nghĩa của thế gian, dùng câu vô tận thuyết pháp vô tận; với một câu diễn ra được tất cả biển kinh điển, thu được đầy đủ thân trí tuệ Đà-la-ni rộng lớn; tùy theo sự thọ trì, tận kiếp vị lai, trọn vẹn không mất. Trong một niệm có khả năng nhớ lại việc làm trong vô số kiếp trước, trong một niệm có thể hiểu rõ tâm của tất cả chúng sinh trong ba đời, ban cho chúng sinh tất cả pháp tạng Tổng trì của chư Phật, thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thoái, làm cho các chúng sinh phát sinh đại trí tuệ, nhập cảnh giới của Phật, đủ Nhất thiết trí thường an trụ nơi Tam-muội sâu xa, khéo léo phân biệt tất cả các pháp cú, nhưng đối với các pháp không chấp trước, hiện bày diệu dụng tự tại nơi trí tuệ tối thắng nên đối với các cảnh giới đều được giải thoát. Quán sát tất cả thân trang nghiêm thanh tịnh, đem thân đó nhập vào mười phương pháp giới, tùy theo nhu cầu mà hóa thân đến khắp mọi nơi, biết các biển cõi có số cực vi trần cõi trong đó đều hiện thân thành chánh giác; với tánh vô sắc hiện tất cả sắc, có khả năng đem một phương nhập vào các phương. Những Bồ-tát ấy có đầy đủ vô lượng kho tàng phước đức trí tuệ như vậy. Tất cả chư Phật trong mười phương đều khen ngợi công đức của các vị ấy không hết được. Những Bồ-tát ấy đều có mặt nơi rừng Thệ-đa, tất cả đều thấy ánh sáng của Chư Phật đã chiếu khắp, nhập sâu vào biển lớn công đức của Như Lai.

Khi được ánh sáng chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn chiếu đến các vị Bồ-tát ấy rất phấn khởi, thích thú đồng thời nơi thân mỗi người, nơi tòa Sư tử, nơi các lầu các báu, những vật trang nghiêm cho đến tất cả những vật dụng ở rừng Thệ-đa, đều phát sinh nhiều loại mây trang nghiêm, đầy khắp mười phương pháp giới. Từ trong mỗi niệm phát ra những lưới mây vi diệu rộng lớn sáng ngời đầy cả pháp giới khai ngộ cho tất cả chúng sinh khiến đều được hoan hỷ. Từ trong mỗi niệm phóng ra những mây chuông bằng ma-ni đầy khắp pháp giới phát ra những âm thanh vi diệu để tán dương, khen ngợi tất cả công đức của chư Phật ba đời. Từ trong mỗi niệm phóng ra những loại mây nhạc cụ của trời đầy khắp pháp giới, pháp giới, phát ra những âm thanh vi diệu diễn thuyết các quả báo nơi nghiệp của chúng sinh. Từ trong mỗi niệm hiện ra những loại mây về hạnh nguyện và sắc tướng thân của Đại Bồ-tát đầy cả pháp giới và cũng bằng âm thanh vi diệu nói lên những hạnh nguyện rộng lớn của Bồ-tát. Từ trong mỗi niệm xuất hiện những loại mây bằng đủ loại thần thông vi diệu biến hóa tự tại của Như Lai đầy cả pháp giới bằng ngôn ngữ âm thanh rộng lớn của chư Phật. Từ trong mỗi niệm xuất hiện những loại mây tướng tốt trang nghiêm thân của Bồ-tát đầy cả pháp giới, khắp cả các cõi để chứng minh về sự tuần tự xuất hiện liên tục của các Đức Như Lai, tất cả cõi nước trong mười phương. Từ trong mỗi niệm, xuất hiện những vầng mây Bồ-đề đạo tràng của Như Lai nơi ba đời, đầy khắp các giới, hiện rõ các Đức Phật thành tựu chánh đẳng chánh giác và quán sát khắp cả sự hiển thị về công đức trang nghiêm khi thành Phật. Từ trong mỗi niệm xuất hiện những vầng mây giống như thân của các đại Long vương, đầy cả pháp giới, che khắp cả chư Phật, làm mưa xuống hết thảy các mùi hương thượng diệu. Từ trong mỗi niệm, xuất hiện nhiều vầng mây giống như thân của các Phạm vương, đầy khắp pháp giới, mỗi một Phạm vương đều quán sát khắp nơi và diễn thuyết hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền. Từ trong mỗi niệm, xuất hiện nhiều vầng mây sáng báu, làm thanh tịnh cõi Phật, đầy khắp pháp giới, hiện rõ việc chuyển pháp luân của các Đức Phật trong mười phương. Những vị Bồ-tát ấy, đã được ánh sáng chẳng thể nghĩ bàn như thế chiếu đến và đã nhập vào cảnh giới thần thông rộng lớn bất khả tư nghì. Pháp ứng hợp như thế nên đã phát sinh ra những đám mây đại trang nghiêm, có đủ các thần biến khác nhau, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật, không thể nói hết…

Bấy giờ, vì nhằm khai thị lại các pháp thần biến ở rừng Thệ-đa, nên Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nương nơi oai lực của Phật, quán sát khắp mười phương, rồi nói kệ rằng:

Hãy nên quán chiếu rừng Thệ-đa
Rộng thoáng trang nghiêm sánh không cùng
Tất cả mây thân đều hiện rõ
Xuất oai thần Phật đầy pháp giới
Thân trang nghiêm, sắc tướng thanh tịnh
Vô lượng Phật tử trong mười phương
Tất cả đều hiện nơi đạo tràng
Khắp trong chúng hội đều quán thấy
Theo lỗ chân lông các vị ấy
Diễn thuyết pháp Phật như sấm động
Nhiều loại mây tướng sáng trang nghiêm
Lan khắp các cõi trong mười phương
Và trong lá hoa nơi cây báu
Xuất hiện Phạm, Thích tướng trang nghiêm
Động tịnh oai nghi đều tịch tĩnh
Từ khi xuất định đến kinh hành
Từng lỗ chân lông nơi thân Phật
Hiện chúng Bồ-tát khó nghĩ bàn
Tướng tốt trang nghiêm thật kỳ diệu
Đều cùng với Bồ-tát Phổ Hiền
Mọi vật trang nghiêm trong rừng ấy
Đầy khắp hư không phát tiếng hay
Khen ngợi Bồ-tát trong ba đời
Tất cả biển công đức trang nghiêm
Những loại cây báu trong vườn này
Cũng phát vô lượng thứ tiếng hay
Diễn nói cho toàn thể quần sinh
Vô số biển nghiệp báo sai biệt
Các cảnh giới có nơi rừng ấy
Đều hiện Như Lai trong ba đời
Trong cực vi mười phương biển cõi
Đều hiện thần thông đi khắp chốn
Tất cả cực vi nơi biển cõi
Và những cõi nước trong mười phương
Từng lỗ chân lông nơi thân Phật
Đều hiển hiện đủ tướng trang nghiêm
Sáng báu mây thơm do Phật hiện
Bằng số chúng sinh ở thế gian
Mỗi vị đều vận đại thần thông
Phương tiện tùy nghi để hóa độ
Như cung thành báu khắp hư không
Trang nghiêm vi diệu như vầng nhật
Kho báu cùng với cội Bồ-đề
Ở khắp mười phương đều có cả
Ba đời mười phương các Như Lai
Có những đạo tràng chúng Bồ-tát
Biển kiếp tu hành tướng công đức
Tất cả đều hiện ở rừng này
Đại hạnh Phổ hiền các Bồ-tát
Đầy đủ trang nghiêm nơi biển cõi
Số ấy vô lượng khắp chúng sinh
Ở tại rừng này đều được thấy.

Bấy giờ, những Bồ-tát ấy nhờ ánh sáng từ Tam-muội của Phật chiếu đến nên mỗi người đều được môn đại Bi nhiều không thể đếm như số vi cực trần nơi cõi Phật; được môn ấy rồi, mọi người đều tiếp nhận để tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh. Cùng lúc ấy, nơi mỗi lỗ chân lông trên thân của họ đều phóng ra vô số ánh sáng có màu sắc nhiều không thể đếm được như số cực vi trần nơi cõi Phật; mỗi ánh sáng đều hiện ra mây thân của Bồ-tát số lượng như trên. Lại xuất hiện những vầng mây tương tự thân của các vị chủ thế gian, đầy khắp pháp giới trong mười phương trước chúng sinh; rồi bằng nhiều phương tiện tùy theo thân tướng, âm thanh, ngôn ngữ mà giáo hóa điều phục, làm cho họ được thuần phục. Hoặc hiện ra môn vô thường, với hình ảnh cung điện của chư Thiên thoái đọa nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tùy nghiệp thọ sinh của hết thảy chúng sinh nhiều không thể nói hết như số cực vi trần nơi cõi Phật. Hoặc hiện ra môn cảnh giới trong mộng làm cho tâm tư được giác ngộ nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tất cả Bồ-tát viên mãn các hạnh nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tất cả Bồ-tát viên mãn đại nguyện nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn chấn động thế giới nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tất cả Đức Như Lai đều xả nội ngoại thân, để hành Bố thí độ nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn các Đức Như Lai tu các công đức chánh hạnh để viên mãn Trì giới độ nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn các vị Bồ-tát chặt đứng thân thể mà tâm không động loạn để hành Nhẫn nhục độ nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tất cả Bồ-tát chuyên tu những trí tuệ, thần thông để hành Tinh tấn độ nhiều như số cực vi trần cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tu hành các pháp như: Tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí, thần thông, giải thoát để thực hành Thiền định độ nhiều như cực số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn chiếu soi thế gian bằng ánh sáng trí để hành Trí tuệ độ nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn xả bỏ vô số thân mạng, tài sản, vợ con, quốc thành, để cầu mong hiểu nghĩa pháp Phật dù một câu kinh, một bài kệ, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tâm không nhàm chán, thân cận cúng dường các Đức Như Lai; để cầu xin được nghe những pháp yếu, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn biển trí quang minh, để tùy theo căn tánh muốn thành thục của chúng sinh, mà đến chỗ họ khai thị, hướng dẫn, làm cho họ được ngộ nhập, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn tất cả Bồ-tát với tụ phước trí, để phá trừ chúng ma, thu phục các ngoại đạo, dựng cờ oai lực chiến thắng, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn có trí tuệ, biết rõ ràng các công xảo kỹ thuật, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn có trí tuệ, biết được tâm hạnh vi tế khác nhau của tất cả chúng sinh, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn có trí tuệ thù thắng, biết được hết thảy các pháp có những chủng loại khác nhau, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn có trí tuệ biết rõ tất cả chúng sinh có nhiều tâm vui thích khác nhau, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn trí tuệ biết tất cả căn hạnh, phiền não, tập khí khác nhau của chúng sinh, để khiến các thứ kia được diệt trừ, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Hoặc hiện ra môn có trí tuệ biết rõ tất cả những phẩm loại và nghiệp báo khác nhau của chúng sinh, nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết. Các vị ấy, dùng những môn phương tiện nhiều bằng số cực vi trần nơi cõi Phật không thể nói hết như thế, đến chỗ của tất cả chúng sinh đang trụ để hóa độ, thu phục và làm cho họ được thành tựu, như là: Đến cung điện Phạm vương hoặc cung điện Đế Thích; hoặc cung điện Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người, phi nhân… cho đến các vương cung của cõi Diêm-ma-la; hoặc đến trụ xứ của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, dùng tâm đại Bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí tuệ bình đẳng và Tam-muội bình đẳng để giáo hóa, thu giữ điều phục họ. Những chúng sinh ấy; có người được điều phục nhờ thấy; có người được điều phục nhờ nghe; có người được điều phục nhờ ghi nhớ; có người được điều phục nhờ nghe âm thanh; có người được điều phục nhờ nghe danh hiệu; có người được điều phục nhờ thấy hào quang; có người được điều phục nhờ thấy lưới ánh sáng… Tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh mà các vị đến đáp ứng để họ được lợi ích. Tất cả Bồ-tát ở trong rừng Thệ-đa này đều nhất tâm muốn thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh. Tuy dùng thần lực có lúc hiện ở trong những cung điện trang nghiêm khác nhau; hoặc có lúc ở trên tòa Sư tử hiện nơi lầu gác báu hiện trong đạo tràng giữa chúng hội vây quanh, các biển cõi trong mười phương đều được thấy sự thị hiện đó, nhưng cũng không rời khỏi rừng Thệ-đa trú xứ của Đức Như Lai. Vả lại, vì muốn thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh; nên Bồ-tát cũng thị hiện vô lượng mây thân biến hóa; hoặc hiện thân đoan nghiêm của quyến thuộc mình; hoặc hiện thân một mình như: Sa-môn, thân Bà-la-môn, thân ngoại đạo xuất gia, thân khổ hạnh, thân sung mãn, thân thầy thuốc, thân thương chủ, thân thương chủ, thân dâm nữ, thân kỹ nữ, thân Tỳ-sa-môn, thân Phạm vương, thân phụng sự chư Thiên, thân nhà công xảo kỹ thuật. Hiện những thân biến hóa như thế, đến chỗ ở của các chúng sinh, tùy sự thích ứng của họ mà phát sinh trí như huyễn đối với thế gian, giống như lưới trời Đế Thích, để thực hành hạnh Bồ-tát, với hình tướng khác nhau, oai nghi khác nhau, âm thanh khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, trụ xứ khác nhau, đã diễn thuyết các pháp như: Thuyết về tất cả sự nghiệp công xảo của thế gian; thuyết về những ngọn đèn phước đức trí tuệ chiếu sáng thế gian; thuyết về những oai lực gia trì chân thật đã chứng đắc; thuyết về những nghiệp lực bảo trì cho thế gian tồn tại; thuyết về những sự kiến lập; kế thừa làm thanh tịnh khắp mười phương; thuyết về những cảnh giới pháp do đèn trí chiếu đến. Toàn đủ Bậc Bồ-tát như vậy, tuy hóa thân khắp mười phương pháp giới để giáo hóa, điều phục làm cho chúng sinh được thành thục, nhưng cũng không rời khỏi rừng Thệ-đa, chỗ ở của Đức Như Lai.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, cùng với vô lượng chúng Đại Bồ-tát đồng hành và các thần Kim cang thường thị vệ, từ lầu gác Thiện trụ đi ra; vì tất cả thế gian thị hiện thân của các vị thần có oai lực lớn như: Thần Túc hành, từ lâu đã phát thệ nguyện vững chắc cúng dường chư Phật, thần Chủ địa nhớ đại nguyện xưa, thích luôn được nghe chánh pháp, không gián đoạn; thần Chủ thủy, dùng tình thương sâu xa thanh tịnh, làm trang nghiêm pháp giới để toàn thể chúng sinh được thấm nhuần; thần Chủ hỏa, có ánh sáng của oai lực trí tuệ chiếu khắp; thần Chủ phong, có sự trang nghiêm ở trên đầu nhờ đội mão bằng ma-ni báu; thần Chủ phương, dùng nghi thức khác nhau chiếu sáng mười phương; thần Chủ đêm, chuyên cần diệt trừ bóng tối vô minh; thần Chủ ngày, chuyên tâm mở bày mặt trời trí của Như Lai; thần Chủ không, làm trang nghiêm khắp hư không pháp giới; thần Chủ biển, luôn chuyên cần, dùng phương tiện cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử; thần Chủ núi, thường xuyên tích tập vô số căn lành thù thắng, vượt qua giới hạn của tâm, hướng đến Nhất thiết trí; thần Chủ sông, phát đại thệ nguyện, tuần tự độ chúng sinh và khen ngợi chư Phật, dũng mãnh không biết mỏi mệt; thần Chủ thành, chuyên cần giữ gìn thành trì tâm Bồ-đề của tất cả chúng sinh. Ngoài ra, các đại Long vương cũng thường xuyên bảo vệ, giữ gìn tất cả chúng sinh; các Dạ-xoa vương cũng thường xuyên bảo vệ sự thành tựu Nhất thiết trí, Càn-thát-bà vương cũng thường giúp

