Trang 7 (tiếp theo)

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thưa với Thần rừng:

–Bạch Thánh giả! Thánh giả đạt được môn giải thoát này đã bao lâu rồi?

Thần rừng trả lời:

–Này thiện nam! Từ rất xa xưa, trải qua hàng ức kiếp, nhiều như số cực vi trần cõi Phật, lại gấp đôi số ấy; bấy giờ, có thế giới tên là Phổ bảo, kiếp tên là Duyệt lạc; trong đó có tám mươi ức na-do-tha Đức Phật xuất hiện. Đức Phật thứ nhất tên là Tự Tại Công Đức Vô Năng Thắng Tràng, đầy đủ mười hiệu. Trong thế giới có bốn đại châu. Trong cõi Diêm-phù-đề, thuộc thế giới Chủng chủng trang nghiêm quang, cố đô thành tên là Thanh tịnh trang nghiêm tu-di tràng, trong đó có nhà vua tên là Bảo Quang Diệm Nhãn. Đại vương có phu nhân bậc nhất tên là Đại Diễm Tự Tại Hoan Hỷ Quang; cũng giống như phu nhân Ma-da, là mẹ của Như Lai Tỳ-lô-giá-la, ở cõi Diêm-phù-đề của thế giới kia vậy. Trong cõi Diêm-phù-đề của thế giới Chủng chủng trang nghiêm quang này, phu nhân Đại Diệm Tự Tại Hoan Hỷ Quang, chính là mẹ của Như Lai thứ nhất tên là Tự Tại Công Đức Vô Năng Thắng Tràng kia.

Này thiện nam! Phu nhân Hỷ Quang, trong thời gian chuẩn bị đản sinh vị Bồ-tát kia, bà đã cùng hai mươi ức na-do-tha thể nữ, trước sau vây quanh, đến thẳng vườn Viên mãn quảng đại kim hoa; thị hiện không thể nghĩ bàn Bồ-tát thọ sinh, với đủ các phép biến hóa thần thông. Bấy giờ, ở trong vườn, tại một lầu gác có tên Thanh tịnh diệu

bảo phong, có một cây rất to tên là Nhất thiết thí; phu nhân đến đó, đưa tay phải vịn vào cành cây ấy, tức thời ở nơi hông phải của bà, Bồtát kia ra đời; được các chư Thiên nâng đỡ, tắm gội bằng nước hương; tất cả các chủ thế gian đều rộng bày cúng dường. Lúc đó, có nhũ mẫu tên là Vô Cấu Quang, đứng hầu một bên, được chư Thiên trao cho, nhũ mẫu cung kính tiếp nhận, dùng tay ôm giữ Như Lai, trong tâm vô cùng mừng vui, liền đạt được cảnh giới Tam-muội Phổ nhãn của Bồtát. Được Tam-muội đó rồi, bà liền thấy khắp vô lượng chư Phật, ở trong hết thảy thế giới nơi mười phương, lại tiếp tục đạt được pháp môn giải thoát Nhất thiết tự tại thọ sinh.

Thiện nam! Cũng giống như truyền chánh pháp vậy; lúc ban đầu nhận lấy bào thai, nhanh chóng biết là chẳng có gì đáng ngại, nên được Tam-muội; do đó cũng nhanh chóng thấy được cỗ xe chư Phật trong mười phương, với những biến hóa thần thông về sức bản nguyện thọ sinh.

Này thiện nam! Ý ông thế nào? Nhũ mẫu Vô Cấu Quang đó, đâu ai xa lạ, chính là thân ta đó. Hai mươi ức na-do-tha thể nữ, bây giờ chính là hai mươi ức na-do-tha nữ Thần rừng, quyến thuộc của ta ở trong rừng này; phu nhân Đại Diệm Tự Tại Hoan Hỷ Quang, nay là phu nhân Ma-da; còn Đại Vương Bảo Quang Diệm Nhãn nay là Tịnh Phạn.

Thiện nam! Ta từ xưa đến nay, ở trong mỗi niệm, luôn thấy biển lớn biến hóa thần thông của Bồ-tát Tự Tại Thọ Sinh Tỳ-lô-giá-na. Thiện nam! Trong mỗi mỗi bụi trần của thế giới này, cũng như trong từng niệm đối với thế giới Ta-bà; thấy cỗ xe sức bản nguyện, hoặc thấy biển pháp môn biến hóa thần thông tự tại thọ sinh là như thấy Như Lai Tỳ-lô-giá-na. Lại thấy các Thế Tôn khắp hết thảy các cõi biển mười phương của thế giới này, trong số vi trần này; hiện ra những biến hóa thần thông về tự tại thọ sinh như đang ở ngay đây vậy. Cũng thấy các Như Lai ở tận đời vị lai trong mười phương thế giới và cả số vi trần trong thế giới này, hiện ra sự biến hóa thần thông về tự tại thọ sinh.

Thiện nam! Hôm nay được thấy khắp mọi nơi biến hóa thần thông về tự tại thọ sinh của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na; cũng được thấy các cỗ xe bản nguyện của hết thảy chư Phật trong mười phương biến khắp mọi nơi; đến tận các thế giới không có ngằn mé trước sau, đến cả thế giới trong số vi trần. Tóm lại, là hết thảy thế giới, nếu có sự biến hóa thần thông về tự tại thọ sinh, thì phải nên gần gũi, thờ phụng, cúng dường; để được nghe sự vận chuyển xe pháp của chư Phật, từ đó có thể thọ trì, tùy thuận, ngộ nhập. Bấy giờ, Thần rừng Diệu Đức muốn nói cho rõ nghĩa pháp môn giải thoát này, bèn nương vào sức oai thần của Phật, quán sát mười phương, mà nói kệ rằng:

Lành thay! Con Phật đến hỏi ta
Cảnh Phật tối thắng thật khó biết
Vì trọng tâm tín lạc thâm sâu
Ta sẽ nói ông nên nghe kỹ.
Ức kiếp cõi trần gấp hai lần
Xa xưa có kiếp tên Duyệt lạc
Tám mươi ức số na-do-tha
Chư Phật liên tục hiện ở đó,
Phật đầu tiên hiện ở thế gian
Hiệu: Tự Tại Đức Vô Thắng Tràng
Khi ta ở tại vườn Kim hoa
Thấy Như Lai ấy hiện đản sinh,
Lúc này thân ta làm nhũ mẫu
Tên: Vô Cấu Diễm, đứng để hầu
Chư Thiên trao ta: Thân Bồ-tát
Hào quang sắc vàng không gì hơn,
Ta được gặp bậc: Thiên Nhân Sư
Ôm giữ, xem kỹ, không thấy hết
Lượng thân tả hữu vô biên tế
Các tướng tròn đầy khó nghĩ bàn.
Được thấy, nhơ lìa, thân thanh tịnh
Tướng tốt trang nghiêm thật diệu kỳ
Giống tượng vàng ròng, báu đẹp thay
Vui mừng tự phát tâm thanh tịnh,
Nghĩ suy các công đức của Phật
Tăng trưởng vô lượng biển phước sâu
Thần thông Phật bình đẳng không cùng
Nên phát Bồ-đề tâm rộng lớn,
Cầu công đức hết thảy chư Phật
Làm tăng trưởng tất cả đại nguyện
Trang nghiêm thanh tịnh cõi vi trần
Diệt trừ tất cả đường hiểm họa,
Ở khắp cõi nước trong mười phương
Cúng dường chư Phật không cầu kể
Chỉ cầu tu hành để giải thoát
Nguyện diệt tất cả khổ chúng sinh.
Ta nghe pháp ấy, rồi giữ nhận
Nên được sức giải thoát khó nghĩ
Ức cõi vi trần vô biên kiếp
Đều tu hạnh Bồ-tát sạch trong,
Thứ tự trong kiếp Phật ra đời
Mỗi mỗi ta đều lo cúng dường
Nhận giữ các pháp để tu hành
Thanh tịnh trang nghiêm biển giải thoát.
Ức cõi trần số, cõi trần kiếp
Quá khứ đã có Đấng Mười Lực
Giữ hết pháp ấy để tu hành
Chuyển xe giải thoát thanh tịnh ấy.
Với ta một niệm đều rõ hết
Trong tất cả vi trần cõi Phật
Đã có hết thảy các Như Lai
Các cõi biển mỗi mỗi trang nghiêm.
Ở đó đều có Phật xuất hiện
Việc đản sinh thường hiện trong vườn
Mỗi niệm đều hiện khó suy nghĩ
Sức thần thông tự tại rộng lớn,
Ta thấy Bồ-tát trong ức cõi
Chuyên cầu Bồ-đề, tối thắng Phật
Để thành Chánh giác, trụ cung trời.
Cảnh Phật hiện ra, thật khó nghĩ
Hoặc thấy trong cõi biển vô biên
Chư Phật thọ sinh: Việc thần biến
Tất cả chúng hội cùng vây quanh,
Rộng nói chánh pháp để khai ngộ
Với ta một niệm đều thấy khắp
Ức cõi trần số các Bồ-tát
Xuất gia, hàng ma, ngồi đạo tràng,
Hiện ra đủ các cảnh giới Phật
Hoặc thấy hết thảy trong cõi trần
Vô lượng tôn nhân thành Chánh giác
Sức phương tiện hiện ra khó nghĩ,
Độ thoát hết thảy khổ chúng sinh
Hoặc thấy trong hết thảy cực vi
Diệu pháp luân chư Phật đều chuyển
Âm vi diệu vang xa vô tận,
Mưa pháp Cam lồ khắp vô biên
Ở trong từng niệm thấy hết thảy
Ức cõi trần số, cõi chư Phật
Đều có Đức Như Lai hiện thọ sinh,
Hiện cả Niết-bàn; không bị đắm
Vô lượng biển cõi Phật như vậy
Ở đó Như Lai hiện sơ sinh
Ta đều đến khắp thân không mỏi,
Trước mỗi thị hiện để cúng dường
Không nghĩ bàn cõi, nẻo, cảnh giới
Vô biên chủng loại các chúng sinh
Phải dùng phương tiện hiện đến trước,
Làm mưa pháp lớn để khai ngộ
Ta biết đó đều là con Phật
Môn giải thoát tối thắng khó nghĩ
Trong vô lượng ức kiếp lập ra
Chỉ bày khen ngợi không thể tận.

Này thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Thị hiện thọ sinh tự tại thần biến của Bồ-tát, với vô lượng kiếp, khắp hết thảy các cõi này; còn như các Đại Bồ-tát, có khả năng chỉ trong một niệm mà phát sinh sự tích chứa hết thảy các kiếp, để khai mở, chỉ bày, chứng ngộ về bản tánh của các pháp; có thể dùng phương tiện thiện xảo, để làm sự thọ sinh được hiện khắp; nguyện luôn được cúng dường tất cả chư Phật, tinh tấn, chuyên cần rốt ráo để cho pháp Phật hiện tiền; thân thọ vào các nẻo, như cái bóng hiện ra khắp nơi; ở chỗ các Đức Phật, ngồi tòa hoa sen, tùy vào sự ưng muốn của chúng sinh mà hóa độ, thành thục họ; đối với khắp thế gian, hiện ra sự biến hóa đại thần thông, trí lớn tròn đầy, thông tỏ không nghĩ ngại; đối với các Tam-muội, đều được tự tại, cho thấy việc thành Chánh giác, chuyển xe diệu pháp, chứng vào pháp giới vô ngại sâu xa, hiểu rõ hết tâm tánh của chúng sinh, chỉ bày tất cả các tướng công đức, phát tâm có sức tự tại rộng lớn, đạt được hết thảy trí nhẫn, hàng phục hết thảy các ma, tùy thuận nhập vào cảnh giới của tất cả Như Lai, tùy vào chúng sinh mà hiện thân sắc. Đó là trí Bồ-tát hành công đức mà ta thì làm sao có thể biết, có thể nói hết được.

Này thiện nam! Theo hướng Tây nam này, có thành Ca-tỳ-la, ở đó có người con gái thuộc dòng họ Thích, tên là Cù-ba. Ông hãy đến đó mà hỏi: Bồ-tát làm thế nào ở trong sinh tử để thành thục chúng sinh, tu hành hạnh Bồ-tát?

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ và đi vòng bên phải Thần rừng Lâm-tỳ-ni; Đồng tử kinh hành vô số vòng, ân cần nhìn ngắm hết tâm mến mộ, rồi từ giã ra đi.

Đồng tử Thiện Tài từ rừng Lâm-tỳ-ni, hướng thẳng đến thành Ca-tỳ-la; trên đường đi, Đồng tử suy nghĩ và quán sát lại môn giải thoát Chư Phật thọ sinh tự tại thần biến của Bồ-tát mà thần kia đã chứng được; làm cho sự tu tập được tăng trưởng, rộng lớn, tùy thuận mà ngộ nhập, nhớ giữ không cho mất. Đồng tử bắt đầu đi thẳng đến cung điện Phổ hiện pháp giới ảnh tượng quang minh, nơi các Bồ-tát đang hội họp, trong đó có vị Thần chủ cung điện tên là Vô ưu đức, cùng với một vạn Thần chủ cung điện nữa, nghênh tiếp Đồng tử Thiện Tài và bày tỏ:

–Lành thay! Được đón tiếp bậc Trượng phu, bậc Đại trí tuệ, Dũng mãnh vô úy, đã tu tập được không thể nghĩ bàn môn giải thoát Tự tại thọ sinh thần biến của Bồ-tát; tâm không hề rời thệ nguyện rộng lớn; khéo léo quán sát cảnh giới của các pháp; tâm thường an trụ thành trì của pháp vô thượng; nhập vào nơi cung điện Thanh tịnh diệu pháp; chỉ bày vô lượng phương tiện thiện xảo, điều phục chúng sinh, khiến cho hết thảy đều thành tựu, tỉnh ngộ và đắc nhập vào biển lớn công đức của Như Lai; được xe trí biện tài vô ngại, vô tận, vi diệu của Phật; tùy chúng sinh mà lưu chuyển, làm cho vui mừng, tăng trưởng được nguyện lớn, hồi hướng khắp các nẻo, để cầu đạo Nhất thiết trí. Ta thấy Nhân giả đạo hạnh sâu xa, tâm không hề xả bỏ, oai nghi vắng lặng, không chút vẩn đục, chẳng bao lâu sẽ thành Như Lai Vô thượng, thân, ngữ, ý, nghiệp đều thanh tịnh tối thắng; với các tướng tốt này, trang nghiêm nơi thân, sẽ là ánh sáng trí mười Lực, làm sáng sủa mọi tâm địa; khi du hành khắp thế gian sẽ là ánh sáng lớn soi sáng từ nơi này đến nơi khác. Ta thấy Nhân giả dũng mãnh tinh tấn, khéo ngăn trở hay hủy hoại; chẳng bao lâu sẽ đạt dược khả năng thấy khắp ba đời tướng tốt tròn đầy của tất cả chư Phật; nghe khắp xe pháp mà chư Phật chuyển; có khả năng thọ dụng khắp hết thảy thiền định của Bồtát, an vui trong các môn giải thoát Tam-muội; tùy thuận mà chứng nhập cảnh giới của Như Lai. Vì sao? Vì ông đã có thể thấy được Thiện tri thức, lại gần gũi, thờ phụng, cung kính cúng dường; mạng được dạy dỗ, luôn nhớ nghĩ đến công đức, tu hành không gián đoạn, không lo buồn, phiền não, không lười biếng, thoái lui, không có gì chướng ngại; tất cả thế gian, trời, người, ma, phạm không thể làm khó dễ; chẳng bao lâu sẽ thành Vô thượng Bồ-đề và cũng khiến cho chúng sinh chứng được quả Phật.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nghe lời bày tỏ ấy rồi, liền thưa:

–Bạch Thánh giả! Những công đức như ngài vừa nói, nguyện sao cho tôi được đầy đủ tất cả. Thưa Thánh giả! Nguyện của tôi là vĩnh viễn dứt hẳn những phiền não đã thành thục trong chúng sinh; diệt trừ tất cả các nghiệp ác của chúng sinh; cùng chúng sinh an vui trong đạo Vô thượng; khiến cho chúng sinh tu hành thanh tịnh.

Bạch Thánh giả! Hết thảy chúng sinh, tâm thường tán loạn, từ đó sinh ra phiền não, tạo các nghiệp ác, rồi trôi lăn theo nghiệp, bị đọa vào trong nẻo ác; thân tâm lớn lên trong đêm tối, thọ chịu bao điều khổ ác; Bồ-tát thấy rồi, tâm sinh ưu phiền. Thưa Thánh giả! Ví như có người chỉ được một con, thương yêu lo ắng đều dồn hết; bỗng thấy kẻ nào đó đến cắt đứt thân thể tứ chi của con; thì tâm đau thống thiết, làm sao an vui cho được, Đại Bồ-tát cũng như vậy. Thấy các chúng sinh chất chứa nghiệp ác, đọa vào ba đường ác, thọ đủ các khổ, tâm vô cùng ưu phiền, không thể an vui cho được. Còn nếu thấy chúng sinh, phát khởi ba loại hạnh lành thân, ngữ, ý, sinh trọng đạo lành; thì thân tâm thọ nhận an ủi, sinh niềm vui lớn. Vì sao? Vì Bồ-tát không vì lợi ích cho mình mà cầu Nhất thiết trí; cũng không vì tham những vui thú trong các sinh tử; cũng không vì tham năm dục lạc; lại cũng không vì chuyên cầu niềm vui được trang nghiêm, yêu kính ở quyến thuộc ở Dục giới; lại cũng không tùy tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo, sức xoay chuyển của ái kiến, tùy miên, kết sử; đối với chúng sinh bị ái ân trói buộc, tâm không tham luyến, cũng không đắm vào mùi vị an vui của thiền định; cũng không vì những chướng ngại, chán mỏi, thoái lui; trụ trong chìm đắm và dời đổi của sinh tử; nhưng Bồ-tát thấy được tất cả chúng sinh ở trong biển hữu, nhận đủ vô biên các khổ thúc ép, phát tâm đại Bi, nguyện thâu tóm, giữ gìn, để khiến họ mau ra khỏi biển lớn sinh tử; dùng sức nguyện đại Bi, chuyên cần tu hành đủ các khổ hạnh khó hành; đoạn dứt khắp tất cả phiền não của chúng sinh, khiến được xa lìa, vĩnh viễn không thoái lui. Còn muốn tinh tấn cần cầu trí Nhất thiết trí ở Như Lai; thì phải thờ phụng cúng dường tất cả chư Phật; thấy các cõi cõi nước có nhiều tạp nhiễm không sạch thì làm cho trang nghiêm thanh tịnh biển cõi chư Phật đó; thấy các loại tướng và danh của chúng sinh đều không chân thật thì làm sao để Pháp thân họ được thanh tịnh, thấy thân tâm có nhiều tạp nhiễm thì làm cho họ ba nghiệp được thanh tịnh trang nghiêm; thấy các chúng sinh tâm hạnh không đủ thì làm cho họ được thanh tịnh đầy đủ. Bạch Thánh giả! Như vậy Bồ-tát đối với chúng sinh, tâm đại Bi phải sâu dày có thể thực hành tất cả những hạnh khổ khó hành; trải qua vô biên kiếp, tâm không mệt mỏi thì những gì mình làm, mới được thành tựu; giống như cha mẹ, như nhũ mẫu, như đất, như nước, như lửa, như gió, như hư không rộng lớn, như mặt trời, mặt trăng, như biển lớn, như cùng sinh ở cõi trời. Có thể sinh ra đủ các lợi ích viên mãn. Thế nào là Bồ-tát giống như cha mẹ? Vì đó là nơi an toàn để gầy dựng tâm Bồđề. Thế nào là Bồ-tát giống như nhũ mẫu? Vì nhờ đó mà thành tựu đạo Bồ-tát. Thế nào là Bồ-tát giống như đại địa? Vì đại địa có mười loại việc. Những gì là mười? Đó là do đại địa rộng lớn vô biên, nên tất cả sự vật thành tựu rộng khắp; Đại Bồ-tát cũng như vậy, sự tích tụ công đức, phước trí rộng lớn đều từ đó mà thành tựu vô lượng. Lại như đại địa, có thể sinh cho thế gian đủ các thứ dụng cụ riêng tư, tất cả chúng sinh đều dựa vào đó mà duy trì cuộc sống; Đại Bồ-tát cũng như vậy, có thể sản sinh những công đức, những của cải quý báu vượt khỏi thế gian, như Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Bồ-đề phần và Diệu pháp; đó là những tư cụ có thể dưỡng dục chúng sinh thọ mạng công đức và trí tuệ. Lại như đại địa đều bình đẳng về lợi ích, không buồn không vui, không có tưởng phân biệt; Đại Bồ-tát cũng như vậy, đối với việc bố thí không nghĩ đến chỗ thân quen, không dựa vào yêu ghét, không sinh hai tâm. Lại như đại địa, có thể thọ nhận những cơn mưa như trút của các vầng mây lớn; Đại Bồtát cũng như vậy, có thể thọ lãnh những cơn mưa của mây pháp lớn từ Đức Như Lai. Lại như đại địa, là chỗ mà tất cả chúng sinh nương vào đó mà trụ; Đại Bồ-tát cũng như vậy, luôn cùng với chúng sinh ở thế gian và xuất thế gian, nương tựa vào nhau mà làm các việc lợi lạc. Lại như đại địa, tất cả những hạt giống đều nương vào đó mà sinh trưởng; Đại Bồ-tát cũng như vậy, tất cả những hạt giống pháp lành có trong chúng sinh cũng đều nương vào đó mà sinh trưởng. Lại như đại địa, có thể sinh nhiều châu báu và những đồ dùng báu; Đại Bồ-tát cũng như vậy, có thể sinh cho chúng sinh những công đức báu, những pháp khí báu. Lại như đại địa, có thể sinh các loại thuốc để diệt trừ bệnh tật; Đại Bồ-tát cũng như vậy, nương vào đại Từ bi mà sinh ra thuốc pháp, diệt trừ đủ các bệnh nặng của phiền não. Lại như đại địa, có biết bao loài trùng độc hại, hoạt động trong tâm đất, nên phải tiếp xúc với đủ các bậc tức mà vẫn an trụ bất động; Đại Bồ-tát cũng vậy, thường phải tiếp với tất cả trong ngoài những khổ não, nhưng thâm tâm vẫn không dao động Lại như đại địa, tất cả các tiếng ác, tiếng sấm to, tiếng rống của rồng, không làm cho kinh hãi sợ sệt, còn tưởng như chẳng nghe thấy; Đại Bồ-tát cũng vậy, những tiếng ác của các ma hay ngoại đạo, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng lo chẳng hãi, còn tưởng như chẳng nghe thấy. Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười loại công đức tròn đầy, giống như đại địa thành tựu và tự tại.

Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát giống như nước? Ví như được nhiều nước, sẽ khiến cho các thảo dược trong rừng rậm và các đại cổ thụ sinh sản, tăng trưởng, Đại Bồ-tát cũng như vậy, dùng nuớc Tammuội, sinh ra các pháp Bồ-đề phần, với đủ các thảo dược, làm tăng trưởng phước đức trí tuệ cho đại thọ, thành tựu được quả Vô thượng Bồ-đề. Thế nào là Bồ-tát giống như lửa? Ví như được nhiều lửa thì có thể đốt cháy tất cả những vật không trong sạnh và cũng có thể thiêu đốt sạch tất cả cây cỏ, những khu rừng có ở đại địa; Đại Bồ-tát cũng như vậy, có thể dùng các loại lửa đại trí tuệ, đốt cháy các phiền não, tùy miên tập khí, không trong sạch, tội lỗi và nhơ bẩn có ở trong chúng sinh. Thế nào là Bồ-tát giống như gió? Ví như gió không có sắc tướng, không có trụ xứ không nương tựa, không chìm đắm mà có thể thành tựu thế giới; với nước và đống đất thì không thể tạo thành tất cả cung điện hay núi Tu-di và các núi lớn nhỏ khác; điều đó tất cả con người đều không có khả năng thấy được; Đại Bồ-tát cũng vậy, đối với tất cả xứ, không đắm không nương tựa vào đó mà có thể thành tựu uẩn giới xứ; công đức của Bồ-tát, tất cả thế gian, Thanh văn, Duyên giác không thể thấy được. Thế nào là Bồ-tát giống như hư không? Ví như hư không, thể của nó không chướng ngại, tất cả các pháp nương vào đó mà thành tựu; Đại Bồ-tát cũng như vậy, bản tánh không ngại, tất cả các pháp lành đều duyên theo đó mà thành tựu. Thế nào là Bồ-tát giống như mặt trăng? Vì như chu kỳ của mặt trăng, từ ngày đầu tháng đến ngày rằm của tháng, tuần tự mà lớn dần cho đến tròn đầy; Đại Bồ-tát cũng như vậy, từ khi mới phát tâm, tất cả các tịnh pháp cũng dần dần tăng trưởng, cho đến khi thành Phật ngồi ở Bồ-đề đạo tràng; tất cả công đức đầy đủ viên mãn. Thế nào là Bồ-tát giống như mặt trời? Ví như sự luân chuyển của mặt trời, hễ mỗi khi xuất hiện thì tất cả những u ám tối tăm đều bị tiêu diệt; Bồ-tát có mặt trời trí cũng như vậy; mỗi khi xuất hiện thì tất cả những đen tối u ám, vô minh của chúng sinh thảy đều bị tiêu diệt. Thế nào là Bồ-tát giống như biển? Ví như tánh của biển lớn là luôn có khả năng sinh ra các báu, giúp cho chúng sinh nhận dùng không hết, Đại Bồ-tát cũng như vậy, dựa theo biển phước trí mà sinh ra các báu công đức và trí báu, đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh, không bao giờ hết được. Thế nào là Bồ-tát giống như cùng sinh ở cõi trời? Ví như trời thứ hai, cùng với con người đồng sinh, tùy ý đuổi theo con người như hình với bóng, không thể lìa bỏ; Đại Bồ-tát cũng như vậy, thường tùy chúng sinh mà đuổi theo đến tận các nơi hiểm nạn hay ác đạo để bảo hộ, không làm cho rơi đọa vào đó.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát đối với chúng sinh như là thuyền trưởng, làm cho chúng sinh được qua khỏi biển sinh tử; là chỗ để quay về nương tựa, xa lìa được các nỗi sợ hãi của ma phiền não; là chỗ để cậy nhờ, khiến mọi bực dọc nóng nảy tiêu trừ, lại được sạch trong mát dịu; là bến đò lớn, đưa chúng sinh nhập vào biển pháp; là thầy chỉ đường trên biển, giúp chúng sinh đến được đảo báu Phật pháp; là hoa sen thanh tịnh, nở vô số tâm công đức của chư Phật; là dụng cụ trang nghiêm, làm cho ánh sáng phước trí càng thêm trang nghiêm; là nơi ưng cho những ái lạc, khiến được thành tưa hạnh Phổ hiền, tam nghiệp thanh tịnh, đoan chánh trang nghiêm; là bậc đáng tôn trọng, giúp cho ta chuyên cần lìa bỏ các nghiệp ác; là hạnh Phổ hiền, giúp cho hình thể trở nên tốt đẹp và viên mãn; là chỗ thấy vui, khiến mọi vui thú theo đó mà xuất hiện; là ánh sáng lớn, phóng trí tuệ khắp nơi tạo những ánh hào quang; là ngọn đèn sáng lớn, soi sáng đủ các pháp, làm cho hết thảy đều thông đạt; là ánh sáng có thể soi tỏ từ nơi này đến nơi khác, làm cho tâm tánh Bồ-đề càng sáng trong; là đại dũng tướng, trừ diệt tất cả ma nghiệp; là mặt trời châu báu, có thể phóng ngọn lửa trí, kết thành hào quang lưới; là trăng báu đáng yêu, phóng khắp pháp giới những ánh sáng trong lành mát dịu; là mây lớn đổ mưa, có thể đem các pháp Cam lồ làm mưa.

Bạch Thánh giả! Như vậy, khi nào thì Bồ-tát sẽ thực hành những điều đó; để khiến cho chúng sinh được sinh tâm yêu kính; thành tựu đầy đủ và an vui trong pháp chân thật?

