Trang 8 (tiếp theo)

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài từ từ đi thẳng đến thành Bà-đát-na, thuộc làng Hữu nghĩa, tới chỗ Ưu-bà-di Hiền Thắng, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng về một bên, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho con.

Hiền Thắng nói:

–Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát tên là Bánh xe vô tận không có trụ xứ, tự mình tỏ ngộ và còn dạy người khác. Ta trụ môn đại Tam-muội này, phát sinh ra các pháp vô tận vô trú. Đó là:

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Nhãn vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Nhĩ vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Tỷ vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Thiệt vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Thân vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về Ý vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về sóng lớn công đức vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về ánh sáng trí như tia chớp vô tận, vô trú.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về trí chiếu sáng chúng sinh.

Phát sinh tánh Nhất thiết trí về thần thông nhanh chóng vô tận, vô trú.

–Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Bánh xe vô tận không có trú xứ này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát, đạt được pháp môn Vô tận công đức trí hạnh, không đắm trước mọi hoàn cảnh thì ta làm sao có thể biết và nói hết.

Thiện nam! Ở hướng Nam này có một thành lớn, tên là Ốc điền, nơi đó có vị Trưởng giả tên là Kiên Cố Giải Thoát, làm nghề buôn vàng. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát.

Thiện Tài đảnh lễ sát chân Ưu-bà-di Hiền Thắng, nhiễu quanh vô số vòng, hết lòng mến mộ, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài lần lượt đi về phương Nam, vào thành ấy, đến chỗ Trưởng giả, đảnh lễ sát chân, đi quanh theo phía bên phải, rồi đứng về một bên, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho con.

Trưởng giả nói:

–Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Niệm thanh tịnh trang nghiêm không đắm chấp. Từ khi chứng được giải thoát này đến nay, nơi các Đức Phật khắp mười phương thế giới, ta đều chuyên cần cầu chánh pháp, không dừng nghỉ.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Niệm thanh tịnh trang nghiêm không đắm chấp này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát, đạt được vô sở úy giống như tiếng gầm của sư tử, an trụ nơi khối phước đức trí tuệ thù thắng rộng lớn, dùng đại âm thanh khai ngộ cho chúng sinh. Trí hạnh và công đức của các Bồ-tát như thế thì làm sao ta có thể biết và nói hết.

Thiện nam! Ngay trong thành này có một vị Trưởng giả tên là Diệu Nguyệt, nhà của vị ấy luôn có ánh sáng. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến rồi, từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài liền đến chỗ Trưởng giả Diệu Nguyệt, đảnh lễ sát chân, đi quanh về phía phải, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho.

Diệu Nguyệt đáp:

–Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Quang minh trí vô cấu.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Do tu hành thế nào mà đạt được môn giải thoát này?

Trưởng giả đáp:

–Thiện nam! Bồ-tát nào, có khả năng hành mười pháp thì được đầy đủ môn giải thoát này. Mười pháp là:

  1. Thường thân cận với các bậc Thiện tri thức.
  2. Thường gắn liền với ý tưởng nhớ mong được gặp Phật.
  3. Thường gắn liền với niềm vui thích được nghe chánh pháp.
  4. Thường có ý tưởng ở trước các Đức Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức thăm hỏi, cung kính, cúng dường.
  5. Thường gắn liền với bậc Pháp sư–Người có khả năng thuyết pháp và bạn thân của trí tuệ đa văn.
  6. Thường lắng nghe tất cả hạnh Ba-la-mật.
  7. Thường lắng nghe tất cả pháp Bồ-đề phần.
  8. Thường gắn liền với ba môn giải thoát.
  9. Thường gắn liền với pháp tứ phạm trụ.
  10. Thường gắn liền với thể Nhất thiết trí.

Thiện nam! Những vị Bồ-tát nào, luôn gắn liền với mười pháp như thế, thì có khả năng đạt được môn giải thoát Quang minh trí vô cấu này.

Thiện Tài lại hỏi:

–Bạch Thánh giả! Làm thế nào để có khả năng chứng đắc môn giải thoát này ngay trong hiện tại?

Trưởng giả đáp:

–Thiện nam! Hiện tại nên phát tâm tu học trí tuệ độ, làm cho chúng trở nên khế hợp, tùy theo sự thấy biết, đều có khả năng chứng nhập tất cả.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Có phải nhờ lắng nghe thuyết giảng chương cú trí tuệ độ mà được hiện chứng chăng?

Đáp:

–Không phải. Vì sao? Vì trí tuệ độ là thấy thể tánh chân thật của tất cả pháp mà hiện chứng.

Thiện Tài thưa:

–Lẽ nào không nhờ nghe mà có thể sinh trí và tư duy về tánh trí để thấy chân như mà được chứng ngộ?

Trưởng giả đáp:

–Không, không bao giờ có chuyện nhờ nghe và suy nghĩ mà được tự chứng ngộ.

Thiện nam! Ta sẽ nêu ví dụ về nghĩa này, ông hãy lắng nghe. Ví như giữa sa mạc, không có suối và giếng; mùa Xuân, mùa Hạ oi bức, có người từ hướng Tây sang hướng Đông gặp một người từ phía Đông đi lại. Ông ta liền hỏi: Tôi đang bị cơn khát bức bách, giờ đây không biết ở đâu có nước trong mát và cây cao bóng râm; tôi muốn đến đó nghỉ ngơi, uống nước, tắm gội để qua khỏi cơn khát oi bức này. Người đàn ông kia, biết rộng nói hay, nói với người ấy: Từ đây đi qua hướng Đông này, ở đó có hai con đường, một đường bên phải và một đường bên trái, cố gắng đi mãi về con đường bên phải thì nhất định sẽ đến chỗ con suối ngọt và bóng cây râm mát.

Thiện nam! Ông nghĩ thế nào? Người đang bị cơn khát thiêu đốt ấy, được nghe diễn tả suối ngọt và bóng râm, liền tưởng tượng đến chỗ ấy; nhưng có thể được mát mẻ và trừ được cơn khát oi bức chăng?

Đáp:

–Không, vì sao? Vì điều quan trọng là phải nương vào con đường

đã chỉ để đi đến suối hồ ấy, nghỉ ngơi, uống nước, tắm gội thì mới được mát mẻ và trừ được cơn khát bức bách.

–Thiện nam! Cũng thế, Bồ-tát không thể chỉ dùng tuệ giải văn và tư mà có khả năng chứng nhập tất cả pháp môn.

Thiện nam! Sa mạc chính là chỉ sự sinh tử. Người từ hướng Tây đến là chỉ cho các chúng sinh. Bức bách là chỉ cho các hoặc, khát chính là tham ái. Người đàn ông biết đường từ hướng Đông đến, chính là Phật hoặc hàng Bồ-tát, Nhất thiết trí, đạt được thật nghĩa nơi chân tánh bình đẳng; được nước trong mát, không còn bị cơn khát bức bách chính là tự chứng ngộ chân thật.

Lại nữa, thiện nam! Nay ta nói lại ví dụ khác ông hãy lắng nghe. Thiện nam! Giả sử Đức Như Lai sống ở đời một kiếp, dùng tất cả những phương tiện, những ngôn từ để diễn đạt vị đất của cõi trời là có đủ các đức tính mềm mại, cảm giác vi diệu, màu sắc hương vị thơm ngon cho người cõi Diêm-phù-đề. Ý ông thế nào? Khi những chúng sinh ấy lắng nghe, tiếp nhận, tư duy thì có biết được vị đất của chư Thiên không?

–Thưa không.

Diệu Nguyệt nói:

–Việc này cũng thế. Không phải chỉ có nghe và suy nghĩ mà có thể chứng nhập nẻo chân chánh của Bát-nhã được.

Thiện Tài lại hỏi:

–Bồ-tát dùng phương pháp khéo léo nào để giúp cho chúng sinh chứng được chân thật?

Diệu Nguyệt nói:

–Thiện nam! Bồ-tát nếu đã chứng được chân tánh Bát-nhã, thì những gì vị ấy nói là nhân tố quyết định sự chân thật và cũng nhờ chứng được giải thoát này, nên có khả năng khéo thuyết giảng cho các chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát có đầy đủ mười pháp, thì đạt được môn giải thoát ấy.

Mười pháp ấy là:

  1. Xa hẳn các pháp ác.
  2. Không phạm giới của Đức Như Lai chế ra.
  3. Xa hẳn tất cả bỏn sẻn.
  4. Cúng dường tất cả Như Lai.
  5. Chuyên cần tu học tất cả phước nghiệp.
  6. Đầy đủ trí tuệ.
  7. Đầy đủ phương tiện.
  8. Đầy đủ đại nguyện.
  9. Đầy đủ đức chán lìa.
  10. Đầy đủ đức tinh tấn.

Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp ấy, thì chứng được môn giải thoát này.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Quang minh trí vô cấu của Bồ-tát này. Còn như các vị Đại Bồ-tát, tu hành đủ các môn trí của Bồ-tát, chuyên cần tác ý, thực hiện sự nghiệp vô thượng, tâm ngay thẳng, ý tánh nhu hòa, thường thích tịch tĩnh, an trú nơi đại Bi, không rời thế gian, tâm không đắm nhiễm, đối với bố thí không mong báo ân, thường nhớ đến cảnh giới rộng lớn của chư Phật, thường tư duy về diệu pháp chân thật của chư Phật, thường thích thân cận với các vị Tăng, Bồ-tát, thường thực hiện các Ba-la-mật của Bồ-tát, thường trú vào những ngôi vị của Bồ-tát đã chứng được, thường quán các pháp mười lực, vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, chứng nhập vô lượng biển đại Tam-muội và pháp môn chân thật giải thoát tuyệt đối. Nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh của các vị ấy!

Thiện nam! Ở hướng Nam này có một thành, tên là Quảng đại thanh, nơi ấy có vị Trưởng giả tên là Vô Thắng Quân. Ông nên đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đến đảnh lễ sát chân Trưởng giả Diệu Nguyệt, nhiễu quanh vô số vòng, hết tâm mến mộ, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài tư duy lại môn giải thoát Quang minh trí mà mình đã đạt được và thong thả đi về phương Nam, vào đại thành ấy, đến chỗ Trưởng giả, đảnh lễ sát chân, đi quanh bên phải, rồi đứng về một phía, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho.

Trưởng giả đáp:

–Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát tên là Vô tận tướng. Ta nhờ chứng môn giải thoát này nên được gặp vô lượng Đức Phật và được vô tận tạng.

Thiện Tài hỏi:

–Bồ-tát làm thế nào đạt được môn giải thoát ấy?

Đáp:

–Thiện nam! Nếu như Bồ-tát có thể chuyên cần tu mười pháp thì có khả năng chứng được môn giải thoát như thế.

Mười pháp là:

  1. Nên ở nơi thanh vắng, quán sát kỹ năm dục để tu tập các thiền định.
  2. Nên chuyên cần tạo các phương tiện, nhập các Tam-muội, hiện sắc thân khắp nơi, để giáo hóa chúng sinh.
  3. Nên dùng trí tuệ bình đẳng, quán sát sinh tử và Niết-bàn đồng một tướng.
  4. Nên chuyên cần tu tập, làm cho niệm lực kiên cố để biết thiện và ác đều không quên mất.
  5. Nên chuyên cần tích tập công đức nơi đạo Ba-la-mật của Bồtát, không hề nhàm chán.
  6. Nên chuyên cần vun trồng rừng cây tịnh giới, nơi vườn ngự uyển chánh pháp, để thường hiện bày diệu dụng.
  7. Nên chuyên cần cứu hộ những chúng sinh ác kiến, giúp họ bỏ tà trở về an trú nơi chánh kiến.
  8. Nên chuyên cần cấp thí đủ các loại thuốc pháp, để trừ diệt bệnh phiền não cho chúng sinh.
  9. Nên chuyên cần quán sát các pháp trong ba đời như mộng, như huyễn… không được đắm nhiễm.
  10. Nên chuyên cần phá bỏ những tà luận của ngoại đạo, không để cho dị kiến tổn hại đến chúng sinh.

Những Bồ-tát nào chuyên cần tu tập đủ mười pháp này thì có khả năng chứng được môn giải thoát như thế, cũng có khả năng xuất nhập tự tại nơi vô số trăm ngàn pháp môn.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nào xa lìa mười pháp, thì cũng sẽ đạt được môn giải thoát này.

Mười pháp đó là:

  1. Cách xa tất cả những loại người phá bỏ các cấm giới.
  2. Cách xa tất cả những loại người phá bỏ các chánh kiến.
  3. Cách xa tất cả những loại người phá bỏ chánh oai nghi.
  4. Cách xa tất cả những loại người hủy hoại mạng sống.
  5. Cách xa tất cả những loại người chuyên nói chuyện uế tạp ở đời.
  6. Cách xa tất cả những loại người lười biếng, trễ nải.
  7. Cách xa tất cả những loại người tham đắm dục lạc.
  8. Cách xa tất cả những loại người thường ưa thân cận hàng bạch y tại gia.
  9. Cách xa tất cả những loại người thích tu tà phước, không trụ nơi chánh hạnh của hàng tại gia và xuất gia.
  10. Cách xa tất cả những loại người phiền não sâu nặng, thân tâm buông thả không thể cản ngăn.

Những Bồ-tát nào, thường có khả năng xa hẳn mười hạng người bất thiện như thế, nhưng cũng không ôm tâm nhàm chán xả bỏ và cũng không sinh tâm khinh miệt đối với họ mà đem tâm Từ thu nhận, điều phục họ. Bồ-tát lại nghĩ: Tất cả chúng sinh ở trong sinh tử, do gần những người ác như thế nên đánh mất các căn lành, rơi vào con đường ác, vì thế nên phải cách xa tất cả những loại người ác.

Thiện nam! Đó là mười pháp Bồ-tát rời xa, thì lập tức có khả năng chứng được môn giải thoát như thế.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Tướng Vô Tận này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát, lấy đại Bi làm đầu, phát sinh các hạnh, nguyện lực quá khứ đều hiện hữu, chuyên cần bền chí cầu trí Nhất thiết trí, tích tập và làm trang nghiêm đủ các cõi Phật, quán sát sâu xa tất cả các pháp, tất cả thể tánh, chuyên cần cầu mười lực, vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng; từ các vẻ đẹp và âm thanh viên mãn cho đến tất cả công đức tăng thượng của tất cả các Đức Như Lai đều hiện chứng; có khả năng tùy thuận để hiểu rõ môn giải thoát sâu xa của các Đức Như Lai; có khả năng dùng mọi cách khéo để ngộ nhập, biết các chúng sinh, ngã, nhân, thọ, mạng, sĩ phu, nuôi dưỡng, người, uẩn, xứ, giới… bản tánh của chúng đều rỗng không, không có gì để chấp trước; thường có khả năng làm lợi lạc cho tất cả thế gian, giúp cho họ được an ổn, không có các phiền não, luôn yêu thích trí Nhất thiết trí; thường xuyên cứu hộ tất cả chúng sinh; thường xuyên tôn trọng tất cả chánh pháp, vui thích nghe pháp và tu hành theo, có khả năng dùng lời nói chân chánh làm lợi chúng sinh, giúp cho họ được an lạc, không đi vào đường đời; trụ tinh tấn thù thắng, liên tục không dứt, không còn thoái chuyển, không làm việc tạp nhiễm, đầy đủ trí đạo rộng lớn bình đẳng, thệ nguyện độ chúng sinh khó độ. Công đức trí hạnh của các Bồ-tát là như thế, nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết.

Thiện nam! Ở hướng Nam thành này, có một xóm làng tên là Đạt-ma, nơi ấy có vị Ba-la-môn tên là Tối Tịch Tĩnh. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Nghe vậy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Trưởng giả Vô Thắng Quân, nhiễu quanh vô số vòng, hết lòng mến mộ, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài tư duy để ghi nhớ lại môn giải thoát Tướng vô tận, rồi thong thả tiến bước vào làng ấy, đến gặp Bà-la-môn Tối Tịch Tĩnh; tới nơi đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh, rồi đứng thẳng chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho.

Bà-la-môn bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Lời nguyện chân thành. Nhờ lời nguyện chân thành này, mà tất cả Bồ-tát, đều không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề, đã không thoái chuyển, hiện tại không thoái chuyển và sẽ không thoái chuyển.

Thiện nam! Nhờ an trụ vào oai đức chân thật của Lời nguyện

chân thành này, cho nên ta đối với các pháp thế gian và xuất thế gian, tất cả việc làm đều thành tựu, nguyện cầu những gì đều viên mãn.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Oai đức chân thật của môn giải thoát này tên là Lời nguyện chân thành, nó có nghĩa gì không?

Bà-la-môn nói:

–Thiện nam! Lời nguyện chân thành có nghĩa là đúng đắn, không có biến đổi nghĩa khác, thể của nghĩa không có hai, là nghĩa thù thắng, là nghĩa chân lý và cũng chính là thể nghĩa Pháp thân của các Đức Như Lai trong ba đời.

Thiện Tài lại hỏi:

–Tất cả Bồ-tát tu tập thế nào mà đạt được Pháp thân này?

Đáp:

–Thiện nam! Bồ-tát nào, có thể tu tập đầy đủ trọn vẹn mười loại pháp này, thì vị ấy sẽ đạt được Pháp thân này. Mười pháp đó là:

1. Thân bình đẳng. 2. Thân thanh tịnh.

  1. Thân vô tận.
  2. Thân tu tập.
  3. Thân pháp tánh.
  4. Thân rời tầm tứ.
  5. Thân bất tư nghì.
  6. Thân tịch tĩnh.
  7. Thân hư không.
  8. Thân diệu trí.

Bồ-tát nào đủ mười loại thân này, thì đạt được Pháp thân thanh tịnh của Như Lai.

Thiện Tài lại thưa:

–Bạch Thánh giả! Bồ-tát ở Địa thứ mấy, trụ giải thoát này mà đạt được mười loại thân đó?

Bà-la-môn đáp:

–Thiện nam! Bồ-tát ở Địa thứ nhất, trụ nơi môn giải thoát này thì đạt được thân bình đẳng. Vì sao? Vì thông đạt được pháp tánh thì xa rời các tà ngụy và thấy được pháp bình đẳng.

Bồ-tát hàng Địa thứ hai, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân thanh tịnh. Vì sao? Vì xa được trần cấu của phạm giới thì đối với tất cả tánh của giới luôn được thanh tịnh.

Bồ-tát Địa thứ ba, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân vô tận. Vì sao? Vì xa lìa được các pháp ác như sân hận, keo kiệt, ghen ghét, thì sẽ trụ vào các định thù thắng.

Bồ-tát Địa thứ tư, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân tu tập. Vì sao? Vì vị ấy thường chuyên cần tu tập pháp Bồ-đề phần của chư Phật và Bồ-tát.

Bồ-tát Địa thứ năm, trụ nơi môn giải thoát này thì đạt được thân pháp tánh. Vì sao? Vì quán sát giác ngộ, được tất cả lý chân thật và chứng được thể tánh của các pháp.

Bồ-tát Địa thứ sáu, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân không tầm tứ. Vì sao? Vì quán sát lý duyên khởi thì khó hiểu, khó biết, vì nó không phải là cảnh giới tầm tứ.

Bồ-tát Địa thứ bảy, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân bất tư nghì. Vì sao? Vì tập họp pháp phương tiện thiện xảo của chư Phật thì đầy đủ trí hạnh.

Bồ-tát Địa thứ tám, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân tịch tĩnh. Vì sao? Vì tất cả phiền não không còn hiện hành và xa hẳn được những việc hý luận của thế gian.

Bồ-tát Địa thứ chín, trụ nơi môn giải thoát này, thì đạt được thân hư không. Vì sao? Vì thân tướng vô biên đầy khắp tất cả.

Bồ-tát Địa thứ mười, trụ nơi môn giải thoát này thì đạt được thân diệu trí. Vì sao? Vì cảnh giới của Nhất thiết chủng trí vi diệu chứa đủ tất cả.

Thiện Tài hỏi:

–Pháp thân của Như Lai và mười loại Pháp thân của Bồ-tát ấy, có gì khác nhau không?

Đáp:

–Thiện nam! Nên biết thể tánh của Pháp thân chỉ có một, nhưng công đức và oai lực không có sai khác.

Thiện Tài lại hỏi:

–Nghĩa ấy thế nào?

Đáp:

–Thiện nam! Nghĩa là Pháp thân của Phật và Bồ-tát đều bình đẳng, không sai khác. Vì sao? Vì tánh tướng của tất cả pháp đều bình đẳng, đồng một thể. Như thế, cho đến phàm, Thánh, mê, ngộ, nhân, quả, nhiễm tịnh, đến, đi, tiến, lùi, đều đồng một tướng. Nói công đức, oai lực khác nhau; nghĩa là thân của Đức Như Lai, công đức viên mãn, đủ oai lực thù thắng, Bồ-tát thì không có như thế. Do đó nên ta sẽ tuyên thuyết ví dụ để khai thị nghĩa đó cho ông.

Thiện nam! Ví như châu ma-ni xinh đẹp quý giá, nhưng chưa qua tay của người thợ khéo mài dũa, thì chúng không sáng; mọi người thấy không quý trọng; còn đã được mài dũa rồi, thì ánh sáng rực rỡ, trời người đều quý trọng. Thể của châu thì không khác, nhưng tướng thì khác nhau. Cũng vậy, tuy thân các vị Bồ-tát và thân của Đức Như Lai, đồng một thể tánh, đều gọi là Pháp thân, không thể dùng lời để nói hết, oai lực thần thông, công đức trí báu và sự thanh tịnh tuyệt đối, đồng với Đức Như Lai. Nguyên nhân nào được như vậy? Do các Đức Như Lai, trải vô số kiếp, tịnh tu tất cả các công đức vi diệu, viên mãn tuyệt đối, vô lượng, vô biên, rộng lớn như hư không, đầy khắp mười phương tốt đẹp thanh tịnh, rời các cấu nhiễm, ánh sáng rộng, lớn chiếu sáng khắp nơi, oai lực thù thắng, cứu giúp toàn thể chúng sinh. Các vị Bồ-tát này, tuy đầy đủ Pháp thân nhưng công đức chưa viên mãn, còn vướng những chút nhơ. Ví như trăng sáng; từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ mười lăm, tên và thể của nó tuy đồng, nhưng tướng ánh sáng có khác. Vì sao? Vì tướng tròn và khuyết là không đồng.

Thiện nam! Cũng thế, Pháp thân của Bồ-tát và Pháp thân Phật khác nhau ở chỗ tướng viên mãn và không viên mãn. Vì thân của Bồtát như trăng đầu tháng cho đến đêm thứ mười bốn, ánh sáng của nó chưa viên mãn. Pháp thân của Như Lai, như trăng đêm rằm, tròn đầy viên mãn ánh sáng chiếu khắp, không có giới hạn. Nhưng mười loại Pháp thân của các Bồ-tát ấy, cùng với thân của Đức Như Lai thì đồng một thể tánh, không có hai tướng, chỉ do sự tu tập và công đức khác nhau nên không thể nói một.

Thiện nam! Thế nên, những Bồ-tát nào, trụ giải thoát này đầy

đủ mười thân, thì có khả năng chứng đắc công đức của chư Phật và Pháp thân viên mãn.

Lại nữa, Bồ-tát có thể do mười loại nghĩa mà đạt được thân kim cương không thể hoại.

Mười nghĩa ấy là:

  1. Tất cả phiền não và độc tham, sân, si không thể hoại được.
  2. Điên đảo, ngã mạn, tà kiến, tật đố không thể hoại được.
  3. Những thống khổ dày vò của tất cả các nẻo ác không thể hoại được.
  4. Tám thứ gió: Lợi, suy, hủy (chê), dự (khen), xưng (tán), cơ, khổ, lạc không thể hoại được.
  5. Sinh, lão, bệnh, tử, sầu, thán, ưu não không thể hoại được.
  6. Tà luận của tất cả dị kiến ngoại đạo không thể hoại được.
  7. Các loại ma phiền não, ma ngũ uẩn, ma tử không thể hoại được.
  8. Tất cả Thiên ma và quyến thuộc của ma không thể hoại được.
  9. Tất cả Thanh văn và Độc giác không thể hoại được.
  10. Tất cả cảnh dục đáng ưa thích của thế gian không thể hoại được.

Bồ-tát nào có khả năng đủ mười nghĩa này thì đạt được thân kim cương không thể hoại giống như Phật.

Thiện nam! Lại có mười loại chánh đạo thiện xảo có khả năng hiểu biết chân chánh không nói những lời xằng bậy.

Mười loại ấy là:

  1. Những chúng sinh nào, nên giáo hóa bằng Đại thừa, thì thuyết cho họ các đạo của hàng Bồ-tát, không diễn thuyết đạo của hàng Thanh văn.
  2. Những chúng sinh nào, nên giáo hóa bằng đạo Thanh văn, thì thuyết đủ các đạo của hàng Thanh văn, không diễn thuyết đạo của hàng Bồ-tát.
  3. Những chúng sinh nào, nên giáo hóa bằng Phật thừa, thì thuyết đạo Nhất thiết trí của Đức Như Lai, không diễn thuyết đạo của hàng Độc giác.
  4. Những chúng sinh nào, nên giáo hóa bằng pháp hàng Độc

giác thì thuyết những đạo của hàng Độc giác, không diễn thuyết đạo Nhất thiết trí.

  1. Những chúng sinh nào, ôm giữ lấy ngã và pháp thì thuyết vô ngã và các pháp không, không thuyết ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, người, sự nuôi dưỡng.
  2. Những chúng sinh nào, bám giữ vào hữu và vô, thì thuyết pháp trung đạo để xa lìa hai bên, không nói pháp có không mà đọa vào hai bên.
  3. Những chúng sinh nào, tâm bị tán loạn thì nói pháp chỉ quán tịch tĩnh, không nói những pháp làm cho đạo tán loạn.
  4. Những chúng sinh nào, yêu thích pháp của thế gian, thì thuyết về đạo xuất thế và trí chân thật, không thuyết những điều ngu si trẻ con.
  5. Những chúng sinh nào, thích nơi sinh tử thì thuyết đạo Niếtbàn thoát sinh tử, không thuyết đạo trụ thế giáo hóa chúng sinh.
  6. Những chúng sinh nào, chấp vào pháp không… không thực hiện chánh đạo, thì thuyết pháp chánh trực không gai góc, không thuyết các đường tà hiểm gai góc.

Thiện nam! Những Bồ-tát nào, đủ mười pháp này, thì được nhập vào chánh đạo, có khả năng hiểu biết khéo léo, không nói những lời xằng bậy, chỉ nói những lời thành thật.

Thiện nam! Ta chỉ biết trụ môn giải thoát Oai đức vô tận từ lời nguyện chân thành của Bồ-tát này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát bằng lời nguyện chân thành, đi đứng không trái, tâm luôn tùy thuận, không còn thoái chuyển, mặc áo giáp bằng năng lực bản nguyện kiên cố, tâm đại Từ bi, không bỏ chúng sinh, tăng trưởng phước trí, tâm không nhàm chán, phương tiện thiện xảo, liên tục hiện hữu, chuyên cần tu tập ánh sáng tăng thượng của bậc trí, lần lượt giác ngộ uẩn, xứ, giới; khéo thâm nhập chúng sinh biết rõ Chánh đạo và trí địa của Bồtát; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú pháp Phật thời quá khứ; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú pháp Phật thời vị lai; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú pháp Phật thời hiện tại; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú tánh của giới; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú tánh của tâm; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú tánh kiến; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú nơi có thể cắt đứt tánh nghi ngờ của mình và người; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú trí tánh của tất cả chánh đạo và phi đạo; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú tu đạo diệt hoặc và tánh của trí hạnh; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú tu tập tăng thượng tất cả pháp Bồ-đề phần; tâm thanh tịnh, bình đẳng, an trú sự điều phục giáo hóa tất cả chúng sinh bằng đại Bi rộng lớn; nói ra nhất định thành thật chưa bao giờ hư dối, sinh ra vô lượng môn công đức và trí tuệ thì làm sao ta có thể biết và nói hết.

Này thiện nam! Ở hướng Nam này, có một thành tên là Diệu ý hoa môn, nơi ấy có vị đồng tử, tên là Đức Sinh và một đồng nữ tên là Hữu Đức. Ông đến thỉnh vấn họ: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồtát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài hết tâm tôn trọng đại pháp này, đảnh lễ sát chân Bà-la-môn, nhiễu quanh vô số vòng, hết tâm mến mộ, chiêm ngưỡng lưu luyến rồi từ giã ra đi.

Ở nơi Bà-la-môn Tối Tịch Tĩnh, tâm được huân tập đại pháp này. Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài chậm rãi đi đến phương Nam, tới cửa thành Diệu ý hoa, gặp Đồng tử Đức Sinh và Đồng nữ Hữu Đức. Thiện Tài đảnh lễ sát chân, đi quanh vô số vòng, đến trước chắp tay thưa:

–Bạch hai vị Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin ngài thương xót chỉ dạy cho.

Đồng tử và Đồng nữ bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Hai ta chứng được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Trụ huyễn, được môn giải thoát này đầy đủ viên mãn, mới dùng tịnh trí đó mà quán chiếu khắp các pháp đều là huyễn cả, mọi thành tựu đều tọa nơi huyễn. Đó là:

Thấy tất cả thế giới đều trụ huyễn, từ nhân duyên sinh.

Thấy tất cả chúng sinh đều trụ huyễn, từ nghiệp phiền não phát ra.

Thấy tất cả thế gian đều trụ huyễn, từ vô minh hữu ái xoay vần duyên sinh.

Thấy tất cả các pháp đều trụ huyễn, từ ngã kiến và nhiều duyên huyễn khác sinh ra.

Thấy tất cả tam thế đều trụ huyễn, từ ngã kiến và trí điên đảo sinh ra.

Thấy sự sinh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não của tất cả chúng sinh đều trụ vào huyễn, xưa không nay có, giả dối không thật, từ vọng tưởng phân biệt sinh ra.

Thấy tất cả thế giới đều trụ vào huyễn, từ vô minh, tâm tưởng, điên đảo sinh ra.

Thấy tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật đều trụ vào huyễn, từ sự phân biệt đoạn trí mà thành.

Thấy tất cả Bồ-tát đều trụ vào huyễn, các ngài có khả năng tự điều phục và thành thục chúng sinh, do đó pháp và hạnh nguyện nối nhau hiện hữu mà thành tựu.

Thấy tất cả chư Phật, chúng hội Bồ-tát, với những thần thông biến hóa oai lực, những việc thực hiện đều trụ vào huyễn, từ đủ các hạnh giải, các nguyện rộng lớn và sự huân tập của trí tuệ mà thành tựu.

Thiện nam! Tự tánh của cảnh huyễn là chẳng thể nghĩ bàn, hai ta chỉ có khả năng biết giải thoát trụ huyễn này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát khéo léo nhập vô biên các lưới việc huyễn, tùy thuận hiểu rõ trí thành tựu từ huyễn. Công đức và hạnh nguyện những vị ấy như thế thì làm sao ta có thể biết và nói hết.

Khi hai vị tự nói môn giải thoát, rồi dùng năng lực của những thiện căn bất tư nghì, giúp cho thân Đồng tử Thiện Tài nhanh chóng phát triển nhu hòa, tươi nhuận lại rồi, Đồng tử Đức Sinh và Đồng nữ Hữu Đức mới bảo:

–Thiện nam! Ở gần cửa biển hướng Nam này, có một nước tên là Ốc điền, trong nước ấy, có khu vườn tên là Đại trang nghiêm, trong vườn có một ngôi lầu rộng lớn, tên là Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng; sinh từ quả báo thiện căn của Bồ-tát; sinh từ những niệm lực, nguyện lực, tự tại lực, thần thông lực của Bồ-tát; sinh từ những phương tiện thiện xảo của Bồ-tát; sinh từ những phước đức trí tuệ của Bồ-tát.

Thiện nam! Bồ-tát trụ giải thoát bất tư nghì; vì các chúng sinh,

dùng tâm đại Bi, hiển hiện cảnh giới khắp nơi như thế, tích tập phát triển rộng lớn xinh đẹp như thế. Vì muốn thâu nhận nguồn xuất sinh của mẹ, cha, thân thuộc và tất cả mọi người, nên Đại Bồ-tát Di-lặc an trụ trong ấy, để giúp họ được thành thục.

Lại muốn giúp cho họ đồng thọ sinh, đồng tu hành, đồng một loài chúng sinh và đều được kiên cố nơi Đại thừa.

Lại giúp cho tất cả chúng sinh ấy, tùy theo quả vị mình an trụ và tùy theo gốc thiện căn đều được thành thục. Lại còn muốn chỉ cho ông môn giải thoát của Bồ-tát, chỉ rõ Bồ-tát tùy sức bản nguyện mà thọ sinh tự tại khắp mọi nơi. Chỉ rõ Bồ-tát dùng đủ các loại thân, hiện khắp trước tất cả chúng sinh, thường giáo hóa, khai thị, giúp cho họ giác ngộ. Chỉ rõ Bồ-tát dùng sức đại Bi nhiếp hóa khắp thế gian và đem tài sản ban bố cho chúng sinh mà không biết nhàm chán. Chỉ rõ Bồ-tát tu đủ các hạnh, biết tất cả hạnh, lìa các tướng. Chỉ rõ Bồ-tát sinh ra bất cứ nơi nào, đều hiểu rõ các sự sinh đều là vô tướng. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để thực hiện hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát, làm thế nào để học giới Bồ-tát, làm thế nào để để tịnh tâm Bồ-tát, làm thế nào để phát nguyện Bồ-tát, làm thế nào để chứa đủ các trợ đạo của Bồ-tát, làm thế nào để gia nhập vào hàng tự tại của Bồ-tát, làm thế nào để trọn vẹn Ba-la-mật của Bồ-tát, làm thế nào để đạt được vô sinh nhẫn của Bồ-tát, làm thế nào để được đầy đủ pháp công đức của Bồ-tát, làm thế nào để phụng sự Bồ-tát Thiện tri thức. Vì sao? Thiện nam! Vì vị Đại Bồ-tát ấy, đã nhập sâu vào tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát; ở khắp nơi, trước tất cả chúng sinh, tùy theo tâm tánh của họ mà giáo hóa điều phục. Vị Bồ-tát ấy, đã trọn vẹn tất cả Ba-la-mật, đã trụ tất cả địa vị Bồ-tát, đã chứng tất cả nhẫn của Bồ-tát, đã vào ngôi vị của tất cả Bồ-tát, đã được thọ ký đầy đủ, đã đi qua tất cả cảnh giới của Bồ-tát, đã nhập môn giải thoát của Bồ-tát, đã được thần lực của tất cả Phật, đã nhờ tất cả các Đức Như Lai khắp mười phương, dùng nước pháp cam lồ Nhất thiết trí, rưới lên đỉnh của mình.

Thiện nam! Vị Thiện tri thức ấy, có khả năng làm thấm nhuần các thiện căn của ông, có khả năng làm phát triển tâm Bồ-đề của ông, có khả năng làm vững chắc chí rộng lớn của ông, có khả năng làm phát sinh tất cả thiện có trong ông, có khả năng làm tăng trưởng căn Bồ-tát của ông, có khả năng chỉ dạy pháp vô ngại cho ông, có khả năng giúp ông nhập địa vị Phổ Hiền, có khả năng giúp ông trụ nguyện của Bồ-tát, có khả năng giúp ông thực hiện hạnh Phổ hiền, có khả năng thuyết cho ông về công đức thành tựu từ vô lượng hạnh nguyện của tất cả Bồ-tát, có khả năng giúp ông biểu hiện pháp môn tự tại của Bồ-tát Phổ Hiền.