chúng sinh tăng trưởng niềm vui; Cưu-bàn-trà vương cũng thường xuyên diệt trừ sự đói khát của tất cả ngạ quỷ; Ca-lâu-la vương cũng thường xuyên nguyện tế độ tất cả chúng sinh ra khỏi biển sinh tử; Atu-la vương nguyện cho các chúng sinh đều được thành tựu thần lực của Như Lai, vượt khỏi thế gian; Ma-hầu-la-già vương thì cung kính cúi đầu, muốn được thấy những công đức của chư Phật; các Đại Thiên vương thì chán ngán sinh tử, thường thích chiêm ngưỡng tướng tốt của chư Phật; các đại Phạm vương thì tôn trọng Đức Phật, cung kính cúng dường, tán dương khen ngợi. Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng chúng Đại Bồ-tát và các vị chủ thế giới với hình sắc khác nhau, oai đức trang nghiêm vây quanh trước sau; từ trụ xứ của mình, cùng nhau đến chỗ Đức Phật, đi nhiễu bên phải Phật vô lượng vòng và dâng các lễ vật cúng dường; cúng dường xong, đảnh lễ lui, vòng bên phải ra rồi đi đến phương Nam.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, nương vào oai lực Phật, trông thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các Đại Bồ-tát và các vị chủ thế giới, chúng hội thật là trang nghiêm, oai đức tự tại, đủ các loại thần thông, từ rừng Thệ-đa bình thản ra đi như vậy; Tôn giả suy nghĩ: “Nay ta sẽ cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến phương Nam”. Nghĩ vậy rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng với sáu mươi Tỳ-kheo và quyến thuộc trước sau vây quanh rời trú xứ của mình, đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, đảnh lễ, nhất tâm chiêm ngưỡng và xin phép Phật. Được Đức Thế Tôn đồng ý, mọi người nhiễu phía phải Phật ba vòng làm lễ rồi ra đi. Số các thầy Tỳkheo cùng đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi này đều là những vị được Tôn giả Xá-lợi-phất hóa độ, xuất gia chưa bao lâu và cùng ở một chỗ. Những vị ấy là: Tỳ-kheo Hải Giác, Tỳ-kheo Diệu Đức, Tỳ-kheo Phước Quang, Tỳ-kheo Đại Bi, Tỳ-kheo Điện Đức, Tỳ-kheo Tịnh Hạnh, Tỳ-kheo Thiên Đức, Tỳ-kheo Thật Tuệ, Tỳ-kheo Phạm Thắng, Tỳ-kheo Tịch Tuệ…, đủ sáu mươi vị như thế. Các vị này, từ thời quá khứ, đã từng cúng dường chư Phật, trồng căn lành sâu chắc, có thể hiểu rõ được các pháp sâu xa, niềm tin vững chắc, đạt đến thanh tịnh tột bậc, chí nguyện rộng lớn bằng cảnh giới Phật, tu hành đúng đắn giáo pháp của Phật và có khả năng biết rõ hết bản tánh của các pháp, có thể tạo lợi ích lớn để thành tựu chúng sinh, luôn chuyên cần thích thú cầu công đức của chư Phật. Các vị ấy đều do Đồng tử Văn-thù-sưlợi giáo hóa.

Trong lúc dẫn các Tỳ-kheo đi trên đường, Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn khắp chúng rồi nói với Giác Hải: Ông nên quán sát thân tướng tốt thanh tịnh, trang nghiêm của ngài Văn-thù-sư-lợi mà chư Thiên và loài người không thể nghĩ bàn được. Ông nên quán sát ánh hào quang tròn sáng của ngài Văn-thù-sư-lợi, chiếu khắp mười phương, có năng lực làm cho chúng sinh sinh tâm hoan hỷ. Ông nên quán sát lưới ánh sáng do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi phóng ra, nó vi diệu trang nghiêm, trừ diệt vô lượng khổ não của chúng sinh. Ông nên quán sát chúng hội oai đức của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, là những vị Bồ-tát có căn lành thâu nhận từ xưa. Ông nên quán sát con đường mà đại Bồ-tát Văn-thù-sưlợi đi, mỗi bên rộng tám bước, sạch sẽ bằng phẳng, được trang nghiêm bằng các báu. Ông nên quán sát chỗ ở của đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mười phương xung quanh thường có đạo tràng hiển hiện trang nghiêm, tùy thuận biến chuyển. Ông nên quán sát con đường mà đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi, đầy đủ vô lượng phước đức trang nghiêm; hai bên đều có kho tàng ngầm, tự nhiên sinh ra nhiều loại châu báu. Ông nên quán sát đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nhờ căn lành cúng dường chư Phật đời trước, nên tùy theo chỗ ở của đại Bồ-tát mà có nhiều loại cây báu; trong những cây ấy đều có kho báu mở cửa tuôn ra các thứ trang nghiêm. Ông nên quán sát đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dù ở bất cứ nơi nào cũng đều được các vị chủ thế giới tuôn mây, mưa và các vật bày la liệt khắp nơi để cúng dường. Ông nên quán sát đại Bồ-tát Văn-thùsư-lợi, mỗi khi chư Phật trong mười phương chuẩn bị thuyết pháp, đều phóng ra ánh sáng từ lông trắng giữa chân mày chiếu đến thân đại Bồtát thì nhập vào trên đỉnh.

Khi nghe Xá-lợi-phất đã tán dương, khen ngợi nêu bày diễn nói về đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm như thế; các Tỳ-kheo sau khi nghe được như vậy, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui vẻ phấn khởi, không tự kềm chế, thân thể sảng khoái, các căn tươi nhuận, dứt sạch cấu nhiễm, buồn khổ được trừ, thường gặp các Đức Phật, thường nghe chánh pháp, hồi hướng cầu về trí Nhất thiết trí, thành tựu căn lành vô ngại của Bồ-tát, được vô lượng các sức của Bồ-tát, phát sinh đại Bi viên mãn vô tận, phát vô biên thệ nguyện rộng lớn, nhập sâu vào các độ, đạt đến bờ cứu cánh, biển Phật mười phương đều hiện hữu, có niềm tin yêu chắc chắn đối với cảnh giới Phật. Các vị ấy liền thưa với Tôn giả Xá-lợi-phất: “Cúi xin Hòa thượng, hướng dẫn cho chúng con, được thân cận với bậc trượng phu thù thắng đặc biệt ấy”. Khi đó, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng mọi người đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, đến nơi Tôn giả đảnh lễ thưa: Thưa Nhân giả! Các vị Tỳ-kheo này xin được hầu hạ Đại sĩ.

Bấy giờ, giữa vô lượng Bồ-tát thần thông tự tại và đại chúng cùng nhiều quyến thuộc của họ vây quanh; Đồng tử Văn-thù-sư-lợi như Tượng vương quay đầu, nhìn các Tỳ-kheo. Cùng lúc ấy, các Tỳkheo chắp tay cúi đầu lễ sát chân, cung kính, thưa: “Cúi xin Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi, Hòa thượng Xá-lợi-phất cùng Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni chứng tri! Hôm nay, chúng con được gặp bậc trượng phu Đại sĩ tối thắng, hầu cận lễ bái, tin tưởng quý kính. Chúng con đem hết những căn lành hôm nay và những căn lành phước trí thời quá khứ tu tập được, cầu nguyện, để cho chúng con đạt được sắc thân, tướng tốt, âm thanh tự tại và tất cả công đức đầy đủ như Đại sĩ.” Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu Thiện nam, tín nữ nào, tâm không nhàm chán, thành tựu mười pháp hướng đến Đại thừa; thì đối với cảnh giới cứu cánh của Như Lai Lại có khả năng sớm thâm nhập được, huống là quả vị Bồ-tát. Mười pháp ấy là:

  1. Bằng tâm rộng lớn thân cận cúng dường các Đức Như Lai, không biết chán.
  2. Tích tập những thành tựu về tất cả căn lành trọn vẹn không thoái chuyển, tâm không biết chán.
  3. Chuyên cầu tất cả chánh pháp của chư Phật, tâm không biết chán.
  4. Chuyên cần thực hành tất cả Ba-la-mật thù thắng của Bồ-tát, tâm không biết chán.
  5. Tu tập trọn vẹn tất cả những Tam-muội sâu xa của Bồ-tát, tâm không biết chán.
  6. Tuần tự thể nhập vào tất cả các pháp đang lưu chuyển trong

ba đời, tâm không biết chán.

  1. Trang nghiêm tất cả các cõi trong mười phương đều thanh tịnh, tâm không biết chán.
  2. Giáo hóa, điều phục và làm cho tất cả chúng sinh đều được thành thục, tâm không biết chán.
  3. Trải qua nhiều kiếp, thực hành hạnh Bồ-tát, khắp cả các cõi, tâm không biết chán.
  4. Vì muốn làm cho tất cả chúng sinh được thành thục, nên tu tập tất cả các môn Ba-la-mật nhiều như số cực vi trần trong tất cả cõi, thành tựu viên mãn mười Lực của Như Lai; tuần tự như thế, vì tất cả chúng sinh thành tựu tất cả trí lực của Như Lai, mà tâm không biết chán.

Các vị nên biết! Nếu có thiện nam tín nữ nào, thành tựu được đức tin vững chắc, phát mười loại tâm không mệt mỏi này, thì vị ấy có khả năng trưởng dưỡng tất cả căn lành, xả bỏ tất cả sự lưu chuyển của sinh tử, vượt trên tất cả thế gian, không rơi vào quả vị Thanh văn và Bích-chi-phật, thành tựu tất cả các chủng tánh của Như Lai, đầy đủ đại nguyện thanh tịnh của Bồ-tát, tích tập toàn thể các công đức của Như Lai, tu hành tất cả hạnh của các Bồ-tát, đạt được lực vô sở úy của Như Lai, phá trừ chúng ma và ngoại đạo, diệt trừ hết những tập khí phiền não, nhập vào hàng Bồ-tát, gần với quả vị của Như Lai.