Bấy giờ, thần Vô Ưu Đức, cùng với quyến thuộc, gồm đủ một vạn Thần, đang đứng bên đường, nghe Đồng tử Thiện Tài tự nói về hành tướng của sự phát tâm Bồ-đề mà chưa có lần được gặp nên vui mừng hớn hở, bèn dùng các vòng hoa đẹp, các hương xoa, hương bột, đủ các báu trang nghiêm, tất cả nhiều hơn cõi trời để rải lên người Thiện Tài, tùy thuận vi nhiễu, rồi đi vào cung điện Bồ-tát, mà nói kệ rằng:

Ông vì các chúng sinh
Phát tâm cầu Chánh giác
Nên ở vô tận kiếp
Làm đèn sáng thế gian
Trong vô lượng ức kiếp,
Rất khó được gặp ông
Nay, mặt trời trí hiện
Chiếu sáng khắp thế gian
Ông thấy khắp chúng sinh,
Bị bụi vô minh phủ
Nên phát tâm đại Bi
Ác tàn không Đạo sư
Ông dùng tâm thanh tịnh,
Chuyên cầu công đức Phật
Việc làm Thiện tri thức
Chẳng lo cho thân mạng
Tâm ông ở thế gian
Không nương, không chỗ đắm,
Quyết định luôn sạch trong
Thanh tịnh như hư không
Ông tu hạnh thắng trí
Chuyển xe công đức lành,
Phóng ánh sáng trí tuệ
Chiếu khắp cõi vô biên
Ông không lìa thế gian
Cũng không đắm ở đó,
Như gió thoảng hư không
Việc làm không chướng ngại
Luôn hướng hạnh Bồ-đề
Dũng tiến, khó khuất phục,
Như lửa cháy kiếp hỏa
Tất cả không thể diệt
Như Sư tử, chẳng sợ
Vững chắc như kim cương,
Trí hành ông cũng vậy
Tất cả khó lay động
Trong pháp giới mười phương
Các pháp Phật đã có,
Ông là Thiện tri thức
Có thể nhập được hết.

Thần Vô Ưu Đức sau khi dùng kệ này, khen ngợi công đức tu hành của Đồng tử Thiện Tài rồi, ông theo sát Thiện Tài như hình với bóng, để được nghe chánh pháp, không một phút xa lìa. Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài mới vào cung điện Phổ hiện pháp giới ảnh tượng quang minh, quán sát khắp nơi, tìm kiếm Thích nữ Cù-ba, thấy vị nữ họ Thích này, đang ngồi trên tòa Sư tử, tên là Phổ hiện nhất thiết cung điện ảnh tượng ma-ni bảo vương đại liên hoa tạng, tại nơi sảnh đường mà các Bồ-tát đang tập trung hết ở đó; chung quanh có tám vạn bốn ngàn thể nữ quyến thuộc đứng hầu. Các thể nữ này, chẳng phải từ dòng họ Thích sinh ra, mà trong quá khứ, đã cùng tu hạnh Bồ-tát; đều cùng nhau trồng hết thảy căn lành Bồ-tát, như bố thí, nói lời yêu thương, việc làm có lợi; cùng nhau tu hành, thâu tóm các chúng sinh vào cảnh giới Nhất thiết trí; thường thị hiện trước chúng sinh, tu tập đủ các hạnh Bồ-đề của chư Phật, luôn giữ tâm đại Bi bình đẳng vô tận để thâu nhận khắp các chúng sinh, coi họ như con, tâm lành đầy đủ, thanh tịnh và rộng lớn; có khả năng tùy thận khắp tất cả muôn loài; trong quá khứ, đã cùng nhau tu tập rất nhiều đến không thể nghĩ bàn về các phương tiện thiện xảo, đều hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được không thoái lui, nhập sâu vào các Ba-la-mật của Bồ-tát. Cùng nhau tu hành tất cả học xứ của Bồ-tát, tâm luôn xa lìa các vọng tưởng, chấp trước; tránh xa sinh tử, yêu thích chánh pháp; tuy là hành giả, nhưng tâm thanh tịnh, luôn chuyên cần quán sát pháp giới nhất vị, nhanh chóng chí thú cầu đạo Nhất thiết trí, lìa xa các lưới che lấp tâm, vượt khỏi những lo toan, khó nghĩ, để thân được thanh tịnh; biến hóa và hiện ra vô lượng, điều phục, thành thục tất cả thế gian; thành tựu sâu xa biển lớn công đức; tùy chỗ xuất sinh của hạnh Phổ hiền, mà nhanh chóng làm tăng trưởng sức dũng mãnh tráng kiện; làm đèn trí, mặt trời tuệ chiếu sáng tròn đầy khắp nơi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, liền đến trước Thích nữ Cù-ba đảnh lễ, đi nhiễu quanh phải, đứng thẳng, chắp tay, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà chưa biết Bồ-tát phải làm thế nào ở trong sinh tử, mà không lo bị sinh tử làm cho chìm đắm? Bồ-tát làm thế nào tự tại liễu ngộ các pháp, mà không cần trụ ở tất cả địa vị của Thanh văn, Bích-chi-phật? Bồ-tát làm thế nào trụ ở địa vị Phật mà có thể nhập khắp vào các địa của Bồ-tát? Bồ-tát làm thế nào trụ ở ngôi Bồ-tát mà có thể nhập đủ các cảnh giới Phật? Bồ-tát làm thế nào vượt khỏi thế gian, mà có thể thành tựu được pháp của thế gian? Bồ-tát làm thế nào đã chứng đắc Pháp thân, mà có thể hiện ra đủ các sắc thân? Bồ-tát làm thế nào đã được pháp vô tướng, mà còn tùy chúng sinh, lại hiện ra các sắc tướng? Bồ-tát làm thế nào đã biết pháp là không nói mà vì độ chúng sinh lại nói các pháp? Bồ-tát làm thế nào đã biết chúng sinh là không mà không chịu xả bỏ việc giáo hóa chúng sinh? Bồ-tát là thế nào đã biết chư Phật là không sinh, không diệt, mà lại chuyên cần cúng dường không bao giờ dứt? Bồ-tát làm thế nào đã vượt khỏi được những cảnh giới huyễn hoặc, mà lại còn dùng huyễn để điều phục chúng sinh? Bồ-tát làm thế nào đã tin sâu bản tánh các pháp như hư không, mà thành tựu được vô biên phương tiện trí tuệ? Bồ-tát làm thế nào đã biết tất cả pháp đều không ôm giữ, đắm chìm; mà lại thường cúng dường tất cả chư Phật, tâm sâu không thoái lui? Bồ-tát làm thế nào đã nhập sâu vào các hạnh, không nghiệp, không báo; mà còn tu thiện hạnh không lúc nào dừng nghỉ?

Lúc này Thích nữ Cù-ba, nói với Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hôm nay ông hỏi về thể tướng chủng tánh và sự tu hành các hạnh của tất cả các Bồ-tát; về việc có thể tu hành đại nguyện của Phổ Hiền, cho đến những gì mà ông đã phát khởi nói ra; ta sẽ nương sức oai thần của chư Phật, vì ông mà tuyên thuyết, ông hãy lắng nghe cho kỹ khéo ghi nhớ.

Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát tu tập mười pháp, thì có thể viên mãn hạnh nhân-đà-la Võng phổ trí quang tràng Bồ-tát. Những gì là mười?

  1. Y theo bậc Thiện tri thức.
  2. Đạt được sự phá bỏ tà kiến và vô minh sâu rộng.
  3. Phát khởi những dục lạc thanh tịnh.
  4. Gom và chứa phước đức rộng lớn.
  5. Lắng nghe chánh pháp của chư Phật.
  6. Gần gũi được ba đời của chư Phật.
  7. Cùng tu hành diệu hạnh của Bồ-tát.
  8. Được chư Phật cùng hộ niệm cho.
  9. Bản nguyện đại Bi thảy đều thanh tịnh.
  10. Có khả năng dùng trí lực, xa lìa vĩnh viễn sinh tử.

Nếu các Bồ-tát thành tựu được các pháp ấy thì sẽ được viên mãn hạnh nhân-đà-la Võng phổ trí quang tràng Bồ-tát.

Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát, gần gũi, thờ phụng các bậc Thiện tri thức thì có thể tinh tấn dũng mãnh và không thoái lui trong việc tu tập; sẽ phát sinh pháp bình đẳng rộng lớn vô tận của Phật; của Bồ-tát con Phật.

Này Phật tử! Bồ-tát lại dùng mười pháp phụng sự các bậc Thiện tri thức, khiến luôn được hoan hỷ. Những gì là mười?

  1. Đối với thân mạng, của cải không hề tiếc rẻ.
  2. Đối với những vật dụng riêng tư trong thế gian, tâm không sinh tham lam cầu xin.
  3. Biết bản tánh của tất cả pháp đều bình đẳng.
  4. Đối với tất cả trí nguyện, luôn không thoái lui hay xả bỏ.
  5. Thường vui vẻ quán sát thật tướng của pháp giới.
  6. Với các biển hữu, tâm không chán nản xa lìa.
  7. Biết các pháp không chỗ trụ, giống như hư không.
  8. Phát đại nguyện của Bồ-tát không bị chướng ngại.
  9. Hiện các loại thân, biến khắp các cõi biển.
  10. Thanh tịnh tu hành xe vô ngại trí của Bồ-tát.

Này thiện nam! Dùng mười pháp này mà thờ phụng tất cả các chân Thiện tri thức, khiến cho được hoan hỷ; việc mình làm sẽ không sai trái, cho đến Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Thích nữ Cù-ba vì muốn rõ nghĩa này, mới nương sức oai thần của Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:

Chuyên cầu trí Phật lợi chúng sinh
Thiện tri thức những việc phải làm
Chánh trực, lìa nịnh, tâm không lười
Tu hành hạnh lưới trời Đế Thích
Rộng hiểu thanh tịnh hằng tối thắng
Như hư không vào khắp ba đời
Phật và cõi Phật cùng chúng sinh
Phổ biến hạnh: Trí quang tràng này
Ý vui rộng lớn bằng hư không
Vắng lặng khó chìm, không ngằn mé
Đối với công đức của chư Phật
Hành hạnh mây thân ở thế gian
Bồ-tát gom chứa Nhất thiết trí
Biển công đức không thể nghĩ bàn
Thân trí tuệ phước đức thanh tịnh
Thực hành hạnh vô trước thế gian
Để đến hết thảy chỗ Như Lai
Lắng nghe chánh pháp không biết chán
Khai thông hiểu biết làm đèn tuệ
Tu hành hạnh chiếu khắp thế gian
Ba đời chư Phật trong mười phương
Từng niệm hết thảy đều gần gũi
Suy nghĩ kỹ tâm không hề bỏ
Hồi hướng Bồ-đề, hạnh nguyện lớn
Đến khắp các nơi của Như Lai
Cùng tu Bồ-tát biển phương tiện
Biển nguyện Tam-muội rất vô biên
Tu hành hạnh lưới trời Đế Thích
Được sự gia trì của chư Phật
Nơi nơi tu đạo hạnh Phổ hiền
Đến tận vị lai, vô biên kiếp:
Hành hạnh phân thân ở thế gian
Để thấy các khổ của chúng sinh
Khởi Từ bi lớn, hiện ở đời
Giảng pháp sáng ngời diệt u tối.
Hành hạnh mặt trời trí thế gian
Để thấy chúng sinh đọa các nẻo
Làm xe pháp diệu, gom vô biên
Khiến cho đoạn hẳn dòng sinh tử
Đó là tu hành hạnh Phổ hiền.
Bồ-tát tu hành mười pháp ấy
Thì sẽ hiện trước khắp chúng sinh
Hiện trong các nẻo và biển hữu
Cứu độ hết thảy loài chúng sinh
Dùng sức phương tiện đại Từ bi
Hiện khắp đủ loại thân trang nghiêm
Tùy tâm mà chuyển xe diệu pháp
Khiến các nẻo, hướng đạo Bồ-đề.

Cù-ba nói xong kệ này, liền bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ta đã đạt được pháp môn giải thoát Quán nhất thiết Bồ-tát Tam-muội cảnh giới hải.

Thiện Tài liền thưa:

–Bạch Thánh giả! Môn giải thoát cảnh giới này nó như thế nào?

Đáp:

–Này thiện nam! Ta nhập vào môn giải thoát này, biết thế giới Ta-bà này trong thế giới đã qua không thể nói, không thể nói cực vi trần số kiếp; chúng sinh trong mỗi mỗi kiếp ấy, có đủ các hình dạng giống loài, làm điều thiện và làm cả điều ác, sinh kia chết đây, lẩn quẩn trong các nẻo, thọ nhận biết bao quả báo; kịp khi ta tu tập môn giải thoát Thiền định đẳng chí đẳng trì (thâm tâm bình đẳng an hòa trong thiền định và sự bình đẳng duy trì tâm trụ ở cảnh); lại được biết, chúng sinh trong mỗi kiếp ấy, hoặc xuất ly hoặc không xuất ly; hoặc chánh định hoặc tà định, hoặc kể cả bất định; hoặc đều có căn lành cùng phiền não; hoặc đều có căn lành không cùng phiền não; hoặc có đầy đủ căn lành, hoặc không có đầy đủ căn lành; hoặc có căn lành thâu tóm căn không lành, hoặc có căn không lành thâu tóm căn lành; pháp lành và pháp ác cứ như thế mà tích tụ; hết thảy ta đều biết rõ; không có gì làm chướng ngại. Lại cũng trong kiếp ấy; trước sau liên tục, đều có chư Phật xuất hiện ở đời, với đủ các danh hiệu, ta cũng đều biết rõ. Đối với mỗi mỗi chư Phật Thế Tôn, từ khi mới phát tâm cầu Nhất thiết trí, phát hết thảy biển đại thệ nguyện, làm hết thảy các biển sự việc của Thiện tri thức, luôn cúng dường hết thảy biển chư Phật, tu hành hết thảy biển hạnh của Bồ-tát, làm trang nghiêm biển cõi nước của chư Phật, luôn cố gắng viên mãn biển công đức của chư Phật, làm xuất hiện biển thành tựu Chánh giác, thị hiện biển thần thông rộng lớn, có phương tiện để chuyển bánh xe chánh pháp, điều phục biển chúng sinh. Tất cả ta đều biết rõ, không có trở ngại. Ta còn biết những chủng hội khác nhau của các chư Phật đó. Ở trong chúng hội, có các chúng sinh, ở hàng Thanh văn mà được xuất ly; các bậc Thanh văn ấy, ở quá khứ đã tu tập nhiều căn lành, đã có sự thọ trì pháp của hàng Thanh văn và cũng đã được đủ các trí tuệ; ta biết rõ tất cả. Ở trong chúng hội, có các chúng sinh, ở hàng Độc giác mà được xuất ly; các bậc Độc giác ấy, đã có được sự tu tập của nhiều căn lành, đã có sự chứng ngộ quả của hàng Độc giác, đã trụ môn giải thoát tối thắng vắng lặng, đã nhập Tam-muội, đã thấy thần thông, đã giáo hóa chúng sinh cho đến khi nhập diệt; ta đều biết rõ. Ta còn biết chúng hội Bồ-tát tròn đầy, chiếu khắp, không ngằn mé của các chư Phật kia. Các Bồ-tát ở trong chúng hội đó, từ lúc mới phát tâm, từ khi mới trồng căn lành, đã phát khởi vô lượng những nguyện lớn, tu hành đủ các hạnh khó hành, thành tựu tròn đầy các Ba-la-mật, làm đủ cách để trang nghiêm đạo Bồ-tát, dùng sức tự tại, nhập vào đủ các Địa của Bồ-tát, những Địa của Bồ-tát là: Đủ các trợ đạo Bồ-tát địa, đủ các hạnh tự tại Bồ-tát địa, đủ cách ra vào Tam-muội Bồ-tát địa, đủ các cách thần thông tự tại Bồ-tát địa, đủ các sự xuất hiện tự tại Bồ-tát địa, đủ các kiến tạo xây dựng Bồ-tát địa, đủ các quán sát Bồ-tát địa, đủ các sửa trị thanh tịnh Bồ-tát địa, đủ các nương nhờ Bồ-tát địa, đủ các tướng Bồtát địa, đủ các thể trạng Bồ-tát địa, đủ các loại trí: Bồ-tát nhiếp trí, Bồ-tát thành tựu trí, Bồ-tát trụ xứ, Bồ-tát cảnh giới hạnh rộng lớn, Bồtát đại thần thông, Bồ-tát biển Tam-muội, Bồ-tát biển phương tiện giải thoát, Bồ-tát đã nhập biển Tam-muội sai khác, đã được tất cả lời dạy về ánh sáng trí, đã được mây sáng chớp của Nhất thiết trí, đã đạt hết thảy nhẫn nhục, đã có hết thảy trí dũng mãnh, đã giác ngộ rõ biển của tất cả pháp, đã nhập được vào tất cả biển của chư Phật, đã chỉ ra những biển phương tiện, đã có sự phát khởi những biển thần thông, đã có các biển hoằng thệ sâu rộng ta đều biết tất cả.

Này thiện nam! Ở thế giới Ta-bà này, từ quá khứ xa xưa cho đến tận hôm nay, trải qua vô lượng vô lượng cực vi trần số kiếp cõi Phật, đã có đủ các biển kiếp khác nhau, đã có chúng sinh, chư Phật và các chúng hội cho đến tận vị lai, đã có các biển kiếp luân phiên không dứt, trước sau nối tiếp nhau, ta cũng đều biết rõ. Này thiện nam! Ngoài việc biết thế giới Ta-bà như vậy, ta còn biết trong thế giới Tabà, lại phát sinh rất nhiều cực vi trần số thế giới, những thế giới ấy trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng biết ở trong tâm thế giới Ta-bà, tất cả những thế giới ấy, trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng còn biết, trong tất cả những cực vi trần có được ở trong thế giới Ta-bà, cũng có những thế giới trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng còn biết, mười phương kiến lập sau trước không gián đoạn, ở ngoài thế giới Ta-bà, đã có những thế giới trước sau nối tiếp trụ ở đó. Ta cũng biết, thế giới Ta-bà là chỗ dựa, cho ánh sáng báu cháy rực chiếu khắp mười phương các cõi mà ở đó hết thảy thế giới được thâu tóm lại, trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng biết, Đức Phật Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na trụ tại biển thế giới Hoa tạng trang nghiêm, thuộc đủ loại vô lượng thế giới trong mười phương, đã được thâu tóm lại, trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng biết, trong biển thế giới Hoa tạng, có cực vi trần số những thế giới ở trong tâm nó, trước sau nối tiếp nhau. Ta cũng còn biết, tất cả thế giới đó, có đủ sự định đặt thi hành, có đủ các hình trạng, có đủ sự phân biệt lượng số, có đủ các giới hạn, có đủ các chỗ để nương tựa, có đủ các bến bờ, có đủ các trang nghiêm, có đủ các thành tựu, có đủ các hoại diệt; ở trong đó còn có quyến thuộc, có những cỗ xe, có sự quay trở lại, có những hoa sen, có Tu-di, có sông biển, có cỏ cây và còn có đủ các danh hiệu khác nữa, ta cũng đều biết rõ. Ta cũng biết trong biển thế giới Hoa tạng thuở xa xưa có được là do sức bản nguyện của Như Lai Tỳ-lôgiá-na; ngài xuất sinh đủ các thế giới như vậy mà trong đó có đủ các biển nhân duyên. Ta cũng biết bên ngoài biển thế giới Hoa tạng, có vô biên, vô tận thế giới, cảnh giới hư không khắp mười phương; có tất cả thế giới trong hết thảy biển thế giới. Ta cũng biết Đức Thế Tôn Tỳlô-giá-na; trong quá khứ đã đi qua vô lượng biển kiếp, đã có tất cả biển các bản sự; trong quá khứ cũng đã phát khởi biển nguyện rộng lớn; trong quá khứ cũng đã tập họp các biển thừa giáo; trong quá khứ cũng đã tu hành biển hạnh Bồ-tát; trong quá khứ, cũng đã làm thanh tịnh biển các cõi Phật; trong quá khứ cũng đã làm hết các biển sự việc của chư Phật, trong quá khứ cũng đã giáo hóa biển chúng sinh; trong quá khứ cũng đã phát khởi biển thần thông; trong quá khứ cũng đã nhập vào biển các phương tiện; trong quá khứ cũng đã thọ nhận biển pháp của chư Phật; trong quá khứ cũng đã cũng đã nhập vào biển các Tam-muội; trong quá khứ cũng đã chứng đắc biển tự tại, trong quá khứ cũng đã thành tựu các biển công đức, trong quá khứ cũng đã đem tất cả vật dụng mà thực hành Bố thí ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã tu trì các phạm hạnh, để thực hành Giới ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã thọ nhận nhiều cảnh giới, để thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã tu tập sự dũng mãnh tráng kiện, để thực hành Tinh tấn ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã vào các Tam-muội để thực hành Thiền định ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã thành tựu đủ các thanh tịnh, để thực hành Trí tuệ ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã thị hiện những ảnh tượng của thân, nhập khắp thế gian, để thực hành Phương tiện ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã phát khởi biển hạnh thanh tịnh viên mãn của Phổ Hiền, để thực hành Nguyện ba-la-mật; trong quá khứ cũng đã đạt được biển các thần thông, với đủ những tự tại của hết thảy các Như Lai để thực hành Lực ba-la-mật, trong quá khứ cũng đã chứng được biển trí tự tại, với ánh sáng trí chiếu khắp thế gian, của tất cả các Như Lai, để thực hành Trí ba-la-mật. Ngài thâu tóm khắp tất cả Phật Bồ-đề; thâu hoạch khắp các ánh sáng đại trí của chư Phật; chứng được tánh Nhất thiết trí Phật, đối với tất cả các nơi, thành Chánh đẳng Chánh giác, dùng thần thông dạo chơi vui vẻ, chuyển bánh xe chánh pháp, có được nhiều đạo tràng chúng hội. Ở trong những đạo tràng ấy, tất cả Bồ-tát, trong quá khứ; đều đã trông nhiều căn lành, từ lúc mới phát tâm tu hành hạnh Bồ-tát; đều đã chứa nhóm những phương tiện, làm cho chúng sinh thành thục và cũng thực hành đủ các sự việc của chư Phật, của bậc Thiện tri thức; trong mỗi niệm đều tăng trưởng, đạt được Tam-muội; trong từng niệm từng niệm cũng nhập được môn Đàla-ni; trong từng niệm cũng đạt được biển lớn biện tài, trong mỗi niệm cũng phát khởi thần thông tự tại, trong mỗi niệm cũng tu hành lưới hạnh Bồ-tát, trong mỗi niệm cũng tập họp được các môn phương tiện, trong mỗi niệm cũng biết được lưới căn của chúng sinh, trong mỗi niệm cũng tập họp được các pháp Bồ-đề phần, trong mỗi niệm cũng chứng nhập được biển pháp môn thần thông Đẳng trì đẳng chí… tất cả những việc như vậy, đều từ biển tu hành của Như Lai Tỳ-lô-giá-na, đã biến khắp trong hết thảy biển pháp giới mười phương vô lượng kiếp, hết thảy ta đều hiểu rõ. Ta cũng biết, sự tu hành trong biển kiếp của hết thảy các Như Lai, đầy khắp trong pháp giới mười phương, đến tận cảnh giới hư không, cho đến tận cùng kiếp vị lai. Những sức oai thần, những lực gia trì, những cảnh giới của trí huyễn, tất cả ta đều biết rõ. Vì sao? Vì khi ta nhập vào môn giải thoát biển cảnh giới, quán hết thảy Tam-muội của Bồ-tát; thì trong mỗi niệm, ta có thể biết rõ hết, đủ loại tâm hạnh của tất cả chúng sinh, lẫn lộn, chìm đắm, thanh tịnh, lưu chuyển, qua lại rồi mất; tất cả những âm thanh được nghe từ những Tam-muội; tất cả những thần thông, Tam-muội, giải thoát, vắng lặng của Độc giác, tất cả những Tam-muội của Bồ-tát; đủ các địa vị, đủ các pháp môn, đủ các nẻo vào và biển thần thông giải thoát ánh sáng của tất cả Như Lai… hết thảy ta đều biết rõ.

********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thưa với Thích nữ Cù-ba:

–Bạch Thánh giả! Thánh giả đạt được môn giải thoát này bao lâu rồi?

Cù-ba bảo:

–Này thiện nam! Ở thế giới trải qua số kiếp nhiều như số cực vi trần nơi trăm cõi Phật, có kiếp tên là Tối thắng hạnh, thế giới tên Thắng vô úy. Trong thế giới ấy, có bốn đại châu, tên là Thường cụ chúng lạc diêm-phù-đề; ở đó có thành phố lớn tên là Đại thọ diệu cao cát tường, là thành phố đứng đầu trong tám mươi bốn ngàn ức thành phố lớn khác. Thời bấy giờ, thành phố này lại có tám mươi bốn ngàn ức thành ấp làm quyến thuộc; trong các thành ấp ấy, tất cả đều được trang trí nghiêm túc, đều rất thanh tịnh; trên mặt đất trải đầy ngọc báu lưu ly; bao bọc chung quanh các bức tường là bảy lớp châu báu; ở trên được che phủ bằng lưới báu, có ánh sáng, hình ảnh, màu sắc lẫn vào nhau; dọc tường báu, có hào báu bao bọc chung quanh, dưới đáy toàn cát vàng, nước thơm tràn đầy; hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi đầy khắp nơi mặt nước; ở mỗi con sông tự nhiên có rất nhiều lan can báu và các lưới báu trang nghiêm ở hai bên bờ; khoảng giữa mỗi con sông lại có cây Đa-la báu, bảy lớp vây quanh, lại có các cây báu trang nghiêm tự nhiên, có các báu Anh lạc rũ xuống, vải lụa mịn treo khắp, lưới báu bằng vàng ròng, phủ đầy bên trên. Những thành ấp ấy là nơi nhiều người qua lại, có những con đường rộng tới tám bước chân, dùng đủ các loại báu đẹp nhất để trang nghiêm đan xen ở khoảng giữa, phát ra ánh sáng, soi tỏ khắp nơi; lại có vô lượng các Tiên, cầm giữ những minh chú, thân tướng đoan nghiêm thanh khiết, giống như trời Tự tại, tuần hành khắp nơi để bảo vệ chúng sinh. Ở khắp nơi đều có vô lượng các vườn, các hoa viên làm chỗ giải trí, hoa quả trong các rừng cây luôn có đầy đủ; có nhiều loại chim cùng nhau cất tiếng hót vang, bay về tập hợp ở đó, vui đùa không sợ gì cả. Lại có rất nhiều những nam nữ, thanh tịnh, đẹp đẽ và đáng yêu, tới lui nơi những hoa viên ấy; thân họ toát ra hương thơm dịu xông khắp mọi nơi. Chư Thiên ngày đêm thường làm mưa các loại hoa đẹp đủ trăm ngàn màu sắc, rực rỡ tung rải ngổn ngang. Ở thành ấp đó, nơi nơi đều có trăm ngàn Thần đất làm nhiệm vụ bảo vệ. Những gì có nơi trong ngoài thành ấp ấy như rừng cây có nhiều báu anh lạc, treo rũ xuống, các lưới báu kết những chuông nhỏ, tất cả đều rất trang nghiêm, chỉ cần ngọn gió nhẹ thổi qua, sẽ xuất hiện đủ các loại âm thanh pháp diệu, nếu được nghe thì sinh tâm vui thích; phiền não tiêu trừ, thân ý sạch trong, pháp hỷ tràn đầy; đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được không thoái chuyển, tất cả những hạnh nguyện Phổ hiền, thường được khen ngợi là công đức vi diệu. Bấy giờ, có vua tên Vi Tài Chủ thường dùng chánh pháp để giáo hóa, điều phục, thống lĩnh cả đất nước; có tám vạn bốn ngàn phi tần thể nữ, có hơn năm trăm quan phụ tướng đại thần giúp việc; năm trăm người con của vua, sức lực, sắc tướng đầy đủ, hình trạng đoan nghiêm, dũng mãnh không biết sợ, có khả năng hàng phục giặc thù. Vua có phu nhân tên Liên Hoa Cát Tường Tạng đức hạnh hơn người, dung mạo bậc nhất, sinh được thái tử tên là Oai Đức Chủ uy nghiêm chánh trực, đặc biệt khác thường, ai thấy cũng đều vui, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, đó là:

 

Dưới bàn chân bằng phẳng đầy đặn giống như đáy chiếc hộp.
Có ngàn nét vẽ giống hình bánh xe đầy ở bàn chân.
Chân tay mềm dịu giống như hoa dương liễu.
Trong các kẽ tay kẽ chân da mịn màng giống lụa làm thành lưới.
Gót chân tròn đều.
Mu bàn chân nổi cao đều đặn, tất cả thân đều tương xứng sáng trong, sạch, đẹp.
Hai bắp chân tròn đầy như Tiên lộc vương.
Cánh tay dài xuống quá đầu gối, giống vòi voi.
Năm căn ẩn kính.
Những lỗ chân lông đều toát ra màu xanh.
Các lông trên mình đều uốn về bên phải.
Xoắn hoa văn đều đặn.
Thân thể màu vàng trơn mịn sáng chói không chút bụi nhơ, ai cũng có thể soi mình trên đó.
Lòng hai bàn chân, lòng hai bàn tay, hai vai và đỉnh đầu, bảy nhỗ ấy đều đầy đặn.
Hai vai tròn trịa cân xứng, xương không lộ ra.
Thân thể cân xứng như cây Ni-câu-đà.
Cằm, má, ngực và ức giống như sư tử.
Cổ có ba ngấn đầy đặn màu xanh sẫm ánh đỏ.
Chung quanh thân thường có ánh sáng tỏa ra một tầm tám thước.
Có bốn mươi cái răng.
Răng trắng trong, đều nhau và khít khao.
Lưỡi đỏ hồng, rộng dài phủ mặt.
Giọng nói âm vang như Phạm thiên, người nào được nghe đều cảm thấy tươi vui.
Mắt xanh biếc, tề chỉnh không loạn, trên dưới nhìn không chớp.
Lông mi giống như Ngưu vương, xanh trắng rõ ràng.
Khuôn mặt tròn đầy giống như Tịnh nguyệt.
Lông mi uốn khúc như cây cung Đế Thích.
Lông trắng sáng trong xoắn hết về bên phải.
Trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao, giống như lọng trời…
Các tướng tốt này làm cho thân tướng thêm trang nghiêm.