Thiện nam! Nay ông không nên tu một thiện căn, quán chiếu một pháp môn, phát một đại nguyện, nhận một thọ ký, trụ một nhẫn rồi cho đó là tuyệt đối; không nên dùng tâm có giới hạn mà thực hiện các Ba-la-mật tối thắng; không nên dùng tâm có giới hạn mà trụ mười Địa viên mãn của Bồ-tát, không nên dùng tâm có giới hạn mà làm trang nghiêm tất cả cõi Phật; không nên dùng tâm có giới hạn mà phụng sự, cúng dường các vị Thiện tri thức. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát nên trồng vô lượng thiện căn, nên tích tập vô lượng vật dụng trợ đạo, nên tu vô lượng nhân Bồ-đề, nên học vô lượng hồi hướng khéo, nên giáo hóa vô lượng cảnh giới chúng sinh, nên soi sáng tâm của vô lượng chúng sinh, nên biết căn tánh của vô lượng chúng sinh, nên hiểu kiến giải của vô lượng chúng sinh, nên giác ngộ cho vô lượng chúng sinh, nên điều phục vô lượng chúng sinh, nên cắt đứt vô lượng phiền não, nên làm sạch vô lượng tập nghiệp, nên diệt vô lượng tà kiến, nên trừ vô lượng tâm tạp nhiễm, nên phát vô lượng tâm thanh tịnh, nên nhổ vô lượng mũi tên độc khổ, nên làm cạn vô lượng biển ái dục, nên phá vô lượng bóng tối vô minh, nên phá tan vô lượng núi ngã mạn, nên mở vô lượng dây sinh tử, nên vượt qua vô lượng dòng hữu, nên làm khô vô lượng biển thọ sinh, nên giúp cho vô lượng chúng sinh ra khỏi vũng sình năm dục, nên làm cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi lao ngục của Tam giới, nên đặt vô lượng chúng sinh trên con đường Thánh, nên làm tiêu vô lượng hành tham dục, nên diệt vô lượng hành sân nhuế, nên phá tan vô lượng hành ngu si, nên rọc nát vô lượng lưới ma, nên bỏ vô lượng sự nghiệp của ma, nên làm sạch vô lượng tâm ưa muốn của Bồ-tát, nên phát triển vô lượng phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, nên phát sinh vô lượng căn tăng thượng của Bồ-tát, nên làm phát sinh vô lượng hiểu biết dứt khoát của Bồ-tát, nên tỏ ngộ vô lượng thể bình đẳng của Bồ-tát, nên làm thanh tịnh vô lượng công đức thù thắng của Bồ-tát, nên điều chỉnh vô lượng biển hạnh của Bồ-tát, nên làm viên mãn vô lượng hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, nên hiện vô lượng hạnh thế gian của Bồ-tát, nên tùy thuận vô lượng hạnh phương tiện của Bồ-tát, nên sinh vô lượng năng lực đức tin thanh tịnh, nên trụ vô lượng năng lực tinh tấn, nên làm sạch vô lượng năng lực chánh niệm, nên thực hiện trọn vẹn vô lượng năng lực Tam-muội, nên phát sinh vô lượng năng lực tịnh tuệ, nên làm kiên cố vô lượng năng lực thắng giải, nên tích chứa vô lượng năng lực phước đức, nên làm tăng trưởng vô lượng năng lực trí tuệ, nên phát sinh vô lượng năng lực của Bồ-tát, nên làm viên mãn vô lượng năng lực của Như Lai, nên phân biệt vô lượng pháp môn, nên nhập sâu vào vô lượng pháp môn, nên làm thanh tịnh vô lượng pháp môn, nên sinh vô lượng ánh sáng pháp, nên tạo ra vô lượng pháp rực rỡ, nên chiếu sáng vô lượng loại căn, nên biết vô lượng bệnh phiền não, nên tích vô lượng thuốc diệu pháp, nên điều trị bệnh cho vô lượng chúng sinh, nên cung cấp đầy đủ vô lượng cam lồ, nên đến vô lượng cõi Phật, nên cúng dường vô lượng Đức Như Lai, nên gia nhập vào vô lượng chúng hội Bồ-tát, nên tiếp nhận lời dạy của vô lượng Đức Như Lai, nên nhẫn nhịn vô lượng khổ não của chúng sinh, nên giúp cho vô lượng chúng sinh xa rời nẻo ác, nên ban cho vô lượng chúng sinh sự an lạc thù thắng, nên đem tứ nhiếp pháp, nhiếp hóa vô lượng chúng sinh, nên nhập vô lượng môn Tổng trì, nên sinh vô lượng môn đại nguyện, nên tu vô lượng năng lực Từ bi, nên cầu pháp của vô lượng Đức Phật, nên nảy sinh vô lượng năng lực tư duy, nên phát khởi vô lượng việc thần thông, nên làm thanh tịnh vô lượng ánh sáng trí, nên đến vô lượng nẻo chúng sinh, nên thọ sinh vô lượng hữu, nên hiện vô lượng thân khác nhau, nên thọ vô lượng khổ não, nên thuận theo vô lượng pháp phàm phu, nên biết vô lượng khổ não của chúng sinh, nên thuyết vô lượng pháp của chư Phật, nên xả vô lượng của cải trong ngoài, nên ban cho vô lượng cảnh phước điền, nên ủng hộ vô lượng thiện căn, nên gần gũi vô lượng Thiện tri thức, nên giao hảo vô lượng chủng tộc, nên tu vô lượng Phật pháp, nên thuyết vô lượng Phật pháp, nên khen ngợi vô lượng sự trì giới, nên cảnh tỉnh vô lượng người phá giới, nên hồi hướng vô lượng pháp thiện xảo, nên hiểu rõ vô lượng pháp huyễn mộng, nên giúp cho vô lượng chúng sinh trụ giới thanh tịnh, nên ban định kim cương cho vô lượng chúng sinh, nên giúp cho vô lượng chúng sinh xả hữu kiến, nên giúp cho vô lượng chúng sinh sớm xa lìa tam giới, nên giúp cho vô lượng chúng sinh thấy được vô ngã, nên giúp cho vô lượng chúng sinh ngộ Tam thừa, nên nhập vô lượng tâm sai biệt, nên nghĩ đại cảnh giới của Bồ-tát, nên trú đại cung điện của Bồ-tát, nên quán pháp sâu xa của Bồ-tát, nên biết cảnh giới khó biết của Bồ-tát, nên thực hiện hạnh khó làm của Bồ-tát, nên thận trọng đức đáng tôn kính của Bồ-tát, nên bước đến địa vị khó vào của Bồ-tát, nên biết đủ các hạnh của Bồ-tát, nên hiện thần lực của Bồ-tát khắp nơi, nên thọ mây pháp bình đẳng của Bồ-tát, nên khuếch trương lưới hạnh vô biên của Bồ-tát, nên làm viên mãn vô biên độ của Bồ-tát, nên tiếp nhận vô lượng sự thọ ký của Bồ-tát, nên nhập vô lượng môn nhẫn nhục của Bồ-tát, nên khai thông vô lượng trí của Bồ-tát, nên nhập vô lượng nhân duyên của Bồ-tát, nên chỉ rõ vô lượng pháp nan giải của Bồ-tát, nên hiển bày vô lượng nghiệp của Bồtát đã tạo, nên cắt đứt vô lượng khổ ba độc của Bồ-tát, nên dứt sạch vô lượng căn bản và hoặc của Bồ-tát, nên làm thanh tịnh vô lượng quả vị của Bồ-tát, nên thuyết giảng vô lượng pháp môn, nên làm thanh tịnh vô lượng cõi Phật, nên khoác vô lượng áo giáp của Bồ-tát, nên phụng sự vô lượng Đức Như Lai, nên phát bất tư nghì nguyện Bồ-tát, nên tu bất tư nghì hạnh Bồ-tát, nên tiếp nhận bất tư nghì sự giáo hóa của Bồ-tát, nên biết bất tư nghì hạnh tùy thuận phiền não của Bồ-tát, nên biết bất tư nghì hạnh ly phiền não của Bồ-tát, nên làm thanh tịnh bất tư nghì lỗi hữu vi của Bồ-tát, nên biết bất tư nghì khen ngợi Niếtbàn lợi ích sâu xa của Bồ-tát, nên biết bất tư nghì công đức của Như Lai. Như thế, bất tư nghì lời khen ngợi của Đức Như Lai, bất tư nghì tiếng khen về Đức Như Lai, bất tư nghì lời khen về Niết-bàn, bất tư nghì các pháp khác nhau của thế gian, bất tư nghì sự diệt trừ thế pháp, bất tư nghì diệu hạnh, bất tư nghì ngôn ngữ, bất tư nghì hạnh tạp phiền não, bất tư nghì hạnh diệt phiền não, bất tư nghì, bất tư nghì câu kim cương diệu hạnh, bất tư nghì câu kim cương ngôn ngữ, bất tư nghì câu kim cương tạp phiền não, bất tư nghì câu kim cương diệt phiền não, câu diệu hạnh bí mật, bất tư nghì câu ngôn ngữ bí mật, bất tư nghì câu bí mật tạp phiền não, bất tư nghì câu bí mật diệt phiền não. Vị ấy tu tập tất cả như thế.

Thiện nam! Điều cần nêu ở đây, là nên tu khắp tất cả hạnh của Bồ-tát, hiểu rõ pháp bình đẳng, nên giáo hóa và khéo léo điều phục tất cả chúng sinh trong pháp giới. Nên nhập khắp tất cả vô biên kiếp bằng nguyện lực rộng lớn, nên sinh vào khắp các nẻo hữu bằng sự thị hiện thọ sinh, nên biết khắp tất cả trí tam thế và tùy thuận giác ngộ, nên thực hành thể đồng tuyệt đối từ pháp của tất cả chư Phật, nên làm thanh tịnh bình đẳng, sạch đẹp khắp tất cả cõi Phật, nên làm cho nguyện của tất cả Bồ-tát tròn khắp viên mãn đồng một thể, nên cúng dường khắp tất cả chư Phật bằng nguyện thù thắng hiện hữu, nên cùng một nguyện với tất cả Bồ-tát bằng một tánh bình đẳng, nên phụng sự khắp tất cả Thiện tri thức, hết tâm cầu đủ các hạnh của Bồ-tát để giúp cho tâm họ phát sinh hoan hỷ.

*********

Lại nữa, thiện nam! Nhân việc cầu Thiện tri thức này, ông đừng để thân tâm của mình mệt mỏi; gặp Thiện tri thức không nên nhàm chán, thỉnh vấn Thiện tri thức, không nên cho là khổ nhọc rồi nản chí, gần gũi Thiện tri thức, đừng có ý thoái chuyển; cúng dường Thiện tri thức đừng để gián đoạn; tùy thuận lời dạy của Thiện tri thức không nên phản đối, đối với những công đức của Thiện tri thức, không nên nghi ngờ; nghe Thiện tri thức diễn thuyết môn xuất ly, thì nên dứt khoát tuân hành; thấy Thiện tri thức, tùy thuận hạnh phiền não, thì không nên sinh tị hiềm; hết tâm tin tưởng vào Thiện tri thức gì thay đổi. Vì sao? Thiện nam! Vì nhờ Thiện tri thức mà Bồ-tát được nghe hạnh của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được thành tựu công đức của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được phát sinh đại nguyện của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà phát triển được thiện căn của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được thâu gom các pháp trợ đạo của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được mở toang ánh sáng pháp của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được thành tựu môn xuất ly của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức nên được tu học giới thanh tịnh của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được an trụ pháp công đức của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được thanh tịnh tâm tự tánh của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà phát minh được chí kiên cố của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đầy đủ môn Đà-la-ni biện tài của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà có khả năng sinh ra tạng thanh tịnh của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà xuất hiện được ánh sáng trí của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà đạt được nguyện tăng thượng của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đồng một nguyện với tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được nghe pháp thù thắng của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đến những chỗ bí mật của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đến đảo pháp báu của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được phát triển mầm thiện căn của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được khuếch trương biển trí tuệ của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà bảo vệ được tạng sâu kín của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà gìn giữ được đống phước đức của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được làm thanh tịnh đạo thọ sinh của Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà lãnh thọ được mây chánh pháp của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đi vào đạo xuất thế của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà phát sinh toàn đại hoan hỷ của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà đạt được quả Bồ-đề của tất cả Như Lai; nhờ Thiện tri thức mà thâu giữ được những gì diệu hạnh của tất cả Bồtát; nhờ Thiện tri thức mà được khai quật công đức của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được đi nghe diệu pháp khắp nơi; nhờ Thiện tri thức mà được diễn thuyết tâm của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được thành tựu năng lực Đại Từ của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được sinh năng lực đại Bi của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được nắm giữ năng lực tự tại của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà được phát sinh Bồ-đề phần của tất cả Bồ-tát; nhờ Thiện tri thức mà có khả năng làm việc lợi ích của tất cả Bồ-tát.

Thiện nam! Tất cả Bồ-tát đều nhờ vào sự gìn giữ của Thiện tri thức mà không rơi vào nẻo ác; nhờ sự thành tựu của Thiện tri thức mà thọ sinh tự tại; nhờ sự chỉ dẫn của Thiện tri thức mà đạt được trí túc trụ; nhờ sự khai phát của Thiện tri thức mà biết tất cả kiếp; nhờ sự tiếp nhận của Thiện tri thức mà không còn thoái chuyển nơi Đại thừa; nhờ sự quán sát của Thiện tri thức mà không còn hủy phạm giới Bồtát; nhờ sự bảo vệ gìn giữ của Thiện tri thức mà không giong ruổi theo bạn ác; nhờ sự dưỡng dục của Thiện tri thức mà không đánh mất pháp Bồ-tát; nhờ sự thâu giữ của Thiện tri thức mà vượt khỏi hàng phàm phu; nhờ sự chỉ dạy của Thiện tri thức mà không bị rơi vào hàng Nhị thừa; nhờ sự hướng dẫn của Thiện tri thức mà được ra khỏi thế gian; nhờ sự che chở của Thiện tri thức mà có khả năng không nhiễm pháp thế gian; nhờ sự vỗ về nuôi nấng của Thiện tri thức mà tu được tất cả hạnh của tất cả Bồ-tát, tâm không toán loạn; nhờ sự phát khởi của Thiện tri thức mà được đầy đủ tất cả trợ đạo, không làm nản chí; nhờ uy lực của Thiện tri thức mà không bị nghiệp chướng làm tan hoại; nhờ sự chịu giữ của Thiện tri thức mà không bị các ma khống chế; nhờ mặc giáp nhẫn nhục của Thiện tri thức mà có khả năng tiếp nhận tất cả các lời ác hủy nhục; nhờ sự an ủi của Thiện tri thức mà tâm không vướng bận sự khổ vui ở đời; nhờ sự sinh trưởng của Thiện tri thức mà có khả năng diệt trừ các kiêu mạn thường yêu thích giáo pháp; nhờ sự bảo hộ của Thiện tri thức mà có khả năng làm viên mãn tịnh giới của Bồ-tát; nhờ oai lực của Thiện tri thức mà có khả năng hiểu rõ các pháp tâm không có chỗ nắm bắt; nhờ sự an ủi của Thiện tri thức mà tâm có khả năng không sợ hãi Tam giới; nhờ sự chỉ bày của Thiện tri thức, nên có khả năng biết thông thạo con đường ra khỏi Tam giới; nhờ sự chuyên cần tu tập của Thiện tri thức, nên tin hiểu pháp sâu xa không biết nhàm chán; nhờ sự hướng dẫn của Thiện tri thức, nên không bị danh lợi kiêu mạn thúc ép; nhờ sự thuyết giảng của Thiện tri thức, nên được trí túc trụ biết được nhân quá khứ; nhờ sự gia trì của Thiện tri thức, nên đối với ngằn mé vị lai đạt được thiện xảo; nhờ khả năng sinh của Thiện tri thức, nên đạt được trí thiện xảo, biết rõ ba đời; nhờ sự thâu nạp của Thiện tri thức, nên có khả năng thay đổi nghiệp y báo chánh báo của chúng sinh; nhờ sự bảo hộ khắp của Thiện tri thức, nên có khả năng đầy đủ các điều thiện, bên trong ẩn chứa sự hổ thẹn; nhờ năng lực tùy thuận của Thiện tri thức, mà có khả năng dẫn dắt chúng sinh bằng những lời hiền hòa và nhan sắc tươi nhuận; nhờ sự tu hành của Thiện tri thức, nên có khả năng xa rời tất cả những thường kiến, đoạn kiến; nhờ sự tùy thuận bảo hộ của Thiện tri thức, nên có khả năng xa rời các pháp: Thịnh, suy, khen, chê; nhờ sự chỉ dẫn của Thiện tri thức mà không nói đến khả năng của mình mà chỉ khen ngợi công đức của người khác; nhờ khéo léo chỉ dẫn của Thiện tri thức mà có khả năng chuyên cần tu tập pháp Bồ-đề phần; nhờ sự tuyển chọn của Thiện tri thức, nên có khả năng diễn đạt lý thú sâu xa của Khế kinh; nhờ sự chuyên tu của Thiện tri thức, nên có thể yêu thích công đức thành tựu Đầu-đà; nhờ sự tiên phong của Thiện tri thức, nên đạt được thiện xảo từ các pháp không.

Thiện nam! Nhờ sự chỗ nương tựa và phụng sự Thiện tri thức; cho mà có khả năng làm cho tăng trưởng vô lượng, vô biên pháp Bồđề phần của tất cả các vị Đại Bồ-tát. Vì sao? Thiện nam! Vì bậc Thiện tri thức, có khả năng làm thanh tịnh các pháp ác, có khả năng rời bỏ các triền cái làm chướng ngại, có khả năng dẹp tan mây vô minh che phủ, có khả năng giải tỏa tất cả các kiến buộc ràng, có khả năng đưa ra khỏi thành đại khổ vì sinh tử, có khả năng xả bỏ nơi chấp trước, có khả năng rọc tan lưới của tất cả ác ma, có khả năng nhổ bỏ tất cả tên độc về khổ, có khả năng ra khỏi rừng sâu vô minh, có khả năng qua khỏi đồng hoang tà kiến, có khả năng vượt qua những dòng thác các hữu, có khả năng nhổ ra khỏi vũng bùn ái dục, có khả năng không rơi vào những con đường tà ác, có khả năng mở thông con đường giác ngộ, có khả năng làm cho an trụ tinh tấn, có khả năng đưa đến nơi tu hành, có khả năng làm thanh tịnh tánh đạo Nhất thiết trí, có khả năng làm cho con mắt trí càng sáng tỏ, có khả năng làm phát triển tâm Bồ-đề, có khả năng làm cho tâm đại Bi bộc phát, có khả năng thuyết tất cả hạnh Bồ-tát, có khả năng chỉ dạy tất cả Ba-la-mật, có khả năng an trí nơi tất cả hàng Bồ-tát, có khả năng làm cho đạt được các môn nhẫn, có khả năng làm phát sinh tất cả các thiện căn, có khả năng thành tựu tất cả những vật dụng trợ đạo, có khả năng ban cho tất cả đại công đức, có khả năng giúp đến khắp chỗ của tất cả chư Phật, có khả năng chỉ rõ tất cả pháp công đức, có khả năng khuyên tu tất cả lợi ích thù thắng, có khả năng khích lệ tất cả đều tu đạo, có khả năng hướng dẫn ra khỏi cửa sinh tử, có khả năng lấp bít tất cả lối tà, có khả năng giúp đi vào đạo chân thật, có khả năng dùng ánh sáng pháp chiếu rực khắp nơi, có khả năng trút mưa pháp thấm nhuần khắp nơi, có khả năng giúp cho trọng sư trưởng, xa rời sự lười biếng, có khả năng làm cho nhập pháp bạch tịnh tâm không nhàm chán.

Thiện nam! Bậc Thiện tri thức, ví như bậc thầy mô phạm, có khả năng dùng lời hay để chỉ dạy.

Bậc Thiện tri thức như bạn đồng hành sống ở trong chùa không rời nhau.

Bậc Thiện tri thức như thần thông tối thắng có khả năng hiện mọi thứ tự tại.

Bậc Thiện tri thức như kiếm Kim cương có khả năng chặt đứt phiền não và tùy miên.

Bậc Thiện tri thức như người thân của thầy giáo, có khả năng giúp sám hối trừ năm tội phạm.

Bậc Thiện tri thức như thắng định, có khả năng diệt trừ tất cả tùy phiền não.

Bậc Thiện tri thức như gương Ma-ni, giúp chứng túc trụ trí ngay hiện tại.

Bậc Thiện tri thức giống như nhịp cầu giúp cho mọi người vượt qua các dòng hữu.

Bậc Thiện tri thức có khả năng cắt nát lưới nghi ngờ và khéo léo dứt hẳn nghiệp dị thục.

Bậc Thiện tri thức có khả năng khéo léo ở yên, làm nhanh chóng gia nhập vào hàng Bất thoái.

Bậc Thiện tri thức có khả năng làm tin tưởng chắc chắn về nghiệp quả vi tế, như chính mình được thấy.

Bậc Thiện tri thức có khả năng khuyến khích tu tập và chê trách tất cả pháp bất thiện.

Bậc Thiện tri thức chính là con mắt trí tuệ không chìm đắm vào tất cả pháp.

Bậc Thiện tri thức, tâm như ngọn đèn sáng, thuận tánh bản giác, mà thông hiểu rõ.

Bậc Thiện tri thức như người giảng đạo, giảng cho hàng đại trượng phu nơi chúng hội.

Bậc Thiện tri thức có khả năng bỏ bạn ác, không đến chỗ ở của người ác.

Bậc Thiện tri thức xả ác luật nghi, có khả năng làm phát triển thiện luật nghi.

Bậc Thiện tri thức có khả năng giáo hóa đúng lúc, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà thuyết giảng.

Bậc Thiện tri thức khuyên tu tập tùy thuận, xả bỏ cơm áo để thâu nạp chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức là vị thầy đi trước dẫn đường, làm cho ta tu hành đúng với lời dạy.

Bậc Thiện tri thức giúp thâm nhập trọn vẹn vào định đẳng trì, đẳng chí.

Bậc Thiện tri thức giống như lương y, có khả năng biết tiết độ trong việc ăn uống.

Bậc Thiện tri thức giống như vị thầy Du-già, có khả năng giúp ta nhập vào hạnh tương ưng.

Bậc Thiện tri thức có khả năng chỉ dẫn giúp ta thấy được cảnh giới thù thắng của Bồ-tát.

Bậc Thiện tri thức có khả năng làm cho giác ngộ, giúp ta hiểu rõ bản tánh của các pháp.

Bậc Thiện tri thức có khả năng an ủi, làm cho các chúng sinh hết ưu buồn khổ não.

Bậc Thiện tri thức giống như lụa mềm, có khả năng thâu gom chúng sinh nhập vào trí Phật.

Gặp bậc Thiện tri thức như được ấn vua, đối với tất cả pháp sẽ không bị chướng ngại.

Bậc Thiện tri thức là người có khả năng hướng dẫn phát tâm, giúp cho chúng sinh nhập nẻo chủng trí.

Bậc Thiện tri thức là vườn ngự uyển pháp, cũng là nơi mà các Bồ-tát yêu thích.

Bậc Thiện tri thức như vị tướng mạnh mẽ, dẹp tan tất cả quân ma.

Bậc Thiện tri thức là thần chú đại minh có khả năng trừ hết tất cả khổ ách.

Bậc Thiện tri thức như con thuyền lớn, vượt qua biển sinh tử đến bờ bên kia.

Bậc Thiện tri thức như ngọc châu như ý có khả năng giúp tất cả nhu cầu đều viên mãn.

Bậc Thiện tri thức có khả năng cứu hộ, cứu giúp chúng sinh nơi các đường ác.

Bậc Thiện tri thức là tướng dẫn đường đi trước để cùng tu mười tám pháp Bất cộng của Đức Phật.

Bậc Thiện tri thức như đồ trang sức, để điểm tô tất cả Pháp thân thanh tịnh.

Bậc Thiện tri thức như ngọc anh lạc xinh đẹp, để trang sức cho những Phật tử phát tâm.

Bậc Thiện tri thức giống như người con trưởng, có khả năng kế thừa dòng Phật làm cho liên tục không dứt.

Bậc Thiện tri thức như cái bình hiền đức, chứa đầy công đức và trí tuệ của chư Phật.

Bậc Thiện tri thức như ngọc Ma-ni sáng, có khả năng làm sạch tất cả bụi nhơ nơi tâm.

Bậc Thiện tri thức như giới thanh tịnh, có khả năng làm cho ba nghiệp đều trở mà thanh tịnh.

Bậc Thiện tri thức giống như chìa khóa, có khả năng mở toang tất cả cửa giải thoát.

Bậc Thiện tri thức giống như con đường lớn, nơi thực hành hạnh và trí của Phật.

Bậc Thiện tri thức chính là cảnh giới của Phật, chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa.

Bậc Thiện tri thức như lời dạy chánh trí, không phải chỉ biết cảnh giới của Tam thừa.

Bậc Thiện tri thức như quả đẳng lưu đồng loại sinh như các chủng trí.

Bậc Thiện tri thức như đôi mắt sáng, có khả năng chỉ con đường nguy hiểm cho chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức giống như môn Tổng trì, có khả năng nắm giữ sự tu học của các chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức là công năng phát sinh, làm phát sinh tất cả ánh sáng trí tuệ.

Bậc Thiện tri thức là công năng phá tan, phát tan tất cả bóng tối vô minh.

Bậc Thiện tri thức như thần dược, có khả năng trừ các bệnh nghiệp của chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức như kho vô tận, làm sung mãn tất cả nguyện của chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức như phương tiện khéo, khéo léo chứng đắc quả vị của chư Phật.

Bậc Thiện tri thức giống như cửa nẻo, giúp sự hành đạo thiểu dục tri túc.

Bậc Thiện tri thức như công năng tạo nghiệp, có khả năng làm cho ta chuyên cần tu tập nghiệp thanh tịnh.

Bậc Thiện tri thức như người giảng đạo, làm cho mọi người xa lánh các nhân duyên hiểm nạn.

Bậc Thiện tri thức giống như pháp chỉ quán, làm dứt hết tất cả pháp khát ái.

Bậc Thiện tri thức là người thuyết về trí tuệ, làm cho ta nhập sâu vào nghĩa vô sinh.

Bậc Thiện tri thức có khả năng chiếu ánh sáng, làm cho nhân quả không hoại mất.

Bậc Thiện tri thức như nơi yên tĩnh, có khả năng làm cho tâm họ yên tĩnh để tu tập đạo.

Bậc Thiện tri thức là người chỉ đường, hướng dẫn đến chỗ hội họp của Như Lai.

Bậc Thiện tri thức giống như mặt trời mặt trăng, có khả năng chiếu sáng pháp sâu xa.

Bậc Thiện tri thức như bậc thầy mô phạm, có khả năng phân biệt trí vi tế cho mọi người.

Bậc Thiện tri thức là người có khả năng làm cho mọi người giác ngộ, giúp ta liễu ngộ các pháp đều như mộng, như huyễn.

Bậc Thiện tri thức là nghi phạm thù thắng, thường tùy thuận ủng hộ chúng sinh.

Bậc Thiện tri thức có khả năng biết được trí thế gian; mà khi đến, lúc đi, nói năng im lặng, tâm đều không loạn.

Bậc Thiện tri thức nhàm chán tâm ác, giác ngộ tự tánh, xa lìa ngu muội.

Bậc Thiện tri thức phụng sự hàng cao đức, không chấp vào ta, người và sự lười biếng.

Bậc Thiện tri thức tiêu diệt các hoặc, quán thân của mình và người là không thể nắm bắt.

Bậc Thiện tri thức có đầy đủ trí giác ngộ, tùy thuận và hiểu biết hết pháp thế gian và xuất thế gian.

Bậc Thiện tri thức tránh xa việc vô ích, để giúp mình và người vượt qua các hữu.

Bậc Thiện tri thức là trí chân thật, biết khắp tất cả thể sinh diệt.

Bậc Thiện tri thức không nắm bắt không lo lắng mà quán sát thể của nghiệp mà mình đã tạo trong quá khứ.

Bậc Thiện tri thức hành hành Đầu-đà, thường tắm rửa bằng pháp của Bồ-tát.

Bậc Thiện tri thức đạt được nghĩa vô ngại, giác ngộ về thể chân thật khác nhau.

Bậc Thiện tri thức không cầu khen ngợi, không nêu đức của mình, che việc tôn kính.

Bậc Thiện tri thức đầy đủ trí diệu nhẫn, giác ngộ hết về nghiệp quả của mình.

Bậc Thiện tri thức xa lìa tại gia, không vì lợi dưỡng mà thân cận.

Bậc Thiện tri thức trụ hạnh xa lìa, bỏ lời vô nghĩa, gần tới chân thật.

Bậc Thiện tri thức tu hành cảnh giới chân chánh, thường xuyên chuyên cần tu tập tứ niệm trụ.

Bậc Thiện tri thức vấn đáp lưu loát, đối với những sự vấn đáp đều thông suốt.

Bậc Thiện tri thức có khả năng bẻ gãy những luận thuyết khác, khéo léo xác lập khả năng phá tan tà kiến.

Bậc Thiện tri thức không chán ghét người khốn khổ, mà luôn sinh tâm thương xót họ.

Bậc Thiện tri thức có khả năng đem pháp nhiếp hóa, làm cho họ nhập trọn vẹn vào pháp chân thật.

Bậc Thiện tri thức có khả năng nhiếp hóa bằng tài sản, giúp cho các chúng sinh tu hạnh lành.

Bậc Thiện tri thức thường tu tri túc, nhàm chán, xa lánh không bào chữa những lỗi lầm.

Bậc Thiện tri thức khen ngợi tịnh giới, có khả năng hiểu biết về

thể của kết quả từ những loại giới sâu xa.

Bậc Thiện tri thức quở trách sự phá giới, nghĩa là giác ngộ sâu sắc đối với tội lỗi, từ đủ các sự phá giới.

Bậc Thiện tri thức có đầy đủ giới, nghĩa là biết chánh niệm giữ gìn đúng lý không dối trá.

Bậc Thiện tri thức có khả năng quán sát khéo léo, nghĩa là chuyên cần thỉnh vấn tất cả pháp thiện và ác.

Bậc Thiện tri thức có khả năng làm người đi trước dẫn đường, khuyên các chúng sinh chuyên cần tu tập sự giác ngộ của Phật.

Bậc Thiện tri thức trụ không thoái chuyển, bỏ bốn điên đảo và biết được tự tánh của chúng.

Bậc Thiện tri thức trụ tướng chân thật, biết toàn thể các pháp đều không tướng.

Bậc Thiện tri thức trụ kiến giải chân thật, nghĩa là hiểu biết được rằng diệt trừ danh và sắc thì các pháp đều không sinh.

Bậc Thiện tri thức đạt được vô sở úy, nghĩa là biết được thể của tướng và dụng từ pháp môn sâu xa của chư Phật.

Bậc Thiện tri thức là trú xứ của tịnh giới, nghĩa là đối với trí thân giới và tướng giới của Bồ-tát đều biết khắp.

Bậc Thiện tri thức nhập sâu vào môn định, nghĩa là xa bùn dục mà trụ vào Tam-muội.

Bậc Thiện tri thức tâm không cấu bẩn nghĩa là rời triền cái an trú tâm thanh tịnh.

Bậc Thiện tri thức đạt được các Tổng trì, nghĩa là tâm không đắm trước, diễn thuyết đúng sự thật.

Bậc Thiện tri thức biết môn sâu xa, nghĩa là có khả năng nhập trọn vẹn vào bản tánh của các pháp.

Bậc Thiện tri thức là trú xứ của niềm tin, tin vào các nơi có pháp lành căn bản.

Bậc Thiện tri thức trụ vào sự giáo hóa tịch tĩnh, nghĩa là diệt trừ toàn bộ khát ái.

Bậc Thiện tri thức đi trên đường chánh trực nghĩa là có khả năng biết khắp các khổ và vô ngã.

Bậc Thiện tri thức ở địa vị Bồ-tát, nghĩa là biết hết mười Địa.

Bậc Thiện tri thức chính là ngôi vị trí tuệ, nghĩa là không mê hoặc các pháp.

Bậc Thiện tri thức chính là người ở vào địa vị của chư Phật, nghĩa là có khả năng sinh pháp Bồ-tát.

Bậc Thiện tri thức trụ nơi đạo chân thật, mà tất cả hàng Nhị thừa không thể biết được.

Bậc Thiện tri thức được biện tài vô tận, có khả năng thuyết đúng sự thật về thể của tri kiến.

Bậc Thiện tri thức khéo léo xa lìa buồn khổ, vì biết khổ của sinh tử vốn vô ngã.

Bậc Thiện tri thức chẳng cần cảnh giới của văn tự, vì biết lời nói về đạo không thể nắm bắt.

Bậc Thiện tri thức trụ nơi pháp vô sinh, nghĩa là hiểu biết tánh là không thể nắm bắt.

Bậc Thiện tri thức chính là người có khả năng làm cho vắng lặng nghĩa là người có khả năng diệt trừ các phiền não.

Bậc Thiện tri thức diệt các tà kiến, nghĩa là có khả năng an trú trong chánh kiến.

Thiện nam! Bậc Thiện tri thức giống như mẹ hiền, sinh ra tất cả chủng tánh Phật.

Bậc Thiện tri thức giống như cha nghiêm, làm lợi ích rộng lớn, phó chúc cho người thân.

Bậc Thiện tri thức giống như nhũ mẫu, giữ gìn không để cho tạo pháp ác.

Bậc Thiện tri thức giống như vị thầy, chỉ dạy những điều Bồ-tát cần phải học.

Bậc Thiện tri thức giống như người rành đường, có khả năng chỉ cho ta Ba-la-mật sâu xa.

Bậc Thiện tri thức giống như vị lương y, có khả năng điều trị đủ các chứng bệnh phiền não.

Bậc Thiện tri thức giống như núi Tuyết, làm xanh tốt thuốc Nhất thiết trí.

Bậc Thiện tri thức giống như vị tướng mạnh, trừ sạch tất cả sự kinh sợ.

Bậc Thiện tri thức giống như vị thuyền trưởng, giúp vượt qua dòng thác lớn sinh tử.

Bậc Thiện tri thức giống như người lái buôn, đưa mọi người đến đảo báu Nhất thiết trí.

Thiện nam! Nếu hôm nay, ông có khả năng suy nghĩ như vậy thì bằng chánh niệm tư duy này, ông sẽ được thân cận các Thiện tri thức.

Này thiện nam! Phụng sự tất cả Thiện tri thức, ông phải phát tâm như đại địa và gánh vác bình đẳng không mệt mỏi.

Đối với Thiện tri thức, ông mà phát tâm như Kim cương, chí nguyện bình đẳng, không thể hoại.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như núi Thiết vi, tất cả các khổ không thể làm lay động.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm cung cấp hầu hạ và tuân theo những lời truyền dạy.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm làm đệ tử, không được chống lại những điều khuyên dạy.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như đứa tớ, không từ chối các công việc.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như đống lửa mạnh, thiêu sạch tất cả phiền não.

Đối với Thiện tri thức, ông nên xem mình như người làm thuê, làm theo sự truyền dạy không được phản đối.

Đối với Thiện tri thức, ông mà xem mình như người hốt phân, mà cởi bỏ tất cả tâm kiêu mạn.

Đối với Thiện tri thức, ông mà phát tâm như nước lớn, rửa sạch tất cả bụi nhơ phiền não.

Đối với Thiện tri thức, ông mà phát tâm như ngọn gió mạnh, thổi tan núi ngã mạn của chúng sinh.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như hư không, sẽ không bị chướng ngại bởi cảnh giới năm dục.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như biển cả, các công đức báu đều viên mãn.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như vầng trăng tròn, làm cho pháp bạch tịnh viên mãn mát mẻ.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như Sư tử, đánh cắn các cầm thú ác ma ở trên đường đi của mình.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như ngựa hay, xa hẳn các tánh xấu, theo người đến tận nơi.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như trâu chúa, làm lợi ích cho chúng sinh không biết mỏi mệt.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như Sa-môn, đời sống chỗ ở chân chánh, xa hẳn nịnh tà.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như hoa sen, giới và tuệ thanh tịnh không nhiễm bùn dục.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như người lái buôn, hướng dẫn mọi người đến thành trí của Phật.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như cổ xe lớn, vận tải những gánh nặng về quả báo vong ân.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm điều thuận như voi, được luyện tập luôn luôn cung kính phục tùng không có hung bạo.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như núi chúa, duy trì tất cả không bị khuynh động.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như con chó ngoan, không có nóng giận và làm hại chủ mình.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như Chiên-đà-la, tâm luôn tự ti không có nhân ngã.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như bò thiến luôn suy nghĩ về hạnh thuận không có ra oai.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm ở gần, để phục tùng và làm theo sư trưởng.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như ghe thuyền, chở đưa người qua lại không biết mệt mỏi.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như nhịp cầu, đưa chúng sinh đến bờ bên kia.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như người con hiếu, vui vẻ, hầu cận cúng dường.

Đối với Thiện tri thức, ông nên phát tâm như vua, tuân theo lệnh vua không trái phạm.

Lại nữa, thiện nam! Ông nên nghĩ xem thân mình là người mang bệnh khổ, xem Thiện tri thức là y vương, xem sự thuyết pháp là thuốc hay, xem sự tu hành là trừ bệnh.

Này thiện nam! Ông nên xem mình là người đi xa, xem Thiện tri thức là vị thầy dẫn đường, xem sự thuyết pháp là con đường chánh, xem sự tu hành như đến được phương xa.

Này thiện nam! Ông nên xem thân thân mình như người cần qua sông, Thiện tri thức là vị thuyền trưởng, sự thuyết pháp là mái chèo, sự tu hành như đang đến bờ bên kia.

Này thiện nam! Ông nên xem mình là người nông phu, Thiện tri thức là rồng chúa, sự thuyết pháp là mưa đúng thời, sự tu hành là mùa màng chín rộ.

Này thiện nam! Ông nên xem mình là người nghèo khổ, Thiện tri thức là vị Tỳ-sa-môn, sự thuyết pháp là ban của báu, sự tu hành là giàu sang.

Này thiện nam! Ông nên xem thân mình là người đệ tử, Thiện tri thức là bậc thầy giỏi, sự thuyết pháp là nghề tốt, tu hành là sự thông hiểu.

Này thiện nam! Ông nên xem thân mình như người khiếp sợ, Thiện tri thức là người có sức mạnh, sự thuyết pháp là binh khí, sự tu hành là trừ được oán thù.

Này thiện nam! Ông nên xem thân mình là người lái buôn, Thiện tri thức là vị thầy dẫn đường, sự thuyết pháp là châu báu, những sự tu hành là được của báu.

Này thiện nam! Ông nên xem thân mình là đứa trẻ con, Thiện tri thức là cha mẹ, thuyết pháp là gia nghiệp, sự tu hành là kế thừa.

Này thiện nam! Ông nên xem thân mình như con vua, Thiện tri thức là đại thần, sự thuyết pháp là lời dạy của vua, sự tu hành là trí tuệ, là ở thành của vua, đội mão vua và buộc vải lụa của vua.