Ngay sau khi nghe pháp này, các Tỳ-kheo đồng chứng được Tam-muội rộng lớn gọi là Kiến nhất thiết phật cảnh giới vô ngại nhãn. Nhờ sức oai thần của Tam-muội ấy, nên thấy được hết thảy chư Phật Như Lai và chúng hội đạo tràng của các vị ở khắp mười phương; cũng thấy được tất cả chúng sinh trong những thế giới ấy với từng chủng loại khác nhau; cũng thấy được tất cả sự đồng dị, nhiễm tịnh, sai biệt, của những thế giới ấy; cũng thấy được hết vô số cực vi trần tướng khác nhau nơi các thế giới ấy, cũng thấy được cung điện của tất cả chúng sinh đã ở trong các thế giới ấy, với sự trang nghiêm khác nhau, thành tựu khác nhau, sử dụng khác nhau, nhiều loại vật dụng riêng tư, khác nhau. Và nghe Đức Phật nơi cõi ấy, dùng vô lượng âm thanh diễn thuyết các pháp với đủ các loại danh, các loại câu chương, giải thích từ ngữ, danh tự, tánh tướng bí mật đều có thể hiểu rõ; cũng có thể quán sát về tâm, hạnh, căn, dục mỗi mỗi đều khác nhau của toàn thể chúng sinh trong thế giới ấy; cũng có khả năng ghi nhớ việc của mười loại sinh nơi toàn thể chúng sinh trong quá khứ và vị lai trong thế giới ấy; cũng có thể nhớ sự việc trong mười kiếp ở quá khứ vị lai, trong thế giới ấy; cũng có thể nhớ lại mười bản sinh sự, mười thành Chánh giác, mười chuyển pháp luân, mười chủng thần thông, mười chủng ký tâm, mười chủng giáo giới; mười chủng thuyết pháp, mười chủng biện tài của các Đức Như Lai ấy. Lại nữa, nhờ chứng được lực của Tam-muội này, nên ngay lúc ấy, đạt được mười ngàn tâm Bồ-đề chân thật, thành tựu mười ngàn Tam-muội sâu xa, đầy đủ mười ngàn Ba-la-mật, viên mãn mười ngàn trí tuệ ánh sáng, phát sinh mười ngàn thần lực tự tại. Nhờ đạt được sự trang nghiêm, bằng uy lực vô ngại và nhiều oai thần từ Tam-muội của Bồ-tát như thế, nên thân tâm của các vị ấy đều sảng khoái diệu kỳ, tăng trưởng niềm tin yêu, an trụ nơi tâm Bồ-đề kiên cố bất động.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, an trụ trọn vẹn vào thắng hạnh Phổ hiền, công đức vi diệu, hết mực an lành; rồi khuyến khích các thầy Tỳ-kheo, để cho các vị ấy cũng an trụ nơi hạnh Phổ hiền thù thắng; nhập hạnh thù thắng xong, lại nhập vào biển nguyện rộng lớn sâu xa; nhập vào biển nguyện rồi, thì thành tựu toàn thể đại nguyện sâu xa; vì biển đại nguyện đã được thành tựu, nên tâm được thanh tịnh; tâm thanh tịnh nên thân thanh tịnh; thân thanh tịnh nên thân nhẹ lợi danh, thân nhẹ lợi danh thì được thần thông rộng lớn không thoái chuyển; nhờ được đại thần thông như thế, cho nên không rời Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nữa bước, ở chỗ các Đức Như Lai, trong tất cả thế giới khắp mười phương, đều hiện thân mình, thành tựu trọn vẹn tất cả pháp Phật.

Khuyến khích các Tỳ-kheo phát tâm vô thượng Bồ-đề xong, bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lần lượt đi đến phương Nam, vượt qua xóm làng thành ấp, đến thành Phước sinh, trú ở phía Đông thành, trong rừng Sa-la, nơi tháp miếu lớn, có cờ phướn trang nghiêm; nơi mà xưa kia, chư Phật đã từng an trú, để giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh. Và cũng là nơi, mà từ xa xưa Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na đã xả bỏ vô lượng những thứ khó bỏ để thực hành hạnh Bồ-tát. Thế nên rừng này được gọi là Phổ Văn Vô Lượng Phật Sát, thường được các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân cùng cung kính cúng dường. Khi đến rừng này rồi, ở đấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các quyến thuộc ngồi nơi tòa Sư tử, diễn thuyết giáo pháp tên là Phổ chiếu pháp giới viên mãn ánh sáng cùng với trăm vạn ức Na-do-tha giáo pháp khác. Khi thuyết giảng kinh này cho quyến thuộc, có vô lượng trăm ngàn ức Na-do-tha các đại Long vương và quyến thuộc, được nghe pháp này, rồi nhàm chán thân rồng, lại rất mến mộ công đức của Phật, nên đều bỏ thân rồng, mà sinh vào cõi chư Thiên và loài người. Một vạn rồng được không thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô lượng, vô số chúng sinh cũng được thành thục nơi ba thừa.

Bấy giờ, người ở thành Phước sinh nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ở nơi đại tháp miếu, có cờ phướn trang nghiêm trong rừng Sa-la, họ đều ra khỏi thành để đến chỗ Bồ-tát. Trong ấy, có vị Ưu-bà-tắc tên Đại Tuệ cùng năm trăm quyến thuộc của mình đó là Ưu-bà-tắc Tuđạt-đa, Ưu-bà-tắc Bảo Đức, Ưu-bà-tắc Viên Quang, Ưu-bà-tắc Danh Xưng Thiên, Ưu-bà-tắc Nguyệt Cát Tường, Ưu-bà-tắc Nguyệt Hỷ, Ưubà-tắc Nguyệt Trí, Ưu-bà-tắc Đại Trí, Ưu-bà-tắc Hiền Hộ, Ưu-bà-tắc Hiền Cát Tường… Các Ưu-bà-tắc như vậy tuần tự cùng đi đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi. Đến nơi, mọi người đảnh lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng rồi lui ngồi một bên.

Lại có Ưu-bà-di tên Đại Tuệ và năm trăm quyến thuộc, đó là Ưu-bà-di Diệu Viện Quang, Ưu-bà-di Phạm Đức, Ưu-bà-di Cát Tường, Ưu-bà-di Diệu Kiên, Ưu-bà-di Hiền Quang, Ưu-bà-di Hiền Cát Tường, Ưu-bà-di Nguyệt Quang, Ưu-bà-di Tinh Tú Quang, Ưu-bà-di Hiền Đức, Ưu-bà-di Diệu Nhãn…. Mọi người như vậy tuần tự cùng đi đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi. Đến nơi, mọi người đảnh lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.

Lại có Đồng tử, tên là Thiện Tài, cùng quyến thuộc gồm năm trăm người, đó là Đồng tử Thiện Cấm, Đồng tử Thiện Giới, Đồng tử Thiện Oai Nghi, Đồng tử Thiện Hạnh, Đồng tử Thiện Tư Duy, Đồng tử Thiện Trí, Đồng tử Thiện Tuệ, Đồng tử Thiên nhãn, Đồng tử Thiện Kiên, Đồng tử Thiện Quang… Những đồng tử ấy, cùng nhau đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi. Đến nơi, mọi người đảnh lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.

Lại có Đồng nữ, tên Diệu Hiền cùng với năm trăm quyến thuộc; đó là Đồng nữ Đại Tuệ, Đồng nữ Thiện Hiền, Đồng nữ Đoan Nghiêm Diện, Đồng nữ Kiên Thiện Tuệ, Đồng nữ Cát Tường Hiền, Đồng nữ Cát Tường Trí, Đồng nữ Cúng Dường Đức, Đồng nữ Cát Tường Viên Quang, Đồng nữ Diệu Giác… Những đồng nữ ấy, cùng nhau đến chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi. Đến nơi, mọi người đảnh lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.

Biết người ở thành Phước sinh đã đến đông đủ; bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi mới quán sát khắp chúng hội, theo sở thích của họ, Bồtát dùng thần lực hiện thân tự tại, oai quang sáng rực chiếu khắp đại chúng. Dùng sức đại Từ, làm cho toàn thể chúng hội đều được an ổn tươi mát và vui sướng. Dùng sức đại Bi, phát khởi tâm thuyết giáo pháp, làm cho tất cả đều được thành tựu. Dùng sức đại trí, làm cho họ được khai ngộ, diệt trừ tất cả tâm cấu uế phiền não. Dùng biện tài vô ngại, diễn thuyết pháp Phật sâu xa rộng lớn. Đồng thời, Bồ-tát cũng quán sát Thiện Tài xem vì nhân duyên gì mà có được tên này. Và được biết rằng, lúc đồng tử này mới vào thai, trong nhà ấy tự nhiên xuất hiện lầu gác bằng bảy báu, dưới lầu gác này có bảy kho ngầm, trên kho ấy sinh bảy mỏ báu là: Kim, ngân, lưu ly, pha lê, xích châu, xa cừ, mã não. Đồng tử, Thiện Tài ở trong thai mười tháng, về sau sinh ra, hình thể đoan nghiêm, các chi đầy đặn. Kho báu này dọc ngang trên dưới mỗi mặt đều bảy khuỷu tay, bỗng nhiên khai mở, ánh sáng rực rỡ, gia tộc nội ngoại nhìn hoài không chán. Cũng trong nhà này, tự nhiên có năm trăm bảo khí bằng tạp báu kỳ lạ, mỗi cái đều được chứa đầy một vật gì đấy. Đó là trong bảo khí Kim cương thì chứa đầy các loại hương; trong bảo khí hương chứa đầy các loại y phục; trong bảo khí Mỹ ngọc, chứa đầy thức ăn uống; trong bảo khí ma-ni, chứa đầy các báu; bảo khí hoàng kim chứa đầy bạc; trong bảo khí bạch ngân chứa đầy vàng; trong bảo khí vàng bạc chứa đầy lưu ly; trong bảo khí lưu ly, chứa đầy vàng, bạc và ma-ni bảo, trong bảo khí pha lê chứa đầy xa cừ, trong bảo khí xa cừ, chứa đầy pha lê; trong bảo khí mã não, chứa đầy xích châu; trong bảo khí xích châu, chứa đầy mã não; trong bảo khí tinh tràng ma-ni, chứa đầy thủy tinh ma-ni, chứa đầy tinh tràng ma-ni. Có năm trăm loại bảo khí như thế tự nhiên xuất hiện. Cũng trong nhà ấy, bỗng nhiên các của cải quý báu và các vật dụng riêng tư tuôn xuống như mưa, làm tất cả các kho tàng đều đầy ắp. Do sự việc này nên cha mẹ, bà con và thầy khéo xem tướng cùng đặt tên cho đứa bé là Thiện Tài. Bồ-tát còn biết, vị đồng tử này, đã từng cúng dường chư Phật ở quá khứ; đã trồng căn lành sâu chắc; tin hiểu rộng rãi, thường thích thân cận các Thiện tri thức; cả thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh; dũng mãnh, tinh tấn, tu đạo Bồ-tát thanh tịnh, cầu Nhất thiết trí, trở thành pháp khí của Phật, tâm và hành thanh tịnh giống như hư không.

Quán sát tướng thù thắng của Đồng tử Thiện Tài rồi, bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vui vẻ mỉm cười an ủi hướng dẫn và diễn thuyết hết tất cả pháp Phật. Đó là thuyết tất cả các pháp tích tập của Phật; đó là thuyết tất cả các pháp tương tục của Phật; đó là thuyết tất cả các pháp mà Đức Phật tuần tự hội nhập; đó là thuyết tất cả các pháp thanh tịnh của chúng hội Phật; đó là thuyết tất cả các pháp do Đức Phật chuyển pháp luân, giáo hóa. Đó là thuyết tất cả các pháp nói về sắc thân, tướng tốt thanh tịnh của Đức Phật, đó là thuyết tất cả các pháp về Pháp thân thành tựu biến khắp của Phật; đó là thuyết tất cả các pháp biện tài vô ngại của Phật; đó là thuyết tất cả pháp viên mãn trang nghiêm của Phật; đó là thuyết tất cả các pháp bình đẳng không hai của Phật.

Thuyết các pháp ấy cho Đồng tử Thiện Tài và đại chúng rồi, khi đó, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, lại dùng nhiều phương tiện thiện xảo, ân cần khuyến khích làm cho họ được khai ngộ, uy lực tăng trưởng, sinh ra vui mừng mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lại làm cho Thiện Tài nhớ nghĩ căn lành đã trồng từ quá khứ. Và tùy theo căn tánh, sở thích của mọi người ở thành Phước Sinh mà biểu hiện thần thông. Kế đó, thuyết pháp cho những người đáng được độ, sau đấy thì ra đi.