Thiện nam! Lúc này thái tử được vua cha dạy dỗ, có hai mươi ngàn thể nữ làm con hầu, tất cả đều là quyến thuộc, sau trước vây quanh, từ cung điện đi ra khỏi thành; đến thẳng vườn Quang minh vân phong đại hương nha; để dạo chơi, xem cảnh và vui đùa thái tử đi trên chiếc xe báu làm bằng gỗ Diêm-phù-đàn tốt nhất; xe được trang trí oai ngiêm, thế gian không gì sánh bằng. Bánh xe làm bằng kim cương đại diệm; bầu giữa bánh xe làm bằng kim cương thiên diệu, trong hòm xe có nhiều hương báu ma-ni; gỗ chiên-đàn tốt đẹp nhất trang sức các chỗ ngồi; rất nhiều lưới hoa báu phủ đầy ở trên tòa Sư tử được trang nghiêm lộng lẫy bằng báu chúa ma-ni, năm trăm thể nữ, mỗi người đều cầm dây báu kết liền trục xe, làm cho nó di chuyển, không chậm cũng không nhanh, tất cả cùng nhau đi tới. Ngựa tốt ngàn con hộ giá xe vua, sau trước cùng đi. Các lọng được làm bằng ngọc lưu ly trắng, ngọc báu chúa ma-ni. Chính vì trang sức bằng ngọc ma-ni bảo vương mà lọng phóng ra bất tư nghì những màu sắc có ánh sáng trang nghiêm hiếm có; ngọc lưu ly xanh biếc, ngọc báu đẹp ma-ni và đủ các loại hình góp phần tạo thành những cái cán lọng, khiến cho người cầm giữ nó, dễ dàng đưa lên cao để che phủ; trăm ngàn vạn người cầm giữ các lọng báu đó; trăm ngàn vạn người cầm giữ các cờ báu; trăm ngàn vạn người cầm giữ các phướn báu; trăm ngàn vạn người hòa tấu âm nhạc; trăm ngàn vạn người tung hoa báu; trăm ngàn vạn người cầm các lư hương, đốt đủ các loại hương; vây quanh sau trước, tuần tự mà đi. Đường đi bằng phẳng, rộng rãi; có tám ngã tư thông thương, sắp xếp ngay ngắn; dùng những tạp báu làm ranh giới; cát vàng rải khắp, có đủ loại hoa báu được tung lên cao để cúng dường; có những hàng cây báu đủ loại lẫn lộn và những lan can báu. Ở khoảng không gian của tám ngã tư, các lưới chuông đẹp, đủ loại, được sắp xếp ngang dọc, có thứ lớp, rũ xuống, các dải lụa và tơ năm sắc treo lơ lửng khoảng giữa các cây; tất cả được trang hoàng hết sức rực rỡ. Bên đường đi, chỗ nào cũng có các nhà nghĩa, các trạm phước, nhiều lầu gác báu, nhiều kho chứa lớn, lần lượt nối tiếp nhau, đây đó chứa đầy; những trân châu, ngọc quý, của cải, vật dụng, tất cả thật là đầy đủ. Những châu báu anh lạc dùng để trang trí được tích chứa ở đó, hoặc trữ những tơ lụa năm sắc tốt đẹp nhất dùng để may mặc, hoặc có đủ các món ngon thượng hạng dùng cho việc ăn uống, hoặc các thứ hương hoa, vật dụng tư riêng dùng cho thân thể; hoặc gia súc, voi, ngựa đủ loại chất đầy trong các xe báu; có những người nữ đoan trang, cùng các đầy tớ nhỏ, được phân công trông coi, họ đã khéo làm quen được những phép tắc, những lễ nghĩa ở thế gian, họ rất thành thạo những việc làm được giao; các chúng sinh, nếu có đến cầu xin, thì tùy nghi mà cho, miễn sao ý nguyện của họ được thỏa mãn.

Bấy giờ, ở trong đô thành Đại thọ diệu cao cát tường, có một bà mẹ tên là Thiện Hiện, bà có người con gái nhỏ, tên là Cụ Túc Diễm Cát Tường; tâm nguyện chánh trực, bao dung; sắc tướng trang ngiêm, thanh khiết, còn nhỏ nhưng làm được nhiều việc, biết tu sửa điểm yếu để làm việc cứu giúp, tất cả như có sẵn đầy đủ trong cô. Mắt và tóc một màu xanh biếc, lời nói giống như Đức Phạm thiên, sạch trong, dịu dàng, tốt đẹp, trí tuệ sáng suốt, được nhiều người tôn trọng; giỏi khéo nhiều ngành nghề, tinh thông tranh luận, cung kính chuyên cần, không biết biếng lười; bản chất ngay thẳng, hòa nhã; ít ham muốn, suy nghĩ thì nhún nhường, hiền từ thương người, không hại ai bao giờ; đầy đủ tánh hổ thẹn, không dua nịnh, không kiêu ngạo; ý chí sâu dầy, rộng lớn, không ai sánh bằng; cô cùng với mẹ đi trên chiếc xe báu đẹp, dẫn theo các quyến thuộc và vô lượng các thể nữ, sau trước vây quanh, cùng nhau ra khỏi đô thành, để dạo chơi, ca vịnh; cứ theo con đường mà đi tới, phía trước là đoàn của thái tử. Khi đã gặp thái tử, cô tấu lên nhiều kiểu nhạc, cao giọng mô tả bằng những ngôn từ, tỏ bày tâm ưa thích, nên thưa với mẹ:

–Lành thay! Thưa mẹ hiền! Tâm nguyện con là được cung kính thờ phụng người ấy, nếu không toại nguyện, con sẽ tự vận.

Lúc này, bà mẹ Thiện Hiện mới bảo cô gái:

–Này con! Con không nên có những suy nghĩ như vậy. Vì sao? Vì bậc Nhân giả ấy là thái tử con vua; có đầy đủ tướng tốt của Chuyển luân vương, chẳng bao lâu sẽ nối nghiệp cha, kế vị ngôi vua.

Khi ấy, có người nữ báu, bỗng nhiên xuất hiện, từ trên hư không bay đến, có nhiều oai đức, nói với cô gái: “Ta cũng như cô, hiện nay thuộc dòng dõi thấp kém, không thể là duyên phận, chuyện này thật không thể được; chớ nên để tâm đến ”. Nhưng người thiếu nữ này, tâm đã nhất quyết, vững chắc, nhất quyết không bỏ ý định kia.

Bấy giờ, ở bên đường, nơi vườn hoa Hương nha vân phong, có một đạo tràng tên là Pháp vân quang minh, ở đó Như Lai hiệu là Thắng Nhật Thân đã thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được hơn bảy ngày. Còn cô thiếu nữ ấy, vì ngắm cảnh dạo chơi nên quá mỏi mệt nên đã từ từ ngủ thiếp tự lúc nào. Đức Như Lai kia ở trong giấc mộng của cô gái, liền hiện thần thông biến hóa, theo mộng mà hiểu là đời trước, cô gái này làm Thiên sứ, bảo vệ những thân hữu của Bồ-tát. Bèn đứng trong hư không, nói vào giấc mộng của cô thiếu nữ ấy: “Ta là Như Lai Thắng Nhật Thân, nơi vườn hoa Hương nha vân phong ở bên đường, trong Bồ-đề đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã thành tựu Chánh đẳng Chánh giác được bảy ngày, có các chúng Bồ-tát vây quanh trước sau; cùng chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, các vua cõi trời Phạm thiên, trời Tịnh cư họp cùng hết thảy các vị chủ sông, chủ biển, chủ đất, chủ nước, chủ gió, chủ lửa, chủ núi, chủ thành, chủ vườn, chủ dược, chủ rừng, chủ ruộng lúa, chủ phương hướng, chủ không trung, chủ ngày, chủ đêm… tất cả đem thân đến đây làm Thần ở đạo tràng này, cùng các nam nữ quyến thuộc, là muốn được thấy Phật thuyết pháp để lãnh hội, vì vậy họ đều đến tập hợp. Hôm nay, ngươi cũng nên gần gũi để cung kính đảnh lễ”.

Lúc này, cô gái tên Cụ Túc Diễm Cát Tường từ trong mộng, chính mắt trông thấy những thần thông biến hóa của Phật, lại được công đức của Phật gia hộ, khiến tâm không sợ hãi, an ổn và vui thích, dùng tâm đời trước, dựng cảnh ái mộ thái tử cho hiện ra trước mặt, rồi nói kệ rằng:

Thân ta đoan chánh không gì bằng
Trí tuệ, sắc tướng đều viên mãn
Ngôn từ, lễ nghĩa đều thông đạt
Công đức tiếng tăm vang khắp chốn,
Vô lượng chúng sinh ở thế gian
Thấy thân ta, thảy đều thanh đắm
Ta đối với họ luôn trong sạch
Nên chẳng để tâm sinh ái nhiễm,
Tâm ta tất cả không yêu ghét
Cũng lìa ngu si và sân hận
Chỉ có Từ bi và thanh tịnh
Đem lợi ích rốt ráo muôn loài,
Hôm nay lúc ta gặp thái tử
Công đức: Cao tột, tướng: Trang nghiêm
Tâm đại Hỷ chạy khắp toàn thân
Các căn vui vẻ muốn gần gũi
Sắc như ánh sáng báu, tịnh diệu
Lông tóc xanh trong, xoáy bên phải
Mũi cao dài thẳng thêm trang nghiêm
Trán rộng bằng phẳng, mi nhỏ khúc
Thân như vàng ròng, báu đẹp tụ
Tướng tốt soi sáng không gì bằng
Mắt sáng rộng dài tợ sen xanh
Răng trắng, khít đều, như ngọc, tuyết
Mặt tròn như trăng, má sư tử
Môi miệng một màu như đá đỏ
Chỉ để nói lời chánh pháp thôi
Nguyện Đấng Tối Thắng, thương nhận ta
Tướng lưỡi rộng dài và mềm dịu
Màu đồng đỏ, chiếu ánh sáng báu
Tiếng như trời Phạm vang Ca thần
Chúng sinh nghe được đều vui thích
Hoặc nói cười lời lẽ đẹp thanh
Oai quang che chúng đức khó lường
Diện mạo đẹp vui tự trang nghiêm
Đều khiến người nhìn, không chán đủ
Tâm không nhiễm cấu, thân trong sạch
Sự trang nghiêm ba hai tướng ấy
Sẽ là Luân vương thế giới này
Cúi xin rủ tâm Từ thọ nhận.

Bấy giờ, Thái tử Oai Đức Chủ, vì đối với sự có mặt của người nữ ở thế gian tạo nhiều lỗi lầm; gây chướng ngại cho sự an lạc của thế gian và xuất thế gian, cho đến có thể làm cản trở đạo Vô thượng Bồđề; nên ở giữa chúng hội, liền vì người nữ trẻ mà nói kệ rằng: Thế gian vọng chấp các họ tộc

Yêu kính vui thích, chỉ nữ nhân
Những bậc Tối thắng, không so sánh
Có thể chỉ là chỗ bạn lành
Báu của người nữ là thứ nhất
Cũng là nhân giải thoát trời người
Kế tục giống loài thân công đức
Trí thế, nói rằng nữ trên hết
Tất cả phiền não làm khổ tâm
Bao nhiêu oan trái thúc ép thân
Vợ yên sẽ khiến được sạch trong
Vì như nắng hạn gặp mưa lành
Tâm phàm phu đắm những bực, lo
Như gặp bệnh nặng thêm ràng buộc
Nhún mình dua nịnh lấy làm vui
Dối cho trừ lo, thuốc tốt nhất
Chúng sinh tà kiến, đều nghĩ vậy!
Người nữ đúng là nhân thế gian
Sinh thành, trưởng, dục: Phước trang nghiêm
Trời đất đổi thay không hơn được
Nghiệp thế khổ nhọc chỉ do nữ
Khuyên chồng làm khắp các việc lành
Khiến các con chuyển ý làm theo
Là nữ không nhiễm tâm người khác
Kẻ trí cho đó là phiền não
Tất cả nghiệp tội do nữ sinh
Tộc họ thấp hèn mà làm vợ
Không qua nổi lời ác thế gian!
Tánh nữ nhân hay chấp điều xấu
Vững vàng như đất khó thể dời
Chỉ theo phú quý và vinh lạc
Nghèo hèn suy kém đều từ bỏ.
Tiên oai đức lớn, có năm thông
Thần thông thoái mất do người nữ
Tự tại tùy ý giẫm lên đầu
Vương nữ có thể chuyển vắng lặng
Diễm ma làm vua chết vì gió
Cũng như ốc tiêu nơi đáy biển
Lửa cháy đen, rắn, đao: Độc dược
Nữ nhân làm hại hơn như thế
Kính tâm cấp đủ của cải báu
Ngay thẳng phụng thờ không trái ý
Trí tuệ có lúc cũng cứng mềm
Những không thể biết tâm người nữ
Thấy họ khóc cười chẳng biết đâu.
Tâm dẫn dụ đủ trò huyễn ảo
Làm dáng mê hoặc đấng nam nhi
Tâm chứa bướng, không thèm biết đến
Không có mà nói là chân thật
Rất thật lại nói là hư vọng
Thường như thú dữ hại chúng sinh
Chao ôi! Trượng phu chẳng ở cùng
Lâu ngày gặp việc thêm kiêu mạn
Trái duyên tạm gặp ác vẫn tăng
Hết thảy thời gian ra hoặc ở
Lấn hiếp với chồng chẳng hổ thẹn
Như lửa đốt củi, sao cho đủ
Như biển gom sông, khi nào đầy
Diễm ma không chán giết chúng sinh
Tâm người nữ muốn nam cũng vậy.
Người nữ không xét xem dòng họ
Lớn, nhỏ, sang, hèn và đẹp xấu
Chỉ đeo đuổi cầu hết thảy nam
Dục tình phóng túng không mỏi chán
Người nữ chí dục không sao đủ
Không ít lần từng do tâm chồng
Như trâu hoang đi về tự tại
Như cỏ mới, cứ thế mà ăn.
Tuổi trẻ sắc thịnh, tâm luôn đổi
Sang giàu tùy chồng phó thác cho
Dư thừa thì ăn sung mặc sướng
Thường nguyện khổ nghèo tùy tự ý
Những việc cúng dường đều đủ cả
Xoa hương tắm gội, thật trang nghiêm
Chưa từng hổ thẹn, ân trượng phu
Nghĩ tà, ý thả, tâm không dứt
Hoặc nhiễm lời yêu, lời xót thương
Đầu lưỡi phát sinh toàn cam lộ
Trong tâm độc hại, ác càng nhiều
Lời người nữ vì thế khó tin
Người nữ xen vào dòng họ chồng
Tạm làm đẹp lòng khi cùng ở
Cha mẹ anh em rất oán giận
Tất cả bên chồng đều lìa bỏ
Đẹp mặt bên ngoài, tâm xu nịnh
Hết thảy sai lầm chứa đầy bụng
Không nên xét xem trong chốc lát
Huống chi lời ác lại thấm lâu.
Người nữ đối với hết mọi nơi
Đề phòng tai họa và nghi ngờ
Một khiếm khuyết cũng bị xem nhẹ
Thương phong bại tục, vứt bỏ khắp
Người nữ tuổi nhỏ và trung niên
Kịp khi đến già, hơn trăm tuổi
Dòng họ nội ngoại đều vinh hiển
Đó là điều người phải phòng lo.
Tại nhà, nữ nhân tùy cha mẹ
Đến thì phải sự lại theo chồng
Chồng chết, theo con khỏi ngờ vực
Do vậy, thường cho mất tự tại
Xuất gia, bỏ dục, tu vắng lặng
Tâm tư nữ cảnh chẳng Thánh hiền
Như áo cấu nhiễm hoa cỏ thơm
Người trí thường cười kẻ lìa thiện
Như tù được tha lại muốn vào
Như gặp kẻ cuồng, phải giữ mạng
Hết bệnh rồi, nhớ bệnh làm gì
Bỏ nghĩ nữ, nữ không còn nữa
Như nước lắng trong, rồng đến ở
Như mãnh thú trốn trong hang sâu
Nữ nhân dẫu tu giới, định, niệm
Bậc trí quán sát cũng như vậy
Trí nhân thà phải nuốt sắt nóng
Không để nữ sắc loạn tâm mình
Giới, định, tuệ biến khắp thành oán
Tư duyên vắng lặng đều vứt bỏ
Nữ nhân không xét nơi thắng tộc
Điềm lành sang giàu vang danh trí
Tuy cầu nhiễm dục, tâm không khác
Làm sao gần gũi người trí sáng
Được trụ các thiền uy lực thêm
Sức mạnh có thể sát Tiên vương
Còn nếu nữ sắc nhiễu tâm mình
Điều phục công đức sẽ thoái mất
Voi ngựa tranh nhau như đánh trận
Mất thân qua biển, báu sao gom
Dòng họ tốt xin làm đầy tớ
Làm điều phi pháp đều do nữ
Khó thấy nữ nhân tình vui, giận
Nhiễm tà tâm trù tính không cùng
Thế gian xưng gọi người có trí
Phải biết được tâm của nữ nhân
Thần tiên, Ngũ thông và Thiên chủ
Đều biết biển lớn nước ít nhiều
Cả đời tính toán chẳng thể rõ
Ý nữ nhân, mỗi người đều khác
Lời nịnh: Ngọt như mật, vui tai
Tâm như gươm bén hại đến người
Khéo làm loạn ý đoạt nhân tâm
Tâm ác, mưu bày là các độc
Nữ nhân có sắc hay không sắc
Đi, đứng, nằm, ngồi đều đáng ngờ
Nữ nhân hiện tà làm ngu trí
Thấy họa hình nữ cũng thêm ghét
Như trẻ ngu thích vịn cành độc
Điên loạn muốn ở hang rắn độc
Kẻ cuồng ôm giữ sắt nóng cháy
Gần gũi sắc nữ quả hơn đấy
Đắm chìm nữ sắc tâm say mê
Với thân, trái ý, giận, độc hại
Lại sợ nữ nhân lúc buồn vui
Người trí làm sao gần gũi được
Người nữ pháp ác đầy ở tâm
Như sông sâu giao long đến ở
Không thấy sức mạnh dòng họ sắc
Tùy tâm ham muốn chẳng phải trái
Tâm nữ như gió lớn bất định
Như phù vân, điện chớp, qua nhanh
Trăm năm sở dục bày ra đủ
Ân trượng phu, niệm nhỏ, chưa từng
Có đức: Bất kính; vô đức: Khinh
Ghét nghèo thích giàu, chết vì tham
Lời đẹp dưỡng kính, tăng cao ngạo
Của cải thiếu thốn, thật vô tâm
Rắn rít, hoa độc, loài sói dữ
Một đời phải chịu đội thương đau
Càng gần nữ sắc càng hơn thế
Thân công đức đời sau luôn hại
Nữ nhân khéo dệt chuyện thị phi
Ly gián sáu thân và bè bạn
Giỏi che lỗi mình, chỉ lỗi người
Tất cả lo toan đều do nữ
Nữ tâm bất định như vượn khỉ
Cho mình lỗi ít, ân mau quên
Chồng ngu kính việc gọi tôn sư
Như tớ, hầu, chủ, tình không trọn
Nữ tánh như sông, nước đầy tràn
Nổi trôi pháp thắng, hoại đa thân
Như dòng chảy xiết, sạt lở bờ
Nữ nhân hại thiện, tội cũng vậy
Lưới dục nữ nhân sâu, chắc, dày
Hiện ra hành động, không cần thẹn
Nói, cười, mừng, cãi, tâm không khác
Giàu sang luôn là những say mê
Nữ nhân nhiễm ái do vọng khởi
Như cây không rễ muốn sống lâu
Sắc tàn, ái dứt trong phút chốc
Tư tình vốn có cũng tiêu tan
Dục ái nữ nhân chỉ khoảnh khắc
Tâm, ngữ, tín nhiễm tà, khó nương
Hoặc khi giữ kỹ hơn châu báu
Hoặc sinh chán bỏ như cỏ hôi
Voi chúa có sức tự nhổ cây
Sắc nổi như mây trắng hư không
Nữ tượng làm tâm voi chúa say
Tất cả tùy người mà điều phục
Bồ-tát lấy pháp thu nữ nhân
Phải thường truyền dạy tâm xa lìa
Những lúc quá lắm nên gần gũi
Như chim gãy cánh chẳmg thể bay
Chí thú nữ nhân thường thấp kém
Như sông chảy đến phá lở bờ
Điều đó sẽ khiến suy pháp thiện
Hủy diệt dòng dõi cũng từ đây
Nữ nhân phô trương lưới dục ái
Là để săn lùng các ngu phu
Chúng sinh đắm dục ở thế gian
Như cá bị câu làm thức ăn
Người trí thấy biết gốc không sạch
Ngày đêm chín lỗ thảy đều nhơ
Như vậy nên chán lìa thân nữ.
Vì sao mà lại sinh tham đắm?
Thân nữ hư huyễn như bọt nước
Lão, bệnh, tử khổ dựa nơi đó
Nhóm chứa đầy nhơ hơn núi cao
Vì sao mà lại sinh tham đắm?
Hết thảy âu lo và khiếp sợ
Đều từ sắc nữ mà sinh ra
Nếu biết xét xem, không tham đắm
Thì giải thoát được lo, sợ hãi
Cho nên người trí đừng quán nữ
Nếu phải quán thì dùng tâm Từ
Tưởng như là mẹ và chị em
Rồi tùy mà nói pháp vô tham
Thân nữ nhân trong ngoài đều rõ
Là chỗ sinh ra đủ loại nhơ
Cớ sao cứ nghĩ cảnh lửa dục
Đốt thiêu lụy các kiếp căn lành!

Lúc ấy Thái tử Diệu Oai Đức Chủ, thuyết xong kệ này, liền nói với Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường:

Người nữ kia, cô là ai? Ai là người đầu tiên cô có quan hệ, tùy thuộc? Vì ai mà bảo vệ? Nếu đã có người hệ thuộc, tất nhiên ta không thể thu nhận cô.

Nói rồi, Thái tử dùng kệ để hỏi:

Thân cô đủ thanh tịnh, công đức
Sắc tướng đoan nghiêm thật tốt đẹp
Ta nay hỏi cô nên đáp thật
Khi xưa cô sinh và ở đâu?
Cha mẹ thân thuộc còn những ai
Hiện nay cô đang ở cùng ai
Nếu đã phó thác cho người khác
Tất nhiên ta không thể thu nhận,
Cô không đem của cải cho người
Cô không vô tâm hại hữu tình
Cô không có hạnh tà nhiễm tâm
Thế cô dựa lời nào để trụ,
Cô không ly gián những bạn bè
Mà miệng nói toàn những lời xấu
Giả dối, vô nghĩa hại chúng sinh
Tham cầu cảnh giới toàn ganh ghét,
Với người, cô không sinh tức giận
Mà đem tà hiểm tự buộc mình
Không nịnh hão, dối lừa thế gian
Có tạo tướng, tránh xa nghiệp nặng?
Có tôn trọng mẹ cha, sư trưởng
Có cung kính hết thảy bạn lành
Thấy người khốn khổ và nghèo nàn
Có khởi tâm Từ làm lợi ích?
Nếu có hết thảy Thiện tri thức
Chỉ dạy cho cô pháp chân thật
Nên dùng tâm vững chắc tin vui
Cung kính chuyên cần tu cúng dường,
Cô nên yên vui nơi chư Phật
Và tôn trọng các vị Bồ-tát
Phật pháp hơn hết, tăng công đức
Hết thảy phải sinh tâm cung kính,
Cô có muốn an trụ chánh pháp
Và muốn xa lìa phi pháp không
Tán dương công đức biển vô biên
Có sinh yêu thích, tôn trọng không?
Cô thấy kẻ khổ không chỗ dựa
Có khởi tâm lành cứu giúp không
Cô thấy chúng sinh trong đường ác
Có sinh lòng thương rộng lớn không?
Với kẻ có sự nghiệp vẻ vang
Thật sự có sinh mừng vui không
Với những hiếp đáp trong chúng sinh
Có trụ tâm bình đẳng bỏ không?
Ngươi có vì chúng sinh ngu tối
Cầu Bồ-đề, khai ngộ phải không
Vô biên biển kiếp tu các hạnh
Thân tâm có khởi mỏi mệt không?

Thái tử hỏi như vậy rồi; bấy giờ, bà mẹ là Thiện Hiện, liền đến trước Thái tử, tự mình trình bày:

–Đồng nữ này từ lúc mới sinh ra, đến khi trưởng thành, đã có những tướng lành công đức.