Thiện nam! Ông nên phát tâm như thế, suy nghĩ như thế, để gần gũi, phụng sự Thiện tri thức. Vì sao? Vì tất cả Bồ-tát đều thân cận Thiện tri thức bằng tâm như vậy, làm cho chí nguyện của mình luôn luôn được thanh tịnh.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nhờ Thiện tri thức mà luôn luôn có

khả năng phát triển tất cả thiện căn, giống như núi Tuyết sinh trưởng cây thuốc; nhờ Thiện tri thức, mà được trở thành pháp khí của Phật, giống như biển cả tiếp nhận các dòng nước; nhờ Thiện tri thức mà trở thành chỗ công đức, trí như biển cả sinh ra các báu; nhờ Thiện tri thức mà được thanh tịnh tâm Bồ-đề; ví như lửa mạnh có khả năng luyện vàng ròng; nhờ Thiện tri thức, mà được xa khỏi thế gian, như núi Tu-di vượt lên khỏi biển cả; nhờ Thiện tri thức, mà không bị nhiễm pháp thế gian, giống như hoa sen không nhiễm nước bẩn; nhờ Thiện tri thức, mà không thọ các điều ác, giống như biển cả không dung nạp thây chết; nhờ Thiện tri thức, mà được tăng trưởng pháp trắng, giống như vầng trăng lần lượt tròn đầy; nhờ Thiện tri thức, mà chiếu sáng pháp giới, giống như mặt trời rực rỡ chiếu sáng khắp thiên hạ; nhờ Thiện tri thức, mà đại nguyện được tăng trưởng, giống như cha mẹ nuôi nấng con thơ.

Thiện nam! Nay ta lược nói: Nếu Bồ-tát có khả năng chuyên cần cầu và tùy thuận sự dạy dỗ của Thiện tri thức thì được thành tựu mười vô lượng vô lượng, trăm ngàn ức na-do-tha công đức, làm thanh tịnh mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha tâm sâu xa, làm tăng trưởng mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha căn của Bồtát; đầy đủ mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha sức oai đức; đoạn trừ mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ sự chướng ngại của Bồ-tát; vượt khỏi mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ cảnh giới ma; thâm nhập vào mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ pháp môn, làm viên mãn mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ pháp trợ đạo; tu tập mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ diệu hạnh; phát sinh mười vô lượng vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ đại nguyện.

Thiện nam! Ta lại lược thuyết về tất cả các hạnh của Bồ-tát, tất cả Ba-la-mật của Bồ-tát, tất cả ngôi vị của Bồ-tát, tất cả môn an nhẫn của Bồ-tát, tất cả môn Tam-muội của Bồ-tát, tất cả trí và thần thông của Bồ-tát, tất cả môn Tổng trì của Bồ-tát, tất cả trí hồi hướng của Bồ-tát, tất cả bốn vô lượng tâm của Bồ-tát, tất cả nguyện rộng lớn của Bồ-tát, tất cả sự thành tựu khắp nơi của Bồ-tát và tất cả Phật pháp như thế. Tất cả đều nhờ năng lực của Thiện tri thức mà được viên mãn, lấy Thiện tri thức làm căn bản lớn, từ Thiện tri thức mà đến, nương Thiện tri thức mà sinh, dựa vào Thiện tri thức mà lớn, bám vào Thiện tri thức mà trụ, chính Thiện tri thức là nhân duyên, Thiện tri thức làm công năng phát sinh.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Nay con đã biết tất cả thiện pháp đều phát sinh từ Thiện tri thức. Nhưng trong các thiện pháp của Thiện tri thức, làm thế nào để có khả năng nhanh chóng viên mãn, nhanh chóng thanh tịnh và không bị thoái thất?

Đồng tử Đức Sinh và Đồng nữ Hữu Đức nói với Đồng tử Thiện Tài:

–Có hai loại giới nếu đều thọ trì trọn vẹn thì được viên mãn pháp của Thiện tri thức. Hai giới là:

  1. Giới Bồ-tát.
  2. Giới phân biệt giải thoát.

Trì hai giới này thì có khả năng viên mãn pháp của Thiện tri thức. Như Đức Phật đã nói: Tự mình không trì giới mà khuyên người trì giới, tự mình không điều phục mà điều phục người thì điều đó không thể được. Những Bồ-tát nào đầy đủ trọn vẹn công đức hạnh Đầu-đà và được thanh tịnh hai giới như thế thì không mất thiện pháp.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Thế nào gọi là công đức Đầu đà?

Đồng tử và đồng nữ bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Nói về hạnh Đầu-đà thì Bồ-tát có mười hai hạnh. Mười hai hạnh ấy là:

–Thiện nam! Y nạp có nghĩa là: Những Bồ-tát nào đủ mười loại pháp thì được thành tựu viên mãn việc thọ nhận y.

Mười pháp là:

  1. Chuyên cần tu tập để cho kiên cố.
  2. Tâm luôn khiêm cung.
  3. Thân tâm không biết mỏi mệt.
  4. Không đắm nhiễm vào y phục.
  5. Thường thích làm cho hạnh xa lìa kiên cố.
  6. Thành tựu công đức kiên cố.
  7. Không nêu đức hạnh thù thắng của mình.
  8. Không khinh mạn người khác.
  9. Hộ trì tịnh giới viên mãn.
  10. Đảm nhiệm tất cả người thân cận.

Thiện nam! Đây là Bồ-tát trụ tâm tịnh tín đầy đủ trọn vẹn. Nhờ tâm này, mà được nghe thuyết về lời dạy thanh tịnh của Như Lai, không tiếc thân mạng, chuyên tu Phật pháp, không phá, không hủy. Nhờ chuyên cần tu, mà thân tâm không bị động, ngược lại làm cho trở mà được thành tựu kiên cố; do tâm kiên cố mà thường tự khiêm cung; vì tâm khiêm cung mà thành tựu vô ngã; đã được vô ngã mà tâm không kiêu mạn, được tâm không kiêu mạn và năng lực khiêm hạ, cho mà vật người đem bỏ đi đều lượm trở lại giặt nhuộm thành y, xa rời phiền não không chê xấu, cũng không tham đắm, chỉ lấy che thân để ngăn lạnh nóng mà tu hành đạo nghiệp, ngoài ra không mong gì khác. Đối với nạp y này không thấy lầm lỗi, không nghĩ đến thô hoặc tế chỉ thấy những công đức của y này. Người xa lìa tham dục mới mặc y này. Người mặc y này tâm không phiền não, đó là các vị thánh, hợp với hạnh Bồ-tát, các Đức Phật đã từng khen ngợi. Vì thế mà không tự cao tự đại, không tự cao ngạo cho mà không ghét bỏ người khá; xa cao ngạo ngạo và ghét bỏ, nên tịnh giới được viên mãn, giới được viên mãn cho mà nhận lãnh được sự hộ niệm của các Đức Phật và Bồ-tát. Các vị vua của cõi trời, cõi người, dòng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, cho đến khắp xóm làng, thành ấp những ai được thấy hoặc nghe, họ đều hoan hỷ cung kính lễ bái và đều cùng tán dương khen ngợi công đức của vị ấy. Mà nói: “Chúng ta có phước, mà chiêu cảm đến người trong nước này như thế. Những người đồng phạm hạnh đều hoan hỷ”. Thiện nam! Đó là công đức thành tựu viên mãn, nạp y của Bồ-tát đầy đủ mười pháp.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu có đủ mười pháp, thì sẽ thành tựu viên mãn ba y.

Mười pháp là:

  1. Thành tựu tri túc.
  2. Thành tựu thiểu dục.
  3. Không cầu nhiều.
  4. Không tích chứa.
  5. Không xa rời sự mất mát.
  6. Rời xa sự khổ về thân.
  7. Rời xa tâm ưu buồn.
  8. Rời xa sự bậc bội.
  9. Rời xa việc lấy và bỏ.
  10. Hướng đến con đường hết hoặc lậu.

Thiện nam! Nhờ tâm thiểu dục như thế, mà Bồ-tát đạt được ba y không có kén chọn và niềm vui trọn vẹn. Niềm vui đã trọn vẹn, mà không mong cầu nhiều; không cầu nhiều, mà không tích trữ; không tích trữ mà không sợ mất; không sợ mất cho mà thân không khổ; thân không khổ cho mà tâm không buồn, tâm không buồn; cho mà xa hẳn bậc dọc, không sinh bậc dọc cho mà không có thủ và xả; xa thủ và xả cho mà được hướng đến con đường hết các lậu.

Thiện nam! Đó là công đức thành tựu viên mãn ba y của Bồ-tát đầy đủ mười pháp.

Lại nữa, thiện nam! Có mười loại pháp, nếu Bồ-tát được đầy đủ trọn vẹn thì được thành tựu y không bị nhiễm theo. Mười pháp đó là:

  1. Không theo những việc làm tham dục.
  2. Không theo những việc làm sân nhuế.
  3. Không theo những việc làm ngu si.
  4. Không theo những việc làm phẫn nộ.
  5. Không theo những việc làm ngang ngược.
  6. Không theo những việc làm ganh tị.
  7. Không theo những việc làm keo kiệt.
  8. Không theo những việc làm kiêu mạn.
  9. Không theo những việc tán dương khen ngợi của quyến thuộc đã làm.
  10. Không theo những tài lợi tcó được từ sự thân cận cúng dường.

Thiện nam! Nhờ không làm theo tham này, cho mà không bị bốn ma làm cho khuất phục; gặp các sự hủy nhục, tâm không bị khiếp nhược; giá như có người tôn trọng, cũng không cống cao. Do đó mà gọi là tâm không tuân theo những việc làm của nghiệp đắm nhiễm.

Thiện nam! Đó là công đức diệu hạnh thành tựu viên mãn y không nhiễm theo của Bồ-tát đầy đủ mười pháp.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nào có đầy đủ, trọn vẹn mười pháp sau đây thì được thành tựu y thường khất thực. Mười pháp là:

  1. Bằng tâm Từ thâu giữ.
  2. Thứ tự khất thực.
  3. Không tự sinh bậc bội.
  4. Tri túc đầy đủ.
  5. Chia thức ăn bình đẳng.
  6. Không tham ăn ngon.
  7. Ăn uống biết điều lượng.
  8. Sớm được thiện pháp.
  9. Các căn được mãn nguyện.
  10. Xa lìa tướng hòa hợp.

Thiện nam! Thế nào gọi là bằng tâm Từ thâu giữ cho đến xa lìa tướng hòa hợp?

Thiện nam! Khi nào Bồ-tát thấy các chúng sinh bị các nỗi khổ dày vò, thiếu kém thiện căn, bị dục phủ khắp thiện căn ấy; thì vị này tùy thuận mà đem tâm Từ thâu giữ cho họ. Vì thuận tâm Từ bình đẳng, mà Bồ-tát khất thực theo thứ tự. Khi đến thành ấp khất thực vị ấy đều kiểm soát oai nghi, khéo phòng hộ các căn, nhiếp tâm không loạn, đi thong thả, mắt nhìn thẳng, không quá bảy bước, luôn giữ chánh niệm bằng thiện pháp, không chọn nhà hào quý, không bỏ nhà thấp hèn, trừ hạng Chiên-đà-la và những người hành ác luật nghi thì không nên đến, vì sợ sự dèm pha, phải thâu giữ bằng tâm Từ bi bình đẳng hoàn toàn không xả. Khi Bồ-tát khất thực theo thứ tự, thì bản thân vị ấy không được sinh phiền não, giả sử không được thức ăn cũng không nổi sân. Bồ-tát thành tựu tri túc là như vậy, họ cho gì nhận nấy, không chọn ngon dở. Bồ-tát khất thực theo thứ tự rồi mang đến trước Phật, hoặc trước tháp miếu cúng dường với tâm trân trọng tôn kính. Cúng dường xong, đem về chỗ ở, chia làm bốn phần, lấy phần thứ nhất dâng các vị đồng phạm hạnh, phần thứ hai ban cho những người nghèo khổ, phần thứ ba cho những người tù, phần thứ tư để mình dùng. Đối với những thức ăn ấy cũng không tham ngon, chỉ nghĩ ăn là để trừ bệnh cho thân, làm cho thân được sống. Khi ăn uống, không ăn quá ít để đến nỗi phải ốm gầy mà nguy hại đến việc tu thiện nghiệp; cũng không ăn quá nhiều, làm cho thân nặng nề, tăng thêm sự buồn ngủ. Ngược lại; nhờ nhận sự ăn uống này mà có khả năng chuyên cần tinh tấn để sớm đạt được thiện pháp. Vì muốn viên mãn tất cả thiện căn từ pháp Bồ-đề phần và xa lìa sự nắm giữ tướng hòa hợp mà ly tướng ấy rồi, Bồ-tát xa lìa chấp ngã để thành tựu vô ngã; cho đến thân mình nội ngoại máu thịt cùng tất cả của cải, đều có thể ban cho chúng sinh, cùng dùng không keo kiệt.

Thiện nam! Đó là công đức và diệu hạnh thành tựu viên mãn y thường khất thực của Bồ-tát đầy đủ mười pháp.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát có đầy đủ trọn vẹn mười pháp sau đây thì được thành tựu việc thường ăn một lần ngồi.

Mười pháp là:

  1. Một lần ngồi nơi đạo tràng giống như các Bồ-tát.
  2. Chiến thắng ma oán, tâm không lay động.
  3. Đối với định xuất thế, thành tựu không động.
  4. Đối với tuệ xuất thế, thành tựu không động.
  5. Đối với trí xuất thế, thành tựu không động.
  6. Đối với các pháp không, thành tựu không động.
  7. Đối với sự chứng đạo chân thật, thành tựu không động.
  8. Đối với chân thật tế, thành tựu không động.
  9. Đối với tánh như như, thành tựu không động.
  10. Đối với Nhất thiết trí, thành tựu không động.

Thiện nam! Một lần ngồi này, nghĩa là ngồi một pháp, Bồ-tát nhờ vào đó mà thành tựu không động, cho mà gọi là Bồ-tát thành tựu ngồi một lần.

Thiện nam! Đó là công đức diệu hạnh, thành tựu viên mãn, thường một lần ngồi ăn của Bồ-tát đầy đủ mười pháp.

*********

Lại nữa, thiện nam! Nếu Bồ-tát đầy đủ mười pháp sau đây thì được thành tựu viên mãn một bữa ăn. Những gì là mười?

  1. Thành tựu khi ăn, tánh không tham cầu.
  2. Thành tựu khi ăn, tánh không đắm nhiễm.
  3. Được thức ăn gì cũng cho là đủ.
  4. Thường ăn đúng giờ, không ăn phi thời.
  5. Nếu vì lợi dưỡng, thì không nên ăn.
  6. Nếu vì được đồ ăn ngon cũng không nên ăn.
  7. Nếu thấy người khác ăn, cũng không nên sân hận.
  8. Nếu thất người khác ăn, không vì keo kiệt mà ghen ghét.
  9. Cho đến trọn đời, cũng luôn luôn ăn một bữa.
  10. Đối với thức ăn, tưởng như dùng thuốc

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát đầy đủ mười pháp sau đây thì được pháp A-lan-nhã viên mãn. Những gì là mười?

  1. Là thành tựu được việc tu phạm hạnh lâu dài.
  2. Là thành tựu được luật nghi thanh tịnh.
  3. Là thành tựu được các căn không rối loạn.
  4. Là thành tựu được sự ưa thích học nhiều.
  5. Là thành tựu được năng lực của tất cả các nơi
  6. Là thành tựu được sự xa lìa chấp ngã.
  7. Là thành tựu được việc không chấp trước vào thân..
  8. Là thành tựu được sự ưa thích xa lìa.
  9. Là thành tựu được chánh pháp hiện tiền.
  10. Là thành tựu việc ưa thích ở chỗ riêng.

Này thiện nam! Bồ-tát làm thế nào để tu phạm hạnh được lâu dài cho đến thành tựu được ưa thích ở chỗ riêng?

Này thiện nam! Bồ-tát được như thế nào là do đã được xuất gia; ở trong giáo pháp của các Đức Như Lai đã nói, phải đầy đủ tam luân giới ấn thanh tịnh; ở trong các giới, phải đạt được sự thông suốt, không nhờ người khác dạy và có thể tự mình tìm hiểu rõ. Tùy theo nghĩa thông suốt mà tu hành, tùy theo văn vẻ mà khéo léo thọ trì không quên; đối với đạo xuất thế khéo léo tùy thuận; đối với năm nhóm tội đã phạm, khéo léo sám hối diệt trừ và tùy theo sự đi hay ở mà xa lìa các cảnh tội phạm, đối với các người ác tâm luôn luôn sợ sệt, cho đến tội nhỏ cũng không nên che giấu; đối với các chỗ học tập, có tội hay không tội đều có thể biết rõ ràng; biết được các nghiệp gần xa như vậy thì khỏi đọa vào ba đường ác, lại được sinh làm người, trời; Bồ-tát được như vậy, thì khéo điều phục sáu căn, làm cho không đông loạn, dùng phương tiện đó, trụ nơi A-lan-nhã, ở chỗ không bị làm hại, không đi qua nơi nạn xứ, không gần gũi chỗ ở của tất cả người đời, không xa lìa thành ấp để việc khất thực dễ dàng; có cỏ cây tươi tốt, suối chảy sạch trong và xa lìa thú ác, nơi hoàn toàn yên tịnh, nên ở nơi như vậy. Đối với việc tu tập, đọc tụng, nên siêng năng, lúc đọc tụng phải điều hòa hơi thở, không quá cao hay quá thấp, tâm không duyên cảnh bên ngoài, chuyên tâm chú ý hành trì, suy nghĩ văn nghĩa, xa lìa hôn trầm trạo cử, chỉ và quán tương ưng. Nếu thấy đại thần, Bà-la-môn đi đến chỗ mình, phải đối với người mới đến tâm ái kính, trước hết phải ân cần hỏi han sức khỏe và mời họ ngồi, quán căn tánh và nói pháp chánh cho họ, làm cho họ đều hoan hỷ, tín thọ tu hành. Nếu thấy quốc vương, phải khéo léo nghênh đón, tạo điều kiện tuân lệnh và thưa thế này:

–Cúi xin đại vương, an tọa vào chỗ này, sau khi an tọa, mới trình bày ý muốn của mình để xin cung cấp tất cả. Hoặc đôi khi vua không vui, thì nên dùng lời nói khéo léo, hay đẹp khen ngợi đức độ của vua: “Tôi xem đại vương đã được việc thiện, lợi ích trọn vẹn; hiện nay, tong đất nước của vua, các Sa-môn, Bà-la-môn trì giới, học rộng, là bậc phước điền tốt đẹp, đến sống ở đây, nhờ oai lực của vua mà không bị tất cả giặc trộm đến chiếm đoạt và cũng nhờ đức giáo hóa của vua, mà tất cả các thú ác đều xa lìa “. Vua nghe lời ấy rồi, vui mừng hớn hở, nên thân thể được thoải mái, tâm vua được yên tịnh, có thể nhận được pháp khí lúc này nên thuyết các chánh pháp, như là giảng nói pháp làm cho nhàm chán việc sinh tử; hoặc giảng nói các diệu pháp về công đức rộng lớn thâm sâu, tự tại, rộng lớn của Như Lai. Với sự trình bày như vậy, sẽ làm cho vua được hoan hỷ. Bồ-tát nào thành tựu được đa văn như vậy, thì sẽ được năng lực là đối với tất cả nơi cũng đều tu tập được chánh hạnh.

Bồ-tát nào thành tựu được tự lợi và lợi tha, thì xa lìa được tất cả phiền não do chấp ngã.

Bồ-tát nào thành tựu được không đắm không chấp vào thân, thì ở nơi A-lan-nhã tâm không sợ sệt.

Bồ-tát nào thành tựu được sự xa lìa thường lạc thì ở A-lan-nhã tâm vị ấy vắng lặng.

Bồ-tát nào thành tựu được chánh pháp hiện tiền, thì đối với các thế gian thảy đều lìa bỏ.

Bồ-tát nào thành tựu được sự an lạc nơi ở một mình, thì giống như hươu ở đồng lúa không lo sợ.

Này thiện nam! Đấy là Bồ-tát đầy đủ viên mãn mười pháp và thành tựu được công đức diệu hạnh ở A-lan-nhã.

Lai nữa, thiện nam! Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp sau đây thì được thành tựu ngồi việc ngồi dưới cây, những gì là mười?

  1. Không được quá gần thôn ấp, xóm làng.
  2. Không quá xa thành ấp.
  3. Không ở chỗ quá nhiều gai gốc.
  4. Không nương ở nơi nhiều cỏ độc. 5. Không ở dưới cây không cành lá.
  5. Không nương ở nơi có nhiều khỉ vượn.
  6. Không nương ở nơi có nhiều chim tụ tập.
  7. Không nương ở nơi có ác thú.
  8. Không ở gần nơi oán tặc.
  9. Không ở vào những nơi tạo chuyện phi pháp và những kẻ ác luật nghi.

Không ở những chỗ như thế thì thân tâm an ổn, vui vẻ và có thể tu tập thiện hạnh, đó là điều Bồ-tát cần an trụ.

Này thiện nam! Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp sau đây thì viên mãn lúc ngồi nơi khoảng đất trống. Những gì là mười?

  1. Tùy theo lạnh, nóng, mưa, không chọn chỗ ấm mát.
  2. Không nương nhờ tường vách.
  3. Không nương nhờ rừng cây.
  4. Không nương nhờ vào đụn rơm.
  5. Không nương cậy nơi nguy hiểm.
  6. Lạnh, không được ngăn che.
  7. Mưa, không lọng che.
  8. Nắng, không che ngăn.
  9. Gió, không ngăn che.
  10. Nếu có bệnh khổ thì mới được ở phòng nhà.

Bồ-tát phải nên nghĩa như vầy: Nếu ngồi ở đất trống thì chánh niệm được hiện tiền và tùy theo pháp tu hành sẽ mau chóng diệt trừ được phiền não. Lại thuận theo công đức hạnh Đầu-đà của Phật dạy, nên mình phải siêng năng, cần cầu để được viên mãn, dù ở trong phòng nhà cũng không sinh tham đắm, cũng không nên nói cái này tốt, cái kia xấu, phải nên suy nghĩ như vầy: Mình ở nhà chùa tu tập, để làm phước điền, lợi ích cho tất cả chúng sinh, ngồi ở đất trống không thể làm lợi ích lớn, mà ngồi ở đất trống chỉ có thể lợi cho mình, không thể lợi cho người khác. Như vậy, Bồ-tát đó, tuy ở trong phòng nhà, mà ngày đêm thường tưởng như ở đất trống.

Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ viên mãn mười pháp và thành tựu công đức diệu hạnh khi ngồi nơi khoảng đất trống.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp sau đây thì có khả năng thành tựu được ở giữa nghĩa địa. Những gì là mười?

  1. Tưởng nhàm chán xa lìa thế gian.
  2. Tưởng hình tướng chết trước mắt.
  3. Tưởng lúc mới chết, thây chưa hủy.
  4. Tưởng máu bầm xanh trước mắt.
  5. Tưởng phù thủng trương lên trước mắt.
  6. Tưởng mủ chảy hủy nát trước mắt.
  7. Tưởng cầm thú ăn nuốt.
  8. Tưởng lửa đốt cháy hết một nửa.
  9. Tưởng các lóng đốt phân rã.
  10. Tưởng xương vụn vặt lẫn lộn trước mắt.

Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát lúc ở nghĩa địa, đối với các chúng sinh luôn luôn giữ tâm Từ, làm lợi ích và kiên trì tịnh giới, gìn giữ oai nghi, tắm rửa sạch sẽ, không nên ăn thịt. Vì sao? Vì đến ở khu rừng lạnh phải nên đề phòng hai lỗi:

  1. Xa lìa chỗ chê bai của ngoại đạo.
  2. Xa lìa những phương tiện mà phi nhân có được.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát ấy vào Tăng-già-lam, thì trước tiên phải đảnh lễ tháp Phật và các hình tượng, đối với tòa thượng, trung, hạ phải tùy theo đó mà lễ bái. Lễ bái như vậy xong rồi, phải giữ gìn oai nghi phép tắc. Vì việc ở nghĩa địa, các Bồ-tát phải sống ngược dòng sinh tử và thuận theo pháp của bậc thánh.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát ấy vào Tăng-già-lam, thì vị cựu Tỳkheo nên đan giường tọa cụ và thưa thỉnh vị ngồi đó ngồi. Bồ-tát phải quán sát kỹ, nếu có nạn phòng xứ thì theo việc mà nghĩ kỹ, nếu không có nạn về phòng xứ mới có thể ngồi, nên có tâm khiêm nhường như vậy.

Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ viên mãn mười pháp và thành tựu được công đức diệu hạnh lúc ở nghĩa địa.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp sau đây thì được thành tựu viên mãn pháp thường ngồi. Những gì là mười?

  1. Không vì sự mệt mỏi của thân mình.
  2. Không vì phiền não của tâm mình.
  3. Không vì lười biếng muốn ngủ nghỉ.
  4. Không vì đứng lâu không an ổn.
  5. Làm cho viên mãn Bồ-đề tụ pháp.
  6. Làm cho sự tu tập tánh tâm chỉ duyên một cảnh.
  7. Cầu mong được đạo chân chánh hiện tiền.
  8. Vì muốn được ngồi tòa Bồ-đề đạo tràng.
  9. Muốn làm cho lợi ích khắp chúng sinh.
  10. Muốn làm diệt trừ hết phiền não.

Này thiện nam! Đây là đầy đủ mười pháp, thành tựu công đức diệu hạnh thường ngồi của Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nào đầy đủ mười pháp sau đây thì được thành tựu viên mãn tùy theo chỗ ngồi. Những gì là mười?

  1. Ngồi chỗ nào thì tâm cũng không được tham đắm.
  2. Ngồi chỗ đã dọn sẵn, không được bày thêm.
  3. Cũng không dạy người bày thêm chỗ ngồi.
  4. Không tạo điều kiện để làm đồ nằm ngồi.
  5. Gặp các thứ cỏ lá thì phải tùy theo lúc mà ngồi.
  6. Nơi có trùng độc nhiều phải nên xa lánh.
  7. Nếu lúc muốn nằm, phải nằm sát đất, nghiêng bên phải.
  8. Tâm không được buông lung, nghĩ khi thức dậy.
  9. Buộc tư tưởng ở nơi ánh sáng và ngủ nghỉ thuận theo pháp.
  10. Vì muốn tu hành làm cho thân tâm được an vui.

Này thiện nam! Đó là Bồ-tát thành tựu đầy đủ viên mãn công đức diệu hạnh mười pháp theo chỗ ngồi.

Này thiện nam! Đây là công đức của mười hai hạnh Đầu-đà. Nếu Bồ-tát tu hành đầy đủ được thì có thể làm pháp tu cho tất cả Thiện tri thức thanh tịnh viên mãn. Đối với tất cả Thiện tri thức, đó là pháp vĩnh viễn không bị thoái chuyển.

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài được nghe công đức của hạnh Đầuđà vi diệu thanh tịnh rồi, được nghe tất cả lời khen ngợi các Thiện tri thức, được thuận theo đủ các pháp môn hạnh Bồ-tát và có thể chỉ bày tất cả pháp của Phật; cho nên thân tâm thoải mái, hớn hở, vui mừng, tâm yêu kính tăng trưởng nhanh chóng; bèn đảnh lễ đồng tử và đồng nữ sát đất, nhiễu quanh vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, một tâm lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài được lời dạy của bậc Thiện tri thức thấm nhuần vào tâm, nên chánh niệm suy nghĩ về các hạnh của Bồtát, lần lượt đi đến nước Hải ngạn; rồi tự nhớ đời trước, nhiều lần trải qua sinh tử, mà không tu tập, lễ kính, nên liền khi ấy, phát tâm khắc phục, trách mắng mình thậm tệ phải gắng sức mà tu hành.

Lại nhớ đến đời trước, ở mãi trong luân hồi, thân tâm bất tịnh, liền khi ấy phát tâm chuyên cần sửa đổi giữ gìn cho mình thanh tịnh, để cầu mong bến bờ giải thoát. Lại nhớ đến thời trước, chạy theo thế gian, tạo các ác nghiệp, liền khi ấy phát tâm chánh niệm, quán sát các hạnh Bồ-tát.

Lại nhớ đến đời trước, tâm bị phiền não che lấp, khởi sinh các vọng tưởng, liền khi ấy phát tâm, phải luôn luôn suy nghĩ chân chánh đến thật tánh của các pháp.

Lại nhớ đến đời trước, đã tu các hạnh chỉ vì thân mình, nên liền phát tâm, làm cho tâm rộng lớn cùng các chúng sinh.

Lại nhớ đến đời trước, tìm tòi cảnh dục, thường làm tổn giảm đến mình, nên liền phát tâm, tu hành pháp Phật, để nuôi lớn các căn.

Lại nhớ đến đời trước, khởi suy nghĩ sai lầm, tương ưng với điên đảo, nên liền phát tâm được sinh tâm chánh kiến, phát nguyện của Bồ-tát.

Lại nhớ đến đời trước, ngày đêm siêng năng làm các việc ác, liền khi ấy phát tâm đại tinh tấn để thành tựu được pháp Phật.

Lại nhớ đến đời trước, thọ sinh vào năm nẻo, đối với thân mình và thân người khác đều không có lợi ích; liền khi ấy phát tâm nguyện, cho thân mình và thân chúng sinh được nhiều lợi ích và thành tựu pháp Phật, phát sinh căn lành cho tất cả chúng sinh, phụng sự tất cả các bậc Thiện tri thức, luôn luôn chánh niệm cùng với tâm tương ưng; suy nghĩ như vậy rồi sinh ra vui mừng hớn hở.

Lại quán thân này, từ vô thỉ đến nay, gốc của các khổ luôn luôn do tất cả sinh, lão, bệnh, tử, ân, ái, biệt, ly mà ra; nguyện cùng tận đời vị lai, tu hành tất cả đạo của Bồ-tát, giáo hóa thuần thục cho các chúng sinh, gặp được các Đức Như Lai, thành tựu pháp Phật, du hành đến tất cả cõi nước của chư Phật, phụng sự tất cả vị Pháp sư giảng nói thông suốt giữ gìn tất cả giáo pháp chân chánh của Như Lai, tìm tòi và cầu cho chánh pháp là những bàn đồng hành gặp tất cả Thiện tri thức, thâu gom tất cả pháp của chư Phật cùng với thân trí nguyện của tất cả Bồ-tát mà tạo nhân duyên. Khi suy nghỉ vô lượng thiện căn tăng trưởng mau chóng, không thể nghĩ bàn, ở tất cả môn di của Bồ-tát, phát khởi tâm tôn trọng và niềm tin sâu xa. Sinh ra những tưởng quý hiếm; tưởng như bậc thầy vĩ đại, các căn thanh tịnh, tăng trưởng thiện pháp, pháp khởi tâm cung kính, cúng dường cho tất cả Bồ-tát. Làm cho tất cả Bồ-tát cúi mình chắp tay, sinh ra cho tất cả Bồ-tát con mắt thấy khắp thế gian, phát khởi cho tất cả Bồ-tát nhớ tưởng cùng khắp chúng sinh, vào vô lượng pháp môn bình đẳng của tất cả Bồ-tát, hiển hiện vô lượng nguyện lực và hóa thân của tất cà Bồ-tát, sinh ra lời nói và nguyện lực thanh tịnh của tất cả Bồ-tát.

Lại muốn trang nghiêm tất cả cõi Phật, tưởng thất tất cả chư Phật ở quá khứ và hiện tại cùng oai đức viên mãn của chư vị Bồ-tát, ở tất cả mọi nơi, hiện rõ những thần thông biến hóa về sự thành chánh quả cho đến mỗi sợi lông ngắn không có nơi nào mà không cùng khắp chư Phật và Bồ-tát.

Lại được con mắt sáng trí tuệ của tất cả Bồ-tát thanh tịnh, nên thấy cảnh giới thực hành của tất cả Bồ-tát; tâm mình nhập vào lưới cõi nước khắp mười phương và nguyện của mình sẽ biến khắp hư không pháp giới, tùy thuận tất cả không sót nơi nào; tu hết khắp cả hạnh nguyện trong ba đời bình đẳng, không phân biệt hạnh nào, liên tiếp không dứt, không có dừng nghỉ, vào khắp tất cả các môn thâm sâu. Cứ như vậy đều nghe được hết thảy lời dạy của bậc Thiện tri thức và tín thọ. Đồng tử Thiện Tài tôn trọng như vậy, cúng dường như vậy, khen ngợi như vậy, quán sát như vậy, gia trì như vậy, nguyện lực như vậy, nhớ tưởng như vậy, tùy thuận như vậy, suy nghĩ như vậy, nên đã sinh ra và biến khắp đầy đủ vô lượng cảnh giới trí tuệ như vậy. Ở trước lầu đài lớn trang nghiêm của Đức Tỳ-lô-giá-na, đảnh lễ năm vóc sát đất, cung kính lễ bái; lúc này Thiện Tài bỗng nhiên nhớ lại, suy nghĩ quán sát, phát khởi tâm tin hiểu thâm sâu, nguyện lực rộng lớn, thân mình biến hóa khắp tất cả các nơi, vào thân trí tuệ và trụ ở phápmôn bình đẳng, thân đó hiện khắp ở trước tất cả chư Như Lai, trước tất cả Bồtát, trước tất cả Thiện tri thức, trước tất cả tháp, miếu của Như Lai, đến trước hình tượng của tất cả Như Lai, đến trước nơi ở của tất cả Như Lai, tất cả Bồ-tát, đến chính giữa hiên của ngôi Pháp bảo, trước tất cả tháp miếu của Thanh văn, Bích-chi-phật, trước tất cả thánh chúng phước điền, trước tất cả cha mẹ và bậc tôn trưởng, trước tất cả thân của chúng sinh ờ mười phương, biến khắp tất cả những nơi đều giống như nơi vừa kể trên; tôn trọng lễ bái, khen ngợi đầy đủ như vậy; trong tất cả duyên thì nguyện lực là không cùng tận, nó gia trì và biến hóa cùng tận đến đời vị lai, đến khắp tất cả nơi, không có ngừng nghỉ, nhiều hư không cùng khắp vô lượng, vô biên, nhiều pháp giới đều không bị chướng ngại, nhiều những thực tế ở khắp tất cả, nhiều Đức Như Lai không phân biệt, giống như hình ảnh, tùy theo trí tưởng tượng mà hiện, giống như chiêm bao từi nơi sự suy nghĩ mà phát sinh; giống như hình tượng biểu hiện cho tất cả, giống như âm thanh do đủ duyên nên phát ra, càng không sinh sự thay đổi cùng nhờ vả, không có tương ưng mà tâm biến đổi, không có tánh tùy theo duyên mà biến chuyển.

Lại tin hiểu sâu xa nhất định biết đúng như vậy, như vậy, tin hiểu thâm sâu tất cả quả báo đều từ nghiệp lực sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả các kết quả, đều từ nhân mà phát sinh như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả các nghiệp, đều từ thói quen mà phát sinh như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, với tất cả Như Lai xuất hiện ợ thế gian, đều từ tâm tin mà sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả sự biến hóa, sự thị hiện các việc cúng dường; nhất định từ nơi sự hiểu biết mà sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu sâu xa với tất cả Đức Phật do Như Lai biến hóa ra đều từ tâm tôn trọng ái kính sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, với tất cả pháp của Phật đều từ thiện căn sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả sự biến hóa của Phật, đều từ phương tiện sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả các Phật sự đều từ nguyện lực lớn lao sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả hạnh của Bồ-tát đã tu, đều từ sự hồi hướng mà sinh ra như vậy, như vậy.

Lại tin hiểu thâm sâu, tất cả pháp giới rộng lớn trang nghiêm, đều từ nơi cảnh giới của tất cả trí mà sinh ra; xa lìa pháp đoạn kiến mà biết hồi hướng; xa lìa pháp thường kiến lại phải biết vô sinh; xa lìa vô nhân kiến mà biết chân chánh; xa lìa điên đảo kiến mà biết lý như thật, xa lìa tự tại kiến mà biết không do người khác; xa lìa tự tha kiến mà biết đều từ duyên sinh; xa lìa các tà kiến mà biết được năng lực của nhân quả; xa lìa cái thấy việc chấp chặt một bên mà biết pháp giới vô biên; xa lìa cái thấy có đến, có đi, mà biết nó như ảnh tượng; xa lìa cái thấy có, không, mà biết nó không có sinh, không có diệt; xa lìa cái thấy của tất cả pháp, mà biết không là vô sinh; biết không tự tại và biết nguyện lực sinh ra; xa lìa tất cả tướng thấy và vào ngằn mé vô tướng; mà biết tất cả pháp như hạt giống nảy mầm không mất, không hoại, như dấu ấn được in, do nối tiếp nên hiện ra, biết thể chất như hình tượng, biết tiếng như âm vang, biết cảnh như mộng, biết rõ nghiệp như huyễn, biết rõ thế gian do tâm hiện ra, biết rõ quả do nhân phát sinh, biết rõ quả báo do tập khởi của nghiệp; biết được pháp của tất cả công đức, đều từ nơi lưu chuyển bởi phương tiện khéo léo của Bồ-tát; biết rõ tất cả pháp hay phi pháp, tánh nó đều bình đẳng và hiện tiền pháp giới tăng trưỡng thành tựu thực sự.