Nghe Đồng tử Văn-thù-sư-lợi thuyết các thứ công đức thù thắng vi diệu và sức đại oai thần của chư Phật như thế rồi; bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài rất mến mộ, cần cầu quả Vô thượng Bồ-đề, nên theo sau Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chiêm ngưỡng mãi không rời, hết tâm hướng đến, chắp tay nhìn thẳng, nói kệ rằng:

Có sức oai thần đại trí tuệ
Hành hạnh Bồ-tát lợi chúng sinh
Vô lượng cảnh giới nguyện sẽ cầu
Cúi xin Nhân Tôn thương nhận lời
Nước ái chứa sâu là ao hào
Kiêu mạn cao ngạo là tường vách
Các thứ ra vào là cửa ngõ
Ba cõi khó vượt làm thành quách
Ngu si đen tối thường che phủ
Lửa dữ sân giận thiêu đốt mãi
Ma vương ở bình yên trong ấy
Người phàm kẻ ngu nương đó sống
Dua nịnh, phẫn hận, hoặc nô đùa
Tham dục buộc ràng như búi tơ
Nghi hoặc ngăn che như người mù
Thường vào đường hiểm các tà đạo
Thường bị keo kiệt ghen ghét buộc
Vào nơi ba đường và tám nạn
Không hiểu biết năm nẻo luân hồi
Thường thọ khổ sinh lão bệnh tử
Mặt trời đại Bi diệt mê lầm
Ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nơi
Làm khổ biển phiền não sinh tử.
Nguyện giáng từ quang quán sát cho
Vầng trăng tròn đại Bi thanh tịnh
Ánh sáng phước đức không cấu bẩn
Tất cả chúng sinh đều được an
Xin ban cho cái nhìn mát mẻ
Các công đức lớn trong pháp giới
Bạch nghiệp thành tựu là vòng báu
Hướng dẫn đường đi không trở ngại
Xin thuận tâm con, chỉ vẽ cho
Bậc đại thương chủ, phước trí rộng
Dũng mãnh bất thoái cầu Bồ-đề
Làm lợi ích khắp các chúng sinh
Nguyện rũ tâm thương cứu vớt con
Thân mặc giáp nhẫn nhục tối thắng
Tay cầm gươm trí tuệ sáng ngời
Luôn luôn tự tại phá quân ma
Xin bậc đại hùng bảo hộ con
An trụ đỉnh Tu-di diệu pháp
Nhiễu cùng các Thiên nữ Tam-muội
Khuất phục hoặc nghiệp A-tu-la
Đế Thích chân thật xin quán con
Nhà ba cõi ngu phàm tăm tối
Do phiền não luân hồi các nẻo
Xin Nhân Tôn tận diệt hoàn toàn.
Đèn chiếu thế gian soi bước con
Hành cõi ác, chúng sinh đã dứt
Tu trì đạo thiện đều thanh tịnh
Ngài là cầu vượt các biển hữu.
Chỉ con cửa giải thoát chân thừa
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Tưởng: Điên đảo
Luôn bị tà chấp sâu dày che
Trí nhãn, bén nhạy trừ diệt hết.
Mở bày đường giải thoát cho con
Hiểu rõ chân đế không mê hoặc
Đối với các pháp không sợ sệt
Bậc tự tại điều phục chúng sinh.
Xin chỉ cho con đạo Bồ-đề
An trụ đất chánh kiến Như Lai
Vun bồi cây công đức chư Phật
Mưa tất cả hoa diệu pháp Phật
Xin mau chỉ con đạo Bồ-đề
Của các chư Phật trong ba đời
Như vầng mặt trời xuất thế gian
Mở cửa cam lộ cho chúng sinh
Bậc đã đắc đạo xin tuyên thuyết
Khéo léo giải trừ các nghiệp buộc
Giỏi chuyển xe diệu pháp các thừa
Bậc Tự Tại trí tuệ siêu tuyệt
Bày con thắp sáng lửa Đại thừa
Đại bi là bầu xe hạnh nguyện
Chốt tín làm vững chắc trục nhẫn
Càng xe thật báu, công đức tịnh.
Cho con ngồi xe Bồ-đề này
Có mái che Tổng trì viên mãn
Lọng tình thương che khắp trang nghiêm
Âm thanh tài biện tiếng chuông vang
Cho con ngồi xe tối thượng này
Giới phẩm thanh tịnh là đệm cỏ
Tam-muội vi diệu là thể nữ
Trống pháp trổi vang hữu tình sợ.
Cho con ngồi xe Đại thừa này
Đầy đủ tạng bốn nhiếp vô tận
Trang nghiêm báu anh lạc công đức
Hổ thẹn tự, tha ràng giữ cổ.
Cho con cỡi xe vô thượng này
Thường phóng quang đại Xả trọn vẹn
Thường thoa hương tịnh giới chân thật
Vĩnh viễn diệt ung nhọt phiền não.
Cho con ngồi xe tối thắng này
Xe bất thoái điều phục ba nghiệp
Mui xe Tam-muội sáu căn tĩnh
Ách xe phương tiện trí tuệ thắng.
Cho con ngồi xe diệu pháp này
Khéo cầm cương hồi hướng đại nguyện
Sức kiên cố các pháp Tổng trì
Trí tuệ chu toàn thường biến chuyển
Cho con ngồi xe tốc hành này
Gắn liền với lưới hạnh Phổ hiền
Tình thương rộng lớn đến khắp nơi
Việc làm vô úy được an tường
Cho con ngồi xe vô thượng này
Bảo vệ kiên cố như kim cương
Diệu trí khéo thành như việc huyễn
Đoạn trừ tất cả các chướng ngại
Cho con sớm ngồi xe Phổ Hiền
Tâm từ thanh tịnh, đối chúng sinh
Cho khắp thế gian xe Hiền thánh
Trí tịnh như không chiếu pháp giới
Xin sớm cho con ngồi xe này
Làm sạch tất cả bụi hoặc nghiệp
Dứt khổ luân hồi ở thế gian
Khuất phục các ma và ngoại đạo
Cho con ngồi xe diệu pháp này
Cảnh giới trí tuệ như hư không
Hạnh lực trang nghiêm khắp pháp giới
Thỏa mãn ý muốn của chúng sinh
Xin sớm cho con ngồi xe này
Ước mong thanh tịnh khó lượng cùng
Ái kiến vô minh đều trừ diệt
Lợi ích tất cả tâm không tận
Xin sớm cho con ngồi xe này
Nguyện lực đi nhanh như gió bay
An trụ định tâm luôn không động
Đem đến khắp tất cả hàm thức
Xin sớm cho con ngồi xe này
Thệ vững như đất không lay động
Đại bi như nước thường lợi ích
Dũng mãnh đảm đương không mệt mỏi.
Xin sớm cho con ngồi xe này
Mặt trời tuệ chiếu khắp chúng sinh
Ánh sáng bốn Nhiếp viên mãn chuyển
Tổng trì thù thắng sáng thanh tịnh
Xin chỉ cho con cùng được thấy
Trong vô số kiếp siêng tu học
Nhân Nhất thiết chủng trí viên mãn
Xô ngã thành hữu vi chấp chặt
Cho con được trí kim cương ấy
Ở biển đại trí của chư Phật
Hộ trì biển trí không bến bờ.
Tất cả Phật, đức đều sung mãn
Lành thay Đại Thánh ngài nên thuyết
Đã vào thành Diệu pháp Pháp vương
Đã đội mão đại trí: Vua trí
Đã buột lụa ly cấu: Chư Phật
Xin Trí nhãn tối thắng quán sát

Lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi như Tượng vương, xoay mình quán sát Thiện Tài, rồi khen:

–Lành thay, lành thay! Thiện nam! Ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mà còn muốn thân cận với các Thiện tri thức để hành hạnh Bồ-tát và hỏi về đạo thực hành của các Bồ-tát. Thiện nam! Chính sự thân cận cúng dường các Thiện tri thức, là nhân duyên đầu tiên của việc thực tập Nhất thiết trí. Nhờ ưa thích thân cận các Thiện tri thức mà làm cho Nhất thiết trí mau thành tựu. Vì thế, đối với việc này, ông đừng nản lòng.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Cúi xin Đại Thánh thương tưởng, giảng giải đầy đủ cho con là con nên làm thế nào để học hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để tu hạnh Bồtát? Làm thế nào để khởi hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để thực hành hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để viên mãn hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để thanh tịnh hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để chuyển hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để thâm nhập hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để xuất sinh hạnh Bồtát? Làm thế nào để quán sát hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để tăng rộng hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để thành tựu hạnh Bồ-tát? Và làm thế nào để sớm viên mãn được hạnh Phổ hiền?

Bấy giờ, vì Đồng tử Thiện Tài, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ rằng:

Lành thay biển công đức thanh tịnh
Phật tử có thể đến với ta
Phát sinh tâm đại Bi rộng lớn
Chí dũng mãnh cầu Vô thượng giác
Vì muốn độ thoát các hữu tình
Tất cả thế gian khổ lưu chuyển
Đã phát đại nguyện sâu như biển
Chuyên tu tất cả hạnh Bồ-tát
Nếu có Bồ-tát tâm kiên cố
Ở lâu sinh tử không nhàm chán
Họ sẽ đầy đủ hạnh Phổ hiền
Được công đức Phật không thể hoại
Sao phước đức, oai quang phước đức.
Biển phước đức, nơi sinh phước đức
Ông nên vì tất cả chúng sinh
Thệ tu hạnh Phổ hiền thanh tịnh
Ông thấy vô biên cõi chư Phật
Tất cả Phật: Khứ, lai, hiện tại
Được nghe chuyển pháp luân vi diệu
Ghi nhớ nắm giữ không quên mất.
Ông ở khắp các cõi mười phương
Được gặp vô số Đức Như Lai
Biển nguyện thanh tịnh đều thành tựu
Hạnh Bồ-tát đầy như trần sa.
Ông nhập biển đại pháp phương tiện
An trụ đất công Đức Như Lai
Thắng hạnh Đạo sư ông nên tu
Sẽ thành trí Nhất thiết vô sư.
Ông ở tất cả cõi rộng lớn
Số kiếp như vi trần các cõi
Nơi ấy đều tu hạnh Phổ hiền
Thành tựu đạo Bồ-đề tối thắng.
Ông ở trong vô biên biển kiếp
Nơi tất cả cõi, khắp mười phương
Vì muốn viên mãn các đại nguyện
Tu các diệu hạnh của Phổ Hiền
Vô lượng chúng sinh ở trong ấy
Nghe ông phát nguyện đều hoan hỷ
Đều phát tâm Bồ-đề rộng lớn
Chuyên tâm nguyện học Phổ hiền thừa.

Thuyết kệ ấy xong, bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Lành thay, Lành thay! Thiện nam! Nếu chúng sinh nào, có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề đã là việc khó, nhưng phát tâm rồi, còn muốn chuyên cần hành hạnh Bồ-tát lại càng khó hơn.

Thiện nam! Nay ông phát tâm cầu đạo Bồ-tát, muốn thành tựu trí Nhất thiết trí, nên mới chuyên dốc cầu chân Thiện tri thức. Thiện nam! Cầu Thiện tri thức không nên biếng trễ, gặp Thiện tri thức cũng đừng cho là đủ. Đối với những điều Thiện tri thức dạy, ông nên ghi nhớ và làm theo không được chống trái. Đối với những phương tiện thiện xảo của Thiện tri thức, ông chỉ cung kính, không được nhìn lỗi lầm.

Này thiện nam! Về hướng Nam này, có một nước tên Thắng Lạc, nước ấy có ngọn núi tên Diệu phong; ở đó có vị Tỳ-kheo hiệu là Cát Tường Vân; ông nên đến đó tham vấn để biết Bồ-tát làm thế nào tu học hạnh Bồ-tát, Bồ-tát làm thế nào để tu hạnh Bồ-tát cho đến Bồtát làm thế nào để sớm được viên mãn hạnh Phổ hiền! Thiện nam! Vị Thiện tri thức ấy sẽ dạy ông đầy đủ viên mãn hạnh nguyện Phổ hiền.

Nghe dạy thế rồi, khi ấy Đồng tử Thiện Tài vui mừng phấn khởi, vô cùng ngưỡng mộ vị Tỳ-kheo ấy và lưu luyến ân cần đảnh lễ sát chân Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nhiễu quanh vô số vòng, bùi ngùi rơi lệ ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đi dần về phương Nam, đến nước Thắng lạc, lên núi Diệu phong. Ở trên núi cao ấy, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới, ông tìm khắp bảy ngày liền, đều không thấy bóng dáng của vị kia. Do hết tâm cầu Thiện tri thức, dù phải bỏ thân mạng nên ông vẫn không nghĩ đến đói khát; chánh niệm quán sát không chút nản lòng.

Qua bảy ngày, ông trông thấy vị Tỳ-kheo ấy đang nhẹ bước kinh hành trên một ngọn núi khác. Ông liền đến trước vị ấy, đảnh lễ sát chân, nhiễu phía phải ba vòng, đứng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát phải làm thế nào để học hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để tu hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để phát triển hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để hành hạnh Bồ-tát? Cho đến làm thế nào để sớm được viên mãn hạnh Phổ hiền? Con được nghe Đại thánh dạy giỏi về môn này. Cúi xin Thánh giả rủ lòng thương mà gắng dạy cho con, Bồ-tát làm thế nào để sớm được thành tựu Vô thượng Bồ-đề.

Khi ấy, Tỳ-kheo Cát Tường Vân bảo Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề đó là một việc khó, lại có thể thưa hỏi về sự thực hành hạnh Bồ-tát quả là một việc khó trên việc khó; đó là chuyên dốc cầu đạo Bồ-tát; chuyên dốc cầu cảnh giới Bồ-tát; chuyên dốc cầu hạnh thanh tịnh rộng lớn của Bồ-tát; chuyên dốc cầu thần biến của Bồ-tát xuất hiện; chuyên dốc cầu các môn giải thoát rộng lớn do Bồ-tát thị hiện; chuyên dốc cầu những việc làm trong thế gian mà Bồ-tát thị hiện; chuyên dốc cầu sự tùy thuận những tâm hạnh chúng sinh của Bồ-tát; chuyên dốc cầu sự thị hiện nhập Niết-bàn vượt sinh tử của Bồtát; chuyên dốc cầu tâm không đắm chấp nơi hữu vi, vô vi của Bồ-tát; chuyên dốc cầu cách đoạn trừ những lỗi lầm, những phiền não vi tế cho chúng sinh của Bồ-tát.