Rồi bà nói kệ rằng:

Nay nhân Thái tử khéo muốn nghe
Đã hỏi con tôi những nhân duyên
Từ lúc mới sinh đến trưởng thành
Đủ đức trang nghiêm; tôi nói đây:
Năm xưa, ngày thái tử ra đời
Con tôi cũng sinh từ hoa sen
Các căn thanh tịnh, tướng viên minh
Thân sắc trang nghiêm và đầy đủ.
Mùa Xuân, ta đi dạo xem cảnh
Vào vườn Sa-la, đẹp nhất kia
Thấy các hoa cây cỏ mới sinh
Trăm chồi cây thuốc đều tươi tốt
Có cây lạ nở hoa nhiều sắc
Phát ánh sáng như mây năm màu
Ong bay đến, chim cùng nhau hót
Nghe được, hết lo, tâm vui sướng
Tám trăm thể nữ cùng đi dạo
Dung nghi đoan chánh, chiếm tâm người
Ăn mặc, đẹp, quý phái, trang nghiêm
Bàn bạc vịnh ca thật tuyệt diệu
Vườn có ao tắm, trang hoàng báu
Tên là Chủng chủng liên hoa tràng
Ta cùng thể nữ đến bên ao
Trải hoa đầy đất làm nhiều tòa
Mùi thơm thanh tịnh ở trong ao
Bỗng sinh hoa sen báu ngàn cánh
Đài hoa bằng vàng Diêm-phù-đàn
Lưu ly là cọng, lá ma-ni
Nhị hoa đầy báu và hương tốt
Tất cả phóng ra ánh sáng lớn
Chúng sinh mà thấy chắc sinh nghi,
Ban đêm sao có mặt trời chiếu
Hết đêm mặt trời bắt đầu mọc
Ánh sáng chiếu đến, nở hoa sen
Hoa phóng ánh sáng, phát diệu âm
Là tướng đồng nữ lúc mới sinh
Khi ta thấy báu của nhân gian
Theo hoa sen ấy mà sinh ra.
Xưa tu tịnh nghiệp đều không thiếu
Hiện nay quả tốt được sáng tròn.
Tóc màu lưu ly, mắt sen xanh
Khuôn mặt đoan nghiêm, ánh sắc vàng
Hoa vòng lọng báu thật trang trọng
Điềm lành trong sạch màu hoa sen
Cơ thể các phần đều đầy đủ
Tướng tốt soi sáng không gì bằng
Ngồi trong hoa báu dáng uy nghiêm
Giống như pho tượng vàng tịnh diệu
Các lỗ chân lông ở khắp thân
Hết thảy tiết mùi hương Chiên-đàn
Trong miệng luôn có mùi sen xanh
Lời nói âm vang như Phạm thiên
Hoặc khi mỉm cười, khi giảng nói
Giống âm thanh tốt của nhạc trời
Đấy là nữ báu hiếm thế gian
Hạng thấp kém chẳng thể nào được!
Ta xem thế gian không có người
Chịu được con tôi, làm chủ nó
Với hàng công đức tướng đoan nghiêm
Nguyện mở tâm thương thu nhận cho
Con tôi không dài cũng không ngắn
Lại cũng không lớn, không nhỏ vụng
Các phần của thân đều trang nghiêm
Các tướng quý báu, không chê xấu
Các tài nghệ có ở thế gian
Phép: Văn, toán, in, pháp công xảo
Ngôn từ, ngâm đọc đều trong, diệu
Mong bậc Nhân tôn thương nhận cho.
Cũng hiểu được hết các phép binh
Kỹ thuật cung kiếm đều thông thạo
Khéo hòa tranh tụng, bằng tâm Từ
Nghe danh, mến đức thảy điều phục
Do kiếp trước thắng hạnh viên mãn
Hết thảy công đức, tự trang nghiêm
Ai thấy cũng mừng vui không chán
Mong bậc Nhân tôn thương nhận cho.
Tất cả những bệnh chúng sinh mang
Biết được nguyên nhân, làm tăng giảm
Tùy bệnh dùng thuốc không lầm lẫn
Khiến cho các khổ đều tiêu diệt.
Hết thảy lời pháp cõi Diêm-phù
Âm thanh chuyển đến vô lượng chủng
Tên, lời nói, cách dạy: Bất đồng
Vậy mà tất cả thông đạt được
Các loại âm nhạc trong thế gian
Ca, múa, kịch, vui chơi, khen vịnh
Ngôn từ, biện luận, vừa tâm người
Khiến ai được thấy đều vui vẻ.
Oai nghi tề chỉnh, có phép tắc
Giữ, bỏ, tới, lui luôn đúng cách
Nhiễm mà không nhiễm các chúng sinh
Nhờ có tâm Từ nên không đắm
Từ từ thấu rõ tâm không loạn
Các căn vắng lặng không khiếm khuyết
Miệng, thân luôn tu hành trí tuệ
Tội lỗi con tôi đều xa lìa
Nó đã tạo được nhiều công đức
Nó quý tất cả sự tu trì
Nên biết, nhân gian nó là báu
Mong mau rủ tâm thương nhận cho
Tâm này không ganh tỵ, keo kiệt
Không ham dục, cũng không tham sân
Tư chất thẳng, nhu; tánh điều hòa
Nói năng dịu ngọt, không hung bạo
Cung kính hết thảy các tôn trưởng
Chuyên cầu công đức, chí không dời
Đối với Phạm hạnh, rất kiên trì
Cúi mong Từ bi thương nhận cho.
Thấy người già, yếu suy, bệnh nặng
Sống khổ nghèo chịu nhiều ách nạn
Không chủ, không bà con nương tựa
Thường phát tâm thành dốc cứu hộ
Không nghĩ riêng mình được yên vui
Mà đem lợi ích chúng sinh mừng
Dùng công đức đó, tâm trang nghiêm
Cuối cùng sẽ được lẽ chân thật
Đi đứng nằm ngồi, không buông thả
Tịch tĩnh, im lời luôn ứng hợp
Chưa từng một niệm bỏ chúng sinh
Làm cho người thấy càng tôn trọng.
Đối với tất cả chỗ chúng sinh
Không khởi tâm phàm phu cấu nhiễm
Thấy người đủ đức và Từ bi
Thường vui, gần gũi không chán đủ
Tôn trọng khắp các Thiện tri thức
Xa lìa hết thảy ác tri thức
Tâm chẳng cạnh tranh, chỉ tu hành
Nghĩ trước mới làm, không lầm lỗi.
Không oán hận với khắp tất cả
Chỉ tu các phước trang nghiêm thân
Trí tuệ nhân gian không gì bằng
Nữ này đáng dâng cho thái tử!

*********

Lúc Thái tử Oai Đức Chủ, đang ở trong khuôn viên của vườn Hương nha vân phong, đến trước chúng hội và bà mẹ Thiện Hiện, hỏi đồng nữ:

–Này thiện nữ! Ta vì cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nguyện đến hết đời vị lai, tu hành hạnh Bồ-tát, tất cả các pháp trợ đạo ta đều gom nhóm, giữ cho thanh tịnh, để tu tập tất cả các Bala-mật; nguyện cúng dường và làm Phật sự cho các chư Phật ở đời vị lai; gìn giữ, họ trì tất cả các giáo pháp của chư Phật, làm trang nghiêm thanh tịnh hết thảy các cõi nước của chư Phật, sẽ nối tiếp chủng tánh của tất cả các Như Lai; nguyện sẽ thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh, sẽ làm cho chúng sinh dứt lìa tất cả những khổ não; sẽ làm cho hết thảy chúng sinh được ở nơi an vui yên ổn, sẽ làm trong sạch tất cả mắt trí của chúng sinh, sẽ tu tập tất cả diệu hạnh của Bồ-tát, sẽ nhập vào thể tánh bình đẳng của Bồ-tát, sẽ trụ nơi tất cả các địa của Bồ-tát, sẽ khiến cho hai thừa được quả Phật viên mãn, sẽ làm cho tất cả chúng sinh được vui mừng. Ta vì muốn Bố thí ba-la-mật được đầy đủ, để rốt ráo thành tựu đạo Vô thượng Bồ-đề, cho nên tất cả tài sản quý báu bên ngoài, cho đến đầu, mắt,… tất cả đều xả bỏ, không chút luyến nhớ… thế mà lúc này đối với ta, cô lại tạo ra những khó khăn chướng ngại; khiến ta thực hành bố thí không được tròn đầy; như khi ta thí của cải, ngươi vì keo kiệt mà tiếc rẻ; khi ta thí nam nữ, tâm cô sẽ buồn bực sinh bệnh; khi ta cắt chân tay cơ thể, tâm cô sẽ giấu kín sự đau đớn; ta mà xa cô để xuất gia, tâm cô sẽ hối hận.

Sau khi đã hỏi xong, thái tử lại vì đồng nữ mà nói kệ rằng:
Ta vì tâm thương xót chúng sinh
Mà phát tâm Bồ-đề rộng lớn
Sẽ ở trong vô lượng ức kiếp
Nhóm chứa cho đầy trí Bồ-đề,
Vô lượng, vô biên kiếp biển lớn
Các nguyện tịnh tu như hư không
Nhập địa, trị chướng để tu hành
Rốt ráo sẽ vào đất Như Lai,
Thề ở ba đời của chư Phật
Quyết học hết thảy Ba-la-mật
Đầy đủ phương tiện để tu trì
Thành tựu đạo Bồ-đề tối thắng,
Mười phương có những cõi cấu uế
Ta sẽ làm cho chúng nghiêm tịnh
Và các khổ nạn trong nẻo ác
Ta sẽ cứu hộ ra khỏi hết
Tất cả chúng sinh nơi biển hữu
Phiền não si mê thường trói buộc
Ta diệt trừ hết, không bỏ sót
Khiến được an trụ đạo Như Lai
Ta sẽ cúng dường tất cả Phật
Ta sẽ tu khắp địa Bồ-tát
Luôn phát tâm Từ bi rộng lớn
Để tham lam, tiếc rẻ không còn
Nếu kẻ ăn xin tụ tập đến
Đừng vì của cải sinh keo kiệt
Tâm ta đem vui cho muôn người
Cô sẽ theo ta không nghịch trái
Lúc đầu ta bố thí kẻ khác
Tâm cô dè dặt sinh lo phiền
Nay ta nói trước cô phải biết
Làm cho tâm vững luôn không động
Ta cắt lìa thân thể, tay chân
Cho đến vợ con cũng không tiếc
Với người xin, cô chớ căm ghét
Nên nghĩ cho kỹ không thoái lui
Vì chúng sinh ham muốn rất nhiều
Trong ngoài có gì đều nên bỏ
Cô nên thuận tâm Bồ-đề ta
Ta cũng sẽ tùy vào ý cô.

Nghe xong, Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường, liền thưa với Thái tử Oai Đức Chủ:

–Lành thay! Bậc trượng phu! Như những gì Nhân giả hỏi: Các hạnh Bồ-tát, việc khó làm cũng có thể làm, phải nhẫn nhịn những việc khó nhẫn nhịn… Tất cả những việc như vậy, tôi đang tùy thuận, chuyên cần tu tập tinh tấn; gần gũi không bỏ, như hình với bóng; khiến cho thệ nguyện của Nhân giả đều được thành tựu viên mãn.

Nói rồi, đồng nữ hướng về thái tử nói kệ rằng:

Ví thử vô lượng, vô biên kiếp
Hết thảy lửa địa ngục đốt thân
Nhân tôn nếu đã thương nhận tôi
Cam tâm thọ lãnh không từ khổ,
Ví thử thọ sinh vô lượng xứ
Thân phải nhỏ vụn như vi trần
Nhân tôn nếu đã thương nhận tôi
Vững tâm, nhẫn thọ, không dao động,
Ví thử vô lượng, vô biên kiếp
Đầu đội hết thảy núi kim cương
Nhân tôn nếu đã thương nhận tôi
Cam tâm thọ lãnh không chán mỏi,
Đối với sinh tử các biển kiếp
Dùng nhục thân tôi, cho chúng sinh
Nếu được an cư nhà vương pháp
Tôi nguyện sẽ giúp đỡ mọi người,
Cúi xin thái tử rủ lòng thương
Vì người cho tôi cùng tu hành
Được sinh biển kiếp hành bố thí
Được đem thân này cho khắp cả,
Nếu được lo nghĩ cho chúng sinh
Sẽ phát tâm Bồ-đề rộng lớn
Thu nhận hết thảy các chúng sinh
Xin nguyện Từ bi thu nhận tôi,
Tâm tôi vốn không cầu giàu có
Cũng không tham vui vào năm dục
Chỉ mong cùng tu hành một pháp
Là nguyên do tôi nguyện vì người
Mắt Từ bi rộng tu xanh biếc
Thấy khắp hết thảy các chúng sinh
Không khởi tâm phàm phu nhiễm ô
Tất thành vắng lặng Bồ-đề quả
Thái tử đã từng đến nơi đây
Thần đất vụt hiện hoa sen báu
Tướng đẹp sáng soi thật trang nghiêm
Sẽ làm Luân vương thâu nhận tôi
Tôi ở trong mộng thấy hội này
Bồ-đề tràng Pháp vân quang chiếu
Thành Chánh giác Phật, phóng hào quang
Vô lượng Bồ-tát cùng vây quanh
Mộng đó: Như Lai Thắng Nhật Thân
Rực rỡ sáng như núi Tứ kim
Liền dùng tay xoa đỉnh đầu tôi
Thức dậy tâm vui mừng hớn hở
Trong không trung có trời Hỷ quang
Đời trước cùng tôi đi đến hội
Phát lời nói dịu đến bảo tôi
Rằng Như Lai ấy đang xuất thế
Do xưa tôi đã sinh ý nghĩ
Nguyện thấy thân công đức thái tử
Trời ấy bảo tôi nói như vậy
Nên nay ngài có cuộc gặp này
Ân Phật gia trì, nay được gặp
Chí nguyện thuở xưa đã vẹn toàn
Mong cùng nhau đến chỗ Như Lai
Đồng tâm cùng học đạo Bồ-đề.
Bấy giờ, thái tử vừa nghe danh hiệu Như Lai Thắng Nhật Thân, liền nhanh chóng chứng đắc tâm thanh tịnh, gọi là Kiến Phật Sai Biệt Vô Chướng Ngại Đại Hoan Hỷ, tức thời dùng năm trăm hoa báu ma-ni được tung lên trên người đồng nữ, làm thành mão báu Cát tường tạng ma-ni để che tóc, áo choàng ngoài làm bằng báu Hỏa diệm ma-ni với đủ màu sắc xen lẫn. Bấy giờ, đồng nữ suy nghĩ chân chánh, tâm ngay thẳng, không hề dao động, cũng không hiện tướng vui mừng, chỉ một lòng, chắp tay chiêm ngưỡng thái tử, chánh niệm hiện tiền, mắt không hề chớp.

Lúc này, bà mẹ Thiện Hiện, cũng hướng về Thái tử mà nói kệ rằng:

Con tôi: Báu hiếm trong nhân gian
Thân tướng trang nghiêm phước tịnh diệu Tâm xưa đã nguyện thề nhân tôn
Tất cả chí vui nay đã thành
Tịnh, giới, giữ vững, không hề khuyết
Trí tuệ tròn đầy, niệm không giảm
Đầy đủ công đức tướng viên minh
Tất cả nữ nhân không sánh nổi
Con tôi vốn sinh từ hoa sen
Dòng họ sạch trong không xấu kém
Lầm lỗi, con tôi đều lìa hẳn
Chịu theo thái tử cùng tu hành
Thân nó nhỏ đẹp như hoa tơ
Tay chân mềm, như hoa dương liễu
Nếu được tiếp xúc bệnh sẽ hết
Thâm tâm an vui, không còn khổ
Hương tỏa từ các lỗ chân lông
Thơm ngát thế gian không gì hơn
Nếu được ngửi qua, tâm lìa nhiễm
Trụ ở tịnh giới, được yên thân
Thân như sắc vàng ròng trong đẹp
Bụi trần không dính, giống hoa sen
Chúng sinh được thấy, lìa tham giận
Đầ đủ Từ bi khỏi gây hại
Nói năng hòa hợp, tiếng dịu dàng
Tất cả chúng sinh rất thích nghe
Sửa tâm, nghe kỹ, đẹp các căn
Tiêu trừ nghiệp ác, diệt phiền não
Trong tâm trong sạch không vết nhơ
Bản chất hiền, tánh thẳng không lệch
Lời nói đẹp lòng, không trái lẽ
Nghe rồi vui vẻ điều phục tâm
Đầy đủ hổ thẹn, không dối lừa
Không kiêu, không nịnh, luôn
Từ bi Vì cứu chúng sinh, cầu chánh pháp
Kính cẩn ban lành, không biết chán
Không vì sắc tướng và dòng họ
Cho đến lạc vinh, chẳng mê say
Cung kính khiêm nhường, tâm vô ngã
Chuyên cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thái tử Oai Đức Chủ, cùng Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường và hai vạn thể nữ hợp cùng quyến thuộc, muốn được gần gũi để cung kính cúng dường Đức Như Lai Thắng Nhật Thân, nên dùng các cỗ xe báu, đi ra khỏi vườn Hương nha tiến thẳng tới đạo tràng Pháp vân quang minh. Đến nơi xuống xe, đi bộ tiến tới chỗ Đức Phật được thấy thân tướng đoan nghiêm, vắng lặng; các căn đều đặn, giống như voi chúa, trong ngoài trong sạch, không chút bụi nhơ, như rồng lớn ở ao. Thấy được Phật rồi, ai cũng vui mừng hớn hở, sinh lòng tin thanh tịnh, ái lạc được tăng trưởng, cùng đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh vô số vòng. Thế rồi thái tử cùng đồng nữ kia mỗi người cầm năm trăm hoa sen báu đẹp nhất làm bằng ngọc lớn ma-ni, dâng lên cúng Phật. Phật dùng oai lực thần thông khiến số hoa ấy ở trong hư không, tạo thành màng hoa lớn che khắp tất cả chúng hội của Như Lai.

Lúc này, thái tử lại vì Đức Phật kia, cho xây dựng năm trăm tinh

xá, nhất nhất đều dùng gỗ hương để tạo thành; năm trăm ma-ni và đủ các loại báu xen lẫn, trang hoàng đầy các khoảng không, làm trang nghiêm cả vùng rộng lớn. Khi ấy, Đức Như Lai, biết các căn của thái tử đã thành thục, liền vì thái tử mà diễn giảng kinh Phổ Nhãn Đăng Môn. Nghe xong kinh này, thái tử ở trong các pháp, chứng ngộ được mười biển pháp môn Tam-muội. Đó là môn Tam-muội Xuất hiện ánh sáng biển nguyện của tất cả Như Lai; đó là môn Tam-muội Kho tàng ánh sáng chiếu khắp ba đời; là môn Tam-muội Thấy hết thảy đạo tràng của chư Phật; là môn Tam-muội Chiếu khắp ánh sáng vào tất cả cảnh giới chúng sinh; đó là môn Tam-muội Đèn ánh sáng trí tụ chiếu khắp tất cả thế gian; đó là môn Tam-muội Đèn trí hải chiếu khắp tất cả các căn của chúng sinh; đó là môn Tam-muội Mây ánh sáng cứu hộ tất cả trí chúng sinh; đó là môn Tam-muội Đèn ánh sáng để điều phục thành thục tất cả trí lớn của chúng sinh; đó là môn Tam-muội Trước hết phải biết nghe, giữ tiếng bánh xe pháp đang chuyển của chư Phật; đó là môn Tam-muội Mây biển làm viên mãn hạnh nguyện thanh tịnh của Phổ Hiền. Đã được mười môn Tam-muội ấy rồi, nên ở trong các pháp, thảy đều đạt được Tam-muội sâu xa. Còn Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường, đã nghe pháp rồi, cũng liền được Tam-muội, tên là Nan tồi phục trí hải tạng; đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt không thoái chuyển.

Khi ấy, thái tử và đồng nữ kia, hợp cùng quyến thuộc, sau khi nghe pháp đã thâu đạt được nhiều lợi ích, cùng nhau đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh vô số vòng, rồi tuần tự trở lại cung điện. Về đến cung điện, Thái tử tới thẳng chỗ phụ vương, đến thưa với vua cha rằng:

–Đại vương nên biết! Như Lai Thắng Nhật Thân đã xuất hiện ở đời, ngay trong nước mình, nơi khu vườn Hương nha vân phong ở bên đường, tại Bồ-đề đạo tràng Pháp vân quang minh và đã thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác, cách nay không lâu. Vua Tài Chủ, bất chợt nghe những lời nói ấy, liền hỏi thái tử:

–Ai nói với con những việc như vậy? Là trời hay người?

Thái tử thưa:

–Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường này sẽ nói rõ cho cha.

Sau khi nghe xong, nhà vua vui mừng vô cùng, giống như người nghèo bỗng nhiên được kho báu lớn, bèn suy nghĩ: “Phật là của báu Vô thượng, khó ra đời ở thế gian, khó được gặp, nếu được chiêm ngưỡng, tất sẽ dứt sạch được các phiền não và nghiệp ác, sẽ không đọa vào các nẻo sinh tử. Như Lai xuất hiện ở đời, sẽ là bậc Thầy thuốc, có thể trị các bệnh nặng phiền não của chúng sinh; Như Lai xuất hiện ở đời sẽ là ngọn đèn sáng lớn, có thể phá tan những vô minh đen tối của chúng sinh; Như Lai xuất hiện ở đời, sẽ là vị thầy lớn dẫn đường, có thể dẫn dắt chúng sinh đến ở nơi an ổn Nhất thiết trí.” Nghĩ như vậy rồi, vua liền ban lệnh gióng trống, ra chiếu chỉ cho các tiểu vương, quần thần, quyến thuộc, các dòng họ Sát-đế-lợi, các Bà-lamôn, Trưởng giả, cư sĩ, tất cả dân chúng trong thành ấp, xóm làng đều tập trung đến đây. Rồi vua truyền dạy:

–Các ngươi nên biết! Như Lai đã xuất hiện ở đời, đó là việc hiếm có, khó gặp; ta nay muốn đến để được gần gũi, cung kính đảnh lễ. Khi lệnh đã ban, vua liền bỏ ngai vàng, trao lại cho Thái tử. Hành lễ Quán đỉnh xong, vua cùng với mười ngàn quyến thuộc, đến Bồ-đề đạo tràng, tới thẳng chỗ của Như Lai; đến nơi vua cùng các quyến thuộc đảnh lễ, đi nhiễu trăm ngàn vòng, rồi lui ra ngồi ở một bên.

Bấy giờ, Đức Như Lai mới quán sát khắp chúng hội trong đạo tràng và quán cả đức vua Tài Chủ cùng cả nhóm quyến thuộc; rồi từ trong tướng bạch hào nơi giữa hai chân mày phóng ra ánh sáng lớn gọi là Chiếu hiện nhất thiết chúng sinh tâm đăng; chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, rồi trụ trước tất cả các vị Thế chủ; dùng thần thông biến hóa, hiện ra chẳng thể nghĩ bàn các Phật sự rộng lớn của Như Lai khiến cho các chúng sinh nhận sự giáo hóa ấy, tâm được thanh tịnh.

Đức Như Lai lại dùng sức oai thần tự tại không thể nghĩ bàn, hiện ra đại thân cao lớn vượt ra ngoài tất cả thế gian; dùng âm thanh viên mãn hòa vào khắp tất cả biển ngôn ngữ, rồi vì đại chúng mà thuyết pháp môn Đà-la-ni gọi là Nhập nhất thiết pháp nghĩa ly ế đăng; dùng vô số môn Đà-la-ni nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật làm quyến thuộc. Đức vua nghe xong các pháp môn, tức thời đạt được ánh sáng đại trí của tất cả pháp.

Ở trong chúng hội này, có vô số các Đại Bồ-tát nhiều như số cực vi trần nơi cõi Diêm-phù-đề, đều cùng lúc chứng được pháp môn Đàla-ni Nhập nhất thiết pháp nghĩa ly ế đăng. Sáu mươi na-do-tha chúng sinh, dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát; mười ngàn chúng sinh lìa xa được bụi nhơ phàm trần, đạt được mắt pháp thanh tịnh. Vô lượng chúng sinh phát khởi tâm Vô thượng Bồ-đề.

Lúc này, Như Lai lại dùng sức không thể nghĩ bàn, đến khắp hết thảy thế giới trong mười phương, hiện ra những thần thông biến hóa rộng lớn; dùng pháp của ba thừa để giáo hóa chúng sinh. Đức vua Tài chủ, lúc này được ánh sáng đại pháp chiếu vào tâm, nên liền suy nghĩ: “Hôm nay được hưởng pháp vị công đức sâu xa này, nếu ta ở nhà thì làm sao có thể chứng được; nếu ta nghe theo Phật, xuất gia gần gũi với pháp này, chắc chắn sẽ được thành tựu.” Nghĩ như vậy rồi, liền đến trước Đức Phật mà thưa:

–Hôm nay con nguyện được gần gũi Đức Như Lai, vì đạo, xin được xuất gia.

Phật dạy đức vua:

–Sẽ tùy thuận cho ý ông, ông nên tự định đoạt vậy.

Bấy giờ, vua Tài Chủ cùng với mười ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật, xuất gia học đạo, tinh tấn, chuyên cần tu tập, thời gian không lâu, tất cả đều thọ được pháp môn Nhập nhất thiết pháp nghĩa ly ế đăng Đà-la-ni, cũng đạt được pháp môn Như thượng chư Tammuội, rồi lại được pháp môn mười loại thần thông của Bồ-tát; lại nhập pháp môn Vô biên biện tài của Bồ-tát, lại được thân thanh tịnh vô ngại của Bồ-tát; đến khắp chỗ của Như Lai trong mười phương, được nghe chư Phật chuyển bánh xe pháp vi diệu; tất cả đều được thọ giữ, không có mất mát. Cũng ở chỗ Phật, làm thầy pháp lớn; mở tâm vì chúng sinh, mà diễn nói các pháp; lại dùng sức thần thông, biến khắp cõi mười phương, tùy thuận tâm chúng sinh mà hiện thân. Đối với các thế gian thì làm ngọn đèn sáng lớn, khen ngợi chư Phật xuất hiện ở thế gian; khen ngợi chư Phật tu các hạnh nguyện căn bản; khen ngợi chư Phật về sự thâu gom các công đức; khen ngợi chư Phật sinh các nhân duyên căn bản; khen ngợi chư Phật có sức thần thông tự tại, bảo vệ gìn giữ các giáo pháp của chư Phật.

Trong thời gian ấy, thái tử được thăng chức vào ở nơi chánh cung vua đã mười lăm ngày, ông ngồi trên tòa Sư tử, có thể nữ vây quanh; tự nhiên có bảy báu của Luân vương đem đến.

  1. Xe báu, được gọi là vô ngại hành, đầy đủ bầu và trục xe, có trăm ngàn báu tốt trang nghiêm xe, phát ánh sáng màu vàng của gỗ Diêm-phù chiếu khắp nơi.
  2. Voi báu, tên gọi là Kim cương sơn, oai lực rộng lớn.
  3. Ngựa báu, tên gọi là Tấn tật phong.
  4. Châu báu, tên gọi là Nhật quang tạng vân.
  5. Nữ báu, tên gọi Cụ Túc Diễm Cát Tường.
  6. Làm chủ các quần thần tốt, gọi đó là đại tài.
  7. Làm chủ những binh lính tốt, gọi đó là Bồ-tát Ly Cấu Nhãn.