Đồng tử Thiện Tài vào được trí như vậy, suy tư như vậy, tác ý như vậy, nhất tâm buộc niệm, hướng về lâu đài vĩ đại trước mắt, toàn thân nằm sát đất, ân cần đảnh lễ; nên thiện căn được mau chóng hiện tiền không thể nghĩ bàn, nên thân tâm được vui vẻ mát mẻ rót vào, một lúc sau từ từ đứng dậy, một tâm chiêm ngưỡng, mắt không rời bỏ, chắp tay, nhiễu quanh lầu đài vĩ đại trang nghiêm của Đức Tỳ-lô-giána, trải qua vô số vòng, khởi ý suy nghĩ, phát khởi thân tâm cúi mình cung kính nghĩ nói như vậy.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc hiểu biết thâm sâu về ba giải thoát, Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đối với các pháp, thấu rõ pháp tánh không còn phân biệt.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc biết rõ ràng được pháp giới cùng cực (bản tế) bình đẳng, không còn sai biệt.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc biết tất cả cảnh giới của chúng sinh là không thể nắm bắt.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, biết tất cả các pháp không sinh, trụ, diệt.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không đắm chìm trong tất cả thế gian.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không đắm chìm trong tất cả hầm nhà.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không ưa thích tất cả xóm làng.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không nương nhờ và đắm chìm trong tất cả cảnh giới.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, xa lìa được tất cả tướng.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, có thể làm diệt trừ tất cả vọng tưởng.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, biết được các pháp vốn không tự tánh.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đoạn diệt tất cả nghiệp phân biệt.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, xa lìa được tất cả tưởng, tâm, ý, thức.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đối vớui tất cả các pháp, không đến, không đi, không ra, không vào.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, nhập sâu vào tất cả Bátnhã ba-la-mật.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc có khả năng dùng phương tiện an trụ khắp các pháp môn trong tất cả pháp giới.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc tịch tĩnh, có thể diệt hết tất cả lửa phiền não.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, dùng trí tuệ thù thắng, đoạn trừ hết tất cả các kiến ái kiêu mạn.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc sinh ra tất cả các Thiền định giải thoát, đẳng trì, đẳng chí Tam-muội thần thông ánh sáng để du hý.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, quán sát cảnh giới Tammuội của tất cả chư Đại Bồ-tát.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, được trụ yên ổn và gần gũi với tất cả chư Như Lai.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, dùng một kiếp vào tất cả kiếp, dùng tất cả kiếp vào một kiếp mà tướng ấy không hoại.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đem một cõi nhập vào tất

cả cõi, đem tất cả cõi nhập vào một cõi, mà không hủy hoại tướng của nó.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp nhập vào một pháp, mà không có tướng lẫn lộn hỗn tạp.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đem một chúng sinh nhập vào tất cả chúng sinh, đem tất cả chúng sinh nhập vào một chúng sinh, mà không hư hoại tướng của nó.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đem một Đức Phật nhập vào tất cả Đức Phật, đem tất cả Đức Phật nhập vào một Đức Phật, mà tướng ấy không hư hoại.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, đối với một niệm mà biết được tất cả ba đời.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, ở trong một niệm mà đi đến được tất cả cõi nước.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, ở trước tất cả chúng sinh đều hiển hiện thân mình.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, luôn luôn để tâm vào việc làm lợi ích cho tất cả thế gian.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc được sức tự tại, có thể biến khắp tất cả nơi.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc tuy đã ra khỏi tất cả thế gian, nhưng vì muốn giáo hóa các chúng sinh nên luôn luôn ở khắp trong đó, hiển hiện thân mình, không lìa bỏ.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không nương nhờ và đắm vào tất cả cõi nước, chỉ muốn cúng dường tất cả Đức Phật, nên du hành tất cả cõi của Như Lai.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, bất động bản xứ và có thể đến làm trang nghiêm khắp cõi Phật.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, có thể gần gũi khắp tất cả chư Phật mà không khởi tưởng Phật.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, có thể nương tựa khắp tất cả Thiện tri thức, mà không khỏi tưởng bậc Thiện tri thức.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, trụ ở tất cả cung ma mà không bị chìm đắm vào cảnh giới dục.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, biết được tất cả pháp của tâm, ý thức mà vĩnh viễn xa lìa được tất cả sự tưởng thấy của tâm.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, tuy ở trong tất cả chúng sinh để hiển hiện thân mình, nhưng ở nơi mình và người không sinh ra hai tướng.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, có thể vào khắp tất cả các thế giới, mà đối với các pháp giới không có tướng sai khác.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, nguyện ở tất cả kiếp đời vị lai, mà đối với tất cả kiếp không tưởng dài ngắn.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, không lìa nơi đầu một sợi lông, mà hiển hiện thân khắp và tùy thuận ở tất cả thế giới ở mười phương.

Lầu đài vĩ đại này, là chỗ ở của bậc, khéo giảng nói pháp môn khó gặp, là chỗ ở của bậc, có thể an trụ vào pháp môn khó hiểu; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ pháp thâm sâu; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ ở pháp môn không hai; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ pháp môn vô tướng; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ pháp môn không đối trị; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ pháp môn vô sở đắc; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ ở pháp môn không hý luận; là chỗ ở của bậc, có thể an trụ ở tâm đại Từ bi; là chỗ ở của bậc đã giải thoát tất cả cảnh giới về sự hiểu biết của hàng Nhị thừa; là chỗ ở của bậc, đã vượt thoát tất cả cảnh giới của ma; là chỗ ở của bậc, đã ở được nơi tất cả pháp thế gian mà không bị ô nhiễm; là chỗ ở của bậc, đã đến được bờ giải thoát của tất cả Bồ-tát; là chỗ ở của bậc, đã được ở chỗ của tất cả Như Lai; là chỗ ở của bậc, tuy đã lìa các tướng mà không bị rơi vào địa vị Thanh văn; là chỗ ở của bậc, tuy đã rõ ràng các pháp vô sinh mà cũng không trụ vào pháp tánh vô sinh; là chỗ ở của bậc, tuy đã quán chiếu tham dục là thứ bất tịnh mà không chúng đắc pháp ly tham cũng không chung cùng với pháp tham dục; là chỗ ở của bậc, tuy tụ tập tâm Từ mà không chứng pháp để lìa sân hận, cũng không chung cùng sân hận nhơ nhớp; là chỗ ở của bậc, tuy quán chiếu tất cả mười hai duyên khởi mà không chứng đắc pháp ly si, lại cũng không chung cùng với ngu si mê hoặc; là chỗ ở của bậc, tuy trụ ở tứ thiền, dùng nguyện lực đại Bi mà không tùy thuận sinh tứ thiền; là chỗ ở của bậc, tuy trụ vào tứ vô lượng để dạy bảo chúng sinh mà không sinh ở Sắc giới; là chỗ ở của bậc, tuy tu tứ định ở cõi Vô sắc, dùng tâm đại Từ mà vẫn không trụ ở Vô sắc giới; là chỗ ở của bậc, tuy siện năng tu tập chỉ quán, để dẫn dắt chúng sinh àm không chứng pháp minh giải thoát; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành việc xả bỏ, nhưng vì tâm đại Bi cũng không bỏ tất cả việc dạy dỗ chúng sinh; là chỗ ở của bậc, tuy quán chiếu vào pháp không nhưng không khởi thấy không; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành vô tướng mà luôn luôn dạy dỗ dẫn dắt chúng sinh chấp tướng; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành vô nguyện mà không bỏ Bồ-đề và tất cả hạnh nguyện; là chỗ ở của bậc, tuy ở trong tất cả nghiệp phiền não mà vẫn được tự tại, để giáo hóa thuần thục cho các chúng sinh; mà lại còn hiển hiện và tùy thuận theo nghiệp phiền não; là chỗ ở của bậc, tuy không còn sinh tử mà vì giáo hóa chúng sinh, nên thị hiện chịu sinh tử; tuy đã lìa tất cả các nẻo nhưng để giáo hóa chúng sinh lại thị hiện vào các nẻo; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành tâm Từ nhưng đối với các chúng sinh cũng không có luyến ái; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành tâm bi mà đối với các chúng sinh cũng không có chấp trước; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành tâm hoan hỷ nhưng vì quán chiếu khổ của chúng sinh, nên tâm thường thương xót; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành pháp xả mà không xả bỏ việc lợi ích của người; là chỗ ở của bậc, tuy thực hành chín thứ của Thiền định mà không nhàm chán xa lìa việc thọ sinh ở Dục giới; là chỗ ở của bậc, tuy biết tất cả pháp không sinh, không diệt, nhưng với thực tế cũng không chứng đắc; là chỗ ở của bậc, tuy vào được ba cửa giải thoát mà không chấp thủ vào giải thoát của hàng Thanh văn; là chỗ ở của bậc, tuy quán chiếu về bốn Thánh đế mà không trụ vào thành quả tiểu thừa; là chỗ ở của bậc, tuy quán chiếu sâu xa vào pháp duyên khởi mà không trụ vào sự rốt ráo của tịch diệt; là chỗ ở của bậc, tuy tu tám Chánh đạo mà không xa lìa vĩnh viễn thế gian; là chỗ ở của bậc, tuy vượt thoát khỏi địa vị phàm phu mà không rơi vào hàng Thanh văn hay Bích-chi-phật; là chỗ ở của bậc, tuy quán chiếu việc ôm giữ năm uẩn, mà không hoàn toàn tiêu diệt các uẩn; là chỗ ở của bậc, tuy đã ra khỏi bốn ma mà không biệt các cảnh giới của ma; là chỗ ở của bậc, tuy không đắm chìm vào sáu xứ nhưng không hoàn toàn hủy diệt sáu xứ, là chỗ ở của bậc, tuy an trụ vào chân như mà không rơi vào Niết-bàn; là chỗ ở của bậc, tuy giảng nói tất cả thừa mà không bỏ Đại thừa. Lâu đài vĩ đại này là chỗ ở của bậc trụ vô lượng các công đức như vậy.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài chắp tay chiêm ngưỡng, một tâm cung kính, nói kệ rằng:

Ngài là đại Bi trí thanh tịnh
Đấng Từ Thị lợi ích thế gian
Trưởng tử của Phật, Bậc quán đỉnh
Thuận theo suy nghĩ vào cảnh Phật
Tất cả con Phật đều nghe tiếng
Trụ cảnh đại trí môn giải thoát
Du hành pháp giới tâm không đắm.
Đây là chỗ ở bậc Tối thượng
Trí, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền, Trí tuệ
Phương tiện, Nguyện, Lực và Thần thông
Pháp, các độ Đại thừa như vậy.
Đây là chỗ ở bậc đầy đủ
Trí tuệ rộng lớn như hư không
Biết tất cả pháp trong ba đời
Không ngại, không nương, không chấp giữ
Chỗ ở của Phật rõ các hữu
Biết rõ hoàn toàn tất cả pháp
Không tánh, không sinh, không chỗ nương
Chim bay trên không được tự tại.
Đây là chỗ ở vô sở úy
Biết rõ ba độc tánh chân thật
Nhân duyên phân biệt khởi hư vọng
Đó cũng không chán nà cầu ra
Đây là chỗ ở người thanh tịnh
Ba cửa giải thoát, tám Thánh đạo
Các uẩn, xứ, giới và duyên khởi
Đều quán sát được không cõi tịch
Đây là chỗ ở người khôn khéo
Cõi nước mười phương và chúng sinh
Dùng trí vô ngại quán sát khắp
Rõ tánh đều không không phân biệt
Đây là chỗ ở người tịch diệt
Đi khắp pháp giới đều chẳng ngại
Mong cầu tánh hạnh bất khả đắc
Như gió trên không, không chỗ đi.
Đây là chỗ ở bậc không nương
Thấy các chúng sinh ở đường ác
Chịu các khổ sở không chỗ về
Chiếu ánh đại Từ làm hết khổ.
Đây là chỗ ở bậc thương xót
Thấy các chúng sinh mất chánh đạo.
Ví như mắt mù đi đường hiểm
Dẫn họ đi vào thành giải thoát.
Đây là chỗ ở đại Đạo sư
Thấy các chúng sinh vào lưới ma
Sinh, lão, bệnh, tử luôn bức bách
Khiến họ giải thoát được an ổn.
Đây là chỗ ở người dũng mãnh
Thấy các chúng sinh trẻ bệnh mê
Nên phát rộng lớn tâm thương xót
Thuốc trí cam lồ để trừ diệt.
Đây là chỗ ở Đại Y vương
Thấy các chúng sinh trong biển hữu
Đắm chìm đau đớn chịu các khổ
Thuyền pháp đại Bi đem cứu họ.
Đây là chỗ ở bậc thiện độ
Thấy các chúng sinh ở biễn mê
Luôn phát tâm Bồ-đề diệu bảo
Để vào trong đó mà cứu độ.
Đây là chõ ở người đánh bắt
Luôn dùng đại nguyện mắt Từ bi
Quán khắp tất cả các chúng sinh
Tùy theo biển hữu mà cứu thoát.
Đây là chỗ ở vua Diệu Sí
Giống như nhật nguyệt ở hư không
Chiếu khắp thế gian không bỏ sót
Trí nguyện ánh sáng cũng như vậy.
Đây là chỗ ở bậc soi đời
Bồ-tát vì dạy một chúng sinh
Tận khắp vị lai vô lượng kiếp
Không chỉ một người mà tất cả.
Đây là chỗ ở bậc cứu đời
Ở một cõi nước dạy chúng sinh
Tận kiếp vị lai không ngừng nghỉ
Ở một cõi nước như mười phương
Đây là chỗ ở ý kiên cố
Giáo pháp của Phật khắp mười phương
Một lần ngồi nghe ghi nhận hết
Tận kiếp vị lai chí không chán.
Đây là chỗ ở người biển trí
Đi khắp tất cả biển thế giới
Vào khắp tất cả biển đạo tràng
Cúng dường tất cả biển Như Lai.
Đây là chỗ ở bậc tu hành
Tu hành tất cả biển diệu hạnh
Phát sinh vô biên biển đại nguyện
Như vậy trải qua biển các kiếp.
Đây là chỗ ở bậc công đức
Đầu một sợi lông vô lượng cõi Kiếp
Phật chúng sinh không thể nói
Thấy sáng như vậy đều cùng khắp.
Đây là chỗ ở mắt vô ngại
Một niệm bao gồm vô biên kiếp
Cõi nước chư Phật và chúng sinh
Vô ngại phước trí Ba-la-mật.
Đây là chỗ ở bậc đủ đức
Mười phương cõi Phật như vi trần
Tất cả biển lớn, thành từng giọt
Bồ-tát phát nguyện số như vậy.
Đây là chỗ ở bậc vô ngại
Thành tựu Tổng trì cũa Tam-muội
Đại nguyện các thiền và giải thoát
Mỗi mỗi đều ở vô biên kiếp.
Đây là chỗ ở chân Phật tử
Vô lượng, vô biên chư Phật tử
Thuyết nhiều loại pháp độ chúng sinh
Cũng nói các nghề ở thế gian.
Đây là chỗ ở bậc tu hành
Thành tựu thần thông trí phương tiện
Pháp môn tu hành như huyễn diệu
Mười phương năm cõi đều hiện sinh.
Đây là chỗ ở bậc vô ngại
Bồ-tát từ lúc mới phát tâm
Tu hành đầy đủ tất cả hạnh
Hóa thân vô lượng khắp pháp giới.
Đây là chỗ ở bậc thần lực
Một niệnm thành tự đạo Bồ-đề
Tạo khắp vô biên nghiệp trí tuệ
Tình đời lo nghĩ chắc phát cuồng.
Đây là chỗ ở bậc khó lường
Thành tựu thần thông không chướng ngại
Du hành pháp giới đều cùng khắp
Tâm kia chưa từng có sở đắc.
Đây là chỗ ở bậc tịnh tuệ
Bồ-tát tu hành tuệ vô ngại
Nhập vào các cõi không bị đắm
Dùng trí không hai chiếu sáng khắp.
Đây là chỗ ở bậc vô ngã
Rõ tánh hư không trí bình đẳng
Xưa nay vắng lặng chỗ không nương
Luôn đi như vậy trong cảnh giới.
Đây là chỗ ở người Ly cấu
Thấy khắp chúng sinh thọ các khổ
Phát tâm nhân từ đại trí tuệ
Nguyện luôn lợi ích các thế gian
Đây là chỗ ở bậc thương xót.
Phật tử trụ ở đây
Hiện khắp trước chúng sinh
Giống như vầng nhật nguyệt
Trừ khắp tối sinh tử.
Phật tử trụ ở đây
Thuận khắp tâm chúng sinh
Biến hiện vô lượng thân
Đầy đủ mười phương cõi.
Phật tử trụ ở đây
Đi khắp các thế gian
Tất cả chỗ Như Lai
Vô lượng, vô biên kiếp.
Phật tử trụ ở đây
Xứng lường cảnh giới Phật
Vô lượng, vô số kiếp
Tâm kia không nhàm chán.
Phật tử trụ ở đây
Mỗi niệm vào Tam-muội
Mổi mỗi môn Tam-muội
Khai sáng các cảnh Phật.
Phật tử trụ ở đây
Đều biết tất cả cõi
Vô lượng, vô số kiếp
Chúng sinh danh hiệu Phật
Phật tử trụ ở đây
Một niệm gồm các kiếp
Xa lìa các vọng tưởng
Tùy thuận với chúng sinh.
Phật tử trụ ở đây
Tụ tập các Tam-muội
Mỗi mỗi trong tâm niệm
Biết rõ pháp ba đời.
Phật tử trụ ở đây
Kiết già thân bất động
Hiện khắp cõi và nẻo
Đem lợi cho chúng sinh
Phật tử trụ ở đây
Uống các biển pháp Phật
Vào sâu biển trí tuệ
Đầy đủ biển công đức
Phật tử trụ ở đây
Đều biết số các cõi
Số đời, số chúng sinh
Số Phật bất tư nghì
Phật tử trụ ở đây
Một niệm đều rõ được
Tất cả trong ba đời
Thành hoại của các cõi.
Phật tử trụ ở đây
Biết khắp hạnh nguyện Phật
Chỗ tu hành Bồ-tát
Căn tánh chúng sinh muốn.
Phật tử trụ ở đây
Thấy trong một cực vi
Đạo tràng vô lượng cõi
Chúng sinh và các kiếp
Như trong một cực vi
Các cực vi đều vậy
Hết thảy đều đầy đủ
Nơi nơi đều không ngại.
Phật tử trụ ở đây
Thấy khắp tất cả pháp
Đời và cõi chúng sinh
Không sinh không chỗ có
Quán sát các chúng sinh
Các pháp, các Như Lai
Các cõi, các sở nguyện
Ba đời đều bình đẳng.
Phật tử trụ ở đây
Giáo hóa các chúng sinh
Cúng dường chư Như Lai
Suy nghĩ tánh các pháp
Vô lượng ngàn vạn kiếp
Chỗ tu hành nguyện trí
Rộng lớn không thể lường
Ca ngội chẳng thể tận
Các đại dũng mãnh kia
Thực hành không chướng ngại
An trụ ở trong này.
Con chắp tay lễ kính
Trưởng tử của Như Lai
Bậc từ thị thánh đức
Con nay cung kính lễ
Nguyện nhớ nghĩ tới con.

********

Khi dùng vô lượng pháp tán dương khen ngợi của tất cả Bồ-tát, để khen ngợi các Bồ-tát trong ngôi lầu báu lớn, trang bị bằng tạng Tỳlô-giá-na xong; Đồng tử Thiện Tài ở trước ngôi lầu, cung kính đảnh lễ rồi đứng lên nhất tâm chắp tay, cúi mình khao khát, muốn được gặp Bồ-tát Di-lặc, để gần gũi cúng dường. Ngay lúc ấy, đồng tử chợt thấy Bồ-tát, từ nơi khác đang đến ngoài thành, vây quanh là vô lượng Thiên long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, người và phi nhân, Phạm vương, Đế Thích và nội ngoại thân thích đời trước, vô lượng quyến thuộc chúng Bà-la-môn, ngoài ra còn có vô số trăm ngàn chúng sinh khác cùng hướng về ngôi lầu lớn. Thấy rồi, Thiện Tài hết sức vui mừng, đến trước đảnh lễ năm vóc sát đất.

Bấy giờ, muốn chỉ rõ cho đại chúng nên Bồ-tát Di-lặc, quán sát Đồng tử Thiện Tài, rồi khen ngợi vô lượng công đức chân thật của ngài bằng cách nói kệ rằng:

Chư vị quán Thiện Tài
Tâm, trí tuệ, thanh tịnh
Vì cầu hạnh Bồ-đề
Nên đến thân cận ta
Tâm Từ khéo tròn đầy
Tình thương thật trong sạch
Mắt khéo là trong sáng
Tu hành không mệt mỏi
Ý khéo là thanh tịnh
Tâm khéo là rộng lớn
Căn khéo là không chuyển
Tu hành không biếng nhác
Hạnh khéo là không động
Thường cầu Thiện tri thức
Tâm không nhiễm, hiểu đời
Điều phục các chúng sinh
Đạo khéo là vi diệu
Công đức khéo là trụ
Quả Phật khéo đem đến
Làm chỗ tựa cho đời
Khéo lấy đức làm thể
Các pháp khéo thấm nhuần
Hạnh khéo là vô biên
Thế gian khó được thấy
Mê hoặc khéo xa lìa
Như hoa sen ở đời
Thịnh, suy, khen và chê
Đều không có phân biệt
Đến ban sự an lạc
Điều hòa nhận giáo hóa
Tâm kiêu mạn sân, nịnh
Tất cả đều diệt trừ.
Lành thay! Chân Phật tử
Đến khắp cả mười phương
Tăng trưởng các công đức
Điều hòa không biếng nhác
Trí lành đến ba đời
Biết khắp tất cả pháp
Tạng công đức sinh khắp
Tu hành không mệt mỏi
Đức Văn-thù như mây
Và tất cả Phật tử
Hướng dẫn ông đến đây
Chỉ ông nơi vô ngại
Tu đủ hạnh Bồ-tát
Hóa độ khắp chúng sinh
Rộng lớn bất tư nghì
Hôm nay đến chỗ ta
Cầu cảnh giới thanh tịnh
Của các Đức Như Lai
Hỏi các nguyện rộng lớn
Nên mới đến chỗ ta
Phật khứ, lai, hiện tại
Đã thành những hạnh nghiệp
Ông muốn tu học hết
Nên mới đến chỗ ta
Đối với Thiện tri thức
Ông muốn cầu diệu pháp
Muốn nhận hạnh Bồ-tát
Cho nên đến chỗ ta
Ông nhớ Thiện tri thức
Và lời chư Phật khen
Giúp ông được giác ngộ
Nên mới đến chỗ ta
Ông nhớ Thiện tri thức
Sinh mình như cha mẹ
Nuôi mình như nhũ mẫu
Phát triển Bồ-đề phần
Như thuốc trị các bệnh
Như trời rưới nước mát
Như mặt trời chỉ đường
Như vầng trăng sáng chuyển
Như núi không lay động
Như biển không tăng giảm
Như lái đò đưa qua
Cho nên đến chỗ ta
Ông xem Thiện tri thức
Như vị tướng mạnh mẽ
Như nhà lái buôn lớn
Như bậc thầy dẫn đường
Có thể dựng cờ pháp
Chỉ công đức của Phật
Diệt trừ các nẻo ác
Mở rộng cửa đường thiện
Hiển hiện thân chư Phật
Giữ gìn tạng chư Phật
Thọ trì pháp chư Phật
Thế nên nguyện phụng thờ
Muốn vẹn trí chư Phật
Muốn đủ thân đoan nghiêm
Muốn sinh nhà tôn quý
Cho nên đến chỗ ta
Các ngươi xem người ấy
Thân cận Thiện tri thức
Ông ấy tu học gì
Các ông nên hành theo.
Bằng phước nhân duyên xưa
Văn-thù giúp phát tâm
Noi theo không chống trái
Tu hành không biếng trễ
Cha mẹ cùng quyến thuộc
Cung điện và tài sản
Đều rời xa tất cả
Khiêm nhường cầu tri thức
Sửa đổi tâm như vậy
Xa hẳn thân thế gian
Sẽ sinh về cõi Phật
Nhận quả báo thù thắng.
Thiện Tài thấy chúng sinh
Khổ, sinh, lão, bệnh, tử
Nên phát tâm đại Bi
Chuyên tu đạo Vô thượng.
Thiện Tài thấy chúng sinh
Mãi luân hồi năm nẻo
Nên cầu trí kim cương
Để phá vòng khổ ấy.
Thiện Tài thấy chúng sinh
Bỏ hoang phế ruộng tâm
Nên cầu cày trí bén
Để trừ gai ba độc.
Chúng sinh nơi tối tăm
Mờ mịt quên đường chánh
Thiện Tài là Đạo sư
Chỉ họ nơi an ổn
Giáp nhẫn: Xe giải thoát
Trí tuệ là kiếm bén
Có thể trong ba cõi
Phá tan giặc phiền não.
Ông là thuyền trưởng pháp
Vớt hết các chúng sinh
Qua khỏi biển lửa này
Sớm đến đảo châu báu.
Ông là mặt trời giác
Vầng sáng trí đại nguyện
Vận hành khắp pháp giới
Chiếu sáng những nhà mê.
Ông là trăng chánh giác
Bạch pháp đều viên mãn
Định, từ, sáng trong, mát
Chiếu khắp tâm chúng sinh.
Ông là biển thắng trí
Trụ ở tâm ngay thẳng
Hạnh Bồ-đề càng sâu
Sinh ra những báu pháp.
Thiện Tài: Rồng đại tâm
Lên không trung pháp giới
Tan mây làm nước ngọt
Sinh trưởng các loại quả.
Thiện Tài thắp đèn pháp
Tim: Tín; dầu: Từ bi
Bóng là ánh sáng đức
Diệt trừ ba độc ám.
Tâm hiểu Yết-la-lam
Từ bi bọc bào thai
Các chi Bồ-đề phần
Tăng trưởng tạng Như Lai
Tăng trưởng tạng phước đức
Thanh tịnh trí tạng tuệ
Khai quật tạng phương tiện
Sinh ra tạng đại nguyện
Rất trang nghiêm như thế
Cứu hộ các chúng sinh
Trong tất cả trời người
Khó được thấy và nghe
Cây trí tuệ như thế
Rễ sâu không thể động
Che phủ khắp chúng sinh.
Chúng sinh chậm tin hiểu
Muốn sinh tất cả đức
Muốn hỏi tất cả pháp
Muốn đoạn tất cả nghi
Chuyên cầu Thiện tri thức.
Muốn phá các nghiệp ma
Muốn trừ các bụi kiến
Muốn mở trói chúng sinh
Chuyên cầu Thiện tri thức.
Sẽ diệt các nẻo ác
Sẽ chỉ đường nhân, thiên
Giúp tu hạnh công đức
Sớm vào thành Niết-bàn
Sẽ thoát những nơi khổ
Cùng ở chỗ an vui
Cắt đứt những ràng buộc
Lấp hẳn nẻo tam hữu
Qua khỏi nạn các kiến
Nên rọc nát lưới kiến
Làm khô nước ái dục
Nên chỉ đường tam hữu
Nên cứu đói thế gian
Làm ánh sáng cho đời
Và làm thầy ba cõi
Chỉ họ nơi giải thoát
Cũng sẽ giúp thế gian
Xa hết ý tưởng chấp
Đánh thức ngủ phiền não
Ra khỏi bùn ái dục
Nên thông đủ các pháp
Nên làm sạch các cõi
Tất cả đều rốt ráo
Tâm họ rất vui mừng.
Hạnh ông rất hài hòa
Tâm ông rất thanh tịnh
Muốn tu tập công đức
Sẽ viên mãn tất cả
Sẽ sớm được gặp Phật
Thông đạt tất cả pháp
Sạch đẹp các biển cõi
Thành tựu đại giác ngộ
Trang nghiêm biển phước trí
Giải thoát biển chúng sinh
Viên mãn các biển hạnh
Ông sẽ thành biển giác
Sẽ đến bờ công đức
Sẽ sinh các phẩm thiện
Sẽ cùng các Phật tử
Tâm quyết định như thế
Sẽ dứt tất cả hoặc
Sẽ sạch tất cả nghiệp
Sẽ thắng tất cả ma
Đầy đủ nguyện như thế
Sẽ phóng đường diệu trí
Sẽ mở đường chánh pháp
Không lâu sẽ bỏ hết
Các đường khổ, hoặc, nghiệp
Tất cả vòng chúng sinh
Chìm đắm các vòng hữu
Ông nên chuyển pháp luân
Giúp họ dứt vòng khổ
Nên duy trì giống Phật
Làm thanh tịnh giống Pháp
Chuyên tích tập giống Tăng
Đầy khắp cả ba đời
Ông nên cắt lưới ái
Ông nên rọc lưới kiến
Ông nên cứu lưới khổ
Hoàn thành lưới nguyện này
Nên độ hết chúng sinh
Làm sạch toàn cõi nước
Tích tập hết trí tuệ
Thành tựu hết tâm này
Nên giúp chúng sinh vui
Nên giúp Bồ-tát vui
Nên giúp chư Phật vui
Hoàn thành niềm vui này
Nên thấy tất cả nẻo
Nên thấy tất cả cõi
Nên thấy tất cả pháp
Thành tựu thấy Phật này.
Nên chiếu sáng phá tối
Phóng ánh sáng dứt nóng
Phóng ánh sáng diệt ác
Quét sạch khổ tam hữu
Nên mở cửa nẻo trời
Nên mở cửa Phật đạo
Nên chỉ cửa giải thoát
Tất cả chúng sinh vào
Nên chỉ nơi đường chánh
Nên lấp bít đường tà
Như thế chuyên tu hành
Thành tựu đạo giác ngộ
Nên tu biển công đức
Nên vượt biển tam hữu
Khiến khắp các chúng sinh
Ra khỏi biển các khổ
Đối với biển chúng sinh
Làm khô biển phiền não
Giúp tu các biển hạnh
Sớm vào biển đại trí
Ông nên tăng biển trí
Ông nên tu biển hạnh
Biển đại nguyện của Phật
Ông đều phải đầy đủ
Ông nên vào biển cõi
Ông nên quán biển chúng
Ông nên dùng sức trí
Uống hết các biển pháp
Nên hầu mây chư Phật
Nên giăng mây cúng dường
Nên nghe mây diệu pháp
Sẽ cùng mây nguyện này
Đi khắp nhà ba cõi
Phá tan các nhà hoặc
Vào nhà Đức Như Lai
Nên hành đạo như thế
Nhập hết môn Tam-muội
Ở khắp môn giải thoát
Trụ khắp môn thần thông
Đi khắp cả pháp giới
Hiện trước khắp chúng sinh
Ở trước khắp chư Phật
Như ánh sáng nhật nguyệt
Nên thành tựu lực ấy
Việc làm không loạn động
Việc làm không đắm nhiễm
Như chim bay trong không
Nên thành diệu dụng này.
Ví như lưới Nhân-đà
Trụ lưới cõi như thế
Ông nên đến khắp nơi
Như gió không chướng ngại
Ông nên vào pháp giới
Đến khắp các thế giới
Gặp hết Phật ba đời
Tâm vô cùng vui vẻ.
Ông đối các pháp môn
Đã được và sẽ được
Nên hết sức vui mừng
Không tham cũng không chán
Ông, bình đựng công đức
Tùy chư Phật giáo hóa
Tu hành hạnh Bồ-tát
Được điều đặc biệt này
Như thế các Phật tử!
Ức kiếp khó gặp gỡ
Huống gặp công đức ấy
Để tu các đạo hay
Ông sinh trong loài người
Được rất nhiều thiện lợi
Được gặp ngài Văn-thù
Vô lượng các công đức
Đã rời các đường ác
Đã thoát nơi có nạn
Đã vượt các khổ nguy
Lành thay! Đừng lười biếng
Đã rời hàng phàm phu
Đã ở hàng Bồ-tát
Nên viên mãn trí tuệ
Sớm thành tựu Như Lai
Hạnh Bồ-tát như biển
Trí Phật đồng hư không
Ông cũng nguyện như vậy
Phải hết sức vui mừng
Các căn không mệt mỏi
Chí nguyện luôn quyết định.
Gần gũi Thiện tri thức
Sẽ sớm được thành tựu
Bồ-tát đủ các hạnh
Đều giáo hóa chúng sinh
Hành tất cả pháp môn
Thận trọng đừng nghi ngờ
Ông đủ phước khó nghĩ
Và niềm tin chân thật
Vì thế ngày hôm nay
Được gặp các Phật tử
Ông gặp các Phật tử
Được lợi ích lớn lao
Trong mỗi một đại nguyện
Đều tin nhận trọn vẹn
Ông ở trong ba cõi
Tu hành thành dụng tốt
Vì vậy các Phật tử
Chỉ ông cửa giải thoát
Chẳng phải người pháp khí
Sống chung với Phật tử
Trải qua vô lượng kiếp
Không biết cảnh giới họ.
Ông gặp các Phật tử
Được nghe pháp như vậy
Ở đời rất khó có
Phải hết sức vui mừng.
Chư Phật hộ niệm ông
Bồ-tát thâu nạp ông
Thuận theo hạnh giáo ấy
Lành thay! Trụ tuổi thọ.
Đã sinh nhà Bồ-tát
Đã đủ đức Bồ-tát Đã lớn dòng
Như Lai Lành thay! Nên vui mừng.
Chư Phật sánh cha lành
Bồ-tát sánh chư Thiên
Bồ-đề phần thân thích
Nuôi lớn ý chân thật
Đã đủ dòng Bồ-tát
Tăng trưởng giống Pháp vương
Đã đủ đức Pháp vương
Niềm vui tràn khắp thân
Đã thành việc tối thắng
Đặc biệt không nghĩ bàn
Rồi đây ông được hết
Sẽ lên ngôi quán đỉnh
Ông gieo giống như thế
Nhất định được quả Phật
Ta vui an ủi ông
Ông cũng nên phấn khởi
Vô lượng chư Bồ-tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Chưa thành được hạnh này
Nay ông được tất cả
Tin vui sức vững tiến.
Thiện Tài thành hạnh này
Người nào tâm mến mộ
Cũng nên học như vậy
Tất cả hạnh công đức
Đều sinh từ mong muốn
Thiện Tài đã hiểu rõ
Thường vui siêng tu tập
Như rồng giăng mây kín
Nhất định trút mưa lớn
Bồ-tát phát nguyện trí
Quyết định tu các hạnh
Nếu có Thiện tri thức
Chỉ ông hạnh Phổ hiền
Ông nên thờ phụng tốt
Thận trọng đừng nghi ngờ.
Ông ở vô lượng kiếp
Vì dục vọng bỏ thân
Nay vì cầu Bồ-đề
Bỏ này mới là tốt.
Ông ở vô lượng kiếp
Chịu đủ khổ sinh tử
Chưa từng thờ chư Phật
Chưa nghe hạnh như vậy
Nay ông được thân người
Gặp Phật, Thiện tri thức
Nghe, nhận hạnh Bồ-đề
Vì sao lại không vui!
Tuy gặp Phật ra đời
Và gặp Thiện tri thức
Nhưng tâm không thanh tịnh
Không nghe pháp được vậy.
Nếu với Thiện tri thức
Tâm tin tưởng, tôn trọng
Dứt nghi, không nhàm chán
Mới được nghe pháp này.
Người nào nghe pháp này
Mà tâm phát thệ nguyện
Nên biết người như thế
Đã được ích lợi lớn.
Nay ông vào hạnh này
Tối thắng khó nghĩ bàn
Lành thay đến loài người
Công đức quyết thành tựu
Tâm thanh tịnh như thế
Thường được gần chư Phật
Cũng gần các Bồ-tát
Nhất định thành Bồ-đề.
Người nhập pháp môn này
Thì đủ các công đức
Dứt xả hẳn các nẻo ác
Không thọ tất cả khổ
Không lâu xả thân này
Sinh vào nước chư Phật
Thường gặp mười phương Phật
Cho đến các Bồ-tát
Giải thoát nhân đời trước
Và nhờ sức bạn lành
Tăng trưởng các công đức
Như nước mọc hoa sen
Vui nhờ Thiện tri thức
Siêng cúng tất cả Phật
Chuyên tâm lắng nghe pháp
Thường hành đừng lười biếng.
Ông thật là pháp khí
Sẽ đủ tất cả pháp
Sẽ tu tất cả đạo
Sẽ mãn tất cả nguyện.
Ông dùng tâm tin hiểu
Mà đến lễ kính ta
Không lâu sẽ vào khắp
Tất cả hội chư Phật.
Lành thay! Chân Phật tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Đến bờ công đức Phật
Ông nên đến đại trí
Chỗ Văn-thù-sư-lợi
Ngài sẽ giúp ông được
Diệu hạnh của Phổ Hiền.

Đại Bồ-tát Di-lặc, ở trước chúng hội, khen ngợi tạng công đức trang nghiêm viên mãn và cảnh giới không vướng mắc của Đồng tử Thiện Tài. Khi nghe Bồ-tát Di-lặc tùy thuận dạy bảo và chỉ rõ phương tiện tối thắng để an ủi; Đồng tử Thiện Tài vui mừng phấn khởi, tất cả lông trên thân đều dựng đứng, nước mắt ràn rụa nghẹn ngào, đứng lên, chắp tay, cung kính chiêm ngưỡng, nhiễu quanh vô số vòng. Nhờ năng lực nghĩ đến Văn-thù-sư-lợi cho nên trong tay đồng tử bỗng nhiên đầy các loại hoa anh lạc và đủ các báu. Ông vui mừng quá độ không kềm chế nổi, liền cầm tung lên trên người Đại Bồ-tát Di-lặc. Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc xoa đỉnh đầu Thiện Tài, rồi nói kệ rằng:

Lành thay, lành thay! Chân Phật tử

Đánh thức các căn không lười mỏi Không lâu sẽ đủ các công đức Giống như Văn-thù và ta vậy.

Nghe khen như vậy rồi, đồng tử nói kệ đáp:

Con nghĩ Thiện tri thức
Ức kiếp khó gặp gỡ
Nay đều được thân cận
Nên đi đến chỗ ngài
Con nhờ ngài Văn-thù
Thấy những điều khó thấy
Đúng bậc đại công đức
Xin sớm đến hầu cận.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, chắp tay, cung kính thưa với Đại Bồ-tát Di-lặc:

–Bạch Đại Thánh! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Con nghe nói Đại Thánh có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin ngài thương xót chỉ dạy cho.