Này thiện nam! Ta đã được sức hiểu biết tự tại chắc chắn, mắt tín thanh tịnh, trí quang chiếu sáng, mắt sáng xuyên suốt, đủ hạnh thanh tịnh, mắt tuệ nhìn khắp tất cả cảnh giới, với phương tiện thiện xảo, lìa được tất cả chướng ngại; dùng thân thanh tịnh đi khắp các cõi nước trong mười phương, cung kính cúng dường tất cả chư Phật; dùng sức tin hiểu, thường niệm tất cả chư Phật khắp mười phương; dùng sức Tổng trì, thọ trì tất cả pháp Phật trong mười phương; dùng mắt trí tuệ, thường thấy tất cả chư Phật trong mười phương, nghĩa là thấy ở phương Đông một Đức Phật, hai Đức Phật, mười Đức Phật, trăm Đức Phật, ngàn Đức Phật, trăm ngàn Đức Phật, ức Đức Phật, trăm ức Đức Phật, ngàn ức Đức Phật, trăm ngàn ức Đức Phật, triệu ức Đức Phật, trăm triệu ức Đức Phật, ngàn triệu ức Đức Phật, trăm ngàn triệu ức Đức Phật cho đến thấy vô số, vô lượng, vô biên, không gì bằng, không thể đếm, không thể tính, không thể nghĩ, không thể lường, không thể nói và càng không thể nói hết các Đức Phật cho đến thấy các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong cõi Diêm-phù-đề. Các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bốn đại châu; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong tiểu thiên thế giới; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần ở trung thiên thế giới; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong đại thiên thế giới; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong mười cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong ngàn cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong trăm ngàn cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong ức cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong trăm ức cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong ngàn ức cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong trăm ngàn ức cõi Phật; các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong triệu ức cõi Phật… cho đến thấy các Đức Phật nhiều như số cực vi trần không thể nói, càng không thể nói về Phật. Tất cả chư Phật ở phương Đông như đã thấy thì chư Phật ở các phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc trên dưới cũng vậy. Tùy theo sự thấy của mình, chư Phật trong các phương, với sắc tướng khác nhau, hình dáng khác nhau, thần thông khác nhau, thọ dụng khác nhau, diệu dụng khác nhau, chúng hội và đạo tràng trang nghiêm cũng khác nhau, hào quang chiếu sáng vô biên khác nhau, cõi nước cung điện trang nghiêm khác nhau, tuổi thọ dài ngắn khác nhau. Tùy theo sở thích khác nhau của chúng sinh, mà thị hiện các môn thành Chánh giác khác nhau; ở giữa đại chúng, hiện đại thần thông cất tiếng gầm sư tử để độ thoát chúng sinh.

Này thiện nam! Ta chỉ đắc và nhớ được pháp môn thấy khắp trí tuệ vô ngại cảnh giới bình đẳng của tất cả chư Phật này. Còn như pháp môn hành thanh tịnh viên mãn đầy đủ vô lượng trí tuệ của các Đại Bồtát, thì làm sao ta có thể biết hết; sự hiểu biết của ta là có giới hạn! Đó là pháp môn niệm Phật để có ánh sáng trí tuệ chiếu khắp các cảnh giới sai biệt; thường thấy những cõi nước và cung điện trang nghiêm khác nhau của chư Phật như đang hiện tiền. Môn niệm Phật làm cho những ý được an trụ và phát triển, từ đó mới thuận theo sở thích của các chúng sinh mà làm cho họ gặp Phật và được thanh tịnh. Môn niệm Phật làm cho Phật lực được an trụ hoàn toàn; làm cho nhập vào mười lực của Như Lai để tùy thuận tu hành. Môn niệm Phật làm cho an trụ vào những chánh pháp cứu cánh của Như Lai: Thấy các Đức Phật diễn thuyết chánh pháp hoặc được nghe cả tiếng nói. Môn niệm Phật tạng không sai biệt chiếu khắp mười phương: Thấy vô lượng chư Phật bình đẳng, không sai khác trong thế giới của tất cả chư Phật. Môn niệm Phật nhập vào nơi hết sức vi tế, không thể thấy: Thấy xuyên suốt việc thần biến tự tại của Như Lai, trong tất cả các cảnh giới vi tế. Môn niệm Phật an trú trong nhiều kiếp: Trong tất cả kiếp thường gặp chư Phật, thi hành Phật sự, gần gũi các ngài. Môn niệm Phật an trú trong tất cả thời: Thường được gặp Phật trong tất cả thời, sống chúng với Phật, không xa cách. Môn niệm Phật an trú nơi tất cả cõi: Tất cả cõi nước đều thấy thân Phật vượt khỏi thế gian, không gì sánh kịp. Môn niệm Phật an trú tất cả thời: Tùy theo sự mong muốn của mình mà thấy hết các Đức Phật trong ba đời. Môn niệm Phật an trú tất cả cảnh giới: Thấy khắp tất cả trong các cảnh giới, chư Phật đều liên tục ra đời. Môn niệm Phật an trú tất cả tánh tịch diệt: Từng niệm, từng niệm thấy chư Phật trong các cõi thị hiện Niết-bàn. Môn niệm Phật an trú hết thảy thời xứ: Trong một ngày, thấy các Đức Phật từ trụ xứ của các ngài đi đến chỗ hóa độ. Môn niệm Phật an trú tất cả cảnh giới rộng lớn: Thấy tất cả các Đức Phật ngồi kiết già, thân của mỗi vị đầy cả pháp giới. Môn niệm Phật an trú tất cả pháp vi tế: Thấy nơi mỗi lỗ chân lông có số chư Phật nhiều không thể nói được xuất hiện và đều đến đó để phụng sự. Môn niệm Phật an trú sự trang nghiêm trong từng khoảng sát-na: Trong một niệm, thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Chánh giác và hiện thần biến. Môn niệm Phật an trú tất cả pháp: Thấy các Đức Phật xuất hiện ở đời và chuyển pháp luân bằng ánh sáng trí tuệ. Môn niệm Phật an trú tâm tự tại: Tùy theo ý muốn của tâm mình, mà được thấy các Đức Như Lai thị hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trú tất cả nghiệp: Có khả năng tùy theo hành nghiệp tu tập của tất cả chúng sinh trong pháp giới mà hiện thân mình để giúp họ giác ngộ. Môn niệm Phật an trú tất cả thần biến: Thấy tất cả chư

Phật ở trong biển Hương Thủy rộng lớn, ngồi trên đài sen, hiện thần biến khắp mười phương. Môn niệm Phật an trú khắp cảnh giới hư không: Quán sát sự hiện mây thân của Đức Như Lai để trang nghiêm pháp giới, hư không giới. Có vô lượng, vô số môn niệm Phật như thế, nhưng ta làm sao có thể biết, có thể nói hết về các hạnh công đức ấy.

Này thiện nam! Ở phương Nam có nước tên Hải Môn, nơi đó có Tỳ-kheo tên là Hải Vân, ông nên đến tham vấn: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Tỳ-kheo Hải Vân sẽ khéo phân tích hướng dẫn, chỉ cho nhân duyên của các căn lành rộng lớn; sẽ làm cho ông nhập vào hàng trợ đạo đắc lực, để cho ông thành tựu sức căn lành rộng lớn; sẽ thuyết về nhân duyên phát tâm Bồ-đề cho ông, làm cho ông sinh ánh sáng Đại thừa rộng lớn, làm cho ông được Ba-la-mật rộng lớn, làm cho ông nhập vào các biển hạnh rộng lớn, làm cho ông chuyển bánh xe thệ nguyện rộng lớn, làm cho ông được thanh tịnh môn trang nghiêm rộng lớn, làm cho ông phát triển sức đại Từ bi rộng lớn.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Tỳ-kheo Cát Tường Vân, nhiễu quanh vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, lưu luyến ra đi.

*********

Lúc bấy giờ, nghe Thiện tri thức dạy, Đồng tử Thiện Tài nhất tâm chánh niệm; tùy thuận tư duy môn trí tuệ ánh sáng; tùy thuận thông đạt môn giải thoát sâu xa; tùy thuận ghi nhớ môn Tam-muội tự tại; tùy thuận kính phụng môn giáo hải thanh tịnh; tùy thuận quán sát môn thấy oai đức của chư Phật, tùy thuận ưa thích môn trụ xứ của chư Phật; tùy thuận hiểu rõ môn mô phạm của chư Phật, tùy thuận nhớ nghĩ môn thấy chư Phật xuất hiện; tùy thuận thể nhập môn thấy pháp giới của chư Phật; tùy thuận an trụ môn thấy cảnh giới của chư Phật.

Đồng tử Thiện Tài thong thả đi về phương Nam, đến nước Hải Môn, tới chỗ Tỳ-kheo Hải Vân, đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đến trước chắp tay thưa:

–Thưa Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn nhập vào biển trí sâu xa tối thượng, nhưng con chưa biết Bồ-tát phải làm thế nào để đủ hạnh Bồ-tát và trưởng dưỡng giống Bồ-đề? Làm thế nào để có thể bỏ nhà phàm phu mà sinh vào nhà Như Lai? Làm thế nào để vượt biển sinh tử vào được biển trí tuệ của Phật? Làm thế nào để xa lìa hàng phàm phu ngu si, nhập quả vị tối thắng của Phật? Làm thế nào để chấm dứt dòng sinh tử nhập vào dòng tịnh hạnh của Phật? Làm thế nào để hủy bánh xe sinh tử, thành tựu bánh xe đại nguyện? Làm thế nào để diệt trừ cảnh giới ma, hiển bày cảnh giới Phật? Làm thế nào để khô biển ái dục mà tăng trưởng biển đại Bi? Làm thế nào để đóng cửa nơi ba đường tám nạn, mở cửa Niết-bàn cho

chư Thiên và loài người? Làm thế nào để thoát khỏi thành ba hữu ràng buộc, vào thành chủng trí giải thoát? Làm thế nào để vứt bỏ được những tài vật quý báu, làm lợi ích thu giữ cho tất cả chúng sinh. Xin Thánh giả thương xót chỉ dạy cho con.

Lúc ấy, Tỳ-kheo Hải Vân bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ông đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi chăng?

Thiện Tài thưa:

–Dạ, trước đây con phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi!

Hải Vân nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Sự phát tâm Bồ-đề, còn không được nghe, huống là có thể tự phát triển tâm sâu ấy! Thiện nam! Chúng sinh nào chưa từng tu thiện căn vững chắc thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Thế nên, Bồ-tát cần được ánh sáng thiện căn, chiếu khắp cảnh giới bình đẳng vô ngại, cần được ánh sáng của Tam-muội chánh đạo, chiếu vào kho tàng phương tiện quyền xảo chân thật; cần được thân trang nghiêm bằng phước tụ rộng lớn, tích tập từ công đức hải tạng; cần được tăng trưởng những pháp trong sạch, làm phát sinh từng niệm không dứt; cần phải phụng sự chân Thiện tri thức và thỉnh vấn pháp yếu không biết mệt chán, cần phải xả bỏ keo kiệt, không tàng trữ, không say đắm chấp nơi thân mạng và tài vật; cần phải tránh xa kiêu mạn, tâm không thiên vị, an trụ không động như đại địa; cần phải luôn thương yêu tùy thuận chúng sinh, làm lợi ích bình đẳng, không trái nghịch ý họ; nếu cần ở nơi sinh tử, nơi cõi ác để độ chúng sinh khổ não, tâm không rời bỏ; cần phải luôn luôn quán sát cảnh giới của Như Lai, vui vẻ tu tập, đạt đến cứu cánh; cần phải thường xuyên làm cho chúng sinh lợi ích an lạc, như thế cho đến khi phát tâm Bồ-đề.

Người phát tâm Bồ-đề có nghĩa là để cứu vớt chúng sinh khổ não nên phát tâm đại Bi; để bình đẳng giúp đỡ phước đức cho chúng sinh, nên phát tâm đại Từ; muốn trừ diệt các khổ uẩn cho chúng sinh, nên phát tâm tạo an lạc; để dứt tâm bất thiện cho chúng sinh, nên phát tâm tạo lợi ích; để cứu hộ chúng sinh khỏi sự sợ hãi, nên phát tâm thương xót; để xả bỏ pháp chấp trước chướng ngại, nên phát tâm không trước trước; để biến khắp các cõi Phật trong pháp giới, nên phát tâm quảng đại; để đến được những cảnh giới hư không, nên phát tâm vô biên; để thấy tất cả sắc thân vi diệu của Phật, nên phát tâm không cấu nhiễm; để quán pháp trí ba đời vô tận, nên phát tâm thanh tịnh; vì muốn nhập khắp biển trí Nhất thiết trí sâu xa nên phát tâm đại trí. Phát những tâm như thế nên gọi là Bồ-tát phát tâm Bồ-đề.

Thiện nam! Lúc ta mới đến ở tại nước Hải Môn này mười hai năm, thường đem mười việc quán sát về đại hải, để làm cảnh giới. Đó là tư duy biển cả rộng lớn khó lường, tư duy về biển cả sâu không thấy đáy, tư duy về nước của biển cả, chỉ một vị mặn, tư duy về biển cả phát sinh các báu, tư duy về biển cả thâu tóm các dòng sông, tư duy về màu nước của biển cả khác nhau chẳng thể nghĩ bàn, tư duy về biển cả là nơi sinh sống của nhiều loại chúng sinh, tư duy về biển cả dung nạp vô lượng chúng sinh có thân to lớn, tư duy về biển cả có thể dung chứa nước mưa từ những vầng mây lớn, tư duy về biển cả mãi mãi thường đầy, không có tăng giảm.