Bảy báu này bất ngờ hiện ra, đầy đủ và thành tựu của vua Chuyển luân, là chủ của bốn châu, oai đức tự tại, hành động giáo hóa bằng chánh pháp, có thể điều phục hết thảy, làm cho người người đều được vui vẻ sung sướng; vua Chuyển luân có ngàn người con, tất cả đều đoan chánh, mạnh mẽ tráng kiện, oai lực dũng mãnh, không có nhiều oán thù, cảnh giới giáo hóa rất rộng, đến tận ngằn mé của biển lớn, đất đai hiền hòa, đường đi không hiểm trở, yên vui an ổn thanh bình, xa lìa các tai họa. Đức vua có tám vạn bốn ngàn các vương đô nhỏ ở cõi Diêm-phù-đề; ở mỗi vương đô đều có những tăng phòng, số lượng tới năm trăm; ở mỗi tăng phòng, xây trăm lầu gác, mái hiên hình vòng cung, vây quanh bốn bên, rừng cây um tùm; đó là nơi mùa Đông, mùa Hạ đến để an cư, kinh hành. Tất cả trang nghiêm bằng các báu quý, tất cả những vật dụng riêng tư đều được dự trữ đầy đủ. Trong tất cả những sân vườn, nơi chúng Tăng ở, đều dựng những linh miếu của Phật, xây cao và rộng, trang nghiêm đều bằng các vật quý và đẹp; thường thỉnh Như Lai; dùng bất tư nghì hương hoa, cờ, lọng, báu đẹp, lụa tơ và các dụng cụ khác để cúng dường. Đức Như Lai, bấy giờ, sẽ thọ sự thỉnh cầu ấy, dùng sức tự tại, biến thân nhập khắp tất cả đô vương, làm cho vô lượng chúng sinh, trồng những căn lành; vô lượng chúng sinh tâm được trong sạch, vô lượng chúng sinh phát tâm vui mừng, vô lượng chúng sinh tăng trưởng tâm yêu kính, vô lượng chúng sinh nhanh chóng phát khởi ý lớn Bồ-đề, rộng mở đại Bi, làm điều lợi ích cho chúng sinh, giúp họ chuyên cần tu tập tất cả chánh pháp của Phật; rồi tùy sự tu tập đó mà ngộ nhập, hồi hướng đạo Nhất thiết trí của chư Phật; thông tỏ biển pháp sâu xa của chư Phật, vào khắp ba đời mà trí không sai khác, chiếu khắp cảnh giới chúng sinh trong ba đời, biết được sự liên tục trước sau xuất hiện ở đời của chư Phật, được Nhất thiết chủng trí Phật, có phương tiện thiện xảo để điều phục hết thảy chúng sinh, phát khởi hạnh nguyện rộng lớn của Bồ-tát, làm thanh tịnh hết thảy đạo Bồ-tát, an vui trụ ở trí tánh bình đẳng của Bồ-tát, nhập vào biển lớn biện tài vô tận của Phật, chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại của Phật; thân biến hiện khắp đến hết thảy các cõi, đứng trước hết thảy chúng sinh, biết căn tánh chúng sinh muốn được thoát khỏi các biển tâm, rồi tùy thuận mà điều phục cho họ, khiến họ được thành thục.

Bấy giờ, đức Chuyển luân thánh vương Đại Oai Đức Chủ, cùng tất cả vương đô trong thành đó, đếu được thấy Đức Như Lai Thắng Nhật Thân kia, ngài đang dùng sức thần thông lớn, hiện ra chủng chủng bất tư nghì những tự tại rộng lớn để làm điều lợi ích.

Này thiện nam! Ý ông thế nào? Thái tử Đại Oai Đức Chủ, trước lễ quán đỉnh của vua cha, nhận chức vị làm Chuyển luân vương, cúng dường Phật ấy, đâu phải ai khác; mà chính là Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giána Như Lai; phụ vương lúc đó, tên là Tài Chủ, đâu phải ai khác mà nay là Như Lai Bảo Hoa Quang, Đức Phật hiện đang ở phương Đông.

Cách thế giới này cực vi trần số cõi biển, ở bên ngoài, có một biển thế giới tên là Phổ hiện pháp giới hư không ảnh tượng vân; trong cõi biển này, có loại thế giới tên là Phổ hiện tam thế ảnh tượng ma-ni vương, trong loại thế giới đó, có một thế giới tên là Phật viên mãn đăng, trong thế giới này có Bồ-đề đạo tràng, tên là Nhất thiết thế chủ thân ảnh tượng tràng. Đức Như Lai Bảo Hoa Quang đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở đạo tràng này; có vô lượng vô lượng cực vi trần số cõi Phật các Bồ-tát trước sau vây quanh. Ở trong chúng hội, xe chánh pháp đang chuyển, làm cho vô lượng chúng sinh đều được thành thục. Đức Phật ấy, khi xưa còn là vị Bồ-tát, tu tập và làm trang nghiêm biển thế giới này; trong cõi biển này, Đức Phật ấy đi lại, thành Chánh đẳng Chánh giác, cùng xuất hiện ở đời, tất cả đều được hóa độ ở chỗ của Đức Phật Bảo Hoa Quang; từ lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề cho đến khi thành thục rốt ráo.

Này thiện nam! Vợ của Đức vua Tài Chủ, tức là mẹ của Thái tử Đại Oai Đức Chủ, tên là Liên Hoa Cát Tường Tạng, đâu phải ai khác, mà chính là Phật mẫu Ma-da phu nhân; đã được môn giải thoát huyền Trí quang minh vô ngại. Ở trong thân bà, chứa đựng hết thảy chư Phật sẽ ra đời từ quá khứ đến vị lai; nay ở thế giới này, bà hạ sinh Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na Như Lai này. Còn bà Thiện Hiện là mẹ của Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường, đâu phải ai khác, nay là mẹ ta, tức Chấp Trượng Thích Chủng Thiện Mục phu nhân.

Này thiện nam! Còn các quyến thuộc của Chuyển luân thánh vương Đại Oai Đức Chủ, đâu ai xa lạ mà đó là tất cả Bồ-tát đang ở trong chúng hội hôm nay của Đức Thế Tôn; tất cả các Bồ-tát này, đều tu tập đầy đủ các hạnh của Phổ Hiền và đều thành tựu tròn đầy đại nguyện Phổ hiền; mặc dù thường ở tại chúng hội đạo tràng của Phật, nhưng có thể hiện khắp tất cả thế giới, trụ ở các Tam-muội bình đẳng của Bồ-tát, thường được thấy các chư Phật hiện ra, được nghe và thọ trì bánh xe pháp chuyển biển âm thanh vi diệu của tất cả chư Như Lai trong cảnh giới hư không, được trụ ở trí lực tự tại của tất cả các pháp, được nghe xưng tên ở khắp cõi Phật, có thể gần gũi khắp các chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai; tùy các chúng sinh mà ưng thọ giáo hóa, giảng nói chánh pháp, khiến cho họ được thành thục; cho đến tận đời vị lai của hết thảy các biển kiếp, đều tu hành hạnh Bồ-tát, luôn không gián đoạn; thành tựu và viên mãn thệ nguyện rộng lớn của Phổ Hiền.

Này thiện nam! Đồng nữ Cụ Túc Diễm Cát Tường thuở ấy, cùng Chuyển luân thánh vương Oai Đức Chủ cho đến trọn đời đã dùng tứ sự mà cúng dường Đức Như Lai Thắng Nhật Thân, đâu ai xa lạ mà chính là ta. Thiện nam! Đức Phật ấy sau khi diệt, ở thế giới này, lại có Phật xuất hiện, tên là Thanh Tịnh Thân; ta cũng gần gũi cúng dường Đức Phật Thanh Tịnh Thân này, được nghe pháp và thọ trì, rồi cũng vì chúng sinh mà tu hành đạo Bồ-tát. Tiếp đến có Phật xuất hiện, tên là Nhất Thiết Trí Ảnh Tượng Nguyệt Thân, ta cũng gần gũi cúng dường. Tiếp đến có Phật xuất hiện, tên là Diêm-phù-đàn Kim Quang Minh Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Đại Phạm Âm Tướng Trang Nghiêm Thân. Tiếp tục có Phật xuất hiện, tên là Chủng Chủng Diệm Diệu Nguyệt Quang. Tiếp tục có Phật xuất hiện, tên là Diệu Cao Trí Quán Sát Tràng. Tiếp tục có Phật xuất hiện, tên là Quảng Đại Trí Quang Minh Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Na-la-diên Kim Cang Tinh Tấn Lực. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Trí Uy Lực Vô Năng Thắng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phổ Quán Sát Trí. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Quảng Đại Trí Cát Tường Vân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Vô Úy Trí Quang Minh Thân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tịnh Trí Diệm Quang Vân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Công Đức Tràng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Trí Nhật Tràng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Liên Hoa Khai Số Thân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phước Đức Nghiêm Tịnh Quang. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Trí Diệm Vân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tỳ-lô-giá-na Nguyệt. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Trang Nghiêm Cái Đại Thanh Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Đại Dũng Mãnh Phổ Trí Quang Minh. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Pháp Giới Cảnh Giới Trí Nguyệt Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phổ Hiện Ảnh Tượng Khai Ngộ Chúng Sinh Như Hư Không Tâm. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Ngữ Ngôn Tướng Tịch Diệt Hương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phổ Chấn Tùy Thuận Tịch Tĩnh Thanh. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Kiên Cố Vô Chướng Ngại Quang Võng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Cam Lồ Sơn Oai Đức Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Pháp Hải Lôi Âm. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phật Hư Không Quang Chiếu Kế. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Nguyệt Quang Đài Tướng Chấn. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Nguyệt Diên Diệu Viên Mãn. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Diệu Giác Trí Câu-tô-ma Hoa Quang. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Bảo Diệm Sơn Cát Tường Oai Đức. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Quảng Đại Công Đức Tinh Tú Quang. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Cụ Nhất Thiết Trí Tam-muội Thân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Diệm Viên Mãn Thân. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tối Thắng Oai Đức Bảo Quang Minh. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tối Thắng Oai Đức Bảo Quang Minh. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Phổ Trí Tốc Tật Hành. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Quang Diệm Hải Môn Đăng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Đại Pháp Cung Điện Diệu Thanh Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Bỉ Công Đức Danh Xưng Tràng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tu Tý. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Thanh Tịnh Bản Nguyện Thần Biến Hóa Nguyệt. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Hư Không Trí Thật Nghĩa Đăng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Pháp Thượng Hư Không Tự Tại Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Tỳ-lô-giá-na Đức Tạng Vương. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Na-la-diên Pháp Tụ. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Chư Thừa Trí Tích Tràng. Tiếp nữa có Phật xuất hiện, tên là Pháp Hải Diệu Liên Hoa. Cứ như vậy, có sáu mươi trăm ngàn ức na-do-tha Như Lai, ở trong kiếp đó, liên tục tuần tự xuất hiện ở đời. Ta đều gần gũi phụng thờ và cúng dường; cho đến Đức Phật cuối cùng, tên là Quảng Đại Hoan Hỷ Xuất Hiện Oai Đức xuất hiện ở đời. Lúc bấy giờ, Đức Phật này, đi vào vương thành; ta lúc này là chánh phi của vua; đang cùng với đại vương, sắm sửa lễ vật để cúng dường Đức Phật ấy. Ta đến chỗ Đức Phật ấy, nghe thuyết pháp môn Nhất thiết Như Lai thọ sinh xuất hiện đăng. Tức thời thọ nhận được mắt trí sai biệt, tên gọi là môn giải thoát Quán nhất thiết Bồ-tát Tam-muội hải vi tế cảnh giới.

Này thiện nam! Lúc bấy giờ, ta được môn giải thoát này, trải qua cực vi trần số kiếp cõi Phật, thường cùng Bồ-tát chuyên cần gia công tu tập, để trong các kiếp, có vô lượng, vô biên các Đức Phật, nhất nhất ta đều gần gũi cúng dường, thọ nhận và thực hành các pháp. Hoặc có kiếp thờ phụng một Đức Phật; hoặc có kiếp thờ phụng hai Đức Phật; hoặc có kiếp thờ phụng ba Đức Phật; hoặc thờ phụng trăm ngàn, cho đến trọn cả một kiếp, ta gần gũi thờ phụng không thể nói, không thể nói chư Phật; hoặc có kiếp ta được gặp chư Phật nhiều như cực vi trần số cõi Phật. Tất cả các Đức Phật ấy ta đều gần gũi, thờ phụng cúng dường; nhưng chưa có thể biết thân, hình thể, sắc diện, tướng mạo, cũng như thân ngữ ý, quả báo của hành nghiệp, giải thoát Tam-muội của cảnh giới mà Bồ-tát có được! Này thiện nam! Nếu có chúng sinh, được thấy Bồ-tát là vì Nhất thiết trí, lúc đang tu các hạnh; hoặc đồng ý hoặc ngược lại, hoặc nghi ngờ hoặc tin thì Bồ-tát cũng vì thế gian và xuất thế gian, vì quyến thuộc mà sử dụng đủ các phương tiện để thâu phục và giữ gìn; đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đạt được không thoái chuyển.

Này thiện nam! Ta từng chỗ của Đức Như Lai Quảng Đại Hoan Hỷ Xuất Hiện Oai Đức đạt được môn giải thoát Quán nhất thiết Bồ-tát Tam-muội Hải vi tế cảnh giới; với trăm cực vi trần số kiếp cõi Phật, luôn cùng với Bồ-tát tu tập và cúng dường. Ở trong những kiếp, đều có chư Phật, nếu xuất hiện ở đời, ta đều gần gũi phụng thờ và cúng dường. Các Như Lai ấy, đều dùng nhiều pháp môn khác nhau để giảng nói kinh, tùy thuận mà tu hành, giúp gìn giữ ý không để quên mất; làm cho môn giải thoát ấy cứ tuần tự mà phát triển rộng ra; do vậy mà có thể biết đủ các loại kinh, làm cho thân thâu được đủ các loại công đức, đạt được đủ các loại pháp môn giải thoát, thấy đủ các biển của ba đời, tới được tất cả biển cõi Phật, thấy đủ các thành tựu Chánh giác, vào đủ các chúng hội của Phật, phát đủ các nguyện của Bồ-tát, làm đủ các hạnh của Bồ-tát thành tựu tròn đầy các giải thoát của Bồ-tát. Ta cũng chưa có thể biết sự thành tựu môn giải thoát Phổ Hiền của Bồtát. Vì sao? Vì cảnh giới thần thông giải thoát Phổ Hiền mà Bồ-tát đạt được như hư không lớn, như tên của chúng sinh, như biển ba đời, như cảnh giới mười phương, như biển pháp giới, nó vô lượng, vô biên không bến bờ vậy. Này thiện nam! Nên biết pháp môn giải thoát Phổ Hiền mà Bồ-tát đạt được cùng với cảnh giới của Như Lai là đồng đều, bằng nhau. Thiện nam! Ta ở trong cực vi trần số kiếp cõi Phật, quán sát cảnh giới có được thân của Bồ-tát, không biết chán mỏi, như người ham muốn chuyện nam nữ gom tụ lại, làm cho tướng nhiễm ái, nên trong từng niệm, khởi lên vô lượng những mơ tưởng không thật, những suy nghĩ, những hiểu biết không đúng; rồi cứ thể cảnh giới vọng tưởng đó chuyển đi khắp tận cùng. Ta cũng như vậy, ở trong kiếp đó, quán sát mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ-tát, từng niệm từng niệm đều thấy vô lượng, vô biên các thế giới rộng lớn; tất cả đang sinh ra, tất cả đang dựng lên an ổn, đủ các trang nghiêm, đủ các hình trạng, đủ các trụ dựa, đủ các phân chia số lượng, đủ các kiếp, đủ các bến bờ, đủ các núi biển, đủ các đại địa, đủ các mây phủ, đủ các danh tự, đủ các chư Phật xuất thế, đủ các Bồ-đề đạo tràng hiện ra đủ các thần thông lớn, nói đủ các loại kinh, lập nên đủ các hàng thừa giáo, mở cửa đủ các loại phương tiện, phóng đủ các loại xe ánh sáng, trang nghiêm đủ các thế giới của chư Phật, thuyết đủ các loại pháp quán đỉnh. Cũng từ mỗi lỗ chân lông của Bồ-tát, trong từng niệm từng niệm, ta cũng thường thấy vô biên biển Phật trong mười phương, ngồi đủ các đạo tràng, hiện ra đủ các loại thần thông, biến hóa, chuyển đủ các loại xe pháp, thuyết đủ các loại kinh, tuần tự trước sau liên tục, không hề bị lìa mất. Lại cũng từ mỗi lỗ chân lông Bồ-tát, trong từng niệm thường thấy tất cả biển chúng sinh trong mười phương, với đủ các chỗ ở, đủ các hình thể dung mạo, đủ các oai nghi, đủ các sự tạo nghiệp, đủ các căn khí, đủ các cách đo lường tâm… Lại cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-tát, ta cũng thấy hết thảy ba đời của biển Bồ-tát, vô lượng, vô biên môn các hạnh, vô lượng, vô biên biển đại nguyện, vô lượng, vô biên Bồ-tát địa, vô lượng, vô biên Ba-la-mật, vô lượng, vô biên những việc bản sinh, vô lượng, vô biên nghiêm sát hạnh, vô lượng, vô biên môn đại Từ, vô lượng, vô biên mây đại Bi, vô lượng, vô biên biển tinh tấn, vô lượng, vô biên tâm đại Hỷ; từng niệm từng niệm, thâu nhận giữ lấy vô biên chúng sinh, dùng phương tiện điều phục, làm cho hết thảy đều thành thục.

Này thiện nam! Ta ở trong cực vi trần số kiếp các cõi Phật, từng niệm như vậy, thấy được cảnh giới hiện ra từ những lỗ chân lông của Bồ-tát; có nơi đã đi qua, có nơi chưa từng qua, có nơi đã thấy, có nơi chưa từng thấy, có nơi đã nghe, có nơi chưa từng nghe, có nơi đạt được, có nơi không đạt được, cho đến thấy được đến tận chỗ ở của thái tử trong nội cung, đang có những thể nữ vây quanh. Ta dùng sức môn giải thoát này, quán sát ở từng lỗ chân lông của Bồ-tát, thấy được tất cả pháp giới trong ba đời, thấy cảnh giới vô biên, vào sâu không giới hạn. Thiện nam! Ta chỉ đạt được môn giải thoát Quán sát Bồ-tát đại Tam-muội hải vi tế cảnh giới này thôi, còn như các Đại Bồ-tát có thể làm thành tựu các biển phương tiện cùng các chúng sinh, tùy thuận mà hiện ra những loại thân phù hợp, trụ khắp trước tất cả chúng sinh, tùy vào đủ các loại căn tánh của chúng sinh mà giảng nói đủ loại giáo pháp các thừa; tất cả các lỗ chân lông, đều có thể sinh ra vô lượng sắc tướng như mây biển biến hóa; biết tất cả pháp xưa nay trong sạch, không tánh vì tánh, biết các chúng sinh cùng với hư không không tướng vì tướng, an trụ, giải thoát rốt ráo không phân biệt, hiện vào trong cái rộng lớn vô biên của cảnh giới, biết được sức oai thần của Phật là rốt ráo như như, tùy nguyện lớn mà có khả năng dùng thần thông biến hóa ra khắp, chỉ một niệm là có thể nhập được vào pháp giới rộng lớn, làm tự tại tất cả pháp, chuyển được môn phổ biến trí của tất cả pháp; có thể dạo chơi khắp cả địa của Bồ-tát, xa lìa các phiền não, kết sử; đạt được trí thông viên mãn thanh tịnh; biết các chúng sinh đều rốt ráo, vắng lặng, tùy thuận hiện ra thân, đều làm cho vui vẻ, cùng các Bồ-tát nhất duyên bình đẳng, thường cùng nhau tụ hội, không rời bỏ nhau, đạt được thần thông lớn, rốt ráo không lùi; tự tại đi khắp hết thảy thế giới, tùy ở chúng sinh thị hiện thành tựu chánh giác; ngồi khắp tất cả chúng hội đạo tràng, tùy khắp các nẻo mà hiện cách thọ sinh không thoái lui, tu hành hạnh Bồ-tát, nghe thấy đều lợi ích, như cây thuốc chúa làm thỏa mãn tâm chúng sinh, ý chân thật như như; một lời được nói ra khiến hết thảy đều vui vẻ; ở địa vị đại trí, an lập các pháp, trí huyễn thần thông, biến đều khắp pháp giới; đó là Bồtát, tu hành công đức trí; nhưng ta làm sao có thể biết, có thể nói hết được.

Bấy giờ, Thích nữ Cù-ba, nói với Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ở trong thế giới này, có tòa Sư tử Đại ma-ni tỳlô-giá-na bảo liên hoa tạng, Phật mẫu Ma-da đang ngồi trên đó; ngươi tới đó mà hỏi: Bồ-tát làm thế nào tu hạnh Bồ-tát mà ở các thế gian không bị chìm đắm bó buộc? Bồ-tát làm thế nào được sức tự tại, để xa lìa trần cấu khi ở trong các pháp? Bồ-tát làm thế nào được sức tin và vui, để khi thờ phụng cúng dường chư Phật, không mệt mỏi biếng lười? Bồ-tát làm thế nào được sức dũng tiến, để thành tựu tất cả sự nghiệp của Bồ-tát? Bồ-tát làm thế nào được sức trí tịnh, để xa lìa hết thảy những chướng ngại của phiền não? Bồ-tát làm thế nào được sức giảng giải sâu xa, để khi được nghe pháp thì tự nhiên sáng tỏ? Bồ-tát làm thế nào được sức hiện ra trước, để thành tựu được trí tuệ quán sát của Bồ-tát? Bồ-tát làm thế nào được sức biến khắp, để có thể tới tận chỗ tất cả các Như Lai? Bồ-tát làm thế nào được sức dẫn dắt những thệ nguyện, để có thể thâu tóm cảnh giới của tất cả chúng sinh? Bồtát làm thế nào được sức không thoái lui, để đến tận kiếp vị lai vẫn tu hành hạnh Bồ-tát? Bồ-tát làm thế nào được sức quán sát, để thấy các pháp không có gì là đáng ngại? Bồ-tát làm thế nào được nhập vào trí duyên khởi, để thấy tất cả pháp, thảy đều không ngã? Bồ-tát làm thế nào được trí tùy thuận, để khéo léo giảng giải hết các pháp của thế gian và xuất thế gian? Bồ-tát làm thế nào được trí vi tế, để có thể khéo léo quán sát thể tánh của các pháp? Bồ-tát làm thế nào được trí thần thông, để có thể vì chúng sinh mà giảng nói các bí mật? Bồ-tát làm thế nào phát khởi đại nguyện, để làm tăng trưởng căn lành cho hết thảy chúng sinh mà không dừng nghỉ? Bồ-tát làm thế nào được gần gũi phụng thờ chư Phật Bồ-tát và tất cả Thanh văn, Độc giác mà không dứt bỏ?

Lúc này, Thích nữ Cù-ba vì muốn làm rõ nghĩa môn giải thoát đã tuyên thuyết, nên dựa vào sức oai thần của Phật, nhìn thẳng Đồng tử Thiện Tài mà nói kệ rằng:

Nếu có chúng sinh thấy Bồ-tát
Đang tu tập các hạnh Bồ-đề
Mà khởi tâm lành hay tâm dữ
Tất được thâu tóm, khiến lợi ích
Thuở xưa trăm cõi số vi trần
Gấp đôi số vi trần, có kiếp
Tên là Bình đẳng tịnh trang nghiêm
Cõi là Tối thắng tu-di quang
Kiếp đó số Phật hiện ở đời:
Ba mươi sáu ức na-do-tha
Cuối cùng hiện Bậc Thiên Nhân Sư
Hiệu: Chánh Pháp Tràng Vi Thế Đăng
Phật này sau khi nhập Niết-bàn
Có vua tên: Trí Oai Đức Sơn
Tự tại thống lĩnh Diêm-phù-đề
Có khả năng bẻ gãy địch oán
Đức vua có năm trăm người con
Đoan chánh dũng mãnh không ai hơn
Tài trí khéo léo đều hơn người
Chúng sinh chiêm ngưỡng không biết chán
Vua và con, tâm đều trong sạch
Đối với Phật pháp rất tín tâm
Thọ trì, giữ gìn và tu hành
Tinh tấn, dũng mãnh không thoái lui
Thái tử bấy giờ, tên Diệm Quang
Đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm
Ly cấu, công đức đều tròn đầy
Khéo đem công đức cho chúng sinh
Cùng với năm trăm ức quyến thuộc
Nghe pháp, rồi xuất gia học đạo
Đều tu phạm hạnh rất chuyên cần
Dũng mãnh hộ trì các pháp Phật.
Vương đô lúc này có cây trí
Có bờ thành ngàn ức vây quanh
Rừng tên: Tịch tĩnh đại cát tường
Cây báu trang nghiêm thật là đẹp
Phật tử Diệm Quang ở trong đó
Vì chúng sinh, tuyên chánh pháp Phật
Biện tài trí tuệ không cùng tận
Khiến ai nghe được: Phiền não dứt
Nhân lúc Bồ-tát hành khất thực
Ôm giữ y bát vào vương thành
Oai nghi, vắng lặng, bước vững vàng
Nhìn kỹ, ngó thẳng, tâm không loạn
Lúc này trong thành có trưởng giả
Tên là Thiện Xưng Hoa Hỷ Tràng
Ta là đồng nữ ở tại nhà
Tên: Tịnh Nhật Quang. Tướng đoan nghiêm
Từ xa ta thấy Phật tử ấy
Trí nghĩ trong sạch luôn hiện trước
Các căn đều phục tướng trang nghiêm
Sở hữu oai nghi đều vắng lặng
Khất thực gần tới cửa nhà ta
Ta thấy tức thời sinh yêu mến
Cởi lưu ly trang sức trên thân
Vui lòng bỏ báu vào trong bát
Ta lúc này với tâm yêu mến
Cúng dường chân Phật Tử Diệm Quang.
Do không trải qua ba nẻo ác
Thường sinh cõi trời và cõi người
Trong hai trăm năm mươi đại kiếp
Sinh làm nữ nhưng đều cao, hơn
Thường thấy nơi: Diệm Quang tu học
Đủ tướng trang nghiêm, thân ly cấu
Qua hai trăm năm mươi kiếp ấy
Tiếp đến sinh nhà mẹ Thiện Hiện
Thân làm đồng nữ tướng đoan nghiêm
Tên: Diệu Cát Tường Cụ Túc Diễm
Mới thấy Thái tử Oai Đức Chủ
Mà sinh tôn trọng tâm yêu kính
Nguyện được thờ phụng cùng tu hành
Duyên may đời trước chịu thọ nhận
Lúc đó, ta cùng với thái tử
Đến chỗ Như Lai Thắng Nhật Thân
Liền phát tâm Bồ-đề rộng lớn
Nghe pháp cúng dường sinh vui vẻ
Kiếp đó lại có Phật ra đời
Sáu mươi ngàn ức na-do-tha
Phật sau cùng hiệu: Giải Thoát Quang
Ta sau trước đều cúng dường đủ
Đến chỗ Như Lai sau cùng ấy
Được hiểu chánh pháp, tâm sạch trong.
Xem tánh các pháp, không có sinh
Đời trước thành tựu phiền não hết
Nên đắc biển Tam-muội Bồ-tát
Quán sát môn giải thoát vi tế
Một niệm vào được khắp mười phương
Không thể nghĩ bàn các cõi biển
Thấy khắp hết thảy các thế giới
Hoặc có uế tạp hoặc trong sạch
Với cõi tạp uế, không ghét ác
Với cõi sạch trong, không đắm tham
Thấy hết mười phương các cõi biển
Cả thế giới là Bồ-đề tràng
Như Lai ngồi đó chiếu sáng khắp
Một niệm với ta đều hiểu hết
Biển đại chúng, Phật kia có được
Một niệm với ta có thể nhập
Biết sự tu hành của chúng kia
Sức thần thông, giải thoát Tam-muội
Chúng kia có được hạnh rộng lón
Các địa, các độ, các phương tiện
Các biển thệ nguyện không bến bờ
Với từng niệm ta đều thâm nhập
Ta quán thân tướng tốt Bồ-tát
Việc thần thông, mỗi lỗ chân lông
Qua các kiếp đồng tu diệu hạnh
Cầu biên tế trí, chẳng thể được
Mỗi lỗ chân lông, có các cõi
Nhiều đến không thể nói bằng số
Trong các xe đất, nước, gió, lửa
Rất nhỏ, duy trì không rời nhau
Sự an lập các thế giới đó
Hình, lượng, tên, thể đều không đồng
Trong cõi, đủ loại thân chúng sinh
Vô lượng sắc tướng và trang nghiêm
Ta lại nhờ sức giải thoát này
Thấy hết mười phương, các cõi biển
Ở đó nhiều chư Phật hóa hiện
Điều phục hết cảnh giới chúng sinh
Dù có tu hành vô lượng kiếp
Thấy được sức thần thông chư Phật
Do không thể biết Bồ-tát ấy
Đạo của thân tâm trí đã làm.

Đồng tử Thiện Tài, sau khi nghe xong pháp, liền đảnh lễ ngài Cù-ba, đi nhiều trăm ngàn vòng, ân cần chiêm ngưỡng, một tâm mến mộ, rồi từ giã ra đi.