Bạch Đại thánh! Tất cả các Đức Như Lai thọ ký cho Đại Thánh, một đời sẽ đạt được quả Vô thượng Bồ-đề. Nếu một đời sẽ thành Vô thượng Bồ-đề; thì Đại Thánh tất nhiên đã vượt qua hết những trụ xứ của tất cả Bồ-tát, đã vượt qua quả vị ly sinh của tất cả Bồ-tát, đã viên mãn tất cả Ba-la-mật; đã thâm nhập tất cả các môn nhẫn nhục, đã đầy đủ ngôi vị của tất cả Bồ-tát; đã an trụ tất cả môn giải thoát; đã thành tựu tất cả pháp Tam-muội, đã thông đạt tất cả hạnh Bồ-tát, đã chứng được tất cả Đà-la-ni và biện tài; đã được tự tại trong sự tự tại của tất cả Bồ-tát; đã tích tập pháp trợ đạo của tất cả Bồ-tát; đã dạo khắp bằng phương tiện trí tuệ của tất cả Bồ-tát; đã sinh ra tất cả thiện xảo thần thông đại trí, đã thành tựu những chỗ cần học của tất cả Bồ-tát; đã làm thanh tịnh diệu hạnh mà tất cả Bồ-tát thực hành, đã đầy đủ sự phát khởi đại nguyện của tất cả Bồ-tát; đã tiếp nhận sự thọ ký của tất cả chư Phật, đã thấu triệt môn của tất cả các thừa; đã có khả năng tiếp nhận sự hộ niệm của tất cả Như Lai, đã có khả năng giáo hóa hàng Bồ-tát của tất cả chư Phật; đã có khả năng giữ gìn tạng pháp của tất cả chư Phật; đã có khả năng tiếp nhận lời dạy bí mật của tất cả chư Phật; đã có khả năng chuyển bánh xe bí mật của tất cả Bồ-tát; đã có khả năng làm vị tướng mạnh phá quân ma phiền não; đã có khả năng làm đại Đạo sư hướng dẫn ra khỏi đồng hoang sinh tử, đã có khả năng làm đại y vương, điều trị trọng bệnh các nghiệp, đã có khả năng làm người tối thắng giữa tất cả chúng sinh; đã có khả năng được tự tại giữa tất cả các vị thế chủ, đã có khả năng làm người đứng đầu trong tất cả Thánh nhân; đã có khả năng làm người có uy lực lớn mạnh nhất trong tất cả Thanh văn, Độc giác, đã có khả năng làm vị thuyền trưởng trên biển sinh tử; đã có khả năng đem lưới giáo hóa khắp tất cả chúng sinh; đã có khả năng quán sát căn tánh của tất cả chúng sinh; đã có khả năng thâu nạp tất cả cảnh giới chúng sinh; đã có khả năng bảo vệ tất cả chúng Bồ-tát; đã có khả năng bàn luận về việc của tất cả Bồ-tát; đã có khả năng lui tới chỗ các Đức Như Lai; đã có khả năng ở trong chúng hội của tất cả Như Lai; đã có khả năng hiện thân trước tất cả chúng sinh; đã có khả năng biết tất cả các pháp như ngọn lửa huyễn; đã có khả năng quán tất cả các pháp như bóng với hình, đã có khả năng không đắm nhiễm tất cả pháp thế gian; đã có khả năng hiểu tánh vô sinh của tất cả các pháp; đã có khả năng làm thanh tịnh thân, khẩu, ý của tất cả Bồ-tát; đã có khả năng dùng định kim cương phá tan tất cả ma; đã có khả năng biết nguồn gốc sinh ra tất cả pháp bạch tịnh; đã có khả năng ngộ tánh bất động của tất cả các tướng; đã có khả năng hành Ba-la-mật không thoái chuyển; đã có khả năng quán tất cả pháp đều là vô thường, khổ, không, vô ngã; đã có khả năng phát sinh các thiện căn của tất cả các Đức Phật; đã có khả năng tu ba mươi bảy phẩm và hạnh Du-già; đã qua bờ bên kia từ cảnh giới của tất cả Bồtát; đã biết hết tánh tịch diệt của tất cả phiền não; đã có khả năng trụ Tam-muội kim cương không thể khuynh động; đã có khả năng thông hiểu trụ ba đời tâm đều không thể nắm bắt; đã có khả năng chứng tâm Bồ-đề như núi không động; đã có khả năng không bị vướng mắc vào tất cả pháp thế gian; đã có khả năng vượt khỏi tất cả cảnh giới ma; đã có khả năng trụ tất cả cảnh giới Phật, đã có khả năng đến cảnh giới vô ngại của tất cả Bồ-tát; đã có khả năng chuyên cần cúng dường tất cả các Đức Phật; đã cùng một thể tánh với tất cả Phật pháp; đã buộc vải lụa pháp của tất cả Đức Phật; đã thọ quán đỉnh từ tất cả Phật; đã ở trên ngôi của tất cả Pháp vương; đã vào cảnh giới của trí Nhất thiết trí; đã sinh tất cả Phật pháp; đã bước đến ngôi vị Nhất thiết chủng trí.

Bạch Đại thánh! Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát? Làm

thế nào để tu đạo Bồ-tát? Rồi tùy sự tu hành mà có khả năng sớm chứng được tất cả Phật pháp? Bồ-tát làm thế nào để có khả năng thấu triệt tất cả Phật pháp? Có khả năng nhanh chóng độ thoát những ý nghĩ của chúng sinh, giúp cho họ qua hết bờ bên kia; có khả năng hoàn thành hết những đại nguyện đã phát; có khả năng hoàn thành hết những hạnh đã phát; có khả năng an ủi khắp tất cả trời người, không phụ thân mình, không bỏ Tam bảo, không làm hư hạt giống của tất cả chư Phật và Bồ-tát; có khả năng giữ gìn pháp nhãn của tất cả chư Phật? Xin dạy cho con hết những việc như thế?

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc, quán sát khắp chúng hội đạo tràng rồi chỉ sang Thiện Tài nói:

–Này các vị! Hôm nay các vị có thấy đồng tử này, vì muốn thành tựu trọn vẹn các công đức, nên tìm đến chỗ ta để hỏi về hạnh Bồ-tát không?

Này các vị! Đồng tử này: Tinh tấn dũng mãnh, chí nguyện thuần nhất, thân tâm vững bền, không còn thoái chuyển, đủ những hy vọng thù thắng, tâm không chán đủ, như núi không lay động, như cứu lửa cháy đầu, thân cận quý mến các vị Thiện tri thức, tìm cầu khắp nơi, hầu hạ cúng dường, thỉnh vấn pháp yếu thọ trì không quên.

Các vị nên biết! Trước kia ở thành Phước, đồng tử này đã được tiếp nhận sự giáo hóa và sự hướng dẫn phát tâm của Bồ-tát Văn-thù rồi lần lược tìm thỉnh Thiện tri thức, trải qua một trăm mười thành, sau đó mới đến chỗ ta, nhưng không có lúc nào biếng nhác dù chỉ là một niệm!

Này các vị! Thiện nam này rất hiếm có. Ông ta đã hướng về Đại thừa, ở cảnh giới Phật, cỡi xe đại thệ nguyện, tu cùng một loại hạnh, phát đại dũng mãnh, khoác áo giáp đại Bi, đem tâm đại Từ, cứu hộ chúng sinh, phát đại tinh tấn, tu Ba-la-mật; làm nhà lái buôn lớn, ủng hộ các chúng sinh, làm thuyền đại pháp bơi qua các biển hữu; gom hết tất cả pháp báu phước trí, tu tập các pháp trợ đạo rộng lớn; thành tựu và tăng trưởng tất cả công đức. Hạng người như thế khó được nghe đến, khó được thấy, khó được gần gũi, khó cùng sánh bước. Vì sao? Vì thiện nam này, muốn cứu hộ tất cả chúng sinh ra khỏi các nẻo ác, xa nơi hiểm nạn, phá bóng tối vô minh, ra khỏi đồng hoang sinh tử, dứt vòng luân hồi, vượt qua cảnh giới ma, bỏ nơi chấp trước, không nhiễm pháp thế gian, ra khỏi bùn dục, chặt đứt dây ách tham, mở dây kiến, phá nhà tưởng, lấp đường mê, bẻ cờ mạn, nhổ tên nghiệp, phá lọng ngủ, san bằng núi chướng, rọc lưới ái, mở gút si, vượt dòng hữu, xa lời nịnh huyễn, làm sạch bụi tâm, dứt nghi hoặc đến Niết-bàn.

Các vị, vị đại trượng phu này đã làm thuyền pháp lớn cho người bị bốn dòng nước trôi giạt, đã bắt cầu đại pháp cho người bị chìm đắm trong bùn hữu, thắp ngọn đèn đại trí cho người bị rơi vào bóng tối ngu si, chỉ con đường Thánh cho người đi trong đồng hoang sinh tử, ban thuốc pháp cho người bị vướng tất cả trọng bệnh hoặc nghiệp, ban thức uống cam lồ cho người gặp tất cả ách nạn sinh tử; tưới nước định cho người rơi vào lửa tham, sân, si; an ủi cho người có nhiều nỗi buồn được yên tâm, khuyên nhủ người bị buộc nơi ngục hữu để họ thoát; trao kiếm trí cho người bị dây kiến buộc nơi ngục hữu để họ thoát; chỉ cửa giải thoát cho người trụ thành Tam giới, hướng dẫn chỗ an ổn cho người nơi hiểm nạn; ban pháp vô úy cho người sợ giặc kết sử, trao tay pháp cho người rơi vào nẻo ác; chỉ thành Niết-bàn cho người bị uẩn quản thúc, mở đường thánh cho người bị rắn độc quấn, dùng ánh sáng trí tuệ, hướng dẫn người chấp sâu vào làng mạc lục xứ hoang vắng được ra khỏi nơi ấy, giúp người ở đường tà vào đường chánh; chỉ bạn lành cho người gần bạn ác, dạy pháp Thánh cho người thích pháp phàm; đưa người thích đắm thành hữu của sinh tử đến thành Nhất thiết trí.

Các vị, vị đại trượng phu này; chuyên cần, cầu đủ các phương tiện như thế; nguyện sẽ cứu hộ tất cả chúng sinh; phát tâm Bồ-đề liên tục không gián đoạn, luôn luôn thực hiện hạnh thanh tịnh, không có nghỉ ngơi, cầu đạo Đại thừa không biết mỏi mệt; thọ trì tất cả mây và mưa pháp, chuyên cần tích chứa pháp trợ đạo, làm cho viên mãn tất cả, luôn mang gông thiện, luôn thích thú với tất cả pháp môn thanh tịnh; tu hạnh Bồ-tát, tinh tấn dũng mãnh, thiết tha mong cầu không thoái chuyển, làm phát sinh các hạnh, hoàn thành đại nguyện, gặp Thiện tri thức, tâm không thấy đủ, phụng sự Thiện tri thức thân không lười biếng, nghe những điều Thiện tri thức dạy, luôn luôn tư duy và hành theo không có phản đối.

Các vị, thiện nam này, vô cùng hiếm có! Đối với thế gian, chúng sinh nào phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì đã hiếm có rồi; huống là người đã phát tâm mà còn có khả năng tinh tấn, dũng mãnh tích tập pháp của các Đức Phật để làm lợi ích chúng sinh như thế; nên biết người ấy còn hiếm có gấp bội. Chẳng những thế, mà còn có khả năng yêu thích, chuyên cần, cầu đạo của các Bồ-tát, còn có khả năng làm thanh tịnh và tăng trưởng hạnh của các Bồ-tát, còn có khả năng thân cận, phụng sự các vị Thiện tri thức; còn có khả năng như cứu lửa cháy đầu, như núi không lay động; còn có khả năng tùy thuận lời dạy của tất cả Thiện tri thức, còn có khả năng tu hành kiên cố với tất cả Phật đạo, còn có khả năng tích tập tất cả pháp Bồ-đề phần; còn có khả năng không ưa tất cả danh lợi và sự cung kính; còn có khả năng không bỏ tâm thuần nhất của Bồ-tát; còn có khả năng không thích nhà cửa, không ưa giàu sang, không tham tiêu dùng, không vướng dục lạc, không quyến luyến cha mẹ, họ hàng và bạn bè, không đoái hoài đến tất cả của cải của thế gian; chỉ thích tìm cầu bạn bè Bồ-tát, còn có khả năng không ngó đến thân mạng; chỉ nguyện chuyên cần tu đạo Nhất thiết trí như thế, nên biết còn nhiều cái rất khó được nữa.

Này các vị, những Bồ-tát thường phải trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, mới có thể đầy đủ hạnh nguyện Bồ-tát và mới có khả năng gần gũi sự giác ngộ của các Đức Phật. Thiện nam này, chỉ trong một đời, mà có khả năng làm sạch đẹp tất cả cõi Phật, giáo hóa tất cả chúng sinh, dùng trí tuệ thâm nhập pháp giới, thành tựu các Ba-la-mật, khuếch trương tất cả lưới hạnh, làm viên mãn tất cả đại nguyện, vượt khỏi tất cả ma nghiệp, phụng sự làm cho tất cả thiện hữu hoan hỷ, làm thanh tịnh các hạnh Bồ-tát để cho chúng đầy đủ và tu tập các hạnh Phổ hiền làm cho chúng thành tựu.

Khen ngợi đủ các công đức của Đồng tử Thiện Tài, làm cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh trong hội càng vững bền tâm Vô thượng Bồ-đề rồi, Đại Bồ-tát Di-lặc bảo Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Vì lợi lạc tất cả thế gian, vì cứu hộ tất cả chúng sinh mà ông chuyên tu cần cầu tất cả Phật pháp và phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

Thiện nam! Ông đã được thiện lợi. Ông may mắn được thân người. Ông may mắn được tuổi thọ. Ông may mắn được gặp Đức Như Lai ra đời. Ông may mắn được gặp đại Thiện tri thức Văn-thù-sư-lợi. Thân ông chính là pháp khí hoàn hảo, là sự thấm nhuần từ các thiện căn. Ông được sự duy trì của bạch pháp, niềm tin rộng rãi, tuệ giải thanh tịnh, đã được sự hộ niệm của chư Phật, đã được bạn bè giúp đỡ. Vì sao? Nghĩa là ông có khả năng phát tâm đại Bồ-đề.

Thiện nam! Tâm Bồ-đề giống như hạt giống, có khả năng sinh ra pháp của tất cả chư Phật.

Tâm Bồ-đề giống như ruộng tốt, có khả năng làm phát triển pháp bạch tịnh của chúng sinh.

Tâm Bồ-đề giống như đại địa, có khả năng duy trì tất cả thế gian.

Tâm Bồ-đề giống như nước lớn, có khả năng tẩy sạch tất cả bụi phiền não. Tâm Bồ-đề giống như gió lớn, đi khắp thế gian không bị trở ngại.

Tâm Bồ-đề giống như lửa mạnh, có khả năng thiêu rụi tất cả củi chư kiến. Tâm Bồ-đề giống như mặt trời sáng, chiếu khắp tất cả thế gian.

Tâm Bồ-đề giống như vầng trăng tròn, có khả năng làm viên mãn pháp bạch tịnh.

Tâm Bồ-đề giống như ngọn đèn sáng, có khả năng tỏa đủ các ánh sáng pháp. Tâm Bồ-đề giống như mắt sáng, thấy khắp tất cả các nơi nguy hiểm. Tâm Bồ-đề giống như con đường lớn, giúp khắp mọi người vào thành đại trí. Tâm Bồ-đề giống như sự giáo hóa chân chánh, làm cho mọi người được tránh xa các pháp tà.

Tâm Bồ-đề giống như chiếc xe lớn, có khả năng chở hết các Bồtát.

Tâm Bồ-đề giống như cánh cửa, khai thị tất cả hạnh Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như cung điện, ở nơi đó sẽ an ổn tu tập pháp môn Tam-muội

Tâm Bồ-đề giống như vườn thượng uyển, ở trong ấy dạo chơi hưởng pháp lạc.

Tâm Bồ-đề giống như nhà cửa, che chở tất cả chúng sinh.

Tâm Bồ-đề chính là nơi trở về làm lợi ích cho tất cả thế gian.

Tâm Bồ-đề chính là chỗ nương tựa, các hạnh Bồ-tát đều nương vào đó.

Tâm Bồ-đề giống như người cha nghiêm, dạy dỗ dìu dắt tất cả Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như mẹ hiền, sinh trưởng các thiện căn của Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như nhũ mẫu, nuôi nấng, bảo vệ các Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như bạn lành, làm việc hữu ích cho các vị Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như vua, vượt trên tất cả hàng Nhị thừa.

Tâm Bồ-đề giống như ngôi vị Đế vương, được tự tại trong tất cả nguyện.

Tâm Bồ-đề giống như biển cả, sinh ra tất cả các công đức.

Tâm Bồ-đề như núi Tu-di, đối với tâm của các chúng sinh đều bình đẳng.

Tâm Bồ-đề như núi Thiết vi, gom giữ tất cả thế gian.

Tâm Bồ-đề như núi Tuyết lớn, nuôi lớn tất cả thuốc trí tuệ.

Tâm Bồ-đề giống như núi hương, phát sinh tất cả hương công đức.

Tâm Bồ-đề như hư không rộng lớn, các công đức vi diệu rộng vô biên.

Tâm Bồ-đề như hoa sen đẹp, không nhiễm tất cả pháp thế gian.

Tâm Bồ-đề như voi được luyện tập có trí tuệ, tâm của chúng thuần thiện không hung bạo.

Tâm Bồ-đề giống như ngựa hay, xa hẳn tất cả tánh xấu.

Tâm Bồ-đề như bậc thầy Điều ngự, bảo hộ tất cả pháp Đại thừa.

Tâm Bồ-đề giống như thuốc hay, có khả năng trị tất cả bệnh phiền não.

Tâm Bồ-đề giống như cái hố sâu, chôn vùi tất cả các pháp ác.

Tâm Bồ-đề giống như kim cương, có khả năng khoan thủng tất cả pháp.

Tâm Bồ-đề giống như cái tráp hương, có khả năng chứa tất cả hương công đức.

Tâm Bồ-đề cũng như hoa đẹp, tất cả thế gian đều thích ngắm.

Tâm Bồ-đề như cây chiên-đàn trắng, trừ các nóng bức của dục, làm cho trở nên mát mẻ.

Tâm Bồ-đề như hương trầm đen, có khả năng tỏa khắp pháp giới.

Tâm Bồ-đề như thuốc Thiện kiến thượng hạng, có khả năng công phá tất cả bệnh phiền não.

Tâm Bồ-đề như thuốc Tỳ-cấp-ma, có công năng nhổ bật tất cả mũi tên mê hoặc.

Tâm Bồ-đề giống như tâm thức, có khả năng làm chỗ nương cho các căn.

Tâm Bồ-đề giống như Đế Thích, là ngôi vị cao nhất trong tất cả các vị vua.

Tâm Bồ-đề như Tỳ-sa-môn, có khả năng dứt tất cả khổ bần cùng.

Tâm Bồ-đề như trời công đức, trang sức bằng tất cả công đức.

Tâm Bồ-đề như đồ trang sức, trang nghiêm cho tất cả Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề như lửa kiếp tận, có khả năng thiêu rụi tất cả pháp hữu vi.

Tâm Bồ-đề như rễ thuốc vô sinh, nuôi lớn tất cả các Phật pháp.

Tâm Bồ-đề giống như ngọc rồng, có khả năng làm tiêu tất cả độc phiền não.

Tâm Bồ-đề như ngọc thủy thanh, có khả năng lọc sạch tất cả nhơ bẩn phiền não.

Tâm Bồ-đề như ngọc như ý, cung cấp cho khắp tất cả những người nghèo thiếu.

Tâm Bồ-đề như bình hiền đức, chứa đầy đủ những nguyện ước của tất cả chúng sinh.

Tâm Bồ-đề như cây như ý, có khả năng mưa xuống đủ các vật trang sức.

Tâm Bồ-đề như áo lông thiên nga, tất cả bụi sinh tử không dính được.

Tâm Bồ-đề như sợi bạch điệp, tánh của nó thanh tịnh từ trước đến giờ.

Tâm Bồ-đề như lưỡi cày bén, có khả năng sửa đổi tất cả ruộng của chúng sinh.

Tâm Bồ-đề như Na-la-diên, có khả năng đánh tan tất cả giặc ngã kiến.

Tâm Bồ-đề giống như mũi tên nhọn, có khả năng đâm trúng đích của tất cả khổ.

Tâm Bồ-đề giống như mâu bén, có khả năng đâm xuyên tất cả áo giáp phiền não.

Tâm Bồ-đề giống như giáp cứng, có khả năng bảo vệ tất cả tâm đúng lý.

Tâm Bồ-đề giống như đao bén, có khả năng chém đầu tất cả phiền não.

Tâm Bồ-đề giống như kiếm bén, có khả năng chặt đứt tất cả áo giáp kiêu mạn.

Tâm Bồ-đề giống như lưỡi liềm bén, có khả năng cắt tiện tất cả hoặc nghiệp nhỏ nhất tùy miên.

Tâm Bồ-đề như cây cờ của vị tướng mạnh, có khả năng đuổi tất cả quân ma.

Tâm Bồ-đề giống như lưỡi cưa bén, có khả năng cắt tiện tất cả cây vô minh.

Tâm Bồ-đề giống như lưỡi rìu bén, có khả năng chặt đứt tất cả các cây khổ.

Tâm Bồ-đề cũng như cây gậy, có khả năng đề phòng tất cả tai nạn.

Tâm Bồ-đề giống như đôi tay khỏe, bảo hộ tất cả thân trí độ.

Tâm Bồ-đề giống như đôi chân tốt, làm cho thân có tất cả công đức được vững vàng.

Tâm Bồ-đề giống như lưỡi dao vàng, có khả năng lột tất cả màng vô minh.

Tâm Bồ-đề cũng như cây kìm, cây nhíp; có khả năng nhổ sạch tất cả gai nhọn thân kiến.

Tâm Bồ-đề giống như ngọa cụ, dứt trừ hết các sự khổ nhọc sinh tử.

Tâm Bồ-đề như Thiện tri thức, có khả năng mở tất cả sự trói buộc của sinh tử.

Tâm Bồ-đề như của quý có khả năng trừ tất cả sự bần cùng.

Tâm Bồ-đề giống như vị thầy dẫn đường, thông suốt con đường giải thoát quan trọng của Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề giống như kho ngầm, sinh ra của cải công đức không có thiếu.

Tâm Bồ-đề giống như suối ngầm, tuôn nước trí tuệ không cùng tận.

Tâm Bồ-đề giống như gương sáng, bóng của tất cả pháp môn đều hiện khắp.

Tâm Bồ-đề giống như hoa sen, không nhiễm tất cả những cấu bẩn tội lỗi.

Tâm Bồ-đề giống như dòng sông lớn, chảy dẫn tất cả đến nhiếp pháp.

Tâm Bồ-đề như rồng chúa, có khả năng mưa tất cả những trận mưa diệu pháp.

Tâm Bồ-đề giống như mạng căn, nhận giữ thân đại Bi của Bồ- tát.

Tâm Bồ-đề giống như cam lộ, có khả năng làm cho an trụ cảnh giới bất tử.

Tâm Bồ-đề giống như mạng lưới lớn, thâu hết tất cả các chúng sinh.

Tâm Bồ-đề giống như tơ lụa, thâu giữ tất cả những kẻ cần giáo hóa.

Tâm Bồ-đề giống như lưỡi câu, câu hết tất cả các loài có trong vực sâu.

Tâm Bồ-đề như thuốc A-già-đà, có khả năng trừ bệnh hoặc, làm cho an ổn vĩnh viễn.

Tâm Bồ-đề như thuốc trừ độc, có khả năng làm tiêu hết các độc về tham ái.

Tâm Bồ-đề như giữ vững tỉnh giác, có khả năng diệt trừ hết tất cả tầm tứ ác.

Tâm Bồ-đề giống như trận gió mạnh, có khả năng thổi tan tất cả sương mù nghiệp chướng.

Tâm Bồ-đề như đảo báu lớn, sinh ra tất cả báu giác phần.

Tâm Bồ-đề như hạt giống tốt, sinh ra tất cả pháp bạch tịnh.

Tâm Bồ-đề giống như nhà ở, các pháp công đức đều nương nơi ấy.

Tâm Bồ-đề giống như cửa tiệm, nơi buôn bán của các thương buôn Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề như liều thuốc vàng có khả năng trị tất cả bụi phiền não.

Tâm Bồ-đề giống như mật ngọt, đủ tất cả các vị công đức.

Tâm Bồ-đề giống như con đường chánh, giúp cho các vị Bồ-tát đi vào thành trí.

Tâm Bồ-đề giống như đồ dùng tốt, có khả năng đựng tất cả pháp bạch tịnh.

Tâm Bồ-đề giống như mưa đúng thời, có khả năng rửa sạch tất cả bụi phiền não.

Tâm Bồ-đề giống như chỗ ở, tất cả Bồ-tát đều nương sống.

Tâm Bồ-đề giống như đá nam châm, hút tất cả quả giải thoát.

Tâm Bồ-đề như lưu ly sạch, tự tánh của nó trong suốt không có nhơ bẩn.

Tâm Bồ-đề như ngọc đế thanh, vượt hẳn trí thế gian và Nhị thừa.

Tâm Bồ-đề như trống điểm canh, đánh thức giấc ngủ phiền não của các chúng sinh.

Tâm Bồ-đề như nước trong, tánh của nó vốn trong suốt không có cấu bẩn.

Tâm Bồ-đề như vàng Diêm-phù, ánh sáng đoạt tất cả thiện hữu vi.

Tâm Bồ-đề như núi chúa vĩ đại, vượt trên tất cả thế gian.

Tâm Bồ-đề chính là nơi quay về, không ngăn tất cả ai muốn người đến.

Tâm Bồ-đề chính là việc lợi ích có ý nghĩa, có khả năng trừ tất cả việc suy thoái buồn bậc.

Tâm Bồ-đề chính là ngọc đẹp, có khả năng làm cho tất cả đều vui mừng.

Tâm Bồ-đề như hội bố thí lớn, làm cho tâm tất cả chúng sinh đều sung mãn.

Tâm Bồ-đề chính là Bậc Tối thắng, tâm của các chúng sinh không thể sánh kịp.

Tâm Bồ-đề giống như kho chứa, có khả năng chứa pháp của tất cả chư Phật.

Tâm Bồ-đề như sự khéo trì tụng, có khả năng gom hết hạnh nguyện của các Bồ-tát.

Tâm Bồ-đề như người có khả năng bảo hộ, tùy thuận nuôi lớn tất cả pháp.

Tâm Bồ-đề như người có khả năng làm lợi ích, có thể chuyển hóa tất cả pháp bất thiện.

Tâm Bồ-đề như lưới báu của trời Đế Thích, có khả năng chinh phục A-tu-la phiền não.

Tâm Bồ-đề như gió Bà-lầu-la, có khả năng làm lay động tất cả những người đáng được giáo hóa.

Tâm Bồ-đề như lửa của trời Đế Thích, có khả năng thiêu rụi tất cả tập mê hoặc.

Tâm Bồ-đề như tháp Phật, tất cả thế gian đều phải cúng dường.

Thiện nam! Tâm Bồ-đề thành tựu vô lượng, vô biên công đức tối thắng như thế.

Tóm lại, nên biết nó chính là công đức của tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì nhờ tâm Bồ-đề mà sinh ra bánh xe hạnh của tất cả Bồ-tát. Tất cả các Đức Như Lai trong ba đời ở khắp mười phương, đều sinh ra từ tâm Bồ-đề.

Thế nên, thiện nam! Người nào có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tức là đã sinh ra vô lượng công đức và có khả năng nắm giữ hết đạo Nhất thiết trí.

*********

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ví như có người được thuốc vô úy, thì xa lìa năm sự việc đáng sợ hãi. Năm sự việc đó là:

  1. Không bị lửa cháy.
  2. Không bị trúng độc.
  3. Không bị gươm, đao chặt đứt.
  4. Không bị trôi chìm trong nước.
  5. Không bị khói xông ngộp.

Vị Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Khi Bồ-tát được thuốc tâm Bồđề Nhất thiết trí, thì xa lìa năm điều sợ hãi. Năm điều sợ hãi đó là:

  1. Không bị lửa tam độc thiêu cháy.
  2. Không bị độc năm dục làm hại.
  3. Không bị dao mê hoặc chặt đứt.
  4. Không bị nước hữu lậu cuốn trôi.
  5. Không bị khói giác-quán xông hại.

Thiện nam! Ví như có người được thuốc giải thoát thì vĩnh viễn không gặp hoạn nạn. Đại Bồ-tát cũng vậy, được thuốc tâm Bồ-đề trí giải thoát, thì vĩnh viễn xa lìa hoạn nạn sinh tử.

Thiện nam! Ví như có người cầm thuốc Ma-ha-ưng-già đi đến chỗ nào đó, rắn độc nghe được mùi đều lánh xa. Đại Bồ-tát cũng vậy, giữ gìn thuốc đại Ưng-già Bồ-đề tâm, thì tất cả rắn độc phiền não nghe hơi cũng đều tan biến.

Thiện nam! Ví như có người cầm thuốc Vô năng thắng thì tất cả

giặc thù không thể thắng được. Đại Bồ-tát cũng vậy, cầm thuốc Vô năng thắng Bồ-đề tâm thì hàng phục được tất cả quân ma.

Thiện nam! Ví như có người cầm thuốc Tỳ-cấp-ma có năng lực làm cho mũi tên độc tự nhiên rơi rớt. Đại Bồ-tát cũng vậy, cầm thuốc Tỳ-cấp-ma Bồ-đề tâm, thì các mũi tên độc tham, sân, si, các tà kiến cũng tự nhiên rơi rớt.

Thiện nam! Ví như có người cầm thuốc Thiện kiến diệt trừ tất cả bệnh tật. Đại Bồ-tát cũng vậy, cầm thuốc Thiện kiến Bồ-đề tâm, thì sẽ diệt trừ được tất cả bệnh phiền não.

Thiện nam! Như có cây thuốc tên San-đà-na, ai dùng vỏ nó thoa ghẻ thì ghẻ được lành. Người ấy được bình phục và không còn để lại vết sẹo nào cả; vỏ cây ấy vừa lấy là sinh lại liền, lấy không hết được. Đại Bồ-tát cũng vậy, từ tâm Bồ-đề sinh cây đại trí. Người nào thấy mà sinh tâm tin, thì ghẻ phiền não, ghẻ nghiệp đều được tiêu diệt mà cây thuốc Nhất thiết trí không hề hư hoại.

Thiện nam! Như có cây thuốc tên là Thành tựu căn, nhờ sức của cây này làm cho cành lá, hoa, quả của các cây ở Diêm-phù-đề tăng trưởng và thành tựu. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng oai lực cao tột của cây Bồ-đề tâm, làm cho các thiện căn của Thanh văn, Độc giác, Hữu học, Vô học và chư Bồ-tát đều được tăng trưởng; thành tựu.

Thiện nam! Ví như có cây thuốc A-lam-bà, dùng thoa thân thì thân và tâm sẽ có sức chịu đựng. Đại Bồ-tát cũng vậy, được thuốc Alam-bà Bồ-đề tâm sẽ làm cho thân tâm có sức chịu đựng, tăng trưởng pháp thiện.

Thiện nam! Ví như có người được thuốc niệm lực thì thân tâm người ấy có khả năng ghi nhớ thanh tịnh. Đại Bồ-tát cũng vậy, được thuốc tốt niệm lực Bồ-đề tâm, thì tâm không chướng ngại, niệm lực thanh tịnh.

Thiện nam! Như có thuốc Đại liên hoa, người nào uống thuốc này sẽ được sống lâu trong một kiếp. Đại Bồ-tát cũng vậy, uống thuốc Đại liên hoa Bồ-đề tâm, thì được tự tại sống lâu, tu tập đủ các hạnh Ba-la-mật trong vô số kiếp.

Thiện nam! Ví như có người cầm thuốc, ẩn hình trong thế gian, người và phi nhân không thể thấy được. Đại Bồ-tát cũng vậy, cầm thuốc ẩn hình vi diệu Bồ-đề tâm, đi khắp các cảnh giới, các loài ma không thể thấy được.

Thiện nam! Như ở biển cả, có châu báu tên là Phổ tập chúng bảo. Châu này ở nơi nào thì các báu không bị phân tán. Giả sử kiếp hỏa đốt cháy thế gian, cũng không thể làm giảm bớt một giọt nước ở biển cả huống nữa là có thể khô cạn. Đại Bồ-tát cũng vậy, có châu Bồ-đề tâm, ở trong biển đại nguyện trí Nhất thiết trí của Bồ-tát, mà thường ghi nhớ không quên thì không thể hủy hoại đi một thiện căn nào của Bồ-tát. Nếu thoái tâm Bồ-đề, bỏ Nhất thiết trí thì tất cả thiện pháp đều bị tiêu diệt.

Thiện nam! Như có Ma-ni tên Phổ tập ánh sáng, có người dùng châu Anh lạc để trang sức trên thân, thì Ánh sáng của Ma-ni sẽ che khuất tất cả ánh sáng của các vật báu trang sức! Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng báu Bồ-đề tâm trang nghiêm tâm tánh thì che khuất tất cả bảo tâm của Thanh văn, Độc giác, làm cho các vật trang nghiêm đều không chiếu sáng.

Thiện nam! Như có ngọc báu Thủy thanh, nếu đặt châu này vào trong nước đục thì châu này có năng lực làm cho nước đục thành trong. Châu Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, sẽ làm trong sạch tất cả cấu bẩn phiền não.

Thiện nam! Như có người được châu báu Trụ thủy đem buộc vào thân, bơi lội dưới biển, dạo chơi tự tại không bị nước làm hại. Đại Bồtát cũng vậy, được trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm trụ thủy diệu bảo, thì đi vào trong biển sinh tử, vui chơi tự tại, không bao giờ say đắm.

Thiện nam! Như có người được châu báu Long mang vào long cung dạo chơi hay ở trong biển lớn, thì oai lực của châu này sẽ làm cho các loài thủy tộc, rồng, rắn đều không hại được. Đại Bồ-tát cũng vậy, được châu Đại bảo long trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm; đi vào trong nước ái, si mê của cõi Dục thì các loài rồng, rắn, hoặc nghiệp không thể làm hại.

Thiện nam! Như Đế Thích, đội mão Ma-ni trang nghiêm trên đầu che mất ánh sáng các Thiên chúng khác. Đại Bồ-tát cũng vậy, đội mão đại nguyện bảo trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm trên đỉnh tâm mình thì sẽ vượt qua được tất cả ba cõi của chúng sinh.

Thiện nam! Như có người, được Châu báu như ý thì không còn nghèo đói, khổ cực. Đại Bồ-tát cũng vậy, được châu báu như ý trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, thì phát sinh tài sản pháp thiện của Bồ-tát, xa lìa các tà mạng, sợ hãi.

Thiện nam! Như có người được châu báu Nhật tinh, đặt hướng về ánh sáng mặt trời thì sinh ra lửa. Đại Bồ-tát cũng vậy, được Nhật tinh bảo châu Nhất thiết trí tánh Bồ-đề tâm, cầm châu này hướng đến ánh sáng trí thì sinh ra lửa trí.

Thiện nam! Như có người được châu báu Nguyệt ái, đem hướng về ánh sáng mặt trăng thì sinh ra nước. Đại Bồ-tát cũng vậy, được châu báu nguyệt tinh Bồ-đề tâm, đem châu này hướng về ánh sáng hồi hướng, thì sinh ra tất cả thủy nguyệt thiện căn.

Thiện nam! Như Long vương đầu đội mão báu Như ý Ma-ni thì sẽ xa lìa được các oán thù và sợ hãi. Đại Bồ-tát cũng vậy, đội mão báu đại Bi Bồ-đề tâm, thì sẽ xa lìa các đường ác và các nạn.

Thiện nam! Như có người, được châu báu Nhất thiết thế gian trang nghiêm tạng, thì những điều mong muốn đều được toại nguyện. Công dụng của bảo châu này không cùng tận, thể tánh không hề tổn giảm. Đại Bồ-tát cũng vậy, được báu Bồ-đề tâm thì các hạnh nguyện sẽ được viên mãn. Công dụng của Bồ-đề tâm cũng không cùng tận, thể tánh cũng không hề tổn giảm.

Thiện nam! Như ở trong cung Chuyển luân vương, có báu Ma-ni phóng ra ánh sáng lớn, phá tan bóng tối. Ở trong Dục giới, Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng báu đại Ma-ni trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, phóng ra ánh sáng đại trí tuệ phá tan vô minh đêm tối của mọi loài.

Thiện nam! Người nào được ánh sáng báu Đế thanh đại Ma-ni chiếu đến thì thân của người ấy đồng màu với báu này. Đại Bồ-tát cũng vậy, được báu Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, quán sát các pháp, hồi hướng thiện căn, hướng đến Nhất thiết trí thì cũng đồng với sắc trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm.

Thiện nam! Ví như bảo châu Lưu ly bản tánh vốn trong sạch dầu cho có ở trong chỗ nhơ uế trăm ngàn năm đi nữa cũng không bị nhiễm. Cũng vậy, bảo châu trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát vốn thanh tịnh như tấnh pháp giới, dầu ở trong Dục giới trăm ngàn kiếp cũng vẫn thanh tịnh, không bị nhiễm ô tội lỗi, tai họa.

Thiện nam! Ví như bảo châu Tịnh ánh sáng, nó có thể che khuất sắc của các châu khác. Đại Bồ-tát cũng vậy, ánh sáng châu trí Nhất thiết trí khi phát Bồ-đề tâm, cũng sẽ che khuất các công đức của phàm phu, Nhị thừa, Hữu học, Vô học.