Thiện nam! Ta lại suy nghĩ xem, trong thế gian có gì sâu rộng hơn biển này không cho đến sự dung chứa không tăng giảm, có ở đâu hơn biển này không? Thiện nam! Trong lúc ta suy nghĩ, thì từ trong biển cả, bỗng nhiên xuất hiện một hoa sen rất lớn; trang nghiêm bằng các báu, cọng hoa bằng kim cương ngọc báu ma-ni vương, Đế thanh, Phả-chi-ca không gì hơn, đài hoa bằng ngọc báu ma-ni vương, Tỳ-lưuly, lá bằng vàng Diêm-phù-đàn thanh tịnh, không cấu uế; nhụy hoa bằng hương quý chiên-đàn trắng và trầm thủy hương thơm ngào ngạt, tua bằng mã não bảo vương màu vàng sáng rực; có trăm vạn lưới báu bằng ma-ni bảo trang nghiêm, giăng phủ bên trên; chu vi địa điểm trang trí không có giới hạn; ánh sáng chiếu ra bốn phía che cả đại hải. Trăm vạn vua trời Dục giới, mưa những vật báu, tràng hoa, hương, hương đốt, hương bột, hương xoa; y phục đẹp, cờ phướn, lọng báu của cõi trời rơi xuống như mây. Trăm vạn Long vương tuôn mây thơm, phun nước thơm; trăm vạn Dạ-xoa vương dâng các kho báu đặc biệt, trăm vạn La-sát vương với tâm Từ, chắp tay chiêm ngưỡng; trăm vạn Càn-thát-bà vương dùng âm nhạc, hát ca khen ngợi, trăm vạn A-tu-la vương cầm lọng hoa đứng cúi đầu, trăm vạn Ca-lâu-la vương mang những anh lạc và vải lụa báu đẹp thả xuống bốn mặt; trăm vạn Khẩnna-la vương phát tâm lợi ích, vui vẻ trìu mến; trăm vạn Ma-hầu-la-già vương phát tâm thanh tịnh cung kính lễ bái; trăm vạn Nhân vương phát tâm thành khẩn, chắp tay chiêm ngưỡng; trăm vạn Chuyển luân thánh vương, đều đem bảy báu trân trọng cúng dường; trăm vạn Phạm thiên vương đảnh lễ cung kính, trăm vạn trời Tịnh cư, chắp tay cung kính, trăm vạn Chủ hải thần, cùng xuất hiện cung kính lễ bái; trăm vạn Chủ hỏa thần, đều cầm những loại báu trang nghiêm; trăm vạn ngọc báu ma-ni vị quang có ánh sáng chiếu khắp; trăm vạn ngọc báu ma-ni tịnh phúc trang nghiêm rải khắp nơi; trăm vạn ngọc báu ma-ni biến chiếu tạng thanh tịnh; trăm vạn ngọc báu ma-ni ly cấu tạng có ánh sáng rực rỡ; trăm vạn ngọc báu ma-ni cát tường tạng phóng ra ánh sáng vi diệu; trăm vạn ngọc báu ma-ni diệu tạng có ánh sáng chiếu vô biên; trăm vạn ngọc báu tràng ma-ni Diêm-phù treo khắp nơi; trăm vạn ngọc báu ma-ni kim cương bất khả hoại thanh tịnh trang nghiêm; trăm vạn ngọc báu ma-ni nhật tạng to lớn thanh tịnh, ánh sáng tròn đầy chiếu khắp; trăm vạn ngọc báu ma-ni khả ái lạc, hiển hiện đủ các màu trang nghiêm; trăm vạn ngọc báu ma-ni tâm vương, phóng ra ánh sáng nhiều sắc như mưa báu vô tận.

Những sự trang nghiêm trên hoa sen lớn này, đều sinh ra từ thiện căn xuất thế rộng lớn, đã được tích tập của Đức Như Lai ở quá khứ, làm cho các Bồ-tát ở trên hoa này đều thành tựu tín nguyện và hiện rõ khắp tất cả các thế giới trong mười phương. Do quán như huyễn, nên sinh nghiệp hương vương làm trang nghiêm bằng pháp vô sinh; do quán như mộng nên sinh pháp ly tướng và ấn chứng bằng pháp vô tác; do vô nhiễm vướng nên sinh pháp lìa tranh cãi, tùy theo cảnh mà quán sát, không có sự chấp trước, luôn phát ra những âm thanh vi diệu để diễn thuyết về cảnh giới rộng lớn của Như Lai, tiếng ấy vang khắp các cõi nước thanh tịnh của Phật. Giả sử trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp dùng biện thuyết giỏi, khen ngợi công đức của hoa ấy, cũng không cùng tận.

Này thiện nam! Khi ấy ta ở trên hoa sen này, thấy được Đức Như Lai ngồi kiết già, tướng tốt viên mãn, vóc dáng cao lớn, từ tòa sen nơi ngồi cao đến cõi trời Hữu đảnh; tòa sen báu ấy chẳng thể nghĩ bàn, đạo tràng chúng hội chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ viên mãn chẳng thể nghĩ bàn, viên quang sáng rực chẳng thể nghĩ bàn, tùy hiện oai nghi chẳng thể nghĩ bàn, hào quang tỏa rạng chẳng thể nghĩ bàn, tướng tốt vẻ đẹp chẳng thể nghĩ bàn, biến hiện tự tại chẳng thể nghĩ bàn, thần thông điều phục chẳng thể nghĩ bàn, màu sắc sạch đẹp chẳng thể nghĩ bàn, vô kiến đỉnh tướng chẳng thể nghĩ bàn, tướng lưỡi rộng dài chẳng thể nghĩ bàn, biện tài thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, viên âm hiện khắp chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng trí lực chẳng thể nghĩ bàn, thanh tịnh vô úy chẳng thể nghĩ bàn, trí vô ngại giải chẳng thể nghĩ bàn, ghi nhớ về bản hạnh của Đức Phật ấy đã tu chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-đề tự tại chẳng thể nghĩ bàn, tiếng của pháp chấn động vang dội chẳng thể nghĩ bàn, phổ môn thị hiện chẳng thể nghĩ bàn, các loại trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, tùy theo hai bên thấy đều khác nhau chẳng thể nghĩ bàn, làm cho tất cả đều được lợi ích và thành thục chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam! Bấy giờ, Đức Như Lai ấy, ở trên tòa sen, liền đưa tay phải xoa trên đỉnh đầu ta và diễn nói pháp môn Phổ nhãn, hiển bày tất cả hạnh của chư Bồ-tát, khai diễn tất cả cảnh giới của Như Lai, xiển dương toàn thể các diệu pháp của chư Phật, chiếu ánh sáng khắp tất cả cõi của chư Phật, viên mãn tất cả tướng tốt của chư Phật, khuất tất cả lý luận của ngoại đạo, dẹp tan tất cả chúng ma quân, có khả năng làm cho tất cả chúng sinh hoan hỷ, điều phục tất cả phiền não của chúng sinh, có thể quán chiếu tất cả tâm hạnh của chúng sinh, hiểu rõ tất cả căn tánh của chúng sinh, có thể dùng oai lực chuyển xe chánh pháp để tùy theo tâm của chúng sinh mà khai ngộ. Ta được nghe pháp môn Phổ nhãn này nơi Đức Phật ấy, rồi thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, tư duy. Giá như có người lấy nước biển cả làm mực, núi Tu-di làm bút để chép pháp môn Phổ nhãn vô tận rộng lớn hải tạng này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa nắm bắt cho đến một phần nhỏ còn không thể được, huống gì có thể ghi chép đầy đủ hết!

Thiện nam! Trải qua một ngàn hai trăm năm, ta ở nơi Đức Phật ấy, thọ trì pháp môn Phổ nhãn như vậy, liên tục không dứt, hằng ngày thường đem mười loại môn Đà-la-ni thọ trì ghi nhớ cùng mười vô số phẩm. Đó là: Dùng ánh sáng Đà-la-ni văn trì, lãnh thọ vô số phẩm, dùng ánh sáng môn Đà-la-ni tịch tĩnh, thể nhập vô số phẩm, dùng ánh sáng Đà-la-ni vô biên toàn, nhập khắp vô số phẩm; dùng ánh sáng Đà-la-ni tùy địa quán sát phổ biến chiếu diệu, phân biệt vô số phẩm, dùng ánh sáng Đà-la-ni đầy đủ oai lực thâu khắp vô số phẩm, dùng ánh sáng Đà-la-ni liên hoa trang nghiêm, phát triển vô số phẩm; dùng ánh sáng Đà-la-ni âm thanh và ngôn ngữ vi diệu, khai diễn vô số phẩm; dùng ánh sáng Đà-la-ni tạng hiển thị vô số phẩm; dùng ánh sáng Đà-la-ni quang tụ sơn, tăng rộng vô số phẩm; dùng ánh sáng Đàla-ni hải tạng phổ trì, biện luận phân tích vô số phẩm.

Thiện nam! Lúc ấy, tất cả thế giới trong mười phương, đều có vô lượng chúng sinh đến chỗ ta để nghe pháp. Đó là Thiên vương, Long vương, Dạ-xoa vương, Càn-thát-bà vương, A-tu-la vương, Ca-lâu-la vương, Khẩn-na-la vương, Ma-hầu-la-già vương, Nhân vương, Phạm vương. Các vị vua này và quyến thuộc của họ, đến chỗ ta thỉnh vấn giáo pháp, ta đều tuần tự diễn thuyết, phân biệt, giải thích, làm cho họ hoan hỷ, mến mộ, tin sâu, hiểu rõ, thể nhập và thành tựu, trụ vào pháp môn Phổ nhãn diệu hạnh ánh sáng của chư Phật và Bồ-tát này.

Thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn Phổ nhãn này, còn như các Đại Bồ-tát thâm nhập tất cả biển hạnh của Bồ-tát nên tùy nguyện lực của mình mà được thanh tịnh. Vì vào sâu tất cả biển nguyện rộng lớn, thì trọn tất cả kiếp ở thế gian; vì vào sâu tất cả biển chúng sinh, thì tùy theo tâm hạnh của họ mà làm lợi ích; vì vào sâu tất cả biển tâm của chúng sinh thì nên có mười Trí lực xuất thế không ngại; vì vào sâu tất cả biển căn của chúng sinh, thì nên tùy lúc mà điều phục, để học được thành thục, vì vào sâu tất cả biển cõi đồng và dị, thì bản nguyện phải được viên mãn và đều nghiêm tịnh; vì vào sâu tất cả biển Phật vô tận thì nên thường nguyện phụng sự và cúng dường; vì vào tất cả biển pháp của đấng Chánh giác nên có khả năng dùng trí tuệ ngộ nhập tất cả; vì vào sâu tất cả biển công đức của Phật, thì nên tu tập đầy đủ đạo chân thật; vì vào sâu tất cả các biển ngôn từ, thì nên chuyển pháp luân ở khắp các cõi. Nhưng ta làm sao có thể biết và thuyết hết về hạnh của công đức ấy.

Thiện nam! Từ đây đi về hướng Nam sáu mươi do-tuần, bên đường Lăng-già có một xóm làng tên Hải ngạn; ở đó có vị Tỳ-kheo tên là Diệu Trụ. Ông nên đến đó thỉnh vấn: Bồ-tát làm thế nào để hạnh Bồ-tát sớm được thanh tịnh.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ Tỳ-kheo Hải Vân, chiêm ngưỡng, nhiễu bên phải rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài suy nghĩ lại những điều Thiện tri thức dạy; chuyên tâm ghi nhớ pháp môn Phổ nhãn; chuyên nghĩ về oai lực thần biến của Như Lai, khắc ghi pháp cú mây thân vi diệu; thể nhập biển giáo vô biên pháp môn; quán sát về oai nghi pháp thức của thiện hữu, lặn sâu vào dòng nước ngầm của biển pháp sâu xa; thể nhập vào khắp hư không pháp giới; rửa sạch bụi nhơ trong mắt pháp, thu nhặt những pháp bảo do thiện hữu tích tập. Với những suy nghĩ như thế, đồng tử đi về phương Nam, đến làng Hải Ngạn, dọc đường Lăng-già, quán sát khắp mười phương tìm Tỳ-kheo Diệu Trụ, trông thấy vị ấy Tỳ-kheo ấy kinh hành qua lại trên không trung; có các chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư với cung điện nhiều chẳng thể nghĩ bàn, ở trên hư không cung kính chắp tay phát đại thệ nguyện để cúng dường; có nhiều vua trời Phạm thiên chẳng thể nghĩ bàn chắp tay, cúi đầu cất tiếng vi diệu, dùng pháp thế gian, tán dương khen ngợi, để cúng dường. Có vô số ngàn, vạn chư Thiên cõi Dục và các vua trời, cung kính vây quanh chật cả không trung; giăng mây hoa trời, mưa hoa trời, trổi nhạc trời, phát ra âm thanh hay và nhiều loại trang sức, vô số gấm lụa, cờ phướn lọng báu khắp cả hư không để cúng dường. Còn có vô số đại Long vương giăng vô số mây hương, trầm thủy khắp cả hư không, sấm rền chớp giật để cúng dường. Có vô lượng chẳng thể nghĩ bàn Dạ-xoa vương cùng quyến thuộc, nhiễu quanh nhiều vòng cung kính, bảo vệ, cúng dường. Có vô lượng chẳng thể nghĩ bàn La-sát vương cùng các quyến thuộc thân hình cao lớn, rất đáng ghê sợ đều khởi tâm Từ thân cận chiêm ngưỡng cúng dường. Có vô lượng A-tu-la vương giăng mây ma-ni báu, nhiều chẳng thể nghĩ bàn, phóng đại ánh sáng, khắp cả hư không và mưa nhiều loại báu, chiếu sáng trang nghiêm để cúng dường. Có vô số Ca-lầu-la vương, hóa làm đồng tử và thể nữ đẹp vây quanh, khởi tâm thương rộng lớn, không có tâm sát hại, chắp tay cung kính, cúng dường. Có vô số Khẩn-na-la vương, trổi các loại nhạc, phát ra nhiều loại âm thanh vi diệu, lại dùng nhiều từ ngữ hay ca vịnh để cúng dường. Có vô số Ma-hầu-la-già vương, mang nhiều y phục mịn đẹp, thượng hạng, nhiều chẳng thể nghĩ bàn của cõi trời, đi theo vị ấy, giăng trải đầy khắp xung quanh để cúng dường. Có vô lượng Chủ hải thần, trổi các loại kỹ nhạc phát ra âm thanh hòa nhã để cúng dường.