*********

Lúc bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhất tâm muốn thân cận Phật mẫu phu nhân Ma-da, tức thời thọ nhận được vô biên chánh trí, quán sát cảnh giới vi của chủ Phật; liền suy nghĩ: Ta làm thế nào có phương tiện để được thấy bậc Thiện tri thức ấy? Bởi Thiện tri thức ấy, xa lìa thế gian trụ chỗ không trụ, vượt qua sáu nẻo, lìa hết thảy những đắm chìm, không nhiễm bùn ham muốn, trụ ở đạo vô ngại, biết và làm như thật, thân pháp đều sạch trong, như dùng nghề ảo thuật, biến hóa ra thân, như dùng huyền trí mà quán sát thế gian, như dùng huyễn nguyện mà hiện sắc thân, dùng sức oai thần của Phật gia trì cho thân mình. Bậc Thiện tri thức ấy, sinh thân tùy ý, bậc Thiện tri thức ấy, thân không sinh diệt, thân không đi lại thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân không nghĩ bàn, thân có nhiều tướng điều là một tướng, thân trụ ở giải thoát, xa lìa hai bên, thân không chỗ dựa, thân không cùng tận, thân như ảnh hiện khắp, không phân biệt, thân như thấy trong mộng, không thể tìm kiếm, thân như ảnh tượng trong gương không vào được, thân tùy khắp ở mười phương mà hóa hiện, thân trụ ở ba đới mà không biến khác, thân chẳng phải thân tâm, thân không sai biệt. Bậc Thiện tri thức ấy, không ngại điều mình làm, giống như hư không, vượt khỏi thế gian, khỏi hết thảy cảnh giới của mắt thấy, chỉ có con mắt trong của Phổ Hiền mới thấy được người như vậy. Nay ta làm thế nào mà được gần gũi phụng thờ, cúng dường, khiến phát sinh sự hoan hỷ; để cùng đồng trụ, để cùng quán hình trạng diện mạo, để cùng ở trong chúng hội, để cùng nghe những âm thanh, để cùng suy nghĩ về những lời giảng nói, để cùng thọ nhận những lời dạy bảo?”

Đồng tử Thiện Tài, khi suy nghĩ như vậy, có vị thần chủ thành, tên là Bảo Nhãn, cùng vô lượng thần thành quyến thuộc vây quanh, ở trong hư không hiện ra thân như vậy; rất nhiều các anh lạc dùng để trang nghiêm; thân hiện ra có vô lượng màu sắc lạ, đẹp, tay cầm vô lượng hoa báu của chư Thiên, dùng tâm cung kính, tung lên người Thiện Tài, rồi nói: “Này thiện nam! Ông nên khéo léo giữ gìn thành trì tâm của mình, nghĩa là không tham nơi tất cả cảnh giới sinh tử. Nên trang nghiêm thành trì tâm ấy, nghĩa là quán sát, hướng cầu. Mười lực của Như Lai nên tịnh trị thành trì tâm ấy, nghĩa là lìa hoàn toàn sự keo kiệt, ganh ghét, dua nịnh và lừa dối. Nên làm cho mát thành trì tâm ấy, nghĩa là suy nghĩ về thật tánh của hết thảy các pháp. Nên tăng trưởng thành trì tâm ấy, nghĩa là dùng đại tinh tấn, thành tựu trọn vẹn tất cả các pháp trợ đạo. Nên làm tươi đẹp thêm thành trì tâm ấy, nghĩa là xây dựng cung điện của hết thảy thiền định giải thoát tự tại. Nên chiếu soi làm sáng rỡ thành trì tâm ấy, nghĩa là nhập vào hết thảy đạo tràng của Như Lai, để thọ nhận pháp Bát-nhã ba-la-mật. Nên làm tăng điều lợi ích cho thành trì tâm ấy, nghĩa là có thể làm sinh khởi tất cả biển phương tiện của Như Lai. Nên làm kiên cố thành trì tâm ấy, nghĩa là chuyên cần tu tập, làm tăng trưởng hạnh nguyện thanh tịnh của Phổ Hiền. Nên phòng ngừa gìn giữ nơi thành trì tâm ấy, nghĩa là luôn có thể ngăn chặn các thứ phiền não bạn ác, tất cả quân ma. Nên thành trì tâm ấy, nghĩa là mở bày, dẫn dắt mọi ánh sáng trí của chư Phật. Nên tu bổ cho thành trì tâm ấy, nghĩa là dốc nhận giữ mưa pháp cam lồ của chư Phật. Nên hỗ trợ cho thành trì tâm ấy, nghĩa là tin sâu xa vào biển công đức của hết thảy chư Phật. Nên làm lớn lao thành trì tâm ấy, nghĩa là khởi tâm đại Từ đến khắp hết thảy thế gian. Nên che trùm khắp cả, thành trì tâm ấy nghĩa là tích tập các pháp lành làm mái che chắn ở trên. Nên khiến cho thành trì tâm ấy, dung chứa rộng khắp, nghĩa là khởi tâm đại Bi thương xót hết thảy chúng sinh. Nên bí mật hộ trì thành trì tâm ấy, nghĩa là cần ngăn giữ đối với các cảnh giới ái dục sinh tử, không khiến nhập vào. Nên trang nghiêm tôn kính thành trì tâm ấy, nghĩa là dứt trừ tất cả các pháp ác là cội rễ của mọi lưu chuyển. Nên quyết định đối với thành trì tâm ấy, nghĩa là thâu gom các pháp trợ đạo cho Nhất thiết trí luôn không thoái lui. Nên an lập nơi thành trì tâm ấy, nghĩa là chánh niệm về cảnh giới viên của tất cả Như Lai nơi ba đời. Nên làm sáng tỏ khắp thành trì tâm ấy, nghĩa là hiểu rõ hết thảy pháp môn hiện có nơi kinh điển của Như Lai, đã chuyển pháp luân. Nên làm rõ từng bộ phận nơi thành trì tâm ấy, nghĩa là có thể chỉ rõ cho khắp tất cả chúng sinh khiến họ đều có thể được thấy đạo Nhất thiết trí. Nên trụ giữ thành trì tâm ấy, nghĩa là thâu nhận khắp các biển nguyện lớn của tất cả Như Lai trong ba đời. Nên khiến cho thành trì tâm ấy thật phong phú, nghĩa là tích chứa những khối đại phước trí hiện bày đầy khắp trong tất cả pháp giới. Nên khiến cho thành trì tâm ấy càng sáng tỏ, nghĩa là nhận biết khắp các pháp về phiền não, ưa muốn,… nơi các căn của chúng sinh. Nên khiến cho thành trì tâm ấy được tự tại, nghĩa là thâu tóm khắp cả pháp giới trong mười phương. Nên khiến cho thành trì tâm ấy được thanh tịnh, nghĩa là luôn chánh niệm đối với hết thảy chư Phật, Như Lai. Nên nhận biết tự tánh của thành trì tâm ấy, nghĩa là nhận biết tất cả pháp đều không có tự tánh. Nên biết về thành trì tâm ấy là như huyễn, nghĩa là dùng Nhất thiết trí để thấu rõ tánh của các pháp.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát nếu có thể tu tập thanh tịnh về thành trì tâm như vậy, tất nhiên sẽ thâu gom được tất cả căn lành, tùy vào sự tu hành ấy, đều có thể chứng nhập. Vì sao? Vì đã dứt trừ sạch tất cả các chướng nạn. Đó là chướng ngại về thấy Phật, chướng ngại về nghe pháp, chướng ngại về sự gần gũi cúng dường các Như Lai, chướng ngại về các phương tiện thâu giữ chúng sinh, chướng ngại về việc làm trang nghiêm thanh tịnh các cõi nước của Phật. Này thiện nam! Đại Bồ-tát do lìa xa những chướng nạn như thế. Nên nếu phát tâm mong cầu Thiện tri thức, không dùng công sức, tất dễ dàng được thấy; cho đến cứu cánh là thành tựu Nhất thiết trí.

Lúc ấy, trong chúng thần hữu thân, có thần tên là Liên Hoa Cát Tường, thần Diệu Hoa Quang Minh, cùng vô lượng trăm ngàn chúng thần hữu thân, sau trước vây quanh, từ trong đạo tràng đi ra, trụ nơi hư không, đến trước chỗ Đồng tử Thiện Tài, dùng âm thanh vi diệu, vô số lời khen ngợi phu nhân Ma-da. Khi đó, từ những viên ngọc đeo nơi tai của các chúng thần, phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc như lưới của các báu thanh tịnh. Phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc như lưới mây lửa của các hương báu; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc như lưới lửa trong sạch không chút bợn nhơ; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc có thể hiển bày khắp tâm tánh của chúng sinh thanh tịnh; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc nhanh chóng làm tăng trưởng sự yêu thích; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc trong lành có thể trừ hết những nhiệt não; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc có thể hiện rõ khắp sự thanh tịnh; phóng ra vô lượng ánh sáng màu sắc như ánh lửa báu dũng mãnh xuất hiện nơi cảnh giới không chấp trước; phóng ra đủ các loại lưới ánh sáng lớn với vô số những màu sắc như vậy, chiếu khắp vô biên cõi Phật rộng lớn, khiến cho Đồng tử Thiện Tài thấy khắp chư Phật hiện có trong hết thảy các cõi nước của mười phương các thứ ánh sáng ấy, sau khi đi khắp một vòng nơi thế gian từ bên phải, sau đó trở lại nhập vào đỉnh đầu của Thiện Tài, rồi lan khắp các lỗ chân lông nơi thân Đồng tử Thiện Tài, nhờ được ánh sáng đó chiếu đến, tức thời đạt được mười loại pháp nhãn, đó là được Nhãn tịnh quanh minh, là vĩnh viễn lìa hết thảy mọi ngu si tăm tối; được Nhãn vô ế, có thể biết rõ hết thảy tánh của chúng sinh; được Nhãn ly cấu, có thể quán sát hết thảy môn pháp tánh, được Nhãn tịnh tuệ, có thể quán sát tánh của hết thảy cõi Phật; được Nhãn Tỳ-lô-giá-na, có thể thấy Pháp thân thanh tịnh của Như Lai; được Nhãn phổ quang minh, thấy được sắc thân vi diệu, bình đẳng, chẳng thể nghĩ bàn của Phật; được Nhãn vô ngại quang, quán sát được tướng thành hoại của hết thảy các biển cõi vô biên; được Nhãn phổ chiếu minh, thấy hết thảy chư Phật, phát khởi đại phương tiện để chuyển xe chánh pháp, sinh ra vô số các loại kinh; được Nhãn phổ cảnh giới, thấy vô lượng oai đức thần thông của chư Phật, điều phục hết thảy các chúng sinh; được Nhãn phổ kiến, sẽ quán sát được hết thảy Như Lai xuất hiện ở đời trong tất cả các cõi.

Bấy giờ, có vua quỷ La-sát trông nom pháp đường của Bồ-tát, tên là Diệu Nhãn, cùng với một vạn La-sát quyến thuộc, ở trong hư không, dùng hoa đẹp đáng yêu Câu-tô-ma của trời, cùng rất nhiều hương thơm, tung lên người Đồng tử Thiện Tài, rồi nói: “Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười pháp tất sẽ được thân cận các Thiện tri thức. Những gì là mười? Lìa các nịnh hót huyễn, giữ bản chất ngay thẳng luôn được thanh tịnh. Lìa các phân biệt, hiện bày tâm đại Từ bình đẳng, thâu tóm khắp chúng sinh, hiểu được tự tánh của các pháp, biết tánh của chúng sinh là không chân thật, biết không quá khứ, vị lai hướng tới Nhất thiết trí, tâm không thoái chuyển. Đầy đủ sức tin hiểu để hội nhập khắp tất cả đạo tràng của Phật, đạt được tuệ nhãn thanh tịnh, hiểu rõ tánh của tất cả các pháp là không sinh, trụ ở tâm Từ bình đẳng, khiến cho khắp chúng sinh đều được thắng nghĩa, mở ánh sáng trí để có thể tỏa rộng tự tâm trước những cảnh giới không thật, làm mây trong lành, để có mưa cam lồ, quét sạch phiền não, làm cho mắt rộng lớn, thông suốt các pháp, tâm luôn tùy thuận vào các bậc Thiện tri thức. Nếu các Bồ-tát, có đầy đủ viên mãn mười loại pháp này, tất sẽ gần gũi các Thiện tri thức.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát thành tựu mười loại Tam-muội, quán sát vi tế, tức thường hiện thấy các Thiện tri thức. Những gì là mười? Đó là: Tam-muội nêu lớp pháp Không thanh tịnh vô tận. Tammuội Hiện thấy biển cõi của tất cả chư Phật trong mười phương. Tammuội nơi các cảnh giới không lìa bỏ, không thiếu giảm. Tam-muội thấy khắp tất cả Như Lai xuất hiện, Tam-muội tập hợp khắp tất cả kho tàng biển phước trí. Tam-muội Tâm thường không bỏ các bậc Thiện tri thức. Tam-muội Thường niệm công đức của tất cả Như Lai xuất hiện từ Thiện tri thức. Tam-muội luôn nhớ nghĩ không bỏ các bậc Thiện tri thức. Tam-muội Niệm thường gần gũi bình đẳng cúng dường các bậc Thiện tri thức. Tam-muội ở trong phương tiện hành hóa của Thiện tri thức, thân không mệt mỏi, thân không chán đủ, lìa mọi lỗi lầm. Thiện nam! Bồ-tát thành tựu mười Tam-muội này, tức luôn được gần gũi các Thiện tri thức, lại được Tam-muội Thiện tri thức thường chuyển pháp luân của Như Lai; được Tam-muội ấy rồi, tất sẽ biết được, thể tánh của chư Phật đều là bình đẳng hiện bày tất cả mọi nơi chốn luôn gặp Thiện tri thức,

Trong lúc nghe thuyết giảng như vậy, Đồng tử Thiện Tài ngước nhìn nơi hư không, nói:

–Lành thay! Lành thay! Vì xót thương mà các vị đã thâu nhận ta, hiện bày đủ các loại môn phương tiện thiện xảo, khiến ta có thể được thấy bậc Thiện tri thức chân chánh; cúi xin vì ta mà phân biệt giảng nói. Ta phải là thế nào để đến thẳng trú xứ của Thiện tri thức? Ta phải đến xóm làng, thành ấp, hoặc phương nào để cầu Thiện tri thức? Ta phải dùng phương tiện gì để được gần gũi Thiện tri thức?

La-sát đáp:

–Này thiện nam! Ông phải khiêm tốn thành tâm đảnh lễ khắp mười phương đến tận tất cả cảnh giới của hư không để cầu Thiện tri thức, phải dũng mãnh và tự tại đến khắp mười phương để cầu Thiện tri thức; phát khởi tâm nhanh chóng, tâm tùy thuận, để cầu Thiện tri thức; phải quán sát thân tâm như ảnh, như mộng để cầu Thiện tri thức.

Đồng tử Thiện Tài, lúc này nhận những lời chỉ dạy của vua quỷ La-sát, tùy thuận tu hành; tức thời trông thấy đóa hoa sen báu lớn, từ đất vọt lên; thân nó bằng kim cương, lá là ngọc ma-ni, đài hoa là ngọc báu chúa Tỳ-lô-giá-na, hiện ra trong biển chúng sinh có ngọc báu mani làm chỗ cất giữ. Hương báu với các màu sắc làm tua hoa. Vô số lưới báu phủ đầy ở trên; ngay nơi đài sen, có một lầu gác, tên là: Phổ Nạp thập phương pháp giới tạng, đủ các thứ đẹp và lạ trang trí thật oai nghiêm; nền bằng kim cương; có ngàn cây cột ngay hàng thẳng lối, tất cả đều làm từ ngọc báu ma-ni; tường làm bằng loại vàng ròng; bốn bên đều có nhiều ngọc báu anh lạc rũ xuống; các cờ bằng báu ma-ni lớn với đủ các màu sắc đẹp, bố trí có hàng lối rõ ràng; khắp tất cả đều được trang nghiêm bằng vô số những báu đẹp; các bậc thềm, lan can, cửa sắp xếp nhiều tầng lớp rất trang nghiêm. Ở trong lầu gác, có tòa Như ý bảo vương liên hoa, gồm đủ các loại báu làm tăng thêm vẻ uy nghiêm; có lan can bằng báu đẹp vây quanh khắp vòng. Cờ báu ma-ni và tinh tú tạo thành khoảng không gian đặc biệt; y báu đủ màu sắc trong ngoài bày ra vô số; phướn báu lưới báu cùng các chuông nhỏ rũ xuống, che phủ ở trên cao; các cờ hiệu làm bằng lụa báu, rũ xuống khắp mọi nơi, chỉ cần ngọn gió nhỏ thổi qua; thì ánh sáng, tiếng vang sẽ phát ra, từ các cờ báu làm mưa những hoa đẹp; trong các chuông nhỏ để lắc phát ra những âm thanh thật diệu dàng; ở khoảng giữa các cửa lớn, cửa sổ, đều có anh lạc rũ xuống; nước trong thân Ma-ni, chảy ra mùi thơm; từ trong miệng voi báu Tỳ-lô-giá-na, lưới hoa sen được phóng ra; từ miệng của Sư tử báu bằng kim cương có nhiều màu sắc, phun ra những mây hương thơm ngát; các xe báu của chúng trời Phạm thiên, xuất hiện cùng với âm nhạc, phá ra những lời dạy đại Từ; chuông lằc báu bằng kim cương vang ra âm thanh những nguyện lớn của Bồ-tát; trong các cờ Bảo nguyệt, hiện ra liên tục những hình ảnh của Phật biến hóa, không hề đứt đoạn; báu chúa Tịnh tạng tuần tự hiện sự thọ sinh ba đời của Phật; ngọc báu Nhật Tạng Ma-ni, phóng ra ánh sáng đủ đầy hết thảy Phật, ngọc chúa Tỳ-lô-giá-na Ma-ni làm mây cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật, Như Lai; bảo châu chúa như ý, trong từng niệm, hiện ra sự biến hóa thần thông của Phổ Hiền đầy khắp pháp giới; báu chúa Tu-di, hiện cung điện trời, với tất cả chúng trời Đế Thích được biến hóa thành những mây thân; các thể nữ cõi trời với đủ loại diệu âm, ca ngợi công đức vị diệu không thể nghĩ bàn của các Như Lai.

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài thấy rõ tòa ngồi ấy, lại có vô lượng không thể nghĩ bàn số tòa báu trang nghiêm nữa vây vòng khắp chung quanh phu nhân Ma-da an tọa trên tòa cao kia hiển bày đến trước tất cả chúng sinh, hiện ra sắc thân thanh tịnh. Đó là sắc thân vượt quá tam giới đã ra khỏi tất cả các nẻo sinh tử; đó là sắc thân tùy theo chỗ tâm ưa thích đối với các thế gian không tham đắm; đó là sắc thân hiện hữu khắp chốn, bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh; đó là sắc thân với diệu lực rộng lớn, làm cho các chúng sinh có đủ phước đức; đó là sắc thân không gì có thể sánh, khiến các chúng sinh diệt trừ kiến chấp điên đảo; đó là sắc thân gồm vô lượng chủng loại, tùy tâm chúng sinh mà thị hiện đủ cả; đó là sắc thân vô biên tướng, hiện bày khắp nơi để điều phục tướng của chúng sinh; đó là sắc thân đối hiện khắp, dùng tự tại lớn mà hiện ra; đó là sắc thân hóa hiện tất cả, tùy chỗ ứng hợp của chúng sinh mà hiện tiền; đó là sắc thân luôn thị hiện, đến tận cùng cảnh giới của chúng sinh cũng không hết; đó là sắc thân trụ an lạc, gần gũi mọi hiểu biết để được an vui; đó là sắc thân không đoạn dứt, để thấy khắp một cách rốt ráo như hư không; đó là sắc thân đại oai đức, diệt trừ các pháp hư vọng của chúng sinh; đó là sắc thân không đi, nên đối với khắp các nẻo không có chỗ diệt; đó là sắc thân không đến, nên đối với các thế gian, không có chỗ xuất hiện; đó là sắc thân bất sinh, nên không sinh khởi; đó là sắc thân bất diệt, nên luôn tịch diệt; đó là sắc thân phi thật, nên được như thật; đó là sắc thân phi hư, nên tùy theo thế gian mà hiện; đó là sắc thân bất động, vĩnh viễn xa lìa sinh, diệt; đó là sắc thân bất hoại, nên pháp tánh không hoại; đó là sắc thân vô tướng, nên nẻo ngôn ngữ dứt bặt, đó là sắc thân nhất tướng, nên không tướng làm tướng; đó là sắc thân như hình tượng, nên tùy tâm ứng hiện; đó là sắc thân như huyễn, nên là thành tựu của trí huyễn; đó là sắc thân như ánh lửa, nên chỗ gìn giữ chỉ là theo tưởng; đó là sắc thân như ảnh, tùy nguyện mà sinh khởi; đó là sắc thân như mộng, tùy tâm mà hiện ra, đó là sắc thân pháp giới, tánh thanh tịnh như hư không; đó là sắc thân đại Bi, nên thường cứu giúp chúng sinh; đó là sắc thân vô ngại, nên hiện bày khắp pháp giới; đó là sắc thân vô biên, nên làm thanh tịnh khắp chúng sinh; đó là sắc thân vô lượng, vượt qua mọi ngôn thuyết; đó là sắc thân vô trụ, nên điều phục các chúng sinh; đó là sắc thân vô y, nên nguyện cứu độ khắp thế gian; đó là sắc thân vô xứ, thường giáo hóa khắp chúng sinh; đó là sắc thân vô sinh, nên chỗ thành tựu của nguyện là huyễn; đó là sắc thân vô thắng, nên vượt khỏi các thế gian; đó là sắc thân như thật nên là chỗ hiện của tâm định; đó là sắc thân bất sinh, nên tùy theo nghiệp của chúng sinh mà xuất hiện; đó là sắc thân như ý châu, nên làm viên mãn nguyện của tất cả chúng sinh, đó là sắc thân không phân biệt; nên chỉ tùy vào tâm nguyện của chúng sinh mà phát khởi; đó là sắc thân lìa phân biệt, nên hết thảy chúng sinh không thể nhận biết; đó là sắc thân lìa hư vọng, vĩnh viễn xa lìa pháp hư giả của chúng sinh; đó là sắc thân Hằng vô tận, đến tận ngằn mé sinh tử của các chúng sinh; đó là sắc thân Thanh Tịnh, giống như Như Lai; không phân biệt.

Đồng tử Thiện Tài, thấy phu nhân Ma-da hiện hết thảy những sắc thân như vậy; cuối cùng chẳng phải sắc, mà sắc tướng có được như ảnh tượng; cuối cùng chẳng phải thọ, vì các thọ của thế gian thảy đều di chuyển đến chỗ diệt; cuối cùng chẳng phải tưởng, vì chỗ hiện ra của tưởng, chỉ tùy vào chúng sinh, cuối cùng chẳng phải hành, vì chỉ dựa vào nghiệp như huyễn mà thành tựu; cuối cùng chẳng phải thức, vì nguyện của Bồ-tát là trí không và vô tánh; tất cả ngôn ngữ ở thế gian đều đoạn dứt; diệt trừ sinh tử và những bậc dọc, phiền não; an trụ ở thân Niết-bàn cao tột.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài lại thấy phu nhân Ma-da, tùy vào tâm vui của chúng sinh, tự tại hiện ra khắp nơi, như những gì có ở thế gian, hoặc vượt khỏi thế gian, như là thân của đủ các loại nữ nhân; đó là hiện thân ma nữ, hoặc hiện thân nữ cõi trời Tha hóa, hoặc hiện thân nữ cõi trời Hóa lạc, hoặc hiện thân nữ cõi trời Đâu-suất, hoặc hiện thân nữ cõi trời Dạ-ma, hoặc hiện thân nữ cõi trời Đao-lợi, hoặc hiện thân nữ cõi trời Tứ vương, hoặc hiện thân nữ các Long, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi Nhân ở khắp mọi nơi. Hiện ra nhiều thân nữ tương tự và những thân siêu quá như vậy, là để làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, hợp thành Nhất thiết trí; thực hành bình đẳng Bố thí ba-la-mật, đem tâm đại Từ phủ khắp thế gian; sinh ra công đức vô lượng của Như Lai, làm tăng trưởng việc tu tập trí Nhất thiết trí, quán sát và suy nghĩ thật tánh của các pháp, thâu hoạch được biển sâu nhẫn nhục, tinh tấn, chuyên cần, nhanh chóng, không biết mệt nghỉ, thường chuyển xe pháp thanh tịnh, không thoái lui, biết tường tận đến từng điểm nhỏ nhất của tất cả các pháp tánh; tụ ở cảnh giới bình đẳng Tam-muội, được định Như Lai, có ánh sáng tròn đầy làm tiêu tan hết biển lớn phiền não của chúng sinh, khéo léo biết rõ hết thảy pháp Phật; luôn dùng trí tuệ quán sát thật tướng của các pháp; thấy các Như Lai, tâm không chán mỏi; biết sự xúât hiện trước sau ba đời của Phật; thấy Tam-muội của Phật thường hiện ra trước mặt; gom khắp vô lượng các đạo thanh tịnh; đi đến các cảnh giới hư không của chư Phật; tùy vào tâm lạc mà quả trú khắp chúng sinh; dùng đủ các loại phương tiện để giáo hóa thành thục; nhập vào vô lượng Pháp thân thanh tịnh của Phật; thành tựu được nguyện lớn; làm thanh tịnh các cõi Phật; cuối cùng điều phục được hết thảy chúng sinh, tâm luôn nhập vào cảnh giới của chư Phật, tạo ra thần thông cho hết thảy Bồ-tát đã được thân pháp, thanh tịnh không nhiễm lại còn hiện ra vô lượng sắc thân, có sức tự tại dạo chơi đến chỗ các Như Lai, có sức bẻ gãy và hàng phục các ma oán thù, có sức thành tựu các căn lành, có sức sinh ra chánh pháp, có đầy đủ sức chư Phật, được sức của các Bồ-tát tự tại, có sức nhanh chóng làm tăng trưởng Nhất thiết trí, được ánh sáng trí của Phật, sẽ chiếu khắp tất cả; biết tất cả biển tâm vô lượng của chúng sinh; ham muốn giải rõ căn tánh với đủ những khác biệt, thân đó có đầy trong cõi biển mười phương; cũng biết được tướng thành hại của các cõi, dùng mắt rộng lớn, thấy biển mười phương, dùng trí biến khắp, biết biển ba đời, thân này thờ phụng khắp hết thảy biển Phật, tâm luôn được thâu nạp biển nhất thiết pháp, tu tập đầy đủ các loại công đức của hết thảy Như Lai, tùy thận sinh ra nhũng trợ đạo cho hết thảy trí tuệ của Bồ-tát, luôn vui vẻ quán sát tất cả Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm để được tu hành hạnh Ba-la-mật; sinh ra hết thảy các địa Bồ-tát, thâu gom tất cả sự tích tụ công đức của Bồtát, dũng mãnh tinh tấn, tâm không có chỗ để sợ, phổ biến sự thành tựu của đạo Bồ-đề của tất cả các Bồ-tát, luôn chuyên cần bảo vệ hết thảy chúng sinh, thường vui vẻ khen ngợi công đức của chư Phật; đem áng sáng chiếu khắp hết thảy thế gian, nguyện làm mẫu thân của hết thảy Bồ-tát.

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài thấy phu nhân Ma-da biến khắp mọi nơi, rồi lại dùng môn phương tiện như cực vi trần số, hiện ra nhiều như vậy ở cõi Diêm-phù-đề. Thấy như vậy rồi, Thiện Tài cũng hiện thân, hứa với phu nhân Ma-da là sẽ hiện số lượng thân giống như bà, đối với những nơi mà Ma-da đã tới trước thì cung kính lễ bái; tức thời đồng tử chứng được vô số vô lượng các môn Tam-muội, rồi từ các môn Tam-muội ấy mà khởi tâm phân biệt, quán sát, tu hành để chứng ngộ, rồi nhiễu quanh bên phải Ma-da cùng quyến thuộc tụ họp ở đó, xong rồi, chắp tay đứng qua một bên, thưa:

–Bạch Thánh giả! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, dạy con phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm cho con chuyên cần cầu các bậc Thiện tri thức. Con nghe theo lời dạy ấy, cho nên khắp những chỗ ở của Thiện tri thức, con đều đến để được gần gũi, thờ phụng, cúng dường, không ra khỏi hư không, có như vậy mà xoay dời, lần tìm cho tới hôm nay, cúi xin Thánh giả, vì con mà giảng nói: Bồ-tát làm thế nào học hạnh Bồ-tát để được thành tựu trí Nhất thiết trí?