Thiện nam! Ví như bảo châu Hỏa diễm có khả năng diệt trừ tối tăm. Đại Bồ-tát cũng vậy, có bảo châu Nhất thiết trí, quán hành tương ưng, sẽ có khả năng diệt tất cả những vô minh đen tối.

Thiện nam! Như có người đi buôn nhặt được báu vô giá ở trong biển cả, dùng thuyền chở về thành thị; làm cho tất cả ánh sáng màu sắc của trăm ngàn vạn bảo châu khác không sánh bằng được. Ở trong biển lớn sinh tử, Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng thuyền đại nguyện và tâm sâu liên tục chở bảo châu Bồ-đề tâm vào thành giải thoát thì tất cả công đức của Thanh văn, Bích-chi-phật, không sánh bằng được.

Thiện nam! Như ở Diêm-phù-đề có bảo châu Tự tại vương cách mặt trời, mặt trăng bốn vạn do-tuần; nhưng bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm trên mặt trời, mặt trăng đều hiện bóng rõ ràng ở trong bảo châu này. Ở trong sinh tử, bảo châu Tự tại vương công đức thanh tịnh trí Nhất thiết trí phát Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy soi chiếu pháp giới hư không làm cho tất cả hình ảnh về công đức trang nghiêm tháng ngày Phật trí, thanh tịnh cảnh giới, đều hiển hiện rõ trong ấy.

Thiện nam! Ví như tất cả tài vật, y phục quý báu có giá trị được ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi sáng cũng không bằng bảo châu Tự tại vương. Cũng vậy, tất cả công đức của pháp hữu lậu, vô lậu, các thiện căn của trời, người, Nhị thừa trong ba đời, được ánh sáng Nhất thiết trí chiếu đến không bằng bảo châu Tự tại vương phát Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Ví như trong biển có ngọc Ma-ni tên là Hải tạng, hiện ra khắp những sự trang nghiêm trong biển cả. Bảo châu Bồ-đề tâm của Bồ-tát cũng vậy hiện khắp những sự trang nghiêm của biển Nhất thiết trí.

Thiện nam! Như vàng ở trên trời Diêm-phù-đàn, không có bảo vật nào sánh bằng, chỉ trừ bảo châu Đại Ma-ni tâm vương. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm như vàng Diêm-phù-đàn không gì sánh bằng, chỉ trừ đại bảo châu Tâm vương Nhất thiết trí.

Thiện nam! Như có người, khéo có phương pháp điều phục rồng thì ở trong loài rồng được tự tại. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm được Nhất thiết trí, có phương pháp khéo điều phục rồng, thì ở trong các phiền não của rồng cùng vẫn tự tại.

Thiện nam! Như dũng sĩ mặc áo giáp cầm binh khí ra trận thì tất cả oán địch không thể chiến thắng được. Đại Bồ-tát cũng vậy, mặc áo giáp và cầm binh khí Bồ-đề tâm thì tất cả oán thù, nghiệp, hoặc ác không thể hủy hoại, không làm khuất phục.

Thiện nam! Như ở trên trời, dù chỉ đốt một cây hương bạch Chiên-đàn nhưng hương thơm xông khắp tiểu thiên thế giới nên giá trị trân bảo có đầy trong tam thiên thế giới cũng không sánh bằng. Cũng vậy, hương Bồ-đề tâm của Bồ-tát chỉ trong một niệm xông khắp pháp giới, tất cả công đức của Thanh văn, Độc giác cũng đều không sánh bằng.

Thiện nam! Ví như dùng bột của bạch Chiên-đàn thoa thân thì diệt sạch phiền não nóng bức, khiến khắp thân tâm mát mẻ. Cũng vậy, hương Bồ-đề tâm của Bồ-tát phát sinh Nhất thiết trí, xông khắp thân tâm, diệt trừ tất cả phiền não nóng bức: Tham, sân, si, các sự phân biệt hư vọng, làm cho trí tuệ đầy đủ và trong mát.

Thiện nam! Như có người, ở gần núi Tu-di, thì đồng với màu sắc của núi. Cũng vậy, chúng sinh ở gần núi Bồ-đề tâm của Bồ-tát thì đồng với sắc tâm Nhất thiết trí.

Thiện nam! Ví như ở cõi Diêm-phù-đề có mùi hương các loại hoa như Bà-sư-ca, Chiêm-bác-ca, Tô-ma-na, Uất-kim cũng không thể sánh bằng hương của vỏ cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-ty-đà-la. Cũng vậy, hương công đức đại nguyện phát Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát, hơn hẳn công đức hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến của bậc vô lậu Nhị thừa.

Thiện nam! Ví như cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-ty-đà-la, dù chưa trổ hoa nhưng biết được cây này là chỗ sẽ trổ vô lượng hoa. Cũng vậy, cây Bồ-đề tâm của Bồ-tát dù chưa sinh hoa Nhất thiết trí nhưng biết đó là chỗ sinh ra hoa Bồ-đề cho vô lượng chúng trời, người, hữu lậu, vô lậu.

Thiện nam! Ví như hoa của cây Ba-lợi-chất-đa-la đem ướp y phục trong một ngày thì hương thơm của nó hơn hẳn mùi hương các loại hoa Chiêm-bác-ca, Bà-sư-ca, Tô-ma-na ướp trong ngàn năm. Cũng vậy, hương công đức Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát huân tập trong một đời sẽ xông khắp tất cả chỗ của chư Phật trong mười phương và hơn hẳn công đức của hàng vô lậu Nhị thừa huân tập trong trăm ngàn kiếp.

Thiện nam! Ví như trong hải đảo có cây dừa; gốc rễ, nhánh lá, hoa trái của nó, tất cả chúng sinh thường lấy dùng mà vẫn không hết. Cũng vậy, cây Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát, từ khi mới phát đại Bi nguyện cho đến lúc thành Phật, làm cho chánh pháp tồn tại ở đời, làm lợi ích chúng sinh trong thế gian không lúc nào dứt.

Thiện nam! Ví như có người, nào dùng một lạng nước thuốc Hađịch-ca thì có thể biến một ngàn lạng đồng trở thành vàng ròng nhưng một ngàn lạng đồng không thể biến thành thuốc này được. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng thuốc trí hồi hướng Bồ-đề tâm biến khắp các pháp hoặc nghiệp đều thành tướng Nhất thiết trí, nhưng chẳng phải hoặc, nghiệp… biến ra được tâm này.

Thiện nam! Như lấy một ít lửa đem đốt cỏ khô, tùy theo chỗ đốt ngọn lửa càng cháy mạnh. Lửa Bồ-đề tâm của Bồ-tát tùy theo nhân duyên, tụ họp các pháp thiện, ác, làm cho ngọn lửa trí tuệ càng sáng tỏ.

Thiện nam! Ví như dùng một ngọn đèn, thắp sáng trăm ngọn đèn khác mà ngọn đèn này không hề giảm bớt một chút ánh sáng. Cũng vậy, đèn Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, là ngọn đèn thắp sáng Phật trí ba đời, mà ngọn đèn này không bị hao tổn.

Thiện nam! Ví như có ánh sáng của ngọn đèn đi vào trong nhà tối thì chiếu sáng tất cả, diệt sự tối tăm trong trăm ngàn năm. Đèn Bồđề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, nó vào nhà tâm vô minh của chúng sinh, thì diệt trừ được vô lượng đủ các nghiệp chướng phiền não của chúng sinh trong trăm ngàn vạn ức không thể nói kiếp và làm phát sinh trí tuệ sáng suốt.

Thiện nam! Ví như tim đèn, lớn hay nhỏ, tùy theo đó mà phát ra ánh sáng. Nếu châm thêm dầu thì ánh sáng không tắt. Cũng vậy, đèn Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát làm bằng tim đại nguyện, phát sinh ánh sáng trí tuệ, chiếu sáng khắp pháp giới. Nếu châm thêm dầu đại Bi, thì việc giáo hóa chúng sinh, trang nghiêm cõi nước, làm việc Phật sự, hiện đại oai đức sẽ không hề ngưng nghỉ.

Thiện nam! Ví như vua trời Tha hóa tự tại đội mão Diêm-phùđàn bằng vàng ròng của trời; thì oai lực và các vật báu trang nghiêm của Thiên tử ở cõi Dục không thể sánh bằng. Đại Bồ-tát cũng vậy, đội mão Bồ-đề tâm Nhất thiết trí báu đại nguyện; thì công đức hàng phàm phu và Nhị thừa không thể sánh bằng.

Thiện nam! Ví như khi Sư tử vương gầm rống, Sư tử con nghe được thì tăng thêm dũng khí mạnh mẽ, còn muôn loài thú đều khiếp vía, lẫn trốn. Cũng vậy, Sư Tử Vương Phật gầm rống tiếng Bồ-đề, bằng âm thanh Nhất thiết trí, các hàng Bồ-tát nghe được thì nuôi dưỡng thêm Pháp thân, tăng trưởng công đức. Ngoài ra với chúng sinh chấp trước, tà vạy mà nghe được đều lui xa, giống như băng tan thành nước.

Thiện nam! Ví như có người dùng gân Sư tử làm dây đàn, khi âm thanh của dây đàn này tấu lên, thì không còn nghe thấy âm thanh của các dây đàn khác. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng gân Bồ-đề tâm, thân Bala-mật Sư tử Như Lai làm dây đàn pháp nhạc, tấu lên âm nhạc thì âm nhạc của dây đàn công đức Nhị thừa, năm dục đều bị đoạn diệt.

Thiện nam! Như có người, chứa sữa của các loài bò, dê nhiều như biển cả; dù chỉ nhỏ một giọt sữa Sư tử vào, cũng làm cho sữa các loài kia đều bị hư hoại. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng sữa Bồ-đề tâm Sư tử Như Lai, nhỏ vào trong biển nghiệp phiền não sẽ làm cho biển nghiệp phiền não bị hoại diệt, không còn trú trong quả giải thoát của Nhị thừa.

Thiện nam! Ví như ở núi Tuyết sơn, có chim Ca-lăng-tần-già đang còn ở trong trứng mà đã có uy lực lớn, các loài chim khác đều không sánh bằng. Ở trong sinh tử, Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm thì đã có sức mạnh công đức đại Bi, hàng Thanh văn, Độc giác không thể sánh bằng.

Thiện nam! Ví như con của chim Kim sí chúa lúc mới sinh, đã có cặp mắt sáng quắc, bay liệng nhanh chóng, có oai lực hơn hẳn các loài chim khác, dù cho các loài chim khác sinh trưởng đã lâu vẫn không sánh bằng. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm làm con của chim Kim sí chúa Như Lai thì đã có trí tuệ thanh tịnh, đại Bi dũng mãnh, đầy đủ oai lực, thần thông tự tại; tất cả hàng Nhị thừa, dù trải qua thời gian tu đạo hạnh đã lâu dài trong trăm ngàn kiếp, cũng không thể sánh bằng.

Thiện nam! Ví như tráng sĩ, tay cầm mâu nhọn, đâm thủng và xuyên qua giáp dầy cứng rất dễ dàng. Đại Bồ-tát cũng vậy, dũng mãnh tinh tấn cầm mâu trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm sắc bén đâm thủng giáp dầy tùy miên, tà kiến rất dễ dàng.

Thiện nam! Ví như dũng sĩ đại lực Ma-ha-na-già, nếu giận dữ nỗi lên thì ở trên trán có vết nổi như mụt, mà mụt đó chưa lặn, thì số người ở Diêm-phù-đềkhông thể làm gì được. Cũng vậy, vết nổi Nhất thiết trí trong việc phát Bồ-đề tâm đại Bi của Đại Bồ-tát khi chưa xả bỏ, thì tất cả thế gian, quyến thuộc ma, hoặc, nghiệp, người ác đều không thể hại được.

Thiện nam! Ví như làm đệ tử của người bắn tên giỏi tuy kỹ năng chưa thuần thục nhưng sự khôn ngoan khéo léo sẽ hơn hẳn những người khác. Đại Bồ-tát cũng vậy, khi mới phát tâm tuy chưa tập quen với hạnh Bồ-đề Nhất thiết trí sự nghiệp, nhưng trí tuệ, nguyện lực, mong cầu giải thoát thì hơn hẳn phàm phu Nhị thừa và cả thế gian.

Thiện nam! Ví như có người, học bắn tên, trước tiên phải đứng vững hai chân; sau đó mới học cách bắn tên và kiếm thuật. Tất cả võ nghệ đều lấy đó làm gốc. Đại Bồ-tát cũng vậy, muốn học đạo Nhất thiết trí của Như Lai, trước tiên phải an trú ở Bồ-đề tâm, sau đó mới tu hành các Phật pháp.

Thiện nam! Ví như nhà ảo thuật sắp làm ảo thuật, trước tiên phải suy nghĩ nhớ lại những phương pháp ảo thuật, sau đó biểu diễn mới thành công. Đại Bồ-tát cũng vậy, sắp làm ảo sự thần thông của Bồ-tát chư Phật, trước tiên phải phát Bồ-đề tâm, sau đó mới được thành tựu các pháp.

Thiện nam! Ví như ảo thuật không có hình sắc mà hiện ra hình sắc, những sự biến hóa ấy hiện ra rõ ràng. Cũng vậy, ảo thuật tướng Nhất thiết trí Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát, tuy không có hình sắc để có thể thấy được, nhưng lại biến khắp mười phương pháp giới, thị hiện vô lượng công đức trang nghiêm.

Thiện nam! Ví như thấy mèo thì chồn, chuột liền bỏ chạy vào hang, không dám đi ra. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm, tạm dùng tuệ nhãn, quán sát các hoặc, nghiệp; hoặc, nghiệp liền chạy trốn mất, không dám ló dạng.

Thiện nam! Ví như có người dùng vàng Diêm-phù-đàn làm vật trang sức; nó chói che ánh sáng các vật báu khác làm cho các vật báu này giống như bóng đen. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng vàng trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, trang nghiêm thân hình, nó sẽ chói che tất cả công đức trang nghiêm hàng phàm phu, Nhị thừa, làm cho những công đức này không còn hiện nữa.

Thiện nam! Như đá nam châm chỉ có một phần nhỏ mà nó sức hút những vật bền chắc như: Móc, khóa, sắt Đại Bồ-tát cũng vậy, nếu tâm khởi lên một niệm Bồ-đề, thì hoại diệt được sự trói buộc của tất cả tà kiến, tham dục và móc khóa vô minh.

Thiện nam! Ví như ở chỗ nào đó có đá nam châm, sắt gặp đều bị hút làm cho tán loạn, không còn ở chỗ cũ. Ở thế gian, Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm, dùng trí quán sát nghiệp phiền não và hàng Nhị thừa giải thoát nếu tạm gặp thì liền tan biến, không có chỗ lưu trú.

Thiện nam! Ví như có người săn bắt giỏi trong biển cả, thì các loài ở nước không thể làm hại được giả sử có vào miệng cá Ma-kiệt cũng không bị nó cắn nuốt. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm vào biển sinh tử, tất cả thủy tộc trong biển nghiệp phiền não, không thể làm hại. Giả sử vào trong miệng cá Ma-kiệt, Thanh văn, Độc giác, thực tế, giải thoát đều không bị trở ngại.

Thiện nam! Ví như có người, uống được nước cam lồ thì chất độc không làm hại được. Đại Bồ-tát cũng vậy, uống nước pháp cam lồ trí Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, đầy đủ nguyện lực đại Bi thì không bị rơi vào hàng Thanh văn, Bích-chi-phật.

Thiện nam! Như có người dùng thuốc An-thiện-na, thoa lên đôi mắt, thì tự tại dạo chơi trong nhân gian mà chẳng ai nhìn thấy. Đại Bồtát cũng vậy, dùng thuốc An-thiện-na Bồ-đề tâm, lấy trí nguyện làm phương tiện, tự tại dạo chơi trong cảnh giới ma, mà chẳng bị ma nhìn thấy.

Thiện nam! Như có người, dựa vào nhà vua, nên chẳng sợ ai. Đại Bồ-tát cũng vậy, dựa vào đại uy lực vua Nhất thiết trí Bồ-đề tâm nên chẳng sợ các nạn về tất cả cảnh giới ác, nghiệp chướng, triền cái trong nhân gian.

Thiện nam! Như có người, ở trong nước thì không sợ lửa đốt. Đại Bồ-tát cũng vậy, ở trong nước thiện căn Bồ-đề tâm thì không sợ lửa giải thoát trí của Thanh văn, Độc giác.

Thiện nam! Ví như có người, dựa vào tướng soái dũng mãnh nên không sợ kẻ thù. Đại Bồ-tát cũng vậy, dựa vào tướng trí dũng mãnh Bồ-đề tâm, nên không sợ kẻ thù hay ác hạnh.

Thiện nam! Như Đế Thích Thiên vương, cầm chày Kim cang đánh dẹp tất cả chúng A-tu-la. Đại Bồ-tát cũng vậy, cầm chày Kim cang trí Bồ-đề tâm, dẹp sạch chúng ma ngoại đạo A-tu-la.

Thiện nam! Ví như có người, uống thuốc Diên-linh tốt nhất, nên luôn được tráng kiện, không gầy mòn, ốm yếu, không bệnh, không già. Đại Bồ-tát cũng vậy, uống thuốc trí tối thắng của Bồ-đề tâm, nên hành hạnh Bồ-tát ở trong sinh tử vô số kiếp, tâm không mệt mỏi cũng không nhiễm chấp.

Thiện nam! Như có người, chế tạo thuốc nước, trước hết phải lấy nước tốt, trong sạch, tất cả mọi nơi đều dùng như nhau. Đại Bồ-tát cũng vậy, muốn tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, trước tiên phải phát Bồđề tâm làm cho chúng sinh đều được thấm nhuần như nhau.

Thiện nam! Như có người, muốn bảo vệ thân thể, trước tiên cần bảo vệ mạng căn. Đại Bồ-tát cũng vậy, hộ trì chánh pháp chư Phật, trước tiên phải giữ gìn Bồ-đề tâm.

Thiện nam! Như có người, đã đoạn mạng căn, thì không thể chăm sóc làm việc lợi ích cho cha mẹ và dòng họ. Đại Bồ-tát cũng vậy, xả bỏ mạng Nhất thiết trí Bồ-đề tâm, thì các công đức không được thành tựu, không thể làm lợi ích cho chúng sinh.

Thiện nam! Như biển cả thì các loại thuốc độc không thể hủy hoại được. Đại Bồ-tát cũng vậy, phát Bồ-đề tâm, ở trong biển Nhất thiết trí, thì tất cả các độc của nghiệp phiền não và tâm Nhị thừa không thể hại được.

Thiện nam! Ví như ánh sáng các vì sao không chói che được ánh sáng mặt trời. Đại Bồ-tát cũng vậy, ánh sáng trí các vì sao Nhị thừa, công đức vô lậu; không che được ánh sáng mặt trời đại trí tuệ Bồ-đề tâm.

Thiện nam! Ví như con vua, vừa mới sinh ra, các quan đại thần kỳ cựu đều phải tôn trọng vì đó là dòng dõi chân chánh tăng thượng tự tại của vua. Ở trong Phật pháp, Đại Bồ-tát cũng vậy, từ lúc mới phát Bồ-đề tâm Nhất thiết trí, được sinh trong nhà Như Lai, làm con của Pháp vương; thì tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác đã tu phạm hạnh lâu năm đều phải tôn trọng, vì đó là dòng dõi đại Bi tăng thượng tự tại Bồ-đề tâm.

Thiện nam! Ví như con của vua, tuy còn thơ bé, nhưng tất cả đại thần đều phải kính lễ. Còn thái tử rất kính trọng họ nhưng không lễ bái, bởi vì thái tử là dòng dõi nhà vua. Đại Bồ-tát cũng vậy, tuy mới phát tâm tu hạnh Bồ-tát nhưng tất cả hàng Nhị thừa kỳ cựu tu phạm hạnh lâu năm, thấy vị này đều phải kính lễ. Bởi vì vị Bồ-tát này sẽ được pháp thù thắng.

Thiện nam! Ví như con của vua, tuy chưa được tinh thông các việc trong triều bằng đại thần hay các quan giúp việc; nhưng lại thuộc dòng dõi nhà vua đáng tôn quý, nên các quan đại thần không thể sánh bằng được. Đại Bồ-tát cũng vậy, tuy chưa được tự tại trong các nghiệp phiền não, nhưng đã phát Bồ-đề tâm, đầy đủ thánh chủng tánh Như Lai; nên hàng A-la-hán, Bích-chi-phật không thể sánh bằng được.

Thiện nam! Ví như bảo châu Ma-ni thanh tịnh, nhưng vì mắt lòa nên thấy thành bất tịnh. Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, vốn thanh tịnh, nhưng tất cả chúng sinh vì mắt lòa, vô trí, không tin nên cho là bất tịnh.

Thiện nam! Ví như có thuốc được gia trì chú nguyện thì ai thấy, nghe hoặc cùng ở thì đều được lành bệnh. Thuốc Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, làm bằng các thiện căn, phương tiện trí tuệ, đều là nguyện trí nên nếu có chúng sinh nào thấy, nghe, cùng ở theo đó ghi nhớ, đều được lành bệnh phiền não.

Thiện nam! Như có người uống nước cam lồ thì thân được khỏe mạnh, không thay đổi, không bị hoại. Đại Bồ-tát cũng vậy, thường giữ gìn cam lồ Bồ-đề tâm, thì thân trí nguyện rốt ráo không hoại.

Thiện nam! Ví như có người mặc áo bằng bộ lông con thiên nga, thì sẽ không bị dính nước bùn. Đại Bồ-tát cũng vậy, có áo lông thiên nga Bồ-đề tâm thanh tịnh, thì không bị nhiễm chấp trong các nghiệp phiền não, sinh tử.

Thiện nam! Như dùng dây buộc các cây tre lại với nhau làm thành chiếc bè, thì sẽ tự tại dạo chơi trong dòng sông. Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng dây trí đại nguyện Bồ-đề tâm, thâu nhiếp các hạnh, không cho phân tán, thì sẽ được tự tại dạo chơi trong dòng pháp chảy xiết, tùy thuận nhập vào biển Nhất thiết trí.

Thiện nam! Ví như có người gỗ, tuy đầy đủ các bộ phận của thân thể; nhưng không có các cơ quan và chốt máy thì không thể hoạt động được. Đại Bồ-tát cũng vậy, bỏ Bồ-đề tâm, các hạnh sẽ phân tán thì không thể thành tựu Phật pháp.

Thiện nam! Như Chuyển luân vương đốt trầm hương báu là Tượng Tạng, thì sẽ có bốn loại binh bay lên không trung. Cũng vậy, khi Đại Bồ-tát phát tâm hương Bồ-đề, thì các thiện căn ra khỏi ba cõi và hành trí Như Lai biến khắp vô tận hư không pháp giới.

Thiện nam! Như chất Kim cang chỉ sản xuất từ mỏ vàng hoặc mỏ Kim cang chứ không thể sản xuất từ các mỏ khác được. Kim cang Bồ-đề tâm của Bồ-tát cũng vậy, chỉ được sinh ra từ Kim cang đại Bi cứu hộ chúng sinh và Kim cang năng quán sát cảnh giới Nhất thiết trí; chứ không phải được sinh ra từ thiện căn khác chúng sinh. Thiện nam! Như có loại cây tên là vô căn nó không có rễ nên chẳng dựa vào đâu, mà nhánh, lá, hoa, trái đều sum suê. Cây Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy tánh của Nhất thiết trí không có chỗ nương mà vẫn sinh trưởng nhánh, lá, hoa trái, phước đức, trí tuệ, thần thông, đại nguyện; làm lợi ích thế gian che khắp cho tất cả.

Thiện nam! Ví như báu Kim cang, chỉ đựng được ở trong chậu làm bằng vàng bạc; ngoài ra các chậu sành xấu hoặc sứt mẻ không thể đựng được. Cũng vậy, vật báu Kim cang trí Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát chỉ đựng trong vật báu thâm tâm Bồ-tát. Ngoài ra, những vật đựng của hàng chúng sinh thấp kém, tham lam, bạc phước, keo kiệt, ganh tỵ, pháp giới, sân hận, lười biếng, vọng niệm, vô trí, thoái thất, tán loạn thì không thể chứa đựng được.

Thiện nam! Ví như Kim cang soi thủng các vật báu khác. Kim cang Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, nó xuyên suốt các pháp bảo.

Thiện nam! Như Kim cang có thể làm hoại tất cả núi báu kiên cố. Kim cang Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, đều hay phá vỡ được các núi tà kiến.

Thiện nam! Ví như Kim cang, tuy đã bể, nhưng các vật báu khác vẫn không sánh bằng. Báu Nhất thiết trí phát Bồ-đề tâm của Bồ-tát cũng vậy, tuy còn yếu kém nên có chút thiếu sót, nhưng vẫn hơn tất cả công đức của hàng Nhị thừa.

Thiện nam! Ví như Kim cang, tuy có sứt mẻ, nhưng vẫn trừ được nghèo khổ. Báu Nhất thiết trí phát Bồ-đề tâm của Bồ-tát cũng vậy, tuy các giới hạnh phần nhiều thiếu sót nhưng vẫn xa lìa được sinh tử.

Thiện nam! Ví như một ít Kim cang cũng có thể hủy hoại được các vật. Cũng vậy, một niệm phát Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát phá được vô minh, phiền não.

Thiện nam! Ví như Kim cang, thì hàng phàm phu thấp kém làm sao có được. Đại Bồ-tát cũng vậy, báu Kim cang Nhất thiết trí Bồ-đề tâm làm sao phàm phu Nhị thừa tâm trí kém cỏi có được.

Thiện nam! Như Kim cang, nếu người không biết rành về nó thì không biết được năng lực, không sử dụng được nó. Cũng vậy, hàng phàm phu, tâm trí thấp kém, vô trí, độn căn, thì không thể nào hiểu được công năng, tác dụng về Kim cang Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Ví như Kim cang thì không gì, có khả năng làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả các pháp không thể hủy hoại được Kim cang Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Như chày Kim cang các lực sĩ không thể cầm nổi, chỉ trừ oai lực của đại Na-la-diên. Cũng vậy, chày Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát thì hàng Nhị thừa có năng lực lớn không thể cầm được; chỉ trừ Bồ-tát có thiện lực kiên cố, nhân duyên rộng lớn mới cầm được.

Thiện nam! Ví như Kim cang, nó làm hoại các vật rất dễ dàng

mà thể tánh của nó không hề giảm bớt; còn các vật khác thì không thể hoại được Kim cang. Cũng vậy, trong vô số kiếp ở khắp ba đời; Đại Bồ-tát dùng Bồ-đề tâm, giáo hóa chúng sinh, tu hành khổ hạnh. Tất cả những việc ở thế gian, Thanh văn, Độc giác không làm được, Bồ-tát đều làm được mà đại tâm Kim cang Nhất thiết trí, luôn kiên cố không hề giảm sút, không sinh mệt mỏi, không có trở ngại.

Thiện nam! Ví như Kim cang, chỉ có đất Kim cang mới giữ gìn được, còn những chỗ đất khác không thể giữ chịu được. Cũng vậy, tâm Bồ-đề của Đại Bồ-tát chỉ có được ở nơi hướng về đạo Nhất thiết trí, ở hàng Đại Bồ-tát trí lực kiên cố; còn Thanh văn, Độc giác tuy có hạnh nguyện nhưng không giữ chịu được.

Thiện nam! Như chậu Kim cang không sứt mẻ, thì dùng đựng đầy nước, nước không hao mất và không chảy rịn. Cũng vậy, chậu báu Kim cang Bồ-đề tâm của Bồ-tát, thể tánh vô lậu, hồi hướng kiên cố, dùng đựng nước thiện căn thì nước không bao giờ hư mất.

Thiện nam! Ví như Kim cang luôn giữ gìn đại địa, không cho đất sụp đổ và tan rã. Cũng vậy, Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát có năng lực giữ gìn các hạnh nguyện của Bồ-tát, không cho đọa lạc vào Tam giới.

Thiện nam! Như Kim cang, ở lâu trong nước, nhưng không bị tan rã, không bị hư hoại. Cũng vậy, trong vô số kiếp, Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát, ở trong nghiệp phiền não sinh tử, nhưng không bị hư hoại, không bị thay đổi.

Thiện nam! Ví như lửa lớn, không thể đốt cháy hay làm nóng Kim cang. Cũng vậy, các lửa sinh tử phiền não không thể đốt cháy, làm nóng Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Ví như tất cả các Đức Phật trong thế giới này, lúc sắp thành Chánh giác, ngồi ở đạo tràng, nhiếp phục bốn ma, chứng Nhất thiết trí; thì chỉ có tòa Kim cang mới có thể giữ vững được. Còn các tòa khác không có khả năng này. Cũng vậy, tòa Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát, có năng lực giữ gìn các hạnh nguyện của Bồ-tát, các môn Ba-la-mật, thành tựu các nhẫn, nhập vào các địa, đầy đủ căn lành, đủ các hồi hướng, cầu Phật thọ ký, tu tập tăng trưởng Bồ-tát đạo, gần gũi cúng dường chư Như Lai, thấm nhuần và thọ trì mưa pháp, nhanh chóng tăng trưởng đại Bi kiên cố, thành tựu các trí nguyện; cho đến thành Chánh giác thì chỉ có trí Kim cang mới có công năng này. Còn các thiện căn khác không thể đạt được.

Thiện nam! Như Chuyển luân vương dạo chơi trong bốn châu thiên hạ, luân báu dẫn đường trong bảy báu. Đại Bồ-tát cũng vậy, báu Bồ-đề tâm, đem lợi ích cho tất cả chuíng sinh là xe pháp dẫn đường đi trước.

Thiện nam! Như ở thế gian trong các binh khí để diệt kẻ thù, thì cung tên là hơn hết. Đại Bồ-tát cũng vậy, trong các pháp trợ đạo của Đại Bồ-tát để diệt trừ oán thù phiền não sinh tử thì tâm Bồ-đề là hơn hết.

Thiện nam! Ví như các loài hoa sinh trong nước, thì hoa Ưu-bátla là hơn hết. Các loài hoa sinh ở trên đất cao thì hoa Chiêm-bác-ca là hơn hết. Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, thể Nhất thiết trí là hoa Ưu-bát-la, tâm đại Từ bi là hoa Chiêm-bác-ca; nó là thứ nhất, nó có khả năng diệt trừ nghệp phiền não của chúng sinh.

Thiện nam! Ví như các phương tiện chuyên chở, thuyền là hơn hết, đi lại nhanh chóng, làm cho thân thể bình an, đưa người vượt qua biển cả đến bờ bên kia. Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát cũng vậy, hơn hết trong hàng Nhị thừa là đại Bồ-đề tâm, nó độ chúng sinh mau chóng được an lạc, đến bờ bên kia.

Thiện nam! Như các loại nước trong thế gian, nước mưa là hơn hết. Cũng vậy, trong các nước Tam-muội, Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát là hơn hết. Bồ-đề tâm có khả năng sinh nước cam lồ, thiền định, giải thoát.

Thiện nam! Như trong các hạt muối, muối Tiên-đà-ba là hơn hết. Nó có khả năng trị các bệnh và làm sáng mắt. Cũng vậy, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát là hơn hết. Dùng Bồ-đề tâm diệt trừ được bệnh nặng hoặc nghiệp, phát sinh trí tuệ sáng suốt.

Thiện nam! Như trong các loại sữa, sữa bò là hơn hết. Nó có khả năng trị bệnh và làm người được sống lâu. Cũng vậy, ở trong vị nước cam lồ, chánh pháp Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát là hơn hết. Bồ-đề tâm diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh làm tăng trưởng tuệ mạng Bồtát.

Thiện nam! Tâm Bồ-đề như vậy đó, Bồ-đề tâm thành tựu vô lượng, vô biên cho đến không thể nói, không thể nói công đức thù thắng đầy đủ tròn đầy. Chúng sinh nào phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì được pháp viên mãn thù thắng đầy đủ công đức như vậy. Thiện nam! Ông đã được thiện lợi, được thiện danh xưng. Ông đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đã cầu hạnh Bồ-tát; như vậy là ông đã đạt được công đức lớn khó ai làm được, gom lại được.

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Như ông đã hỏi, thế nào là học hạnh Bồ-tát, thế nào là tu đạo Bồ-tát. Ông nên vào đại lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng này mà xem xét khắp nơi, thì biết rõ tất cả Bồ-tát học hạnh Bồ-tát, học rồi có thể thực hành sẽ thành tựu vô lượng công đức.

Đồng tử Thiện Tài cung kính đi về phía bên phải Bồ-tát Di-lặc rồi thưa:

–Cúi xin Đại Thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc đi đến lầu gác gõ cửa. Cửa mở ra, ngài bảo Thiện Tài vào. Thiện Tài vui mừng đi vào trong. Cửa liền đóng lại.

Thiện Tài thấy lầu gác cao rộng mênh mông giống như hư không. Đất được tạo thành bởi vô số những báu; có vô số những cung điện, cửa lớn, cửa sổ, thềm bậc, lan can, đường sá đều làm bằng bảy báu. Có vô số những cờ, phướn, lọng báu la liệt khắp nơi. Vô số chuỗi ngọc trân châu trắng, vô số chuỗi ngọc trân châu xanh, vô số chuỗi ngọc sư tử châu, rũ xuống khắp nơi. Vô số vòng cung, vô số vòng tròn, dải lụa dùng để trang sức. Vô số những lưới báu Ma-ni, lưới báu Sư tử tràng, lưới diệu bảo kim, lưới báu kim tuyến xen nhau, trùm cả không gian trông rất trang nghiêm. Vô số chuông báu, vô số linh báu khi có gió thổi, thì nó vang lên âm thanh rất đáng ưa. Có vô số hoa trời được rải, vô số dải cờ báu của trời được treo, trang nghiêm vô số lư hương báu, rưới vô số bột diệu kim, treo vô số gương báu, thắp vô số đèn báu, trải vô số y báu, giăng vô số màn báu, vang dội vô số âm nhạc

báu, dựng vô số tòa báu với vô số lụa báu trải trên đó, vô số tượng đồng nữ bằng vàng Diêm-phù-đàn, vô số hình tượng báu bằng đủ các loại báu, vô số tượng Bồ-tát bằng diệu báu, đầy đủ oai đức, trang nghiêm khắp nơi; vô số tiếng chim hót hòa nhã, khiến người rất ưa nghe; vô số hoa sen xanh báu, vô số hoa sen vàng báu, vô số hoa sen đỏ báu, vô số hoa sen trắng báu dùng để trang nghiêm. Vô số cây báu, thứ tự xếp từng hàng. Vô số cây chuối báu trang nghiêm vi diệu. Vô số đường kinh hành báu. Vô số dây báu giăng bên đường. Vô số ao báu, nước đầy hương thơm. Vô số cầu báu được xây, trông như những đám mây, như những hình con chim. Vô số nền báu có từng thềm bậc rất tinh vi, ánh sáng báu chiếu rọi vào nhau. Vô số Ma-ni phóng ra ánh sáng; vô số âm thanh vi diệu phát lời khen ngợi đại công đức; có đầy đủ vô số vật trang nghiêm như vậy, làm lầu gác càng trang nghiêm.

Thiện Tài lại thấy ở trong đó có vô lượng trăm ngàn lầu gác, mỗi lầu gác đều trang sức giống như ở trên. Mỗi mỗi lầu gác đều rộng rãi, oai nghiêm tráng lệ như hư không, hiển hiện rõ ràng giống như hình ảnh, ánh sáng thấu suốt nhau không bị ngăn ngại, không có sự rối loạn hay hỗn tạp.

Đồng tử Thiện Tài đứng một chỗ mà thấy các chỗ khác, ở trong các chỗ đều cũng thấy như vậy; cứ như thế thấy khắp không có giới hạn. Ở trong mỗi mỗi vật cũng lại thấy như vậy.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thấy trong lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng có chẳng thể nghĩ bàn đủ các cảnh giới trang nghiêm như vậy, nên sinh tâm ái kính, vui mừng vô lượng, thâm tâm mát diệu, thấm nhuần hoan hỷ, xa lìa các tưởng, trừ các chướng, diệt các hoặc, chỗ đã thấy thì không quên, chỗ đã nghe thì ghi nhớ, suy nghĩ không tạp loạn, nhập vào pháp môn giải thoát vô ngại; dùng vô ngại ý vận chuyển tâm đi cùng khắp, cúng dường tất cả; dùng vô ngại nhãn thấy khắp các cảnh giới nhỏ như hạt bụi; dùng vô ngại thân đảnh lễ cúng dường khắp tất cả.

Nhờ oai thần lực của Di-lặc Bồ-tát, Thiện Tài tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả lầu gác, thấy đầy đủ các cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Đó là:

–Hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tên gọi như vậy, dòng họ như vậy, thiện hữu khai ngộ như vậy, gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật như vậy, cõi nước trang nghiêm như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy, đối với các Đức Như Lai kia, chúng hội như vậy, thọ mạng như vậy, trải qua thời gian như vậy, gần gũi cúng dường, tất cả đều được thấy rõ.

Hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc ban đầu chứng đắc Tam-muội từ tâm, từ đó đến nay hiệu là Từ Thị. Hoặc thấy Di-lặc tu tập tất cả diệu hạnh khó hành, thành tựu viên mãn các Ba-la-mật, hoặc thấy chứng đắc nhẫn, hoặc thấy trụ địa, hoặc thấy trang nghiêm đủ các cõi nước Phật, hoặc thấy thọ trì tất cả giáo pháp của Phật, làm đại Pháp sư, chứng đắc Vô sinh nhẫn. Hoặc thấy Đức Như Lai ở thời gian ấy, tại trú xứ ấy, thì thọ ký Vô thượng Bồ-đề.