Đồng tử Thiện Tài, trông thấy vị Tỳ-kheo ấy kinh hành tự tại trên hư không, lại còn có các sự cúng dường đầy khắp cõi hư không như vậy nên hết sức vui mừng, phấn khởi chẳng thể kìm lòng, nhất tâm kính lễ, năm vóc sát đất, hồi lâu mới đứng dậy, chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng chưa biết được Bồ-tát phải dốc cầu pháp Phật như thế nào? Làm thế nào để tích tập pháp Phật? Làm thế nào để đầy đủ pháp Phật? Làm thế nào để huân tập pháp Phật? Làm thế nào để tu hành pháp Phật? Làm thế nào giữ gìn sự thanh tịnh pháp Phật? Làm thế nào để tùy thuận các pháp nơi chốn hành của Phật? Làm thế nào để thông đạt pháp toán số của Phật? Làm thế nào để tăng trưởng pháp phổ biến của Phật? Làm thế nào để thanh tịnh pháp cứu cánh của Phật? Làm thế nào để thu giữ toàn bộ pháp công đức của Phật? Làm thế nào để có thể nhập pháp tùy thuận của Phật. Con nghe bậc Thánh đã khéo léo dạy bảo, cúi xin Thánh giả, thương tưởng tuyên thuyết cho con: Bồ-tát làm thế nào để thường gặp chư Phật, nghe pháp tu hành mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn đồng thiện căn với tất cả Bồ-tát, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào dùng trí tuệ để luôn luôn chứng pháp của chư Phật, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn dùng đại nguyện làm lợi ích chúng sinh, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn tu tất cả sự nghiệp của Bồ-tát mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để trụ luôn nơi biển kiếp, tu hành không chán, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn trụ ở vô số cõi, trang nghiêm khắp nơi, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào luôn luôn nương được vào Phật lực, để có thể thấy biết thần biến của chư Phật, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn thọ sinh tự tại nơi sáu đường, trụ vào đạo vô trụ, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn được tiếp nhận và ghi nhớ mưa mây chánh pháp của chư Phật, mà không xả bỏ? Bồ-tát làm thế nào để luôn luôn phát sinh được ánh sáng trí tuệ, chiếu đến những nơi hành đạo của chư Phật trong ba đời mà không xả bỏ? Xin Thánh giả thương xót diễn giảng khai ngộ cho con.

Khi ấy, Tỳ-kheo Diệu Trụ nói với Thiện Tài: Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, giờ lại chí cầu pháp Nhất thiết trí và pháp tự giác. Thiện nam, ông đã có thể phát tâm tin sâu, mến mộ, ân cần không bỏ và nay đến thỉnh vấn ta; vậy ông nên lắng nghe ta chỉ dạy.

Này thiện nam! Ta được môn giải thoát cúng dường chư Phật, thành thục chúng sinh, chẳng không, dũng mãnh, nhanh chóng phổ biến của Bồ-tát. Đối với môn này, luôn tu tập tư duy cả lúc đi, lúc đứng, khi ra, khi vào; phải tùy thuận quán sát thì liền đạt được trí tuệ sáng suốt tên là Phổ chiếu chư pháp cứu cánh vô ngại. Nhờ đạt được trí tuệ sáng suốt ấy nên biết được những tâm hành khác nhau của các chúng sinh mà không bị chướng ngại, biết những việc sinh tử khác nhau của chúng sinh mà không bị chướng ngại; biết những việc đời trước của các chúng sinh mà không bị chướng ngại; biết những việc đời sau của các chúng sinh mà không bị chướng ngại; biết những việc nơi đời hiện tại của các chúng sinh mà không bị chướng ngại; biết nhiều loại âm thanh ngôn ngữ khác nhau, tùy theo phong tục của các chúng sinh mà mà không bị chướng ngại; biết những lưới nghi hoặc khác nhau của chúng sinh và làm cho họ nhận biết rõ mà không bị chướng ngại; biết nhiều căn tánh khác nhau, thọ pháp khác nhau của chúng sinh mà không bị chướng ngại; biết lúc nào chúng sinh cần tiếp nhận hóa độ, để đến điều phục không bị chướng ngại, biết chia các thời gian sát-na, liệp-phược, mâu-hô-lật-đa, ngày đêm, năm, kiếp gắn liền với nhau mà không bị chướng ngại; biết các pháp tuần tự lưu chuyển liên tục trong biển ba đời không bị chướng ngại; biết vô lượng sự khác nhau ở các cõi của Đức Phật và có thể dùng thân này dạo khắp mười phương mà không bị chướng ngại. Vì sao? Vì đã được sức thần thông vô trụ, vô tác, vô hành.

Thiện nam! Nhờ được sức thần thông này, nên ta ở trên hư không: đi, đứng, nằm, ngồi cho đến hiện các oai nghi đều ẩn hiện tự tại; hoặc bằng một thân phân ra nhiều thân, hoặc nhiều thân hợp lại một thân; hoặc với thân ấy đến, lui, nhập, xuất đi xuyên qua vách đá mà không bị chướng ngại; hoặc ngồi kiết già trên không trung đến đi tự tại như chim bay, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, khắp thân trên dưới đều phun ra khói lửa, hào quang rực rỡ như khối lửa lớn; hoặc có lúc làm chấn động cả đại địa; hoặc có lúc dùng tay nắm bắt mặt trời, mặt trăng; hoặc hiện oai đức vượt hơn cả trời tự tại; hoặc hiện thân lớn hơn cả trời Phạm thế; hoặc dùng thần lực chuyển biến tự tại; hoặc hiện mây loại hương đốt, bay liệng như lọng, che khắp mười phương; hoặc hiện mây lửa báu ánh sáng rực rỡ chiếu khắp nơi; hoặc hiện mây biến hóa, tùy theo thân hình của từng loại chúng sinh; hoặc hiện mây lưới ánh sáng đủ các màu sắc, sáng chói không ngại; hoặc hiện thân mình chỉ trong khoảng một sát-na đi đến phương Đông qua một thế giới, mười thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, ức thế giới, trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức triệu thế giới cho đến vô số thế giới, vô lượng thế giới, vô biên thế giới, vô đẳng thế giới, chẳng thể nghĩ bàn thế giới, bất khả lượng thế giới, bất khả xưng thế giới, không thể nói thế giới, vô lượng vô lượng thế giới; cho đến nhiều hơn số vi trần ở cõi Diêm-phù-đề thế giới, cho đến vượt hơn số cực vi trần một cõi Phật vô lượng vô lượng thế giới. Như thế, nơi tất cả biển thế giới; trong đó có sự phát sinh của tất cả thế giới, trong đó có phương hướng của tất cả thế giới, trong đó có sự xoay chuyển của tất cả thế giới, trong đó có sự biến khắp của tất cả thế giới, trong đó có sự biến hóa của tất cả thế giới, trong đó có danh tự của tất cả thế giới, trong đó có pháp môn của tất cả thế giới, trong đó có thời kiếp của tất cả thế giới, trong đó có vi tế của tất cả thế giới, trong đó có Bồ-đề đạo tràng của tất cả thế giới, trong đó có vật trang nghiêm của tất cả thế giới, trong đó có những đại chúng hội của tất cả thế giới. Tất cả những thế giới khác nhau như thế, mà trong toàn thể cõi nước ấy, đều có Đức Như Lai xuất hiện thành Chánh giác. Các Đức Như Lai ấy, mỗi vị lại hiện thân nhiều như số cực vi trần tập họp thành nhiều đại chúng khác nhau trong tất cả cõi Phật. Ta đều ở nơi các Đức Phật ấy, hiện thân khắp nơi mỗi thân đều rải các loại mây cúng dường, nhiều như số cực vi trần trong tất cả các cõi Phật, đó là: Tất cả mây hoa, tất cả mây hương, tất cả mây tràng, tất cả mây lọng, tất cả mây cờ, tất cả mây phướn, tất cả mây trướng, tất cả mây rèm, tất cả mây hương bột, tất cả mây hương xoa, tất cả mây y phục. Dùng tất cả các thân, đem những mây phẩm vật cúng dường như thế, để cúng dường. Mỗi Đức Như Lai chuyển pháp luân, thuyết giảng nhiều cách: Quảng thuyết, lược thuyết, tán thuyết, hủy thuyết, minh liễu thuyết, ẩn mật thuyết, hữu dư thuyết, vô dư thuyết, bất định thuyết, quyết định thuyết. Các pháp ấy, ta đều lãnh hội ghi nhớ và thọ trì. Cách trang nghiêm ở mỗi cõi nước nơi biển cõi của chư Phật, ta đều ghi nhớ không quên. Như ở phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc bốn góc trên dưới, cũng thế.

Này thiện nam! Như vậy các chúng sinh, trong tất cả thế giới ấy, hoặc được nghe tên ta, hoặc được thấy thân ta, hoặc thấy nơi ta kinh hành hay dừng trụ, hoặc họ nhất tâm lễ bái cúng dường, hoặc có khi bị tán loạn hoài nghi không tin; như vậy tất cả đối với đạo Vô thượng Bồ-đề đều đạt không thoái chuyển. Tất cả chúng sinh ở thế giới ấy, ta đều thấy rõ; tùy theo lớn, nhỏ, sang, hèn, khổ, vui nhưng cùng mang một thân hình như nhau; người đáng được độ thì ta giáo hóa điều phục, để họ được thành thục. Chúng sinh nào gần gũi ta, ta đều làm cho họ được an trụ nơi pháp môn này. Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát vô ngại cúng dường chư Phật, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, chẳng không, dũng mãnh, nhanh chóng phổ biến này. Còn như các Đại Bồ-tát thọ trì đầy đủ giới đại Từ bi, giới Ba-la-mật, giới trụ Đại thừa, giới không rời đạo Bồ-tát, giới không đắm tất cả pháp, giới không bỏ tâm Bồ-đề, giới không dừng ở hàng Nhị thừa, giới thường dùng pháp Phật làm duyên, giới tâm thường ghi nhớ Nhất thiết trí, giới phát chí lạc bằng hư không, giới không nương vào tất cả thế gian, giới không khuyết sót, giới không đục loạn, giới không mất mát, giới không tạp nhiễm, giới không hối hận, giới không chán lười, giới thanh tịnh, giới lìa trần, giới không cấu nhiễm. Giới hạnh và công đức của các Bồ-tát, vô lượng, vô biên như thế, mà ta thì làm sao có thể biết, có thể nói hết!

Thiện nam! Từ đây đến phương Nam, có một nước tên Đạt-la-tỷtrá, nước ấy có một thành tên Kim Cương Tằng; ở đó có vị Đại sĩ tên là Di-già. Ông đến đó tham vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để tu đạo Bồ-tát?