Phu nhân Ma-da bảo Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ta đã thành tựu môn giải thoát Đại nguyện trang nghiêm trí huyễn của Bồ-tát, cho nên thường là mẫu thân của Bồ-tát. Thiện nam! Như ta đang ở trong cõi Diêm-phù-đề này; thuộc thành Ca-tỳ-la, trong nhà vua Tịnh Phạn, từ hông phải mà hạ sinh Thái tử Tất-đạt hiện ra bất tư nghì cảnh trang nghiêm rộng lớn; đó là sự biến hóa thần thông tự tại của Bồ-tát thọ sinh; như vậy cho đến tận cùng biển thế giới này, tất cả các Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na có được sự trụ thân cuối cùng, sẽ thị hiện đản sinh bằng những biến hóa thần thông tự tại, ta nhất nhất đều là thân mẫu; các Bồ-tát ấy đều nhập vào thân ta, rồi từ bên hông phải ta mà ra, để thành Nhất thiết trí. Này thiện nam! Ta ở trong cung vua Tịnh Phạn, khi Bồ-tát muốn hạ sinh, ta thấy trên thân Bồ-tát, ở mỗi lỗ chân lông, hết thảy đều phóng ra ánh sáng, tên là: Xe công đức của hết thảy Như Lai thọ sinh; cũng từ các lỗ chân lông ấy, nhất nhất đều hiện ra không thể nói, không thể nói cực vi trần cõi Phật, số Bồ-tát thọ sinh với những công đức thần biến trang nghiêm, còn các ánh ấy, chiếu khắp tất cả thế giới, chiếu xong lại quay về nhập vào đỉnh đầu ta, rồi lan ra khắp các lỗ chân lông trên thân ta. Thiện nam! Cũng trong ánh sáng ấy, tất cả Bồ-tát danh hiệu thọ sinh hiện ra khắp, với sự thần biến trang nghiêm rộng lớn, có cung điện, quyến thuộc tự tại vui vẻ với năm dục. Lại thấy Bồ-tát xả bỏ địa vị mà xuất gia, đến thẳng đạo tràng, hàng phục quân ma, thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, ngồi tòa Sư tử, có đủ các Bồ-tát trước sau vây quanh, có đủ các Thế chủ gần gũi cúng dường, vì các đại chúng mà chuyển xe chánh pháp. Lại thấy thuở xưa, các Như Lai tu hành Bồ-tát đạo, ở chỗ chư Phật, tôn trọng cúng dường, phát tâm Bồ-đề, làm thanh tịnh cõi nước của Phật mỗi niệm hiện ra vô lượng hóa thân, đầy khắp mười phương thế giới, biến hóa đủ các thọ sinh trang nghiêm, thành tựu vô lượng Bồ-đề, chuyển xe pháp diệu, cho đến cuối cùng, thần thông biến hóa hiện ra cảnh Niết-bàn rộng lớn. Những việc như vậy ta đều thấy cả.

Này thiện nam! Khi ánh sáng đẹp ấy nhập vào thân ta, số lượng hình ảnh của thân ta căn bản không tăng lên nhiều, nhưng kỳ thật nó đã vượt qua khỏi các thế gian. Vì sao? Vì thân ta lúc này số lượng bằng với hư không; ở trong thai tạng, có thể chứa nhận mọi thần thông biến hóa về cung điện trang nghiêm, tự tại thọ sinh của các Bồ-tát trong mười phương. Thiện nam! Bồ-tát lúc này, từ trời Đâu-suất, khi sắp giáng thần, thì có mười cõi Phật với cực vi trần số Bồ-tát, đều cùng với Bồ-tát đồng nguyện, đồng hành, đồng căn lành, đồng trang nghiêm, đồng giải thoát, đồng trí tuệ, đồng trụ địa, đồng thần thông, đồng xuất hiện, đồng oai lực, đồng Pháp thân thanh tịnh, đồng sắc thân oai đức… cho đến hạnh nguyện công đức của Phổ Hiền, cũng đều đồng hết, những Bồ-tát như vậy trước sau vây quanh. Lại có tám vạn các đại Long vương, mà đứng đầu là Ta-kiệt-la Long vương; cùng với các thế chủ, chở đủ các lầu gác ma-ni, cùng đến để gần gũi, thờ phụng, cúng dường, Bồ-tát. Lúc này các Bồ-tát, dùng sức thần thông, hiện ra các cung điện của trời Đâu-suất; trong mỗi cung điện ấy, tất cả những biến hóa thần thông không thể nghĩ bàn về ảnh tượng thọ sinh ở cõi Diêm-phù-đề của hết thảy thế giới trong mười phương đều được hiện ra, vô lượng chúng sinh nhờ đó được giáo hóa, điều phục, khiến được giác ngộ, không sinh buông tha, dứt các biếng lười, không còn chỗ đắm chìm. Lại còn dùng sức thần thông, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp thế gian phá tan tối tăm mờ ám, diệt các khổ não, thoát cảnh giới của những ham muốn, làm cho chúng sinh biệt được đời trước đã tạo những nghiệp gì để vĩnh viễn ra khỏi đường ác. Lại vì cứu giúp chúng sinh, mà hiện ra khắp trước họ; tạo những thần biến để thực hiện những việc kỳ lạ và đặc biệt… Rồi cùng với toàn thể quyến thuộc, rời Thiên cung, đến nhập vào thân ta; những Bồ-tát ấy, ở trong bụng ta, hiện thần thông lớn, dạo chơi tự tại, cứ một bước là dạo khắp tam thiên đại thiên thế giới, cho đến, cũng một bước, có thể dạo khắp bất khả thyuết không thể nói cõi Phật cựu vi trần số thế giới. Lại trong từng niệm từng niệm hiện ra vô số thế giới nhiều như số cực vi trần không thể nói hết các cõi Phật nơi mười phương, từ chỗ của các Như Lai, từ chúng hội của Bồ-tát, từ Tứ Thiên vương, trời Tam thập tam, trời Tu-dạ-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, cho đến cảnh giới của sắc, các vua trời Phạm thiên cũng đều đến đông đủ; muốn thấy sự biến hóa thần thông rộng lớn của thai nơi Bồ-tát; để cung kính cúng dường, nghe nhận chánh pháp. Tất cả đều nhập vào thân ta, trong bụng ta tất phải chứa nhận số chúng lợi như vậy, mà thân ta thì không rộng lớn, cũng không đến nỗi chật hẹp, cho nên các Bồ-tát đó, mỗi người đều tự thấy được nơi bày trí trang nghiêm thanh tịnh của chúng hội đạo tràng. Thiện nam! Như trong cõi Diêm-phù-đề thuộc bốn châu thiên hạ này, Bồ-tát thọ sinh ta đều làm mẹ của họ thì trong cõi Diêm-phù-đề thuộc trăm ức bốn đại châu của tam thiên đại thiên thế giới, tất cũng như vậy. Vì thân ta, xưa nay vốn không hai, lại cũng chẳng phải một, chẳng phải trụ một nơi, chẳng phải trụ nhiều nơi. Vì sao? Vì ta đã tu tập pháp môn giải thoát Đại nguyện trú huyễn trang nghiêm của Bồ-tát. Thiện nam! Ta nay là thân mẫu của Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na; vô lượng chư Phật có ở thuở xưa, tất cũng như vậy, ta vẫn là mẫu thân.

Này thiện nam! Thuở xưa, ta là thần giữ ao hoa sen, lúc này có Bồ-tát, bỗng nhiên hóa sinh ở liên hoa tàng; ta liền hứng đỡ và ôm lấy, coi sóc việc hầu hạ, dưỡng dục, tất cả thế gian gọi ta là thân mẫu Bồ-tát. Lại nữa, khi xưa ta làm thần ở Bồ-đề đạo tràng, thời có Bồ-tát, bỗng nhiên hóa sinh trong tâm ta, thế gian cũng gọi ta là thân mẫu Bồtát. Thiện nam! Đã có vô lượng Bồ-tát như vậy; trụ thân cuối cùng, ở thế giới này, với đủ các loại phương tiện, biến hóa thần thông rộng lớn để thị hiện sự thọ sinh, ta đều là mẫu thân. Thiện nam! Như vậy trong kiếp Hiền của thế giới này, Đức Như Lai xuất hiện đầu tiên là Câulưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai, Ca-diếp Như Lai và đến nay là Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai, khi thị hiện sự thọ sinh, ta đề là mẫu thân.

*********

Thiện nam! Trong đời vị lai của hiền kiếp này, lúc sắp giáng thần, Bồ-tát Di-lặc từ cõi trời Đâu-suất, phóng đại hào quang, chiếu khắp pháp giới, thị hiện thần biến tự tại rộng lớn thọ sinh thân cuối cùng của tất cả các Bồ-tát, sinh vào nhà tôn quý nhất trong đời, để điều phục chúng sinh. Lúc ấy, ta cũng làm mẫu thân của ngài. Tuần tự như thế, có các Đức Như Lai như Như Lai Sư Tử, Như Lai Đại Pháp Quang Tràng, Như Lai Diệu Nhãn, Như Lai Thanh Tịnh Câu-tô-ma Hoa, Như Lai Diệu Hoa Cát Tường, Như Lai Đề-xá, Như Lai Phất-sa, Như Lai Diệu Ý, Như Lai Kim Cang, Như Lai Ly Cấu, Như Lai Đại Nguyệt Quang, Như Lai Trì Cự, Như Lai Danh Xưng, Như Lai Kim Cương Thuẫn, Như Lai Thanh Tịnh Nghĩa, Như Lai Kiến Nhất Nghĩa, Như Lai Cám Thân, Như Lai Siêu Bỉ Ngạn, Như Lai Bảo Diễm Quang, Như Lai Bảo Diễm Sơn, Như Lai Trì Đại Cự, Như Lai Thắng Liên Hoa, Như Lai Xuất Sinh Liên Hoa, Như Lai Danh Xưng Thanh, Như Lai Vô Lượng Công Đức Tài, Như Lai Tối Thắng Đại Cát Tường, Như Lai Trang Nghiêm Thân, Như Lai Diệu Xưng Lượng, Như Lai Tư Cát Tường, Như Lai Diệu Oai Nghi, Như Lai Biến Hóa, Như Lai Vô Trụ, Như Lai Thắng Oai Quang, Như Lai Vô Biên Thanh, Như Lai Thắng Oán Địch, Như Lai Trừ Nghi Hoặc, Như Lai Thanh Tịnh, Như Lai Quảng Bác Quang, Như Lai Xuất Hiện Thanh Tịnh Danh Xưng, Như Lai Vân Cát Tường, Như Lai Chủng Chủng Sắc Trang Nghiêm Đỉnh Kế, Như Lai Đại Thọ Vương, Như Lai Nhất Thiết Bảo, Như Lai Chủng Chủng Sắc, Như Lai Bảo Nhĩ Đương, Như Lai Kiên Lao Trí,

Như Lai Đại Hải Tuệ, Như Lai Tịnh Diệu Bảo, Như Lai Liên Hoa Quan, Như Lai Thắng Lực Sĩ, Như Lai Nguyện Nhạo Viên Mãn, Như Lai Liên Hoa Mạn, Như Lai Đại Tự Tại, Như Lai Cát Tường Chủ, Như Lai Tối Siêu Thắng, Như Lai Bạch Chiên-đàn Vân, Như Lai Cám Thanh Quảng Bát Nhãn, Như Lai Vi Diệu Trí, Như Lai Thù Thắng Tuệ, Như Lai Quán Sát Tuệ, Như Lai Xí Thạnh Vương, Như Lai Kiên Cố Tuệ, Như Lai Trang Nghiêm Vương, Như Lai Cụ Túc Cát Tường, Như Lai Hỷ Sư Tử Vương, Như Lai Tự Tại Thiên, Như Lai Tự Tại Sư Tử Vương, Như Lai Tối Thắng Đảnh Cát Tường, Như Lai Kim Cang Trí Cát Tường, Như Lai Sơn Quang Minh, Như Lai Diệu Đức Tạng, Như Lai Diệu Bảo Võng, Như Lai Trang Nghiêm Thân, Như Lai Trụ Diệu Tuệ, Như Lai Trí Tự Tại, Như Lai Đại Tự Tại Thiên Vương, Như Lai Vô Đắc Tướng Cát Tường, Như Lai Thanh Tịnh Hỷ, Như Lai Thiện Thí Tuệ, Như Lai Diệu Diễm Tuệ, Như Lai Thủy Thiên Cát Tường, Như Lai Thanh Tịnh Trí, Như Lai Đắc Thượng Vị, Như Lai Thừa Cao Phong, Như Lai Tự Tại Công Đức, Như Lai Hộ Thế Oán, Như Lai Hưng Thế Ngữ Ngôn, Như Lai Công Đức Tự Tại, Như Lai Oai Đức Tràng, Như Lai Tỳ-lô-giá-na Diệu Tràng, Như Lai Quán Thân Tánh, Như Lai Ly Hữu Hương, Như Lai Tu Tập Hương, Như Lai Chủng Chủng Phân Biệt Diệu Thân, Như Lai Diệu Quảng Bát Thân, Như Lai Nhất Thiết Hương Diễm Vương, Như Lai Chủng Chủng Sắc Kim Cương Ma-ni Nghiêm, Như Lai Vi Tiếu Nhãn, Như Lai Ly Trần Nhiễm, Như Lai Tăng Trưởng Thân, Như Lai Thiện Biến Hóa Tụ Tập Nhân Thiên, Như Lai Quảng Đại Thiên, Như Lai Tài Thiên, Như Lai Vô Thượng Thiên, Như Lai Tu Tịch Diệt, Như Lai Khai Phu Giác Ngộ Trí, Như Lai Tẩy Địch Hoặc Cấu, Như Lai Đại Diễm Quang Vương, Như Lai Tịch Chư Hữu, Như Lai Tỳ-xá-khư Thiên, Như Lai Kim Cang Sơn, Như Lai Trí Diễm Quang, Như Lai Đại Diễm Quang Thân, Như Lai Tác An Lạc, Như Lai Tịch Tĩnh Sư Tử, Như Lai Viên Mãn Thanh Tịnh, Như Lai Thanh Tịnh Diệu Hiền, Như Lai Danh Xưng Cát Tường, Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn, Như Lai Đệ Nhất Nghĩa Hạnh, Như Lai Tịch Tĩnh Quang, Như Lai Tối Thắng Tăng Thượng, Như Lai Thâm Diệu Thanh, Như Lai Nhất Thiết Đại Địa Chủ, Như Lai Cám Thanh Quang, Như Lai Trang Nghiêm Vương, Như Lai Diệu Âm Thanh Cát Tường, Như Lai Thù Thắng, Như Lai Tối Thắng Cát Tường, Như Lai Tôn Thắng Tự Tại, Như Lai Vô Thượng Y Vương, Như Lai Công Đức Nguyệt, Như Lai Vi Tiếu Quang, Như Lai Vô Ngại Quang, Như Lai Công Đức Tụ, Như Lai Nguyệt Cao Hiện, Như Lai Nhật Thiên, Như Lai Vô Úy Xưng, Như Lai Xuất Chư Hữu, Như Lai Dũng Mãnh Danh Xưng, Như Lai Diễm Quang Diện, Như Lai Sa-la Vương, Như Lai Danh Xưng Tụ, Như Lai Tối Thắng, Như Lai Dược Vương, Như Lai Bảo Thắng, Như Lai Kim Cang Tuệ, Như Lai Bạch Tịnh Cát Tường, Như Lai Tịch Tĩnh Trụ Xứ, Như Lai Ma-ni Vương, Như Lai Vô Năng Thắng, Như Lai Vô Năng Oánh Tế, Như Lai Chúng Hội Vương, Như Lai Đại Danh Xưng, Như Lai Tốc Tật Thọ Trì, Như Lai Vô Lượng Quang, Như Lai Đại Nguyện Quang, Như Lai Bất Không Tự Tại Vương, Như Lai Pháp Tự Tại Vương, Như Lai Cao Thắng Diễm Quang, Như Lai Bất Thoái Chuyển Địa, Như Lai Thanh Tịnh Thiên, Như Lai Diệu Thiện Thiên, Như Lai Kiên Cố Hạnh Hủy Dự Bất Động, Như Lai Nhất Thiết Thiện Hữu, Như Lai Giải Thoát Âm, Như Lai Du Hý Vương, Như Lai Diệt Tà Khúc, Như Lai Chiêmbặc Tịnh Quang, Như Lai Tối Thắng Đức, Như Lai Cực Thắng Nguyệt, Như Lai Chấp Minh Cự, Như Lai Thù Diệu Thân, Như Lai Bất Khả Thuyết, Như Lai Tối Thanh Tịnh, Như Lai Hữu An Chúng Sinh, Như Lai Vô Lượng Quang Minh, Như Lai Vô Úy Âm Thanh, Như Lai Thủy Thiên Công Đức, Như Lai Bất Động Tuệ Quang, Như Lai Câu-tô-ma Hoa Thắng, Như Lai Bảo Nguyệt Diễm Quang, Như Lai Bất Thoái Chuyển Tuệ, Như Lai Ly Ái Nhiễm, Như Lai Vô Trước Tuệ, Như Lai Tập Công Đức Ấm, Như Lai Diệt Ác Thú, Như Lai Bất Khiếp Bố, Như Lai Phổ Tán Hoa, Như Lai Sư Tử Hống, Như Lai Đắc Đệ Nhất Nghĩa, Như Lai Đắc Chủng Chủng Nghĩa, Như Lai Kiến Vô Chướng Ngại, Như Lai Tồi Phục Tha Tánh, Như Lai Tật Phong Hành, Như Lai Bất Động Chánh, Như Lai Ly Phân Biệt Hải, Như Lai Vô Năng Thắng, Như Lai Đoan Nghiêm Hải, Như Lai Tu-di Sơn, Như Lai Hương Phong Trí, Như Lai Vô Biên Tòa, Như Lai Đấu Chiến Thắng, Như Lai Vô Năng Hành, Như Lai Thanh Tịnh Trụ, Như Lai Tối Thượng Thí, Như Lai Tùy Thuận Từ Bi Sinh, Như Lai Thường Nguyệt, Như Lai Nhiêu Ích Vương, Như Lai Bất Động Uẩn, Như Lai Cực Diệu Ý, Như Lai Tùy Thuận Nhiếp Trí, Như Lai Cực Cao Thọ, Như Lai Diễm Quang Thân, Như Lai Vô Tỷ Danh, Như Lai Nhiêu Ích Tuệ, Như Lai Trì Thọ, Như Lai Diệt Ngã Mạn, Như Lai Chủng Chủng Sắc Tướng, Như Lai Cụ Túc Danh Xưng, Như Lai Đại Oai Đức Lực, Như Lai Vô Diệt, Như Lai Bất Động Thiên, Như Lai Bất Tư Nghì Cát Tường, Như Lai Giải Thoát Nguyệt, Như Lai Tối Thượng Vương, Như Lai Mãn Nguyệt Uẩn, Như Lai Phạm Cúng Dường, Như Lai Bất Động Nhãn, Như Lai Hy Hữu Thân, Như Lai Vô Tướng Tuệ, Như Lai Ái Cảnh Giới, Như Lai Cực Siêu Quá, Như Lai Cao Thượng Sự Nghiệp, Như Lai Bảo Pháp Tuệ, Như Lai Thuận Tiên Cổ, Như Lai Vô Thượng Cát Tường, Như Lai Vô Thắng Phạm Thiên, Như Lai Bất Tư Nghì Công Đức Quang, Như Lai Vô Thượng Pháp Cảnh Giới, Như Lai Vô Biên Tế Hiền, Như Lai Phổ Thuận Tự Tại, Như Lai Cực Tôn Thắng Thiên. Như thế, cho đến Như Lai Lâu Chí. Các ngài đều công đức viên mãn, mang thân cuối cùng trong hiền kiếp này. Tất cả sẽ thành Phật trong tam thiên đại thiên thế giới này, ta đều làm mẫu thân. Đồng với tam thiên đại thiên thế giới này, biển thế giới Hoa tạng trang nghiêm cũng thế. Những thế giới trong tất cả các loại thế giới, trong mỗi tứ thiên hạ thuộc cõi Diêm-phù-đề, cho đến tất cả biển thế giới khắp mười phương, tất cả các thế giới có trong ấy, trong các kiếp tận đời vị lai, những vị tu hành hạnh nguyện Phổ hiền, để điều phục các chúng sinh; khi dùng sức tự tại thị hiện đản sinh, Ta đều tự thấy mình phải làm mẹ của họ.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài bạch với phu nhân Ma-da:

–Bạch Đại thánh! Phật mẫu đạt được môn giải thoát Trang nghiêm đại nguyện trí huyễn của Bồ-tát này bao lâu rồi?

Đáp:

–Thiện nam! Vào thuở xa xưa, với số kiếp không thể nghĩ bàn chẳng phải đạo nhãn thần biến của Bồ-tát thọ thân cuối cùng mà biết được! Lúc ấy, có kiếp tên là Tịnh quang, thế giới tên là Tu-di đức, tuy có năm nẻo ở chung lẫn lộn với núi non; nhưng cõi nước đó, không có các sự cấu uế xấu xa, tất cả do các báu hợp thành, thanh tịnh, viên mãn, xinh đẹp, đáng yêu. Nơi thế giới này, có ngàn ức tứ thiên hạ; có một tứ thiên hạ tên là Hương phong oai đức sư tử tràng; bên trong có tám mươi ức vương thành, trong đó có một thành tên là Tối thắng cụ túc tràng, có vua Chuyển luân tên Dũng Mãnh Tinh Tấn Đại Oai Đức; phía Bắc của vương thành ấy, có một đạo tràng, tên là Chủng chủng diệu sắc quang, đạo tràng này có một vị thần tên là Cát Tường Nhãn. Khi ấy, có một Bồ-tát tên là Vô Cấu Tràng, ngồi nơi đạo tràng sắp thành Chánh giác; cùng lúc ấy, có một ma ác tên là Kim Sắc Quang cùng vô lượng quân ma quyến thuộc, đủ loại hình dáng, tướng mạo, đến chỗ Bồ-tát muốn náo loạn, quấy nhiễu. Vị vua Chuyển luân ấy, đã đắc thần thông tự tại của Bồ-tát, vì để tiêu diệt quân ma kia nên ngài dùng đại thần biến hóa ra đại hùng binh, nhiều gấp đôi, bao vây đạo tràng làm cho các ma đều sợ hãi chạy tán loạn và vị Bồ-tát này được thành tựu Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, vị thần của đạo tràng trông thấy sự việc đó rồi, hết sức vui mừng và mong muốn được làm mẹ của vị vua ấy, nên cúi đầu, đảnh lễ sát chân Phật, phát nguyện: “Xin nguyện cho vị Chuyển luân Oai Đức này sinh ra bất cứ nơi nào đều làm con của ta cho đến khi thành Phật. Ta nguyện luôn luôn được làm mẹ của vị ấy”. Phát nguyện rồi, lại được gặp mười ức Đức Phật ở đạo tràng và thờ phụng cúng dường làm cho các ngài hoan hỷ.

Thiện nam! Ông nghĩ thế nào? Vị thần đạo tràng ấy nào phải ai xa lạ, chính là thân ta. Vua Chuyển luân nay chính là Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Từ lúc ta phát nguyện trước Đức Thế Tôn đến nay; ở khắp tất cả các nẻo thế giới trong mười phương thọ sinh trong bất cứ loài nào và bất cứ nơi nào, cũng tinh tấn dũng mãnh, trồng các thiện căn, cúng dường Đức Như Lai, tu hạnh Bồ-tát, giáo hóa làm cho tất cả chúng sinh được thành thục, cho đến thị hiện trụ thân cuối cùng. Trong từng niệm ở khắp mười phương thế giới, nếu có Bồ-tát thị hiện thần biến thọ sinh thì vị ấy đều làm con ta, ta đều làm thân mẫu.

Thiện nam! Các Đức Như Lai trong quá khứ và hiện tại ở vô lượng thế giới khắp mười phương; khi sắp thành Phật, đều từ trong rốn phóng ra đủ các loại ánh sáng rộng lớn chiếu đến thân, cung điện và chỗ ở của quyến thuộc ta. Trụ thân cuối cùng của các vị ấy, ta đều làm thân mẫu.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Đại nguyện trang nghiêm trí huyễn này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát, đầy đủ tạng đại Bi, dùng Nhất thiết trí giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh không biết mỏi mệt, trụ hạnh an nhẫn, luôn biết tri túc, uống vị cam lộ, tâm không cùng tận, tất cả chúng ma và các người ác không thể quấy nhiễu, tâm không dao động, tâm không khinh suất, tâm không thiên vị, tâm không dua nịnh giả dối, không đi vào rừng tà kiến, trong từng niệm được nhập trăm ngàn Tam-muội, trong từng niệm được gặp trăm ngàn Đức Phật, trong từng niệm biết được trăm ngàn oai lực của Phật, trong từng niệm có khả năng làm cho rung chuyển cả trăm ngàn thế giới, trong từng niệm dạo khắp trăm ngàn cõi Phật, trong từng niệm phóng ra ánh sáng khắp trăm ngàn thế giới, trong từng niệm làm thành khắp trăm ngàn chúng sinh, trong từng niệm trụ tự tại trong trăm ngàn kiếp, trong từng niệm thâm nhập vào cả trăm ngàn kiếp ở quá khứ và vị lai, trong từng niệm am hiểu cả trăm ngàn pháp môn, trong từng niệm thị hiện trăm ngàn thân Phật, trong từng niệm thị hiện trăm ngàn Bồ-tát dùng làm quyến thuộc, bằng năng lực tự tại trong từng niệm, đối với khắp các lỗ chân lông hiện ra vô lượng sự thần thông biến hóa của chư Phật làm thành tựu niềm tin tuyệt đối đối với Tam bảo, khéo léo thông suốt phân vị sự sinh diệt của các hành, khéo léo thông đạt những bản tánh vô sinh của đủ các loại pháp, khéo léo thông đạt đủ các sự biến chuyển thành hoại của thế gian, khéo léo thông đạt đủ các sự thọ sinh khác nhau của các nghiệp, khéo léo thông đạt đủ các loại ngằn mé sinh tử và Niết-bàn, khéo léo thông đạt đủ các sự nhiễm tịnh không đồng của các cõi Phật, khéo léo thông đạt đủ các sự tu tập của tất cả Bồ-tát trong quá khứ và vị lai, khéo léo thông đạt tất cả các pháp đều vô tướng, vô tận thì làm sao ta có thể biết và nói hết công đức, trí và hạnh của các vị ấy.

Này thiện nam! Ở cõi trời Tam thập tam này, có một vị vua, tên là Cụ Túc Chánh Niệm. Vị ấy có người con gái tên là Thiên Chủ Quang, ông đến thỉnh vấn cô ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồtát và tu đạo Bồ-tát.

Cung kính tiếp nhận lời dạy rồi, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát

chân vị ấy, đi nhiễu quanh vô số vòng, một tâm chiêm ngưỡng, mến mộ lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, vâng lời dạy của Thiện tri thức, Đồng tử Thiện Tài đi đến cung của Thiên vương Cụ Túc Chánh Niệm, ở cõi trời Tam thập tam. Gặp Thiên nữ ấy, đồng tử đến đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh rồi đứng trước, chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết, Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Con nghe nói Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin giảng dạy cho con.

Thiên nữ đáp:

–Thiện nam! Ta đạt được môn Giải thoát niệm thanh tịnh trang nghiêm vô ngại của Bồ-tát.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn giải thoát này thế nào? Do tu hành pháp gì mà đạt được môn giải thoát ấy?