Hoặc thấy Bồ-tát làm Chuyển luân vương khiến chúng sinh an trụ ở Thập thiện đạo; hoặc làm vị bảo hộ thế gian, đem lợi lạc cho chúng sinh; hoặc làm Đế Thích quở trách năm dục; hoặc làm Thiên vương Dạ-ma vì chư Thiên ấy mà tán thán hạnh không buông thả; hoặc làm Đâu-suất Thiên vương, khen ngợi công đức của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, hoặc làm Hóa lạc Thiên vương, hiện các sự biến hóa trang nghiêm của Bồ-tát, hoặc làm Tha hóa tự tại Thiên vương, thuyết pháp tự tại của Đức Phật; hoặc làm ma vương thì giảng nói các pháp đều vô thường; hoặc làm Phạm vương, giảng nói các pháp Thiền định đem lại vô lượng an lạc; hoặc làm A-tu-la vương, hiểu rõ các pháp như huyễn, nhập vào biển đại trí, thuyết pháp, làm cho chúng hội đó trừ sạch kiêu mạn, cuồng túy, cao ngạo; hoặc thấy ở xứ biển Diêm-ma-la, Bồ-tát Di-lặc phóng ra ánh sáng lớn cứu khổ địa ngục; hoặc bố thí đồ ăn thức uống cho ngạ quỷ; hoặc dùng các phương tiện để điều phục súc sinh; hoặc thuyết pháp cho chúng hội Hộ thế Thiên vương; hoặc thuyết pháp cho chúng hội: Đao-lợi Thiên vương, Thiên vương Dạ-ma, Đâusuất Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, các chúng ma vương, Đại Phạm thiên vương, Long vương, Dạ-xoa vương, La-sát vương, Càn-thát-bà vương, Khẩn-na-la vương, A-tu-la vương, Đà-na-bà vương, Ca-lâu-la vương, Ma-hầu-la-già vương và các chúng hội nhân, phi nhân; hoặc thuyết pháp cho chúng hội Thanh văn, Độc giác, Bồtát sơ phát tâm, Bồ-tát tu thập hồi hướng; hoặc thuyết pháp cho Bồ-tát chứng đắc nhẫn, không thoái chuyển; hoặc thuyết pháp cho Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ nhận thọ quán đỉnh.

Hoặc nghe khen ngợi tất cả công đức tối thắng của Bồ-tát, từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười; hoặc nghe khen ngợi đầy đủ các Ba-la-mật; hoặc nghe khen ngợi nhập các pháp môn nhẫn; hoặc nghe khen ngợi các đại pháp môn Tam-muội, các môn giải thoát thâm diệu; hoặc nghe khen ngợi các cảnh giới Thiền định thần thông, hoặc nghe khen ngợi phương tiện khéo léo của hạnh Bồ-tát, hoặc nghe khen ngợi các sự pháp sinh đại thệ nguyện; hoặc thấy cùng với đồng hạnh Bồtát, khen ngợi những tử sinh khéo léo của thế gian, hoặc dùng các phương tiện tối thắng, khéo léo, bàn bạc đủ cách để điều phục thành thục tất cả chúng sinh, hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc cùng với tất cả Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ khen ngợi các pháp môn Phật quán đỉnh; hoặc thấy trong trăm ngàn năm, Di-lặc tu hành tinh tấn, thân tâm không mệt mỏi; hoặc thấy Di-lặc kinh hành, đọc tụng, ghi chép kinh điển, chưa từng ngưng nghỉ; hoặc thấy Di-lặc, dùng mọi phương tiện, thuyết pháp cho chúng sinh; hoặc thấy Di-lặc, nhập vào các thiền định, bốn vô lượng tâm, hoặc nhập vào khắp các xứ và các giải thoát, hoặc nhập thiền định, dùng sức phương tiện, hiện các thần thông biến hóa; hoặc thấy các chúng Bồ-tát, đều nhập vào đủ các Tam-muội biến hóa. Ở mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân lại xuất hiện tất cả mây thân biến hóa; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội cõi trời; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội loài rồng; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội: Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế, Chuyển luân thánh vương, Tiểu vương, Vương tử đại thần, quan lại, trưởng giả, cư sĩ; hoặc thấy xuất hiện mây thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Như Lai với đầy đủ oai đức; hoặc thấy xuất hiện mây thân các chúng sinh biến hóa; hoặc thấy xuất hiện âm thanh vi diệu khen ngợi các pháp môn của Bồ-tát như là: Khen ngợi pháp môn công đức phát Bồ-đề tâm, khen ngợi môn công đức: Bố thí ba-la-mật, Tịnh giới ba-la-mật, An nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Định tuệ, Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí, các Nhiếp pháp, Thiền định, Vô lượng tâm, Tam-muội đẳng trì. Hoặc khen ngợi môn công đức của các Thông, các Minh, Tổng trì, Biện tài, các Đế, các Trí, Chỉ, Quán, Giải thoát, các Duyên, các Y, Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, bảy Bồ-đề phần, tám Thánh đạo phần, các Thanh văn thừa, các Độc giác thừa, các Bồ-tát thừa, các địa, các nhẫn, các hạnh, các nguyện. Đầy đủ tất cả các pháp môn công đức như vậy đều được thấy.

Lại thấy những đại chúng tập họp vây quanh chư Như Lai. Lại thấy chỗ sinh, dòng họ, thân hình, thọ mạng, cõi nước, kiếp số, danh hiệu, đạo tràng của chư Như Lai ấy thuyết pháp, giáo hóa muôn loài ở đời lâu hay mau, tất cả đều được thấy rõ.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài ở trong lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng, lại thấy một lầu gác đặc biệt cao rộng, nhiếp phục tất cả lầu gác trang nghiêm thù thắng vi diệu tối thượng không gì bằng. Ở trong đó, thấy tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức tứ thiện hạ, trăm ức cõi Diêm-phù-đề, trăm ức trời Đâu-suất, mỗi mỗi đều có Bồ-tát Dilặc ở trong Liên hoa tạng, giáng thần đản sinh được Đế Thích, Phạm vương, Thiên vương cung kính bảo vệ. Bồ-tát bước đi bảy bước, xem khắp mười phương, gầm lên tiếng gầm sư tử, hiện làm đồng tử, ở cung điện, dạo chơi trong vườn; vì cầu Nhất thiết trí, ngài vượt thành xuất gia, thực hành khổ hạnh, thọ nhận bát sữa, đi đến đạo tràng, chiến thắng quân ma, thành Đẳng chánh giác ở cội Bồ-đề. Phạm vương thỉnh chuyển pháp luân, cho đến vượt lên cung trời để thuyết pháp, kiếp số thọ mạng, chúng hội trang nghiêm, làm sạch cõi Phật, tu các hạnh nguyện, đầy đủ oai đức, dùng mọi phương tiện giáo hóa thành thục các chúng sinh, phân chia xá-lợi, giữ gìn chánh pháp được lưu lại, những việc như vậy, đều được thấy rõ.

Bấy giờ, Thiện Tài tự thấy thân mình, ở tại chỗ các Đức Như Lai ấy, để thừa sự cúng dường, cũng thấy các việc Phật sự ở trong đạo tràng chúng hội ấy, nhớ rõ không quên, nhờ sức gia trì, thông đạt vô ngại, tinh tấn cần cầu an trụ trí địa.

Lại nghe trong tất cả lầu gác có tiếng linh khánh, tiếng chuông, lắc tiếng võng lưới và các nhạc khí đều diễn xướng các pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn; thuyết đủ các loại pháp: Hoặc nói Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, hoặc nói việc tu hành hạnh Ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, hoặc nói các địa, hoặc nói các thần thông, tâm hành tự tại, hoặc nói việc cung kính cúng dường chư Như Lai, hoặc nói về sự trang nghiêm cõi Phật, hoặc nói chư Phật thuyết vô lượng pháp khác nhau. Tất cả pháp Phật đó đều vang lên âm thanh lan rộng khắp nơi.

Lại nghe, ở trong thế giới kia, cõi nước kia, có vị Bồ-tát như vậy, nghe pháp môn như vậy, gặp Thiện tri thức dẫn đường khuyên bảo phát Bồ-đề tâm, tu tập diệu hạnh. Lại nghe, ở trong kiếp số ấy, cõi nước ấy, chúng hội Như Lai ấy, Đức Như Lai có công đức như vậy, phát tâm như vậy, phát nguyện như vậy, gieo trồng vô lượng căn lành, trải qua bao nhiêu số kiếp, tu hạnh Bồ-tát, qua bao nhiêu thời gian sẽ thành Chánh giác, danh hiệu như vậy, tuổi thọ như vậy, cõi nước như vậy, đầy đủ các công đức và hạnh nguyện như vậy, dùng các phương tiện tối thắng điều phục giáo hóa chúng sinh, Thanh văn, chúng hội Bồ-tát như vậy. Sau khi Phật Niết-bàn, chánh pháp vẫn còn trụ thế và làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, qua nhiều năm kiếp nữa.

Lại nghe ở trong thế giới kia, có cõi nước kia, có Bồ-tát như vậy, siêng tu hành hạnh Bố thí ba-la-mật, xả bỏ những gì khó xả bỏ, tu tập các Ba-la-mật: Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; hoặc nghe ở thế giới kia, cõi nước kia, có Bồ-tát như vậy; vì cầu pháp nên xả bỏ ngôi vua, trân bảo, vợ con, quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, tất cả thân thể đều xả bỏ không hề luyến tiếc. Hoặc nghe ở thế giới kia, cõi nước kia, có vị Bồ-tát như vậy giữ gìn chánh pháp của Như Lai đã thuyết làm vị đại Pháp sư, thực hành Bố thí pháp, dựng cờ pháp cao lớn, kêu gọi bằng loa pháp lớn, đánh trống pháp cổ lớn, làm mưa pháp lớn, xây tháp thờ Phật, làm hình tượng Phật, các thứ rất trang nghiêm thù thắng, đem bố thí làm an vui cho tất cả chúng sinh; hoặc nghe trong thế giới kia, cõi nước kia, ở trong số kiếp như vậy, có Đức Như Lai thành Đẳng Chánh Giác như vậy, cõi nước như vậy, chúng hội như vậy, thọ lượng như vậy, thuyết pháp như vậy, đầy đủ nguyện như vậy, giáo hóa vô lượng chúng sinh như vậy và đều được giác ngộ Vô thượng Bồ-đề ngay trước mắt.

Đồng tử Thiện Tài nghe tất cả pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn như vậy, thân tâm hoan hỷ, đẹp tâm mát dạ, liền được vô lượng môn Tổng trì, vô lượng môn biện tài, các thiền, các nhẫn, các hạnh, các đại nguyện, các Ba-la-mật, các thông, các minh, các giải thoát, các Tam-muội.

Lại thấy trong tất cả các gương báu, xuất hiện vô lượng những hình tượng đó là: Đạo tràng chúng hội chư Phật, đạo tràng chúng hội Bồ-tát, đạo tràng chúng hội Thanh văn, đạo tràng chúng hội Độc giác; hoặc thấy các thế giới: Thanh tịnh, bất tịnh, tịnh và bất tịnh; bất tịnh và tịnh; hoặc thấy thế giới có Phật, hoặc thấy thế giới không có Phật, hoặc thấy thế giới nhỏ, thế giới vừa, hoặc thấy thế giới vi tế, hoặc thấy thế giới rộng lớn, hoặc thấy thế giới Nhân-đà-la võng, hoặc thấy thế giới úp, hoặc thấy thế giới ngửa, hoặc thấy thế giới nghiêng, hoặc thấy thế giới bằng phẳng, hoặc thấy thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc thấy thế giới trời người, đông đúc.

Ở trong các thế giới như vậy, thấy vô số chúng Đại Bồ-tát làm nhiều việc lợi ích, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc tu thiền, hoặc nuôi dưỡng trí tuệ, hoặc khởi tâm đại Bi thương xót chúng sinh, hoặc lập ra các Bộ Luận làm lợi ích thế gian, hoặc dạy đệ tử, hoặc thọ trì, hoặc biên chép, hoặc đọc tụng, hoặc hỏi, hoặc đáp, sám hối ba thời phát nguyện hồi hướng.

Lại thấy trong các cột báu, phát ra ánh sáng rực rỡ như lưới Mani vương, hoặc màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc màu pha lê, hoặc màu thủy tinh, màu xanh đậm, màu sắc cầu vồng, màu sắc vàng Diêm-phùđàn, hoặc gồm tất cả màu sắc rực rỡ.

Lại thấy các tượng đồng nữ báu bằng vàng Diêm-phù-đàn và nhiều tượng báu khác tay cầm mây hoa, mây y phục hoặc cầm cờ phướn, lọng báu, hoặc cầm đủ các loại hương xoa, hương bột, hoặc cầm võng báu Ma-ni thượng diệu, hoặc thòng xích vàng, hoặc mang anh lạc, hoặc giơ cánh tay bưng vật dụng trang nghiêm, hoặc cúi đầu bỏ mão Ma-ni, nghiêng mình chiêm ngưỡng, cung kính chắp tay, mắt không rời.

Lại thấy bảo châu anh lạc, thường sinh nước thơm, đủ tám công đức, chảy mãi không ngừng. Trăm ngàn ánh sáng của chuỗi lưu ly cùng lúc chiếu sáng. Cờ phướn, lọng báu và tất cấcc vật đều trang nghiêm bằng báu Ma-ni vương tạng, làm cho ai cũng ưa nhìn.

Lại thấy đủ các loại ao hoa sen: Xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi hoa sinh ra vô lượng hoa, hoặc bằng cánh tay, hoặc dài bằng khủy tay. Hoa nở ra như bánh xe. Trong mỗi hoa đều hiện ra vô lượng đủ các loại sắc hình để trang sức, hoặc là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng nam, tượng đồng nữ, tượng Đế Thích, Phạm vương hộ thế, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thanh văn, Độc giác và chư Bồ-tát; tất cả các tượng đềucó màu sắc đẹp, đều chắp tay, nghiêng mình kính lễ.

Cũng thấy Đức Như Lai ngồi kiết già thân đầy đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm.

Lại thấy cõi nước Tịnh lưu ly, trong mỗi bước hiện khả tư nghì các sắc tượng như: Sắc tượng thế giới, sắc tượng Bồ-tát, sắc tượng Như Lai và các sắc tượng lầu gác trang nghiêm.

Lại nữa, ở trong mỗi nhánh, lá, hoa, trái của cây báu, đều thấy nhiều sắc tượng bán thân, như là sắc tượng bán thân của Phật, sắc tượng bán thân của Bồ-tát, sắc tượng bán thân của Thiên long, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế, Chuyển luân thánh vương, Tiểu vương, vương tử, đại thần, quan lại, trưởng giả, cư sĩ, đồng nam, đồng nữ, Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Tất cả sắc tượng này, hoặc cầm tràng hoa hoặc cầm anh lạc, hoặc cầm các vật trang nghiêm, hoặc nghiêng người, chắp tay kính lễ, một tâm chiêm ngưỡng mắt không rời; hoặc vào Thiền định dùng thân tướng tốt trang nghiêm phóng ra ánh sáng rực rỡ, nhiều màu sắc như là: Ánh sáng sắc vàng, ánh sáng sắc bạc, ánh sáng san hô, ánh sáng sắc vàng đâu-sa-la, ánh sáng sắc xanh đậm, ánh sáng sắc bảo Ma-ni vương Tỳ-lo-giá-na, ánh sáng sắc hoa Chiêmbặc-ca; tất cả ánh sáng sắc báu ấy đều từ ba mươi hai tướng tốt ở thân phát ra.

Lại thấy ở trong các gác lầu đó, có nhiều hình bán nguyệt, phát ra đủ các loại ánh sáng, hơn cả a-tăng-kỳ mặt trời, mặt trăng tinh tú, chiếu sáng khắp mười phương.

Lại thấy nhiều lầu gác rất đẹp, với vô số cung điện, có các báu làm tường vách, bao bọc xung quanh vô số sắc báu. Ở trong mỗi mỗi bước đều dùng châu báu để trang nghiêm. Ở trong mỗi mỗi châu báu, đều hiển hiện Bồ-tát Di-lặc, ở kiếp xưa hành Bồ-tát đạo như là: Bố thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, mũi, máu, thịt, da, xương, tủy, cho đến móng, tóc tất cả đều đem bố thí xả bỏ, hoặc là bố thí vợ con, nô tỳ, nô bộc, kẻ hầu, thể nữ… tất cả quyến thuộc, thành ấp, xóm làng, vườn rừng, cung điện, hoặc ở cõi Diêm-phù-đề; hoặc ở bốn châu thiên hạ đều đầy đủ giàu vui, tự tại, tôn quý, ở ngôi vua; hoặc các vật dụng riêng tư tùy thời ăn uống, giường cao, nệm tốt, voi ngựa, xe cộ, nếu người cần đến đều bố thí tất cả. Người ở lao ngục bị nhiều ách khổ, thì cố giúp cho được thoát khỏi. Kẻ bị trói buộc, đem đi hành hình, đều được giải thoát. Người có bệnh tật được cứu chữa bằng các thuốc hay làm cho lành mạnh. Người tà kiến thì chỉ cho con đường chánh đạo hoặc làm người lái thuyền, đưa người qua biển lớn để đến bờ bên kia; hoặc làm Mã vương cứu độ chúng sinh xa lìa ác nạn Lasát; hoặc làm đại trí tiên nhân, khéo nói các luận làm lợi ích cho chúng sinh. Hoặc làm Luân vương khuyên mọi người tu Thập thiện. Hoặc làm thầy thuốc, chữa lành các bệnh, hoặc hiếu thuận cha mẹ, cung kính, cúng dường hoặc gần gũi bạn lành để tùy thuận và nghe theo; hoặc làm Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật để giáo hóa, điều phục tất cả chúng sinh, hoặc thị hiện các nơi sinh tối thắng, làm cho chúng sinh sinh ở nơi đó đều được thuần thục, hoặc làm Pháp sư, phụng hành giáo pháp của Như Lai đã dạy, đầy đủ oai nghi, thọ trì, đọc tụng quán sát tường tận, tư duy đúng lý, lập tháp Phật, tạo tượng Phật, dùng trân châu trang trí cho trang nghiêm; hoặc tự mình cúng dường; hoặc khuyên người khác cúng dường hương hoa, hương bột, đèn dầu, lọng báu đều bày ra, cung kính lễ bái; các việc như vậy làm liên tục không hề dứt.

Hoặc thấy Bồ-tát ngồi tòa Sư tử, thuyết giảng chánh pháp, khuyên chúng sinh an trụ Thập thiện, nhất tâm quy y Phật, Pháp, Tăng thọ trì năm giới và tám giới, xuất gia, nghe pháp, thọ trì đọc tụng, chánh niệm, suy nghĩ theo lý mà tu hành, cho đến khi thấy Bồ-tát Dilặc, giảng thuyết pháp yếu, khai thị Bồ-đề của chư Phật. Lại thấy Dilặc, tu hành các Ba-la-mật, trải qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp với đủ các hình sắc. Lại thấy Di-lặc dùng các công đức trang nghiêm để kính thờ các bậc Thiện tri thức. Lại thấy tự thân Di-lặc ở chỗ của mỗi tri thức, đều gần gũi cúng dường, tuân theo lời dạy, cho đến khi được an trụ ở quán đỉnh. Các Thiện tri thức vui vẻ bảo với Thiện Tài:

–Thật là điều lành! Ông xem những sự việc chẳng thể nghĩ bàn của Bồ-tát Di-lặc chớ nên sinh tâm mệt mỏi.

Khi ấy, Thiện Tài nhờ năng lực chánh niệm, ghi nhớ không quên; nhờ mắt thanh tịnh, được thấy rõ mười phương; nhờ trí vô ngại được khéo quán sát. Được trí tự tại của Bồ-tát rồi nên được nhập vào trí địa rộng lớn giải của Bồ-tát, vì vậy Thiện Tài ở trong mỗi mỗi vật của lầu gác, đều được thấy rõ vô lượng chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới tự tại trang nghiêm khác. Ví như có người nằm mộng, thấy tất cả cảnh vật như thành ấp, làng xóm, cung điện, vườn tược, núi rừng, sông ngòi, y phục, ẩm thực cho đến tất cả những gì cần cho đời sống; hoặc nghe những âm thanh ca nhạc, múa hát và vô lượng trò chơi vừa ý; hoặc thấy cha mẹ, anh em, quyến thuộc nội ngoại, hoặc thấy biển lớn và núi Tu-di cho đến tất cả cung điện cõi trời Diêm-phù-đề và bốn châu thiên hạ; hoặc thấy thân rộng lớn, trăm ngàn do-tuần; phòng xá, y phục, tất cả công đức đều trang nghiêm tương xứng, trải qua vô lượng thời gian không ăn, không ngủ, thọ nhận sự an lạc đầy đủ và tự tại, đến khi thức dậy, mới biết là mộng, xa rời tất cả vọng tưởng được an lạc, không có tướng dài ngắn của thời tiết, nhớ rõ các sự việc, tùy thuận tất cả chẳng bao giờ quên.

Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy. Nhờ thần lực gia trì của Di-lặc Bồ-tát, Thiện Tài biết được các pháp trong ba cõi đều như ảo mộng, diệt được tâm tưởng hèn kém của chúng sinh, được giải thoát rộng lớn vô chướng ngại, an trụ cảnh giới thù thắng của Bồ-tát, nhập vào trí phương tiện bất tư nghì, thấy rõ các cảnh giới trang nghiêm tự tại của Đại Bồ-tát, tùy thuận sự hiểu biết, quán sát vi tế.

Như người sắp qua đời, thấy tướng thọ báo tùy theo nghiệp: Người gây nghiệp ác, sẽ thấy đọa vào cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu nhiều đau khổ. Người coi ngục tay cầm binh khí, trừng mắt, chửi mắng, bắt người tội dẫn đi và nghe tiếng khóc bi thảm của chúng sinh ở địa ngục hoặc thấy sông tro, hoặc chảo đồng sôi, hoặc thấy núi đao, cây kiếm, lửa dữ thiêu cháy liên tục, hoặc thấy tưới nước đang sôi sùng sục, chịu các khổ nạn rất là bức bách.

Người làm việc thiện thì thấy ở cung điện chư Thiên, có vô lượng thiên chúng, Thiên nữ y phục trang nghiêm, cung điện, vườn rừng, ao hoa, sông nước, núi báu, cây báu kiếp-ba, được tùy ý sử dụng, dù thân chưa chết, nhưng do nghiệp lực, thấy được như vậy.

Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy, nhờ nghiệp lực bất tư nghì của Bồ-tát nên thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm. Ví như có người bị quỷ khống chế, thì tùy theo lời hỏi mà đáp rõ ràng các việc sắc tướng của quyến thuộc. Thiện Tài cũng vậy, nhờ trí tuệ của Bồ-tát bảo hộ, mà thấy được các sự việc trang nghiêm. Nếu có người hỏi thì đáp được tất cả.

Ví như có người bị rồng khống chế, tự cho mình là rồng liền đi vào Long cung, vừa thấy quyến thuộc rồng rồi cho là mình đã trải qua nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Thiện Tài cũng vậy, trụ vào tưởng trí tuệ và nhờ oai lực gia trì tự tại của Bồ-tát Di-lặc, nên chỉ thời gian ngắn mà nghĩ mình đã trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dotha kiếp.

Như trong cung Nhất thiết chúng sinh trang nghiêm tạng của Phạm thiên, trong đó đều hiện rõ các vật và cảnh tượng khác nhau, không chút tạp loạn của tam thiên đại thiên thế giới. Thiện Tài cũng vậy, ở trong lầu gác, thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm, các sự việc sai khác nhau nhưng lại hỗ tương nhập vào nhau, mỗi vật đều có sự khác nhau nhưng không tạp loạn.

Ví như Tỳ-kheo nhập định biên xứ, đi đứng, nằm ngồi đều ở trong định, cảnh giới hiện tiền. Cũng vậy, Thiện Tài ở trong lầu gác, quán sát các cảnh giới đã thấy đều trang nghiêm và sâu xa; tùy theo đó mà thông hiểu đầy đủ.

Như có người ở trong không trung thấy đầy đủ các vật trang nghiêm của thành Càn-thát-bà, thì phân biệt được rõ ràng không bị chướng ngại. Thiện Tài cũng vậy, thấy các cảnh giới đó trang nghiêm, sâu xa, rõ ràng, không có chướng ngại.

Như cung điện Dạ-xoa và cung điện người, cùng ở một chỗ, nhưng không xen tạp nhau, cũng không chướng ngại, mỗi thứ tùy theo nghiệp mà hiển hiện, không đồng nhau.

Như trong biển lớn, sắc tượng tam thiên thế giới được hiện rõ

trong đó. Như nhà ảo thuật khéo biểu hiện các pháp thuật, huyễn hóa, dùng khả năng ảo thuật, biểu hiện thành công các pháp huyễn thành công. Thiện Tài cũng vậy, dùng oai thần lực của Bồ-tát Di-lặc và chẳng thể nghĩ bàn huyễn trí lực, nên được tự tại lực của Bồ-tát, thấy rõ các cảnh giới tự tại trang nghiêm ở trong lầu gác.

*********

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Như ông đã hỏi, thế nào là học hạnh Bồ-tát, thế nào là tu đạo Bồ-tát. Ông nên vào đại lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng này mà xem xét khắp nơi, thì biết rõ tất cả Bồ-tát học hạnh Bồ-tát, học rồi có thể thực hành sẽ thành tựu vô lượng công đức.

Đồng tử Thiện Tài cung kính đi về phía bên phải Bồ-tát Di-lặc rồi thưa:

–Cúi xin Đại Thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc đi đến lầu gác gõ cửa. Cửa mở ra, ngài bảo Thiện Tài vào. Thiện Tài vui mừng đi vào trong. Cửa liền đóng lại.

Thiện Tài thấy lầu gác cao rộng mênh mông giống như hư không. Đất được tạo thành bởi vô số những báu; có vô số những cung điện, cửa lớn, cửa sổ, thềm bậc, lan can, đường sá đều làm bằng bảy báu. Có vô số những cờ, phướn, lọng báu la liệt khắp nơi. Vô số chuỗi ngọc trân châu trắng, vô số chuỗi ngọc trân châu xanh, vô số chuỗi ngọc sư tử châu, rũ xuống khắp nơi. Vô số vòng cung, vô số vòng tròn, dải lụa dùng để trang sức. Vô số những lưới báu Ma-ni, lưới báu Sư tử tràng, lưới diệu bảo kim, lưới báu kim tuyến xen nhau, trùm cả không gian trông rất trang nghiêm. Vô số chuông báu, vô số linh báu khi có gió thổi, thì nó vang lên âm thanh rất đáng ưa. Có vô số hoa trời được rải, vô số dải cờ báu của trời được treo, trang nghiêm vô số lư hương báu, rưới vô số bột diệu kim, treo vô số gương báu, thắp vô số đèn báu, trải vô số y báu, giăng vô số màn báu, vang dội vô số âm nhạc

báu, dựng vô số tòa báu với vô số lụa báu trải trên đó, vô số tượng đồng nữ bằng vàng Diêm-phù-đàn, vô số hình tượng báu bằng đủ các loại báu, vô số tượng Bồ-tát bằng diệu báu, đầy đủ oai đức, trang nghiêm khắp nơi; vô số tiếng chim hót hòa nhã, khiến người rất ưa nghe; vô số hoa sen xanh báu, vô số hoa sen vàng báu, vô số hoa sen đỏ báu, vô số hoa sen trắng báu dùng để trang nghiêm. Vô số cây báu, thứ tự xếp từng hàng. Vô số cây chuối báu trang nghiêm vi diệu. Vô số đường kinh hành báu. Vô số dây báu giăng bên đường. Vô số ao báu, nước đầy hương thơm. Vô số cầu báu được xây, trông như những đám mây, như những hình con chim. Vô số nền báu có từng thềm bậc rất tinh vi, ánh sáng báu chiếu rọi vào nhau. Vô số Ma-ni phóng ra ánh sáng; vô số âm thanh vi diệu phát lời khen ngợi đại công đức; có đầy đủ vô số vật trang nghiêm như vậy, làm lầu gác càng trang nghiêm.

Thiện Tài lại thấy ở trong đó có vô lượng trăm ngàn lầu gác, mỗi lầu gác đều trang sức giống như ở trên. Mỗi mỗi lầu gác đều rộng rãi, oai nghiêm tráng lệ như hư không, hiển hiện rõ ràng giống như hình ảnh, ánh sáng thấu suốt nhau không bị ngăn ngại, không có sự rối loạn hay hỗn tạp.

Đồng tử Thiện Tài đứng một chỗ mà thấy các chỗ khác, ở trong các chỗ đều cũng thấy như vậy; cứ như thế thấy khắp không có giới hạn. Ở trong mỗi mỗi vật cũng lại thấy như vậy.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thấy trong lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng có chẳng thể nghĩ bàn đủ các cảnh giới trang nghiêm như vậy, nên sinh tâm ái kính, vui mừng vô lượng, thâm tâm mát diệu, thấm nhuần hoan hỷ, xa lìa các tưởng, trừ các chướng, diệt các hoặc, chỗ đã thấy thì không quên, chỗ đã nghe thì ghi nhớ, suy nghĩ không tạp loạn, nhập vào pháp môn giải thoát vô ngại; dùng vô ngại ý vận chuyển tâm đi cùng khắp, cúng dường tất cả; dùng vô ngại nhãn thấy khắp các cảnh giới nhỏ như hạt bụi; dùng vô ngại thân đảnh lễ cúng dường khắp tất cả.

Nhờ oai thần lực của Di-lặc Bồ-tát, Thiện Tài tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả lầu gác, thấy đầy đủ các cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Đó là:

–Hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tên gọi như vậy, dòng họ như vậy, thiện hữu khai ngộ như vậy, gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật như vậy, cõi nước trang nghiêm như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy, đối với các Đức Như Lai kia, chúng hội như vậy, thọ mạng như vậy, trải qua thời gian như vậy, gần gũi cúng dường, tất cả đều được thấy rõ.

Hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc ban đầu chứng đắc Tam-muội từ tâm, từ đó đến nay hiệu là Từ Thị. Hoặc thấy Di-lặc tu tập tất cả diệu hạnh khó hành, thành tựu viên mãn các Ba-la-mật, hoặc thấy chứng đắc nhẫn, hoặc thấy trụ địa, hoặc thấy trang nghiêm đủ các cõi nước Phật, hoặc thấy thọ trì tất cả giáo pháp của Phật, làm đại Pháp sư, chứng đắc Vô sinh nhẫn. Hoặc thấy Đức Như Lai ở thời gian ấy, tại trú xứ ấy, thì thọ ký Vô thượng Bồ-đề.

Hoặc thấy Bồ-tát làm Chuyển luân vương khiến chúng sinh an trụ ở Thập thiện đạo; hoặc làm vị bảo hộ thế gian, đem lợi lạc cho chúng sinh; hoặc làm Đế Thích quở trách năm dục; hoặc làm Thiên vương Dạ-ma vì chư Thiên ấy mà tán thán hạnh không buông thả; hoặc làm Đâu-suất Thiên vương, khen ngợi công đức của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, hoặc làm Hóa lạc Thiên vương, hiện các sự biến hóa trang nghiêm của Bồ-tát, hoặc làm Tha hóa tự tại Thiên vương, thuyết pháp tự tại của Đức Phật; hoặc làm ma vương thì giảng nói các pháp đều vô thường; hoặc làm Phạm vương, giảng nói các pháp Thiền định đem lại vô lượng an lạc; hoặc làm A-tu-la vương, hiểu rõ các pháp như huyễn, nhập vào biển đại trí, thuyết pháp, làm cho chúng hội đó trừ sạch kiêu mạn, cuồng túy, cao ngạo; hoặc thấy ở xứ biển Diêm-ma-la, Bồ-tát Di-lặc phóng ra ánh sáng lớn cứu khổ địa ngục; hoặc bố thí đồ ăn thức uống cho ngạ quỷ; hoặc dùng các phương tiện để điều phục súc sinh; hoặc thuyết pháp cho chúng hội Hộ thế Thiên vương; hoặc thuyết pháp cho chúng hội: Đao-lợi Thiên vương, Thiên vương Dạ-ma, Đâusuất Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, các chúng ma vương, Đại Phạm thiên vương, Long vương, Dạ-xoa vương, La-sát vương, Càn-thát-bà vương, Khẩn-na-la vương, A-tu-la vương, Đà-na-bà vương, Ca-lâu-la vương, Ma-hầu-la-già vương và các chúng hội nhân, phi nhân; hoặc thuyết pháp cho chúng hội Thanh văn, Độc giác, Bồtát sơ phát tâm, Bồ-tát tu thập hồi hướng; hoặc thuyết pháp cho Bồ-tát chứng đắc nhẫn, không thoái chuyển; hoặc thuyết pháp cho Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ nhận thọ quán đỉnh.

Hoặc nghe khen ngợi tất cả công đức tối thắng của Bồ-tát, từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười; hoặc nghe khen ngợi đầy đủ các Ba-la-mật; hoặc nghe khen ngợi nhập các pháp môn nhẫn; hoặc nghe khen ngợi các đại pháp môn Tam-muội, các môn giải thoát thâm diệu; hoặc nghe khen ngợi các cảnh giới Thiền định thần thông, hoặc nghe khen ngợi phương tiện khéo léo của hạnh Bồ-tát, hoặc nghe khen ngợi các sự pháp sinh đại thệ nguyện; hoặc thấy cùng với đồng hạnh Bồtát, khen ngợi những tử sinh khéo léo của thế gian, hoặc dùng các phương tiện tối thắng, khéo léo, bàn bạc đủ cách để điều phục thành thục tất cả chúng sinh, hoặc thấy Bồ-tát Di-lặc cùng với tất cả Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ khen ngợi các pháp môn Phật quán đỉnh; hoặc thấy trong trăm ngàn năm, Di-lặc tu hành tinh tấn, thân tâm không mệt mỏi; hoặc thấy Di-lặc kinh hành, đọc tụng, ghi chép kinh điển, chưa từng ngưng nghỉ; hoặc thấy Di-lặc, dùng mọi phương tiện, thuyết pháp cho chúng sinh; hoặc thấy Di-lặc, nhập vào các thiền định, bốn vô lượng tâm, hoặc nhập vào khắp các xứ và các giải thoát, hoặc nhập thiền định, dùng sức phương tiện, hiện các thần thông biến hóa; hoặc thấy các chúng Bồ-tát, đều nhập vào đủ các Tam-muội biến hóa. Ở mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân lại xuất hiện tất cả mây thân biến hóa; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội cõi trời; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội loài rồng; hoặc thấy xuất hiện mây thân chúng hội: Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế, Chuyển luân thánh vương, Tiểu vương, Vương tử đại thần, quan lại, trưởng giả, cư sĩ; hoặc thấy xuất hiện mây thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Như Lai với đầy đủ oai đức; hoặc thấy xuất hiện mây thân các chúng sinh biến hóa; hoặc thấy xuất hiện âm thanh vi diệu khen ngợi các pháp môn của Bồ-tát như là: Khen ngợi pháp môn công đức phát Bồ-đề tâm, khen ngợi môn công đức: Bố thí ba-la-mật, Tịnh giới ba-la-mật, An nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Định tuệ, Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí, các Nhiếp pháp, Thiền định, Vô lượng tâm, Tam-muội đẳng trì. Hoặc khen ngợi môn công đức của các Thông, các Minh, Tổng trì, Biện tài, các Đế, các Trí, Chỉ, Quán, Giải thoát, các Duyên, các Y, Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, bảy Bồ-đề phần, tám Thánh đạo phần, các Thanh văn thừa, các Độc giác thừa, các Bồ-tát thừa, các địa, các nhẫn, các hạnh, các nguyện. Đầy đủ tất cả các pháp môn công đức như vậy đều được thấy.

Lại thấy những đại chúng tập họp vây quanh chư Như Lai. Lại thấy chỗ sinh, dòng họ, thân hình, thọ mạng, cõi nước, kiếp số, danh hiệu, đạo tràng của chư Như Lai ấy thuyết pháp, giáo hóa muôn loài ở đời lâu hay mau, tất cả đều được thấy rõ.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài ở trong lầu gác Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng, lại thấy một lầu gác đặc biệt cao rộng, nhiếp phục tất cả lầu gác trang nghiêm thù thắng vi diệu tối thượng không gì bằng. Ở trong đó, thấy tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức tứ thiện hạ, trăm ức cõi Diêm-phù-đề, trăm ức trời Đâu-suất, mỗi mỗi đều có Bồ-tát Dilặc ở trong Liên hoa tạng, giáng thần đản sinh được Đế Thích, Phạm vương, Thiên vương cung kính bảo vệ. Bồ-tát bước đi bảy bước, xem khắp mười phương, gầm lên tiếng gầm sư tử, hiện làm đồng tử, ở cung điện, dạo chơi trong vườn; vì cầu Nhất thiết trí, ngài vượt thành xuất gia, thực hành khổ hạnh, thọ nhận bát sữa, đi đến đạo tràng, chiến thắng quân ma, thành Đẳng chánh giác ở cội Bồ-đề. Phạm vương thỉnh chuyển pháp luân, cho đến vượt lên cung trời để thuyết pháp, kiếp số thọ mạng, chúng hội trang nghiêm, làm sạch cõi Phật, tu các hạnh nguyện, đầy đủ oai đức, dùng mọi phương tiện giáo hóa thành thục các chúng sinh, phân chia xá-lợi, giữ gìn chánh pháp được lưu lại, những việc như vậy, đều được thấy rõ.

Bấy giờ, Thiện Tài tự thấy thân mình, ở tại chỗ các Đức Như Lai ấy, để thừa sự cúng dường, cũng thấy các việc Phật sự ở trong đạo tràng chúng hội ấy, nhớ rõ không quên, nhờ sức gia trì, thông đạt vô ngại, tinh tấn cần cầu an trụ trí địa.