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Tỳ-kheo Diệu Trụ, nhiễu quanh theo phía bên phải, chiêm ngưỡng rồi từ tạ ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhất tâm làm theo lời dạy của Thiện tri thức, chánh niệm quán chiếu về môn pháp ánh sáng ấy, dùng tâm thanh tịnh tin tưởng thể nhập, chiêm nghiệm oai lực của pháp, noi theo Phật đã làm, chuyên tâm ghi nhớ, nối dòng Tam bảo, khen tánh lìa dục, nhớ đến Thiện tri thức, quán sát khắp nơi, chiếu sáng ba đời, nhớ đại nguyện xưa tùy thuận tu hành; dùng tâm vô ngại, nhập vào cảnh giới của chúng sinh, thường xuyên nghĩ đến cứu hộ thế gian, tâm không nương đắm vào các pháp hữu vi, quán chiếu nơi tự tánh căn bản của các pháp, từng niệm chảy vào biển Nhất thiết trí, làm thanh tịnh trang nghiêm khắp các cõi Phật, tâm không nương trụ vào đạo tràng chúng hội của các Đức Như Lai. Đồng tử quán sát như thế và tiếp tục đi về phương Nam. Đến nước Đạt-la-tỷ-trá, vào thành Kim Cương Tằng, tìm kiếm Đại sĩ Di-già khắp nơi, mới gặp được vị ấy đang ngồi nơi tòa Sư tử, trên đài cao, ở giữa chợ, với mười ngàn người vây quanh; vị này đang giảng thuyết về pháp môn Luân tự trang nghiêm. Đến nơi, Thiện Tài đảnh lễ nơi nơi chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi chắp tay cung kính bạch:

–Thưa Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Làm thế nào để luân hồi trong các nẻo nhưng luôn luôn nhớ tâm Bồ-đề? Làm thế nào để tâm được kiên cố dốc cầu pháp Phật không có mỏi mệt? Làm thế nào để được tâm thanh tịnh khiêm cung, không ai có thể hủy hoại? Làm thế nào để được sức đại Từ bi, thường xuyên ở trong sinh tử không quản nhọc nhằn? Làm thế nào để được sức Tổng trì, tự tại thu giữ phổ môn thanh tịnh? Làm thế nào để phát sinh ánh sáng trí tuệ rộng lớn lìa các chướng ngại? Làm thế nào để luân biện giỏi, khéo léo chọn giảng pháp tạng sâu xa? Làm thế nào để được sức chánh niệm, để ghi nhớ tất cả giáo pháp của chư Phật? Làm thế nào được sức thanh tịnh để diễn thuyết các pháp làm thanh tịnh các đường? Làm thế nào để trở thành trí lực phổ biến của Bồ-tát, để có thể phân biệt, quyết định, hiểu rõ nghĩa chân thật tất cả pháp.

Xin Đại sĩ thương tưởng, tuyên thuyết cho con.

Lúc ấy, Đại sĩ Di-già hỏi Thiện Tài:

–Thiện nam! Trước đây, ông đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi ư?

Thiện Tài thưa:

–Dạ vâng! Thưa Đại sĩ! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Vì tôn trọng tâm Bồ-đề, nên Di-già vội vàng từ tòa Sư tử bước xuống, đến trước Thiện Tài, nhất tâm kính lễ, năm vóc sát đất. Đảnh lễ xong, rải hoa bằng vàng, bạc, châu báu vô giá và bột chiên-đàn thượng hạng; lại dùng vô lượng y báu với các lụa năm sắc che phủ bên trên, lại rải vô số ánh sáng thù thắng và những vật cúng dường thượng diệu như hương thơm hoa đẹp, vừa ý thanh khiết; rồi chắp tay dùng âm thanh hòa nhã, khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông mới là người có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

Này thiện nam! Ai có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì người ấy chính là người chuyên dốc cầu trí Nhất thiết trí và không đoạn mất giống Phật; tức là xa lìa tất cả chủng tánh phàm phu của thế gian, là làm nghiêm tịnh tất cả cõi nước của chư Phật, là điều phục cho tất cả chúng sinh được thành thục, là giác ngộ tất cả pháp tánh, vượt biển sinh tử, là thông hiểu tất cả nghiệp chủng không có chỗ nương tựa và đắm chấp; là chuyên cần tu tất cả diệu hạnh của Bồ-tát; là đã phát các đại nguyện thì không bị gián đoạn; là tùy thuận hành xứ lìa dục của Nhất thiết chủng trí; là đạt được tất cả chủng tánh kiên cố của Bồ-tát; là đã được tất cả oai lực gia trì của chư Phật; là có khả năng thấy rõ những sai biệt trong ba đời, là được các Đức Như Lai trong mười phương cùng hộ niệm; là bình đẳng với tất cả chí lạc của Bồ-tát trong pháp giới; là được tất cả Hiền thánh cùng khen ngợi; là được tất cả Phạm vương hết tâm lễ bái hầu cận; là được tất cả Thiên vương cung kính cúng dường; là được các vua Dạ-xoa thường xuyên bảo hộ, là được các vua La-sát đi theo thị vệ; là được các đại Long vương đón tiếp phụng sự; là được các vua Khẩn-na-la khen ngợi tán thán; là được các vị vua thế gian đồng tâm chúc mừng; là làm cho toàn thể cõi chúng sinh đều được yên ổn, tức là làm chấm dứt sự luân hồi trong cõi ác, khiến bỏ các nơi khổ nạn; làm cho chấm dứt tất cả gốc rễ tham lam, làm cho phát sinh những diệu lạc của trời người; làm cho được thân cận cúng dường các vị Thiện tri thức; làm cho được lắng nghe và thọ trì giáo pháp rộng lớn của chư Phật, có thể tu tập tất cả pháp Bồ-đề phần của Bồ-tát, có khả năng làm cho tăng trưởng tất cả công đức căn bản của thiện pháp, có khả năng làm cho huân trưởng tất cả mầm trí vô lậu của Bồ-tát, có khả năng làm cho ánh sáng trí tuệ chiếu khắp tất cả trí đạo sai biệt, có khả năng làm cho trụ trọn vẹn vào trí địa chân thật của Bồ-tát.

Thiện nam! Khó có Bồ-tát như thế xuất hiện ở đời, cũng khó được gặp gỡ; những việc Bồ-tát ấy làm khó hiểu khó biết, chỉ vì tất cả chúng sinh mà làm những việc hết sức khó làm, người nào được gặp vị ấy, lại càng khó hơn. Vì sao? Vì Bồ-tát ra đời là tạo lợi ích lớn cho các chúng sinh; như cha mẹ, nuôi dưỡng an ủi làm cho con được nên người, như ngọc anh lạc, làm trang nghiêm cho tất cả trời người; như vị thuyền trưởng, đưa chúng sinh ra khỏi biển sinh tử; như phòng thất che chở cho tất cả thế gian; như người lái buôn có thể hướng dẫn chúng sinh đến chỗ đầy vật báu; như ánh mặt trời luôn chiếu khắp ánh sáng trí tuệ; như vua sống tự tại trong thành pháp giác ngộ; như đống lửa mạnh, có khả năng thiêu hủy củi ngã, ái của chúng sinh; như vầng mây lớn, mưa vô biên cam lồ thấm nhuần khắp nơi; như mùa mưa làm cho mầm thiện căn như tín xanh tốt; như con thuyền vận chuyển đưa chúng sinh đến bờ bên kia, như nhịp cầu có thể đưa chúng sinh qua sông sinh tử, như bến cảng chỉ rõ những con đường ra vào quan trọng; như phong luân, bảo trì chúng sinh không để rơi vào ba đường ác; như đại địa, đều có khả năng làm tăng trưởng các thiện căn của tất cả chúng sinh; như biển lớn, có đầy đủ vô tận tạng công đức phước trí; như vầng trăng tròn, tỏa ánh sáng trí tuệ khắp nơi phá tan những bóng tối phiền não làm cho trong mát; như vị tướng tài đánh tan tất cả quân ma làm cho chúng tan tác; như núi Tu-di, thiện căn thắng trí vượt trên biển sinh tử sâu rộng.

Khi ấy, Đại sĩ Di-già khen ngợi và nêu rõ về sức công đức lớn của việc phát tâm Bồ-đề cho Đồng tử Thiện Tài, làm cho các chúng hội cũng đều hoan hỷ, đồng thanh xướng: Lành thay! Lành thay!

Thiện nam! Chúng hội của chúng ta hôm nay, rất đỗi vui mừng vì đã được thấy bậc thù thắng và được nghe công đức hạnh nguyện của Bồtát.

Bấy giờ, Di-già trở lại tòa của mình, từ diện môn phóng ra các loại ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi ấy, các Đại phạm vương, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân, các vị vua như thế cùng quyến thuộc của mình, thấy hào quang chiếu đến, họ đều vân tập.

Lúc ấy, Đại sĩ quán sát tâm của toàn chúng, đều sinh tâm cung kính, bỏ các tính kiêu mạn và dua nịnh, tâm được tịch tĩnh, chí nguyện thuần thiện; rồi tùy theo sở thích của họ; Đại sĩ phân biệt giải thích, hướng dẫn rộng rãi, về pháp môn Luân tự cú phẩm trang nghiêm. Những chúng sinh ấy, nghe pháp này rồi, tin tưởng lãnh hội và không còn thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ-đề. Việc cần làm, được làm xong; Đại sĩ bảo Thiện Tài:

–Này thiện nam! Lúc ta đã thành tựu pháp môn ánh sáng Tổng trì về âm thanh vi diệu, trong khoảng một niệm ta có thể phân biệt và biết rõ ngôn ngữ khác nhau hoặc bí mật của chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc và ngôn ngữ khác nhau kín đáo của các loài: Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân trong khắp cõi tam thiên đại thiên; và cũng biết từng ý tưởng và sở thích kín đáo khác nhau, của tất cả chúng sinh như: Biết rõ ý thích kín đáo khác nhau của Phạm vương và các Phạm chúng ở Sắc giới; biết những ý thích kín đáo khác biệt của các Đại Thiên vương cùng Thiên tử, Thiên nữ ở cõi Dục; biết những ý thích kín đáo khác biệt của các loài rồng cho đến người phi nhân và nam nữ quyến thuộc, ở khắp thế giới tam thiên đại thiên; cũng có khả năng biết rõ hướng, quả, sự tu tập khác nhau của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật và địa vị hạnh nguyện của các Bồ-tát; cũng biết rất rõ, ý hướng tu tập, vi tế kín đáo khác nhau và các ngôn từ phân biệt giảng thuyết, giải thích văn nghĩa của Bồ-tát trong tam thiên đại thiên thế giới này; cũng có khả năng biết rõ tất cả các biển pháp sâu xa, những từ ngữ khác nhau, ý hướng kín đáo, của chư Phật trong ba đời đã thuyết giảng cho chúng sinh.

Cũng như trong một niệm, ta có thể biết hết những tư tưởng, lời nói, hạnh nguyện địa vị vi tế kín đáo khác nhau của các chúng sinh cho đến các vị Hiền thánh trong thế giới này. Ta cũng biết những tư tưởng, lời nói, hạnh nguyện, địa vị, vi tế bí mật của chúng sinh và các vị Hiền thánh trong một, mười, trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, không thể nói, không thể nói trong các thế giới không thể nói ở phương Đông; cho đến lời nói, tư tưởng, hạnh nguyện, địa vị vi tế, bí mật sau khác nhau của chúng sinh và các Hiền thánh trong tận cùng vô lượng vô lượng của các thế giới ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới ta cũng đều hiểu biết và thông hết.

Này thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn ánh sáng Tổng trì của âm thanh vi diệu này. Còn như các Đại Bồ-tát; có khả năng nhập vào biển tưởng hành, quyến thuộc khác nhau của tất cả chúng sinh, có khả năng nhập vào biển kiến lập thi thiết khác nhau của tất cả chúng sinh; có khả năng nhập vào biển những xưng tán danh tự khác nhau của tất cả chúng sinh, có khả năng nhập vào biển những phong tục ngôn ngữ khác nhau của tất cả chúng sinh; có khả năng nhập vào biển pháp cú bí mật sâu xa của hết thảy chư Phật; có khả năng nhập vào biển pháp cú cứu cánh tối thượng của tất cả chư Phật, có khả năng nhập vào biển pháp cú, ở trong một đối tượng duyên nói hết thảy các duyên trong ba đời của tất cả chư Phật; có khả năng nhập vào biển pháp cú mà trong ngôn ngữ, diễn thuyết được tất cả sự tăng thượng của hết thảy chư Phật; có khả năng nhập vào biển pháp cú trong tất cả ngôn ngữ, diễn thuyết được sự tối cao tối thượng của chư Phật; có khả năng nhập vào biển pháp cú mà trong tất cả ngôn ngữ, diễn thuyết được sự rộng lớn khác biệt của tất cả chư Phật; có khả năng nhập vào biển pháp cú mà trong tất cả ngôn ngữ, diễn thuyết sự điều phục khéo léo khác nhau của chư Phật; có khả năng nhập vào biển bí mật mà trong tất cả thế giới, diễn thuyết được các thứ ngôn từ, chú thuật khác nhau của chư Phật; có khả năng nhập vào lãnh vực âm thanh ngôn ngữ khác nhau của chúng sinh trong tất cả thế giới; có khả năng nhập vào lĩnh vực viên mãn trang nghiêm, pháp luân thanh tịnh của tất cả chư Phật; có khả năng nhập vào lĩnh vực phổ biến phát triển chỉ rõ các pháp bằng phương tiện tự luận của tất cả thế gian. Công đức trí hạnh của các Bồtát như thế, làm sao ta có thể biết hết và nói hết được.

Này thiện nam! Từ đây đến phương Nam, có một xóm làng tên Trụ Lâm, ở đó có vị Trưởng giả tên là Giải Thoát, ông hãy đến đó tham vấn: Bồ-tát làm thế nào để tu tập đạo Bồ-tát; Bồ-tát làm thế nào để phát sinh đức Bồ-tát; Bồ-tát làm thế nào để thành tựu hạnh Bồ-tát; Bồ-tát làm thế nào để tư duy pháp Bồ-tát.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài nhờ Thiện tri thức hết tâm dạy bảo; nên càng tôn trọng pháp Nhất thiết trí; càng tăng trưởng niềm thích quả với các thiện căn; càng tinh tấn với tất cả Phật pháp và hết tâm tuân theo lời dạy của các bậc Thiện tri thức. Đồng tử đảnh lễ sát chân Di-già, bùi ngùi rơi lệ, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giả đi đến phương Nam.

 

Xin xem tiếp trang 2

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8