Thiên nữ đáp:

–Thiện nam! Bồ-tát cần phải tu vô lượng bất tư nghì pháp môn mới được môn giải thoát này. Nếu ông muốn nhập môn giải thoát này, thì cũng phải chuyên cần tinh tấn tu học như thế. Thế nào là chuyên cần tu bất tư nghì pháp môn?

Đó là: Ông nên chuyên cần tu bất tư nghì trí về nghĩa của các pháp, nghĩa là: Hiểu biết đúng sự khác nhau giữa thật thể tánh tướng của tất cả pháp.

Ông nên chuyên cần tu tập và giữ gìn chánh pháp, nghĩa là: Trong tất cả các pháp vi diệu, nếu bị người phỉ báng thì đem nghĩa lý bẻ gãy, để nêu rõ nghĩa thù thắng.

Ông nên chuyên cần tu tập về giới biểu và vô biểu, nghĩa là: Quán sát thật sâu sắc, không để khiếm khuyết về tánh giới, già giới, có tội, không tội.

Ông nên chuyên cần tu tập pháp không tranh tụng, nghĩa là: Thường tránh xa những nơi hội họp vô ích và những chỗ bàn tán đủ những lời quanh co dối trá của thế gian.

Ông nên chuyên cần tu tập và trụ ở hàng an nhẫn, nghĩa là:

Quán sát sâu kỹ và có khả năng nhẫn chịu đủ các sự khổ não, bức bách thân tâm.

Ông nên chuyên cần tu tập nhẫn nại các cảnh giới, nghĩa là: Thường an nhẫn trước những lời ác nhục mạ, sự độc hại oán kết; không để cho tổn hại đến nội tâm.

Ông nên chuyên cần tu tập am hiểu pháp vi tế, nghĩa là: Biết rõ sự lưu chuyển và hoàn diệt của uẩn, xứ, giới và hiểu rõ tánh tướng của chúng đều không thể nắm bắt.

Ông nên chuyên cần tu tập về câu pháp cho thiện xảo, nghĩa là: Khi tuyên thuyết các loại pháp môn sẽ làm cho chúng hiển bày tánh tướng chân thật.

Ông nên chuyên cần tu tập về sự hợp pháp và không hợp pháp; nghĩa là: Biết rõ tánh của các pháp là không thể cướp đoạt, cũng không tăng không giảm xa hẳn cả pháp hợp và không hợp.

Ông nên chuyên cần tu tập về quán chiếu trí quá khứ, nghĩa là: Quán sát kỹ các nghiệp nhân khác nhau, biết rõ các tướng thiện ác…

Ông nên chuyên cần tu tập trí ngằn mé vị lai; nghĩa là: Quán sát thật kỹ về các nghiệp duyên khác nhau, biết rõ cả tướng quả báo…

Ông nên chuyên cần tu tập sự bình đẳng trong ba đời; nghĩa là: Tuy hành tướng của ba đời không đồng nhau, nhưng tùy theo pháp an trụ mà có sự sai biệt.

Ông nên chuyên cần tu tập làm cho tam luân thanh tịnh; nghĩa là: Tánh của tất cả các pháp ở quá khứ, hiện tại và vị lai không thể nắm bắt, xa rời tâm ý.

Ông nên chuyên cần tu tập pháp trụ xứ của tâm, nghĩa là: Hiểu rõ khắp trong, ngoài và trung gian, tướng tâm và bản tánh đều không thể nắm bắt.

Ông nên tu tập giữ gìn oai nghi, nghĩa là: Trong tất cả thời gian, luôn quán sát sâu sắc về nghiệp thân, khẩu, ý, không để chúng bị mê hoặc.

Ông nên chuyên cần tu tập, làm cho oai nghi thanh tịnh; nghĩa là: Phải bảo vệ các căn môn một cách nghiêm ngặt, để lưu giữ thiện pháp, thường xuyên bỏ ra ngoài những pháp bất thiện.

Ông nên chuyên cần tu tập xa lìa những pháp ác; nghĩa là: Luôn

giác ngộ: “Không sống với hàng phàm phu ngu si có nhiều loại pháp ác”.

Ông nên chuyên cần tu tập hạnh Bồ-tát; nghĩa là: Ở khắp mọi nơi, sự tinh tấn thông hiểu và dũng mãnh giúp thực hiện đầy đủ các hạnh, giúp làm được những việc khó làm.

Ông nên chuyên cần tu tập, cung kính các bậc cao đức; nghĩa là: Siêng năng cung cấp giường nằm chỗ ngồi và các vật cúng dường, thân tâm khiêm nhường tiếp đón, hầu cận, không giải đãi.

Ông nên chuyên cần tu tập thâu giữ thân tâm; nghĩa là: Thường thông hiểu và có khả năng thâu tóm và cầm giữ toàn bộ các pháp thanh tịnh, không mất, không hư.

Ông nên chuyên cần tu tập tùy thuận giác trí; nghĩa là: Nương vào tánh tướng của các pháp thế gian và xuất thế gian mà giác ngộ.

Ông nên chuyên cần tu tập và nhập vào pháp sâu xa; nghĩa là: Thông đạt tất cả các tướng của pháp sinh diệt, làm cho tâm tăng trưởng vô sinh trí.

Ông nên chuyên cần tu tập âm thanh pháp trí, nghĩa là: Diễn thuyết chân thật đủ các pháp môn, khai thị tánh chân thật của ngôn ngữ.

Ông nên chuyên cần tu tập xa hẳn những điều vô ích; nghĩa là: Dùng các phương tiện làm cho mình và người vượt khỏi các pháp hữu vô ích.

Ông nên chuyên cần tu tập sự nhóm họp của hàng trượng phu; nghĩa là: Thường thân cận, phụng thờ và cúng dường các Đức Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác.

Ông nên chuyên cần tu tập, tránh xa các ác tri thức nghĩa là: Xa hẳn những kẻ chấp thường, đoạn kiến và những chúng sinh ác, lười biếng.

Ông nên chuyên cần tu tập, không nương tựa vào hàng phàm phu; nghĩa là: Thấy pháp phàm phu đều là ngu si nhưng cũng cho là khế hợp để tạo ra nhiều tội lỗi.

Ông nên chuyên cần tu tập tâm thường bất khinh; nghĩa là: Đối với tất cả chúng sinh nên thông hiểu tánh là bình đẳng, không khinh khi những chúng sinh bần cùng.

Ông nên chuyên cần tu tập và thương tưởng những người phá giới; nghĩa là: Dùng đại Từ bi cứu vớt kẻ phạm tội, đặt họ vào trong giới thanh tịnh của Bồ-tát.

Ông nên chuyên cần tu tập, làm tăng trưởng năng lực Từ bi, nghĩa là: Quán sát và cứu hộ tất cả sự bức bách của chúng sinh trong mười phương ba đời.

Ông nên chuyên cần tu tập thâu nhận tài và pháp; nghĩa là: Tài sản và thức ăn uống thâu gom nuôi dưỡng các chúng sinh, làm cho họ có thể nhập sâu vào pháp chân thật.

Ông nên chuyên cần tu tập việc làm đi đôi với lời nói; nghĩa là: Tu tập đủ các điều thiện, khai mở tự tâm làm cho chúng đầy đủ sự tôn vinh và tròn đầy tuyệt đối.

Ông nên chuyên cần tu tập bằng điều thiện khế hợp; nghĩa là: Cầu Túc trụ trí để khéo léo mở rộng việc học mà có khả năng biết hạnh tương ưng với quá khứ.

Ông nên chuyên cần tu tập cảnh vui sống một mình nơi thanh vắng; nghĩa là: Xa lánh những nơi mọi người bàn luận huyên náo, nên vui thú thân cận với pháp bạch tịnh.

Ông nên chuyên cần tu tập thiểu dục tri túc; nghĩa là: Đối với đồ ăn, thuốc men, thức uống, y phục; chính mình thực hiện và dạy người biết dừng, biết đủ.

Ông nên chuyên cần tu tập pháp hạnh tương ưng, nghĩa là chuyên cần tu tập ba mươi bảy phẩm của pháp Bồ-đề phần để làm cho chúng khế hợp.

Ông nên chuyên cần tu tập cảnh giới của hạnh Bồ-tát; nghĩa là: Tu tập đầy đủ mười Ba-la-mật và tất cả các hạnh môn làm cho chúng được viên mãn.

Ông nên chuyên cần tu tập các pháp của hàng Bồ-tát; nghĩa là: Chứng biết hết sự nhập và an trụ vào mười loại trí, cho đến phát sinh tướng tốt và đắc quả.

Ông nên chuyên cần tu tập và nhập vào quả vị của Như Lai; nghĩa là: Chứng đắc tất cả trí Bồ-đề và đoạn trừ đủ các thể dụng chướng ngại.

Ông nên chuyên cần tu tập pháp khó liễu tri; nghĩa là: Thông

hiểu sự chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn và Độc giác.

Ông nên chuyên cần tu tập không nắm giữ các tướng; nghĩa là: Tu tập và giác ngộ về tánh tướng của các pháp là như huyễn, như mộng, đồng với thật tướng.

Ông nên chuyên cần tu tập về pháp trí giải thoát; nghĩa là dùng Tam-muội Kim cương, nghiền tan bụi trần, thói quen, lắng trong vọng niệm mà trí không bị dao động.

Thiện nam! Với đủ loại pháp môn chẳng thể nghĩ bàn nhiều như cực vi trần của cõi Phật như thế, ta đều chuyên cần tu tập nên đạt được môn giải thoát này. Nếu như ông có thể tu hành thì cũng sẽ chứng đắc như vậy.

Thiện nam! Vừa rồi ông hỏi về cảnh giới giải thoát, những môn giải thoát của cảnh giới vô biên?

Thiện nam! Nhờ đạt được năng lực của môn giải thoát này nên ta nhớ lại thời xa xưa. Thuở ấy, có kiếp tên là hoa Ưu-bát-la. Trong kiếp đó, ta phụng sự, cúng dường hằng hà sa số chư Phật, Như Lai. Ta thực hiện các việc ấy, từ khi các vị mới xuất gia, cho đến xây dựng chùa tháp; ta luôn dâng đủ các vật dụng để bảo hộ và cúng dường. Lại từ lúc Đức Như Lai ấy còn là Bồ-tát như: Lúc vào thai mẹ, lúc đản sinh, lúc đi bảy bước, lúc cất tiếng rống Sư tử, lúc làm đồng tử, lúc ở trong cung, lúc nhàm chán ngôi vua, bắt đầu xuất gia, lúc đến cội Bồđề thành Chánh giác, lúc chuyển pháp luân, hiện thần biến Phật; giáo hóa điều phục chúng sinh… Tất cả những sự việc ấy, ta đều nhớ rõ hết, không thiếu sót điều nào, chúng luôn hiện rõ nơi ký ức, ghi nhớ không quên.

Lại nhớ thuở quá khứ, kiếp tên Thiện địa; trong kiếp ấy ta được gặp gỡ, phụng sự, cúng dường mười hằng sa Đức Phật Như Lai.

Lại nhớ kiếp Diệu đức, trong kiếp ấy, ta gặp và phụng sự cúng dường các Đức Phật nhiều như cực vi trần trong mười thế giới của Phật Như Lai.

Lại nhớ thuở xưa, kiếp tên là Vô sở đắc; trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường tám mươi trăm ngàn ức na-do-tha Đức Phật Như Lai.

Lại nhớ có kiếp tên là Diệu quang; trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường cực vi trần cõi Diêm-phù-đề Đức Phật Như Lai.

Lại nhớ thuở xưa, có kiếp tên là Vô xưng quang, trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường hai mươi hằng hà sa Đức Phật Như Lai.

Lại nhớ kiếp xưa, tên là Tối thắng cát tường, trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường một hằng sa chư Phật Như Lai.

Lại nhớ kiếp xưa, tên là Xuất hiện nhật, trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường tám mươi hằng sa chư Phật Như Lai.

Lại nhớ kiếp xưa, tên là Thắng tánh du hành, trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường sáu mươi hằng sa Đức Phật.

Lại nhớ có kiếp tên là Diệu nguyệt; trong kiếp ấy, ta được gặp và phụng sự cúng dường bảy mươi hằng sa chư Phật Như Lai.

Thiện nam! Nhớ lại hằng sa kiếp như thế, ta luôn gần gũi các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và dùng đủ các phương tiện cung kính cúng dường. Từ nơi tất cả các Đức Như Lai ấy, ta đều được nghe môn giải thoát Niệm thanh tịnh trang nghiêm vô ngại của Bồ-tát này, nghe rồi, luôn ghi nhớ, thọ trì theo. Những việc phụng sự cho các Đức Như Lai, từ sơ phát tâm cho đến pháp tận ở trong các kiếp xưa, ta đều nhờ và sức lực môn giải thoát Thanh tịnh trang nghiêm này, mà ghi nhớ rành rẽ, làm hiện rõ nơi ký ức, để gìn giữ tuân hành, quán sát trong từng niệm, chưa từng phế bỏ.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải Thoát niệm thanh tịnh trang nghiêm vô ngại của Bồ-tát này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát ra khỏi màn đêm sinh tử; chói sáng rạng ngời; xa hẳn bóng tối si mê; chưa từng bị hôn muội, tâm thoát khỏi những triền cái, thân hành khoan khoái; hiểu rõ tự tánh của các pháp một cách trong sáng, phân tích chính xác sự liễu nghĩa và không liễu nghĩa của kinh tạng Tu-đala sâu xa, khéo bảo hộ mình và người trong tất cả các nơi có nạn; luôn chuyên cần tu tập tịnh giới của Bồ-tát; dù có lợi hay không, tâm vẫn luôn bình đẳng, khéo léo làm phát sinh thần thông diệu trí; thuận theo đủ các phương tiện của thế gian; tâm luôn thích thú làm phát triển phước tuệ, phát đại tinh tấn, chuyên tu trợ đạo; tâm luôn chuyên cần tích tập Từ bi, thành tựu mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng và tất cả Phật pháp của Đức Phật; tùy thuận khai ngộ cho tất cả chúng sinh, suốt ngày thâu đêm không có tạp niệm thì làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh của các vị ấy!

Thiện nam! Ở thành Ca-tỳ-la này, có vị thầy trẻ tuổi tên là Biến Hữu, ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát?

Bấy giờ, nhờ được nghe pháp, nên Thiện Tài hết sức vui mừng phấn khởi, làm cho bất tư nghì thiện căn tăng trưởng nhanh chóng. Đồng tử đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến rồi từ giã ra đi.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài từ cung trời đi xuống thành Ca-tỳ-la, đến chỗ Biến Hữu, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải, rồi đứng qua một bên chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo cúi xin chỉ dạy cho con.

Biến Hữu đáp:

–Thiện nam! Ở đây có vị Đồng tử tên là Thiện Tri Chúng Nghệ tu học pháp môn Tự Trí của Bồ-tát. Ông đến đó thỉnh giáo, ông ta sẽ thuyết cho.

Thiện Tài liền đến chỗ vị ấy, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đến trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin ngài chỉ dạy cho.

Đồng tử ấy bảo Thiện Tài:

–Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Cụ Túc Viên Mãn Thiện Tri Chúng Nghệ. Ta luôn ngâm ngợi cầm giữ mẫu tự này, nghĩa là:

–Khi xướng chữ a thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là Bồ-tát dùng sức oai đức thù thắng hiển bày các pháp, nghĩa vốn không sinh.

la thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ

độ, tên là hiển bày khắp và hiểu biết chín chắn, không có giới hạn.

Khi xướng chữ bạt thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là trí vi tế chiếu khắp pháp giới bình đẳng giới hạn.

Khi xướng chữ giả thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là bánh xe chạy khắp có công năng nghiền đứt những màu sắc sai biệt.

Khi xướng chữ nẳng thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ tên là chứng được ngằn mé vô y vô trụ.

Khi xướng chữ ra thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là xả lìa nơi nương tựa của danh sắc không cấu uế.

Khi xướng chữ na thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là phương tiện không thoái chuyển.

Khi xướng chữ bà thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là đạo tràng vòng Kim cương.

Khi xướng chữ noa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là vòng viên mãn khắp.

Khi xướng chữ sái thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là hải tạng.

Khi xướng chữ phược thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là cần cầu phát sinh sự an trụ khắp nơi.

Khi xướng chữ đá thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là ánh sáng viên mãn của trăng và các vì tinh tú.

Khi xướng chữ dã thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là tích tập khác nhau.

Khi xướng chữ sắt tra thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ tên là chiếu ánh sáng khắp nơi để dứt trừ phiền não.

Khi xướng chữ ca thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là mây giăng khắp nơi không gián đoạn.

Khi xướng chữ sa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là đổ trận mưa lớn.

Khi xướng chữ mãng thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là hết sức nhanh chóng hiện ra đủ loại màu sắc giống như những ngọn núi cao.

Khi xướng chữ nga thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là vòng tích tập toàn bộ.

Khi xướng chữ tha thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là tạng chân như bình đẳng không có phân biệt.

Khi xướng chữ nhạ thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là du hành thanh tịnh khắp biển thế gian.

Khi xướng chữ sa phược thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là niệm khắp tất cả sự trang nghiêm của chư Phật.

Khi xướng chữ đà thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là quán sát thật kỹ nơi tích tụ tất cả pháp.

Khi xướng chữ xả thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là đi theo ánh sáng từ bánh xe giáo hóa của chư Phật.

Khi xướng chữ khư thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là tạng trí tuệ nhân địa Hiện tiền.

Khi xướng chữ khất xoa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là dứt các biển nghiệp, làm phát sinh tạng trí tuệ.

Khi xướng chữ sa đá thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là phóng ra ánh sáng thanh tịnh, phá tan các thứ mê hoặc chướng ngại.

Khi xướng chữ nương thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là môn trí tuệ ra khỏi thế gian.

Khi xướng chữ hạt la tha thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là làm lợi ích cho chúng sinh bằng đèn trí tuệ vô ngã vô nhân.

Khi xướng chữ bà thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là làm trang nghiêm tròn đầy khắp các cung điện.

Khi xướng chữ xa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là bánh xe tạng phương tiện tu hành tăng trưởng che khắp.

Khi xướng chữ sa ma thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là được tùy thuận hiện thấy chư Phật trong mười phương trở lại chuyển tạng pháp luân.

Khi xướng chữ ha phược thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là quán sát tất cả chúng sinh vi tế bằng năng lực phương tiện làm phát sinh hải tạng. đá sa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là tự tại đi vào các biển công đức.

Khi xướng chữ già thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là nắm hết tất cả mây pháp, để làm cho hải tạng kiên cố.

Khi xướng chữ xá thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là dùng nguyện lực hiện thấy chư Phật trong mười phương, giống như hư không.

Khi xướng chữ ninh thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là nhập cảnh giới vô tận tự luân tế.

Khi xướng chữ phả thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là giáo hóa chúng sinh làm cho đến được nơi viên mãn tuyệt đối.

Khi xướng chữ sa ca thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là vong ánh sáng biện tài vô ngại rộng lớn chiếu khắp.

Khi xướng chữ di sa thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là trí diễn thuyết tất cả Phật pháp.

Khi xướng chữ thất giả thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là nhập hư không cảnh giới của tất cả chúng sinh, nổi tiếng sấm pháp lớn vang khắp.

Khi xướng chữ sá thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là thuyết pháp vô ngã mở toang cảnh giới Phật khai ngộ cho chúng sinh.

Khi xướng chữ trà thì có khả năng nhập trọn vẹn vào môn trí tuệ độ, tên là tạng khác nhau của tất cả pháp luân.

Thiện nam! Khi ta xướng những mẫu tự như thế thì bốn mươi hai môn trí tuệ độ này đứng đầu, tất cả những câu đoạn nối nhau không ngại và có khả năng nhập trọn vẹn vào vô lượng, vô số môn trí tuệ độ.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Phải tu hành thế nào để đạt được môn giải thoát này?

Đáp:

–Thiện nam! Những Bồ-tát nào chuyên cần tu đầy đủ, trọn vẹn mười pháp thì có khả năng đạt được môn giải thoát Thiện tri chúng nghệ của Bồ-tát này.

Mười pháp là:

  1. Đầy đủ trí tuệ.
  2. Chuyên cần cầu bạn lành.
  3. Tinh tấn dũng mãnh.
  4. Tách rời các hoặc, chướng.
  5. Quán hạnh thanh tịnh. 6. Tôn trọng chánh giáo.
  6. Quán tánh không của các pháp.
  7. Diệt trừ tà kiến.
  8. Tu tập chánh đạo.
  9. Đầy đủ trí chân thật.

Những Bồ-tát nào, đầy đủ trọn vẹn mười pháp này thì có khả năng nhanh chóng đạt được môn giải thoát ấy. Vì sao? Vì các Bồ-tát thường đầy đủ trí tuệ và chuyên cần cầu bạn lành; được gặp rồi, vui mừng, gần gũi, kính mến xem như Phật; nhờ thân cận, nên thường được giảng dạy; nhờ được giảng dạy nên có khả năng tinh tấn, dũng mãnh, thực hiện những việc khó; được tinh tấn rồi, thì có khả năng dùng thiện pháp diệt trừ các pháp bất thiện; nhờ diệt pháp bất thiện, nên làm cho pháp thiện đều viên mãn; pháp thiện đã viên mãn thì có khả năng xa hẳn tất cả các hoặc và chướng; xa các chướng sẽ khiến cho thân, khẩu, ý hết sức thanh tịnh và khế hợp với chánh hạnh. Nhờ sự thanh tịnh này, cho nên có khả năng tôn trọng lời dạy của chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức; do tôn trọng lời dạy, cho nên chuyên cần quán sát các pháp không tịch; ngộ được pháp không rồi, thì tâm vị ấy hướng đến đâu cũng không bị chướng ngại; thông đạt pháp duyên khởi, xa rời kiến chấp vô nhân, diệt trừ tâm tà kiến, tu tập chánh đạo; nhập chánh đạo rồi thì đạt được trí chân thật; được trí chân thật cho nên đạt được môn giải thoát này và thể chứng được pháp giới sâu xa.

Thiện Tài thưa:

–Tên gọi của sự thật ấy là những gì?

Đáp:

–Thiện nam! Chính những lời nói này là chân thật.

Thiện Tài thưa:

–Vì sao gọi những lời nói ấy là chân thật?

Đáp:

–Thiện nam! Vì những lời nói ấy không có hư dối, nên gọi là chân thật.

Lại hỏi:

–Vì sao gọi là lời không hư dối?

Chúng Nghệ đáp:

–Lời ấy chân thật vì thể tánh không có thay đổi, chỉ một tánh.

Lại hỏi:

–Vì sao chúng không thay đổi tánh khác?

Đáp:

–Thiện nam! Khi tự thân chứng ngộ thì pháp sẽ được hiểu.

Lại hỏi:

–Tướng mạo của pháp tánh thế nào mà có thể hiểu rõ được pháp là một hay là hai?

Đáp:

–Thiện nam! Vị Bồ-tát chứng pháp như thế-là tự mình, nó không một cũng không hai. Nhờ năng lực này, nên có khả năng làm lợi ích bình đẳng cho mình và cho người; giống như đại địa, có khả năng sinh ra tất cả, nhưng không có bỉ, thử; có khả năng làm lợi ích cho tâm, nhưng pháp tánh ấy không có tướng hữu cũng không có tướng vô, thể của nó như hư không, khó hiểu khó biết.

Thiện nam! Pháp vi diệu này khó có thể dùng ngôn ngữ và văn tự để thuyết giảng được. Vì sao? Vì chúng vượt qua tất cả cảnh giới văn tự; vượt qua tất cả cảnh giới ngôn ngữ; vượt qua tất cả cảnh giới của ngữ nghiệp đã hoạt động; vượt qua tất cả các cảnh giới tư lượng, phân biệt, hý luận; vượt qua tất cả cảnh giới tìm tòi, dò xét, tính toán; vượt qua tất cả cảnh giới hiểu biết của những chúng sinh ngu si; vượt qua tất cả các cảnh giới phiền não khế hợp với việc ma; vượt qua tất cả cảnh giới tâm thức không bỉ, không thử, không tướng, ly tướng; vượt qua tất cả cảnh giới hư vọng; an trụ vô trụ là cảnh giới tịch tĩnh của bậc Thánh.

Thiện nam! Cảnh giới tự chứng của các bậc Thánh ấy, không có sắc tướng, không cấu, không tịnh, không thủ, không xả, không trược không loạn, thanh tịnh tuyệt đối, tánh vĩnh viễn không bị hoại, dù các Đức Phật có ra đời hay không, thể tánh của pháp giới cũng chỉ có một.

Thiện nam! Nhờ pháp này, nên Bồ-tát thực hiện được vô số hạnh khó làm, đạt được thể của pháp ấy, nên có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh và giúp họ an trụ trọn vẹn trong pháp này.

Thiện nam! Đấy là chân thật, đấy là tướng không khác, đấy là thật tế, đấy là thể của Nhất thiết trí, đấy là pháp giới bất tư nghì, đấy là pháp giới bất nhị và cũng là môn giải thoát Cụ túc viên mãn thiện tri chúng nghệ của Bồ-tát.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát này. Còn như các vị Đại Bồ-tát, có tài năng đặc biệt thông suốt các pháp thế gian và xuất thế gian, có những nghề lạ, văn tự, toán số đều gồm thâu không sót môn nào; lại còn giỏi về các phương thuốc, chú thuật. Những chúng sinh bị quỷ mị dựa nhập, oán ghét trù ếm, yêu mị mê hoặc, bị tử thi đuổi, điên cuồng, gầy ốm, các trùng độc và đủ các khuyết tật khác; các ngài đều có thể cứu chữa giúp họ được lành. Các ngài còn giỏi phân biệt các trân châu báu lạ, như vàng bạc, ngọc châu, san hô, lưu ly, ma-ni, xa cừ, pha lê, mã não, đồng, sắt, chì, thiếc, kê-tát-la… nơi phát sinh tất cả các kho báu, phẩm loại không đồng, giá trị cao thấp; xóm làng thành ấp, đô thành lớn nhỏ, cung điện, vườn hoa, khe suối ao đầm. Tóm lại, tất cả những nơi có người cư trú Bồ-tát đều có khả năng tìm cách bảo hộ. Lại còn biết trên thân của họ có sáu trăm sáu mươi ba tướng. Trong các tướng, tính được sự hơn kém của chúng, biết được sự khổ vui của chúng, đoán được sự tốt xấu của chúng, biết rõ sự dài ngắn của chúng. Tuy các tướng đầy đủ nhưng không bằng tiếng hay. Tuy được nhiều tiếng hay nhưng không bằng thắng phước và biết phước này tu từ nghiệp gì, có thể chuyển được không, quả báo có thời hạn hay không. Lại còn giỏi việc quán sát thiên văn địa lý, chiêm nghiệm âm dương, tướng người tốt xấu, sao xấu biến điềm quái dị, khí hậu ráng mây, tiếng kêu của chim thú, thủy triều lên xuống, điềm báo tốt xấu, năm được mùa mất mùa, đất nước an hoặc nguy. Những nghề nghiệp như thế ở thế gian các ngài đều luyện, tập biết tận nguồn gốc của chúng.

Lại có khả năng phân biệt pháp xuất thế, nói nghĩa thật ngữ, quán sát thể tướng vi tế sâu xa, lựa chọn giảng thuyết và tu hành theo, trí nhập vào trong ấy, không nghi, không ngại, không ngu si, không đần độn, không buồn khổ, không chìm đắm; ngược lại, được hiện chứng tất cả. Nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh của các vị ấy.

Này thiện nam! Ở nước Ma-kiệt-đề này, có một xóm làng tên là Hữu nghĩa. Trong ấy có một thành tên là Bà-đát-na. Ở đó có vị Ưubà-di, tên là Tối Thắng Hiền. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Chúng Nghệ, nhiễu quanh vô số vòng, hết tâm mến mộ, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Xin xem tiếp trang 8

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8