Lại nghe trong tất cả lầu gác có tiếng linh khánh, tiếng chuông, lắc tiếng võng lưới và các nhạc khí đều diễn xướng các pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn; thuyết đủ các loại pháp: Hoặc nói Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, hoặc nói việc tu hành hạnh Ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, hoặc nói các địa, hoặc nói các thần thông, tâm hành tự tại, hoặc nói việc cung kính cúng dường chư Như Lai, hoặc nói về sự trang nghiêm cõi Phật, hoặc nói chư Phật thuyết vô lượng pháp khác nhau. Tất cả pháp Phật đó đều vang lên âm thanh lan rộng khắp nơi.

Lại nghe, ở trong thế giới kia, cõi nước kia, có vị Bồ-tát như vậy, nghe pháp môn như vậy, gặp Thiện tri thức dẫn đường khuyên bảo phát Bồ-đề tâm, tu tập diệu hạnh. Lại nghe, ở trong kiếp số ấy, cõi nước ấy, chúng hội Như Lai ấy, Đức Như Lai có công đức như vậy, phát tâm như vậy, phát nguyện như vậy, gieo trồng vô lượng căn lành, trải qua bao nhiêu số kiếp, tu hạnh Bồ-tát, qua bao nhiêu thời gian sẽ thành Chánh giác, danh hiệu như vậy, tuổi thọ như vậy, cõi nước như vậy, đầy đủ các công đức và hạnh nguyện như vậy, dùng các phương tiện tối thắng điều phục giáo hóa chúng sinh, Thanh văn, chúng hội Bồ-tát như vậy. Sau khi Phật Niết-bàn, chánh pháp vẫn còn trụ thế và làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, qua nhiều năm kiếp nữa.

Lại nghe ở trong thế giới kia, có cõi nước kia, có Bồ-tát như vậy, siêng tu hành hạnh Bố thí ba-la-mật, xả bỏ những gì khó xả bỏ, tu tập các Ba-la-mật: Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; hoặc nghe ở thế giới kia, cõi nước kia, có Bồ-tát như vậy; vì cầu pháp nên xả bỏ ngôi vua, trân bảo, vợ con, quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, tất cả thân thể đều xả bỏ không hề luyến tiếc. Hoặc nghe ở thế giới kia, cõi nước kia, có vị Bồ-tát như vậy giữ gìn chánh pháp của Như Lai đã thuyết làm vị đại Pháp sư, thực hành Bố thí pháp, dựng cờ pháp cao lớn, kêu gọi bằng loa pháp lớn, đánh trống pháp cổ lớn, làm mưa pháp lớn, xây tháp thờ Phật, làm hình tượng Phật, các thứ rất trang nghiêm thù thắng, đem bố thí làm an vui cho tất cả chúng sinh; hoặc nghe trong thế giới kia, cõi nước kia, ở trong số kiếp như vậy, có Đức Như Lai thành Đẳng Chánh Giác như vậy, cõi nước như vậy, chúng hội như vậy, thọ lượng như vậy, thuyết pháp như vậy, đầy đủ nguyện như vậy, giáo hóa vô lượng chúng sinh như vậy và đều được giác ngộ Vô thượng Bồ-đề ngay trước mắt.

Đồng tử Thiện Tài nghe tất cả pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn như vậy, thân tâm hoan hỷ, đẹp tâm mát dạ, liền được vô lượng môn Tổng trì, vô lượng môn biện tài, các thiền, các nhẫn, các hạnh, các đại nguyện, các Ba-la-mật, các thông, các minh, các giải thoát, các Tam-muội.

Lại thấy trong tất cả các gương báu, xuất hiện vô lượng những hình tượng đó là: Đạo tràng chúng hội chư Phật, đạo tràng chúng hội Bồ-tát, đạo tràng chúng hội Thanh văn, đạo tràng chúng hội Độc giác; hoặc thấy các thế giới: Thanh tịnh, bất tịnh, tịnh và bất tịnh; bất tịnh và tịnh; hoặc thấy thế giới có Phật, hoặc thấy thế giới không có Phật, hoặc thấy thế giới nhỏ, thế giới vừa, hoặc thấy thế giới vi tế, hoặc thấy thế giới rộng lớn, hoặc thấy thế giới Nhân-đà-la võng, hoặc thấy thế giới úp, hoặc thấy thế giới ngửa, hoặc thấy thế giới nghiêng, hoặc thấy thế giới bằng phẳng, hoặc thấy thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc thấy thế giới trời người, đông đúc.

Ở trong các thế giới như vậy, thấy vô số chúng Đại Bồ-tát làm nhiều việc lợi ích, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc tu thiền, hoặc nuôi dưỡng trí tuệ, hoặc khởi tâm đại Bi thương xót chúng sinh, hoặc lập ra các Bộ Luận làm lợi ích thế gian, hoặc dạy đệ tử, hoặc thọ trì, hoặc biên chép, hoặc đọc tụng, hoặc hỏi, hoặc đáp, sám hối ba thời phát nguyện hồi hướng.

Lại thấy trong các cột báu, phát ra ánh sáng rực rỡ như lưới Mani vương, hoặc màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc màu pha lê, hoặc màu thủy tinh, màu xanh đậm, màu sắc cầu vồng, màu sắc vàng Diêm-phùđàn, hoặc gồm tất cả màu sắc rực rỡ.

Lại thấy các tượng đồng nữ báu bằng vàng Diêm-phù-đàn và nhiều tượng báu khác tay cầm mây hoa, mây y phục hoặc cầm cờ phướn, lọng báu, hoặc cầm đủ các loại hương xoa, hương bột, hoặc cầm võng báu Ma-ni thượng diệu, hoặc thòng xích vàng, hoặc mang anh lạc, hoặc giơ cánh tay bưng vật dụng trang nghiêm, hoặc cúi đầu bỏ mão Ma-ni, nghiêng mình chiêm ngưỡng, cung kính chắp tay, mắt không rời.

Lại thấy bảo châu anh lạc, thường sinh nước thơm, đủ tám công đức, chảy mãi không ngừng. Trăm ngàn ánh sáng của chuỗi lưu ly cùng lúc chiếu sáng. Cờ phướn, lọng báu và tất cấcc vật đều trang nghiêm bằng báu Ma-ni vương tạng, làm cho ai cũng ưa nhìn.

Lại thấy đủ các loại ao hoa sen: Xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi hoa sinh ra vô lượng hoa, hoặc bằng cánh tay, hoặc dài bằng khủy tay. Hoa nở ra như bánh xe. Trong mỗi hoa đều hiện ra vô lượng đủ các loại sắc hình để trang sức, hoặc là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng nam, tượng đồng nữ, tượng Đế Thích, Phạm vương hộ thế, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thanh văn, Độc giác và chư Bồ-tát; tất cả các tượng đềucó màu sắc đẹp, đều chắp tay, nghiêng mình kính lễ.

Cũng thấy Đức Như Lai ngồi kiết già thân đầy đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm.

Lại thấy cõi nước Tịnh lưu ly, trong mỗi bước hiện khả tư nghì các sắc tượng như: Sắc tượng thế giới, sắc tượng Bồ-tát, sắc tượng Như Lai và các sắc tượng lầu gác trang nghiêm.

Lại nữa, ở trong mỗi nhánh, lá, hoa, trái của cây báu, đều thấy nhiều sắc tượng bán thân, như là sắc tượng bán thân của Phật, sắc tượng bán thân của Bồ-tát, sắc tượng bán thân của Thiên long, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế, Chuyển luân thánh vương, Tiểu vương, vương tử, đại thần, quan lại, trưởng giả, cư sĩ, đồng nam, đồng nữ, Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Tất cả sắc tượng này, hoặc cầm tràng hoa hoặc cầm anh lạc, hoặc cầm các vật trang nghiêm, hoặc nghiêng người, chắp tay kính lễ, một tâm chiêm ngưỡng mắt không rời; hoặc vào Thiền định dùng thân tướng tốt trang nghiêm phóng ra ánh sáng rực rỡ, nhiều màu sắc như là: Ánh sáng sắc vàng, ánh sáng sắc bạc, ánh sáng san hô, ánh sáng sắc vàng đâu-sa-la, ánh sáng sắc xanh đậm, ánh sáng sắc bảo Ma-ni vương Tỳ-lo-giá-na, ánh sáng sắc hoa Chiêmbặc-ca; tất cả ánh sáng sắc báu ấy đều từ ba mươi hai tướng tốt ở thân phát ra.

Lại thấy ở trong các gác lầu đó, có nhiều hình bán nguyệt, phát ra đủ các loại ánh sáng, hơn cả a-tăng-kỳ mặt trời, mặt trăng tinh tú, chiếu sáng khắp mười phương.

Lại thấy nhiều lầu gác rất đẹp, với vô số cung điện, có các báu làm tường vách, bao bọc xung quanh vô số sắc báu. Ở trong mỗi mỗi bước đều dùng châu báu để trang nghiêm. Ở trong mỗi mỗi châu báu, đều hiển hiện Bồ-tát Di-lặc, ở kiếp xưa hành Bồ-tát đạo như là: Bố thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, mũi, máu, thịt, da, xương, tủy, cho đến móng, tóc tất cả đều đem bố thí xả bỏ, hoặc là bố thí vợ con, nô tỳ, nô bộc, kẻ hầu, thể nữ… tất cả quyến thuộc, thành ấp, xóm làng, vườn rừng, cung điện, hoặc ở cõi Diêm-phù-đề; hoặc ở bốn châu thiên hạ đều đầy đủ giàu vui, tự tại, tôn quý, ở ngôi vua; hoặc các vật dụng riêng tư tùy thời ăn uống, giường cao, nệm tốt, voi ngựa, xe cộ, nếu người cần đến đều bố thí tất cả. Người ở lao ngục bị nhiều ách khổ, thì cố giúp cho được thoát khỏi. Kẻ bị trói buộc, đem đi hành hình, đều được giải thoát. Người có bệnh tật được cứu chữa bằng các thuốc hay làm cho lành mạnh. Người tà kiến thì chỉ cho con đường chánh đạo hoặc làm người lái thuyền, đưa người qua biển lớn để đến bờ bên kia; hoặc làm Mã vương cứu độ chúng sinh xa lìa ác nạn Lasát; hoặc làm đại trí tiên nhân, khéo nói các luận làm lợi ích cho chúng sinh. Hoặc làm Luân vương khuyên mọi người tu Thập thiện. Hoặc làm thầy thuốc, chữa lành các bệnh, hoặc hiếu thuận cha mẹ, cung kính, cúng dường hoặc gần gũi bạn lành để tùy thuận và nghe theo; hoặc làm Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật để giáo hóa, điều phục tất cả chúng sinh, hoặc thị hiện các nơi sinh tối thắng, làm cho chúng sinh sinh ở nơi đó đều được thuần thục, hoặc làm Pháp sư, phụng hành giáo pháp của Như Lai đã dạy, đầy đủ oai nghi, thọ trì, đọc tụng quán sát tường tận, tư duy đúng lý, lập tháp Phật, tạo tượng Phật, dùng trân châu trang trí cho trang nghiêm; hoặc tự mình cúng dường; hoặc khuyên người khác cúng dường hương hoa, hương bột, đèn dầu, lọng báu đều bày ra, cung kính lễ bái; các việc như vậy làm liên tục không hề dứt.

Hoặc thấy Bồ-tát ngồi tòa Sư tử, thuyết giảng chánh pháp, khuyên chúng sinh an trụ Thập thiện, nhất tâm quy y Phật, Pháp, Tăng thọ trì năm giới và tám giới, xuất gia, nghe pháp, thọ trì đọc tụng, chánh niệm, suy nghĩ theo lý mà tu hành, cho đến khi thấy Bồ-tát Dilặc, giảng thuyết pháp yếu, khai thị Bồ-đề của chư Phật. Lại thấy Dilặc, tu hành các Ba-la-mật, trải qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp với đủ các hình sắc. Lại thấy Di-lặc dùng các công đức trang nghiêm để kính thờ các bậc Thiện tri thức. Lại thấy tự thân Di-lặc ở chỗ của mỗi tri thức, đều gần gũi cúng dường, tuân theo lời dạy, cho đến khi được an trụ ở quán đỉnh. Các Thiện tri thức vui vẻ bảo với Thiện Tài:

–Thật là điều lành! Ông xem những sự việc chẳng thể nghĩ bàn của Bồ-tát Di-lặc chớ nên sinh tâm mệt mỏi.

Khi ấy, Thiện Tài nhờ năng lực chánh niệm, ghi nhớ không quên; nhờ mắt thanh tịnh, được thấy rõ mười phương; nhờ trí vô ngại được khéo quán sát. Được trí tự tại của Bồ-tát rồi nên được nhập vào trí địa rộng lớn giải của Bồ-tát, vì vậy Thiện Tài ở trong mỗi mỗi vật của lầu gác, đều được thấy rõ vô lượng chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới tự tại trang nghiêm khác. Ví như có người nằm mộng, thấy tất cả cảnh vật như thành ấp, làng xóm, cung điện, vườn tược, núi rừng, sông ngòi, y phục, ẩm thực cho đến tất cả những gì cần cho đời sống; hoặc nghe những âm thanh ca nhạc, múa hát và vô lượng trò chơi vừa ý; hoặc thấy cha mẹ, anh em, quyến thuộc nội ngoại, hoặc thấy biển lớn và núi Tu-di cho đến tất cả cung điện cõi trời Diêm-phù-đề và bốn châu thiên hạ; hoặc thấy thân rộng lớn, trăm ngàn do-tuần; phòng xá, y phục, tất cả công đức đều trang nghiêm tương xứng, trải qua vô lượng thời gian không ăn, không ngủ, thọ nhận sự an lạc đầy đủ và tự tại, đến khi thức dậy, mới biết là mộng, xa rời tất cả vọng tưởng được an lạc, không có tướng dài ngắn của thời tiết, nhớ rõ các sự việc, tùy thuận tất cả chẳng bao giờ quên.

Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy. Nhờ thần lực gia trì của Di-lặc Bồ-tát, Thiện Tài biết được các pháp trong ba cõi đều như ảo mộng, diệt được tâm tưởng hèn kém của chúng sinh, được giải thoát rộng lớn vô chướng ngại, an trụ cảnh giới thù thắng của Bồ-tát, nhập vào trí phương tiện bất tư nghì, thấy rõ các cảnh giới trang nghiêm tự tại của Đại Bồ-tát, tùy thuận sự hiểu biết, quán sát vi tế.

Như người sắp qua đời, thấy tướng thọ báo tùy theo nghiệp: Người gây nghiệp ác, sẽ thấy đọa vào cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu nhiều đau khổ. Người coi ngục tay cầm binh khí, trừng mắt, chửi mắng, bắt người tội dẫn đi và nghe tiếng khóc bi thảm của chúng sinh ở địa ngục hoặc thấy sông tro, hoặc chảo đồng sôi, hoặc thấy núi đao, cây kiếm, lửa dữ thiêu cháy liên tục, hoặc thấy tưới nước đang sôi sùng sục, chịu các khổ nạn rất là bức bách.

Người làm việc thiện thì thấy ở cung điện chư Thiên, có vô lượng thiên chúng, Thiên nữ y phục trang nghiêm, cung điện, vườn rừng, ao hoa, sông nước, núi báu, cây báu kiếp-ba, được tùy ý sử dụng, dù thân chưa chết, nhưng do nghiệp lực, thấy được như vậy.

Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy, nhờ nghiệp lực bất tư nghì của Bồ-tát nên thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm. Ví như có người bị quỷ khống chế, thì tùy theo lời hỏi mà đáp rõ ràng các việc sắc tướng của quyến thuộc. Thiện Tài cũng vậy, nhờ trí tuệ của Bồ-tát bảo hộ, mà thấy được các sự việc trang nghiêm. Nếu có người hỏi thì đáp được tất cả.

Ví như có người bị rồng khống chế, tự cho mình là rồng liền đi vào Long cung, vừa thấy quyến thuộc rồng rồi cho là mình đã trải qua nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Thiện Tài cũng vậy, trụ vào tưởng trí tuệ và nhờ oai lực gia trì tự tại của Bồ-tát Di-lặc, nên chỉ thời gian ngắn mà nghĩ mình đã trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dotha kiếp.

Như trong cung Nhất thiết chúng sinh trang nghiêm tạng của Phạm thiên, trong đó đều hiện rõ các vật và cảnh tượng khác nhau, không chút tạp loạn của tam thiên đại thiên thế giới. Thiện Tài cũng vậy, ở trong lầu gác, thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm, các sự việc sai khác nhau nhưng lại hỗ tương nhập vào nhau, mỗi vật đều có sự khác nhau nhưng không tạp loạn.

Ví như Tỳ-kheo nhập định biên xứ, đi đứng, nằm ngồi đều ở trong định, cảnh giới hiện tiền. Cũng vậy, Thiện Tài ở trong lầu gác, quán sát các cảnh giới đã thấy đều trang nghiêm và sâu xa; tùy theo đó mà thông hiểu đầy đủ.

Như có người ở trong không trung thấy đầy đủ các vật trang nghiêm của thành Càn-thát-bà, thì phân biệt được rõ ràng không bị chướng ngại. Thiện Tài cũng vậy, thấy các cảnh giới đó trang nghiêm, sâu xa, rõ ràng, không có chướng ngại.

Như cung điện Dạ-xoa và cung điện người, cùng ở một chỗ, nhưng không xen tạp nhau, cũng không chướng ngại, mỗi thứ tùy theo nghiệp mà hiển hiện, không đồng nhau.

Như trong biển lớn, sắc tượng tam thiên thế giới được hiện rõ trong đó. Như nhà ảo thuật khéo biểu hiện các pháp thuật, huyễn hóa, dùng khả năng ảo thuật, biểu hiện thành công các pháp huyễn thành công. Thiện Tài cũng vậy, dùng oai thần lực của Bồ-tát Di-lặc và chẳng thể nghĩ bàn huyễn trí lực, nên được tự tại lực của Bồ-tát, thấy rõ các cảnh giới tự tại trang nghiêm ở trong lầu gác.

*********

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc thâu nhiếp thần lực vào trong lầu gác, ra dấu, lên tiếng bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Nên phát khởi pháp tánh như vậy. Đây là trí để biết các pháp của Bồ-tát. Tướng do nhân duyên tụ tập hiển hiện là tự tánh chứ chẳng phải như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng, mà không thành tựu.

Bấy giờ, Thiện Tài nghe tiếng ra dấu liền ra khỏi định.

Di-lặc nói:

–Ông thấy sức oai thần tự tại giải thoát của Bồ-tát không?

Ông có thấy năng lực trợ đạo tương tự của Bồ-tát không?

Ông có thấy lực tụ tập hiện ra bởi trí nguyện của Bồ-tát không?

Ông có thấy vô lượng cung điện trang nghiêm vi diệu của Bồ-tát không?

Ông có thấy đủ các hạnh lực nhóm họp của Bồ-tát không?

Ông có thấy các công đức trang nghiêm cõi nước của Bồ-tát không?

Ông có thấy các oai lực của Bồ-tát ở Thập địa không?

Ông có thấy quả các Ba-la-mật khó nghĩ bàn của Bồ-tát không? Ông có thấy các sức Tam-muội khó nghĩ bàn của Bồ-tát không?

Ông có thấy các đại nguyện lực tối thắng của Như Lai không?

Ông có nghe các môn giải thoát của Bồ-tát nói ra không?

Ông có tùy thuận giảng giải các giải thoát bất tư nghì của Bồ-tát không?

Ông có tùy thuận lãnh thọ các hỷ lạc Tam-muội của Bồ-tát không?

Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Tuy con đã thấy nhưng đó chỉ nhờ oai đức lực, ức niệm lực, gia trì lực của Thiện tri thức. Thưa Thánh giả! Tên gọi môn giải thoát này là gì?

Di-lặc đáp:

–Môn giải thoát này gọi là Nhập tam thế nhất thiết cảnh giới bất vọng niệm trí trang nghiêm tạng.

Thiện nam! Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ chứng đắc không thể nói, không thể nói pháp môn giải thoát như vậy.

Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Sự trang nghiêm này đi về đâu?

–Đi về chỗ đến.

–Từ chỗ nào đến?

–Đến từ trong sức oai thần lực trí tuệ của Bồ-tát. Nương vào sức oai thần trí tuệ này mà an trụ, không có chỗ đi đến, không tích tập, không tăng trưởng, không thành tựu, không kiến lập, không nương vào các địa, không nương vào hư không, xa lìa tất cả.

Như Long vương làm mưa, không từ thân mà ra, không từ tâm mà ra, không tích tập, không kiến lập, không tăng trưởng, chỉ dùng sức tâm niệm của Long vương mà tuôn mưa khắp thiên hạ, đó là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Long vương. Các sự trang nghiêm cũng vậy, không ở trong, không ở ngoài, chỉ do oai đức tự tại của Bồ-tát, nên các ông khéo dùng căn lực mà được thấy vậy.

Như nhà ảo thuật, làm các việc ảo thuật, không từ đâu đến, không đi về đâu, không hành, không nhập, không ẩn hiện chỉ nhờ vào sức ảo thuật, mà hiển hiện rõ ràng. Các việc trang nghiêm cũng vậy, không từ đâu đến, không đi về đâu, không tích tập, không thành tựu nhưng do trí lực ảo thuật chẳng thể nghĩ bàn quen tập lâu nay và đại nguyện lực quá khứ, nên hiển hiện như vậy.

Thiện Tài thưa:

–Thánh giả từ đâu đến?

Di-lặc đáp:

–Tất cả Bồ-tát không đến, không đi, cứ như vậy mà đến; không đi không ở cứ như vậy mà đến; không xứ sở, không cố định, không mai một, không so sinh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến tiếc, không đắm trước, không nghiệp báo, không sinh khởi, không hủy diệt, không đoạn, không thường cứ như vậy mà đến.

Này thiện nam! Bồ-tát từ nơi đại Bi mà đến, nên thương xót, điều phục tất cả chúng sinh; từ nơi Đại Từ đến, cứu nỗi khổ bức bách của chúng sinh; từ nơi tịnh giới đến tùy chỗ ưa thích mà tự tại thọ sinh; từ nơi đại nguyện đến nên được nguyện lực thuở xưa gia trì; từ nơi thần thông đến; nên đối với mọi nơi tùy theo sự ưa thích mà thị hiện; từ chỗ không lay động đến, nên không rời Như Lai, không động thể tánh; từ chỗ không lấy không bỏ đến, nên không bắt buộc thân tâm phải qua lại; từ nơi phương tiện trí tuệ đến tùy thuận chuyển tất cả chúng sinh; từ nơi thị hiện biến hóa đến nên giống như ảnh tượng được hóa hiện ra vậy.

Lại nữa, thiện nam! Vừa rồi ngươi hỏi ta từ đâu mà đến?

Này thiện nam! Ta từ xóm làng phòng xá nước Ma-la-đề đến nơi đây, ở đấy có Trưởng giả Cù-ba-lạc-ca, vì hóa độ cho người này thâm nhập Phật pháp cũng vì tất cả nhân dân ở đây có pháp khí phù hợp, nên ta thuyết pháp. Cũng vì cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, Bà-lamôn mà nói pháp Đại thừa, làm cho họ hiểu biết, nên ở lại đó và từ đó đi đến đây.

Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Thế nào là sinh xứ của Bồ-tát?

Di-lặc đáp:

–Này thiện nam! Bồ-tát có mười sinh xứ. Mười sinh xứ đó là:

  1. Phát Bồ-đề tâm là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra Bồ-tát.
  2. Thâm tâm là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra Thiện tri thức.
  3. Chư địa là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra các Ba-la-mật.
  4. Đại nguyện là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra diệu hạnh.
  5. Đại Bi là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra tứ nhiếp pháp.
  6. Như lý quán sát là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra Bát-nhã ba-la-mật.
  7. Đại thừa là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra phương tiện thiện xảo.
  8. Thành tựu chúng sinh là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra Chánh đẳng Chánh giác.
  9. Trí tuệ phương tiện là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra Vô sinh pháp nhẫn.
  10. Tu hành các pháp là sinh xứ của Bồ-tát, là nhà sinh ra chư Như Lai trong ba đời.

Thiện nam! Đó là mười loại chỗ thọ sinh của Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát dùng Bát-nhã ba-la-mật làm mẹ. Phương tiện thiện xảo làm cha. Bố thí ba-la-mật làm nhũ mẫu. Trì giới ba-la-mật làm dưỡng mẫu. Nhẫn nhục ba-la-mật làm vật trang sức. Tinh tấn ba-la-mật làm người dưỡng dục. Thiền ba-la-mật làm người giặt rửa. Thiện tri thức làm giáo thọ sư, các Bồ-đề phần làm bạn. Các thiện pháp làm quyến thuộc, các Bồ-tát làm anh em, tâm Bồ-đề làm nhà. Như lý tu hành làm gia pháp. Các địa thiện pháp làm nhà ở. Nhẫn pháp làm gia tộc. Đại nguyện làm gia giáo. Thanh tịnh trí đầy đủ và các hạnh làm thuận gia pháp. Khuyến phát, khuyến tu, không bỏ Đại thừa làm nối tiếp gia nghiệp. Nước pháp quán đỉnh Nhất sinh bổ xứ Bồ-tát làm thái tử. Thành tựu chân thật Bồ-đề đại nguyện làm tịnh gia tộc.

Thiện nam! Bồ-tát như vậy thì vượt ra khỏi địa vị phàm phu, nhập vào địa vị Bồ-tát, sinh nơi nhà Như Lai, làm hạt giống Phật, tu các hạnh, nối tiếp Tam bảo, khéo giữ gìn chủng tộc Bồ-tát, làm thanh tịnh những chỗ thọ sinh tôn quý và tối thắng của Bồ-tát, xa lìa tội lỗi ở trong thế gian, trong loài người, trời, ma, phạm, Sa-môn, Bà-la-môn… để thành tựu Phật chủng tối thắng, đạt được đại nguyện tạng, làm hạnh Bồ-tát ở muôn nơi.

Thiện nam! Đại Bồ-tát được thành tựu và sinh vào nhà tôn quý tối thắng như vậy rồi; hiểu rõ các pháp như ảnh tượng, nên ở trong thế gian không có sự ghét chê. Vì biết các pháp như biến hóa, nên ở trong cõi hữu lậu không bị nhiễm chấp. Vì biết rõ các pháp không có ngã, nên điều phục chúng sinh mà tâm không mệt mỏi. Vì dùng đại Từ bi làm thể tánh, nên Bồ-tát không vào Niết-bàn mà ở lại tiếp nhận giáo hóa chúng sinh. Vì hiểu rõ sinh tử như mộng, nên trải qua muôn kiếp mà Bồ-tát không sợ khổ não. Vì hiểu rõ năm uẩn như huyễn, nên Bồtát sống trong sinh tử mà không mệt mỏi. Vì biết giới, xứ đồng với pháp giới, nên Bồ-tát ở trong các cảnh giới mà không bị thương tích. Vì biết các tưởng như ánh lửa, nên Bồ-tát vào trong các loài, mà chẳng bị điên đảo, mê hoặc. Vì thấu đạt các pháp như huyễn, nên Bồtát vào trong các cảnh giới ma mà vẫn được tự tại không đắm nhiễm. Vì thành tựu Pháp thân thanh tịnh, thể tánh vi diệu, nên Bồ-tát không bị các phiền não khi dối. Vì thành tựu muôn hạnh trong các cõi, nên Bồ-tát vẫn tự tại trong các cõi.

Thiện nam! Thân ta sinh khắp pháp giới, tất cả chúng sinh có sắc tướng sai biệt, tất cả chúng sinh có lời nói, âm thanh, sai biệt; tất cả chúng sinh đủ loại danh hiệu; tất cả chúng sinh đủ thứ ưa thích; tất cả chúng sinh đầy đủ oai nghi, giáo hóa, điều phục tùy thuận thế gian. Ta có khả năng thọ sinh thanh tịnh hiện tất cả chúng sinh rồi tùy thuận nhập vào tất cả chúng sinh, để giảng giải rộng rãi sâu xa. Tất cả đại nguyện biến hóa của Bồ-tát cũng y như vậy. Vì các loài mà Bồ-tát thị hiện các thân hình, tướng mạo, oai đức đầy khắp pháp giới.

Này thiện nam! Ngày xưa, vì giáo hóa chúng sinh, nên ta tu các hạnh. Ngày nay, vì những người thoái thất tâm Bồ-đề, nên ta thị hiện ở cõi Diêm-phù-đề, giáo hóa cha mẹ, quyến thuộc và Bà-la-môn, làm cho họ bỏ tánh kiêu mạn để được sinh trong dòng họ Như Lai; nên ta sinh ở trong nhà Bà-la-môn thuộc xóm làng, phòng xá, nước Ma-lađề.

Này thiện nam! Ta ở trong lầu gác đại trang nghiêm Tỳ-lô-giána, thuộc phương Nam; tùy tâm ưa thích của chúng sinh mà ta dùng nhiều phương tiện để giáo hóa điều phục.

Thiện nam! Vì muốn tùy thuận chúng sinh, vì muốn thành thục cùng đại hạnh cho chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất, vì muốn thị hiện phước trí trang nghiêm của Bồ-tát ta biến hóa vượt hẳn cõi Dục làm cho họ xả bỏ khát ái dục lạc, làm cho họ sáng rõ các hành vô thường, vì cho họ biết chư Thiên có thịnh ắt có suy; vì muốn ban phát tướng tốt mà cùng với Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, tuyên thuyết đại trí pháp môn; vì muốn thâu nhận tất cả sinh xứ của chúng sinh; vì muốn giáo hóa những kẻ mà Đức Thích-ca Như Lai để sót lại, làm cho họ được khai ngộ như hoa sen nở, sau khi qua đời, được sinh ở cõi trời Đâu-suất.

Thiện nam! Khi ta viên mãn hạnh nguyện, chứng đắc Vô thượng Bồ-đề thì ngươi cùng Văn-thù-sư-lợi đều được thấy ta.

Này thiện nam! Ông, nên đến chỗ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà hỏi:

–Thế nào là Bồ-tát học hạnh Bồ-tát?

Thế nào là Bồ-tát thâm nhập môn hạnh của Phổ Hiền?

Thế nào là sinh ra, thế nào là thành tựu, thế nào là rộng lớn, thế nào là thanh tịnh, thế nào là tùy thuận, thế nào là viên mãn?

–Này thiện nam! Văn-thù-sư-lợi sẽ phân biệt rõ ràng cho ông.

Vì sao? Vì đại nguyện tối thắng của Văn-thù-sư-lợi chẳng phải từ vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha Bồ-tát khác mà có được.

Thiện nam! Văn-thù-sư-lợi có hạnh rộng lớn, vô lượng, vô biên vô số nguyện, tiếp nối nhau không dứt, thường sinh ra các công đức tối thắng của tất cả Bồ-tát. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thường làm mẹ vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha chư Phật, khiến được chứng nhập nghĩa lý sâu xa; thường làm thầy cho vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát, siêng tu để được chứng nhập khắp trong mười phương. Vănthù-sư-lợi thường chuyển pháp luân, giáo hóa thành thục tát các chúng sinh; thường làm vị Pháp sư ở khắp trong mười phương thế giới, thường ở trong chúng hội khen ngợi không thể nói chư Phật an trụ ở trí tuệ sâu sắc, thấy rõ thật tánh các pháp từ xưa đến nay, nhập vào các cảnh giới giải thoát, đạt đến rốt ráo hạnh nguyện Phổ hiền đã tu hành.

Thiện nam! Văn-thù-sư-lợi là Thiện tri thức, làm cho ngươi được sinh vào nhà Như Lai, có năng lực tăng trưởng các thiện căn cho ông, có năng lực phát sinh pháp trợ đạo cho ông, có năng lực hiện các Thiện tri thức chân thật cho ông, có năng lực khuyên ông tu tập các công đức, có năng lực khiến ông thâm nhập lưới đại nguyện, có năng lực khiến ông an trụ môn đại nguyện, có năng lực làm cho ông nghe nghĩa lý bí mật sâu xa của Bồ-tát, có năng lực hiện ra cho ông các hạnh khó nghĩ, khó làm của Bồ-tát mà thuở xưa đã cùng ông đồng sinh, đồng tu. Vì thế cho nên, ông phải đến chỗ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, chớ có sinh tâm mệt mỏi, Văn-thù-sư-lợi sẽ giúp ông đạt được tất cả công đức.

Tại sao vậy? Vì trước kia ông đã gặp Thiện tri thức, đã nghe hạnh Bồ-tát, thâm nhập môn giải thoát, viên mãn biển đại nguyện, đều nhờ oai thần lực của Văn-thù.

Có Văn-thù-sư-lợi ở tất cả các nơi như được cứu cánh.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài đi nhiễu bên phải Di-lặc vô lượng vòng rồi đảnh lễ, ân cần chiêm ngưỡng, trong tâm luyến mộ rồi từ giả mà đi.

Đồng tử Thiện Tài đi qua một trăm mười thành, rồi đến thành Tô-ma-na, đứng ở cửa thành, suy tìm, nhớ nghĩ, xem xét khắp nơi mong được gặp Văn-thù-sư-lợi để yết kiến ngài.

Khi ấy, Văn-thù-sư-lợi, đưa cánh tay phải, vượt ra ngoài một trăm mười do-tuần, đến thành Tô-ma-na, xoa đầu Thiện Tài rồi bảo:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nếu lìa tín căn thì tâm sinh nhàm chán; tâm chí mà yếu kém, thì công hạnh không thành, không còn siêng năng; với một ít thiện căn, cho là đầy đủ, không còn phát khởi các hạnh nguyện, không thể gần gũi Thiện tri thức; do vậy nên không thể hiểu rõ pháp tánh như vậy, lý thú như vậy, pháp môn như vậy, cảnh giới như vậy, trụ xứ như vậy; hoặc biết khắp tất cả, hoặc biết một ít, hoặc biết sâu xa, hoặc rõ nguồn gốc, hoặc quán sát, hoặc chứng nhập, hoặc chứng đắc tất cả đều không thể được!

Lúc này, Văn-thù-sư-lợi tuyên thuyết giáo pháp lợi ích hoan hỷ này làm cho Thiện Tài viên mãn vô số pháp môn, đầy đủ vô biên ánh sáng đại trí, thâm nhập vô số pháp môn niệm Phật, vô lượng môn Đàla-ni, vô lượng pháp môn biện tài, vô lượng môn Tam-muội, vô lượng môn thần thông, vô lượng môn trí nguyện thâm nhập vào vòng hạnh nguyện Phổ hiền, khen ngợi các việc khéo léo của Văn-thù-sư-lợi vốn có ở cõi nước.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài thưa Văn-thù-sư-lợi:

–Thưa Thánh giả! Làm sao để được thành tựu các việc khéo léo như Thánh giả ở cõi nước này?

Văn-thù-sư-lợi bảo Thiện Tài:

–Bồ-tát có mười loại pháp, nếu được thành tựu viên mãn thì sẽ có được các pháp khéo léo như ở cõi nước ta.

Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Mười pháp ấy là những gì?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Này thiện nam! Mười pháp ấy là:

  1. Chứng vô sinh pháp, đầy đủ viên mãn.
  2. Chứng vô diệt pháp.
  3. Không thất hoại pháp.
  4. Pháp không đến không đi.
  5. Lời nói vượt qua các cảnh giới.
  6. Lời nói về đạo pháp hữu vô.
  7. Pháp vô hý luận.
  8. Pháp không thể nói.
  9. Pháp tịch tĩnh.
  10. Pháp bậc thánh.

Bồ-tát nào đầy đủ viên mãn mười pháp này thì thành tựu được các pháp khéo léo ở cõi nước như ta.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Thánh giả nói cõi nước, nghĩa nó như thế nào?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Cõi nước nghĩa là trụ xứ của tất cả Bồ-tát.

Thiện Tài thưa:

–Tại sao gọi là trụ xứ của tất cả Bồ-tát?

Văn-thù đáp:

–Này thiện nam! Tối thắng bậc nhất nghĩa là trụ xứ của Bồ-tát.

Vì sao? Này thiện nam! Nghĩa tối thắng bậc nhất là không sinh, không diệt, không mất, không hoại, không đến, không đi. Các lời nói này chẳng phải cảnh giới của ngôn ngữ, ngôn ngữ không nói được, không thể ghi lại rõ ràng, chẳng thể hý luận. Biết suy nghĩ, cứu giúp vốn không dùng lời nói thể tánh vắng lặng, chỉ có tự trong Thánh giả mới chứng đạt.

Thiện nam! Do có nghĩa tối thắng bậc nhất này, nên Như Lai xuất hiện ở đời. Nếu có Phật xuất hiện ở đời hay Phật không xuất hiện ở đời, thì nghĩa tối thắng bậc nhất vẫn không mất đi.

Thiện nam! Tất cả Bồ-tát vì muốn chứng nhập Bậc nhất nghĩa, nên xả bỏ ngôi vua, xả bỏ vinh hoa phú quý, xả bỏ cả tuổi xuân; để làm việc khó làm, như các khổ hạnh, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia, mong cầu diệu đạo, tinh tấn chuyên cần không lười biếng, như cứu lửa cháy đầu.

Thiện nam! Nếu không có bậc nhất nghĩa, mà tu phạm hạnh chẳng lẽ không có công dụng hay sao? Đức Như Lai xuất hiện ở đời nương tựa vào đâu?

Này thiện nam! Vì có niềm tin sâu xa vào bậc nhất nghĩa, nên các Bồ-tát mới đầy đủ viên mãn mười pháp này. Cho, nên cần phải thấy, biết như vậy; giảng giải thuyết rõ như vậy, thì sẽ được thành tựu các pháp khéo léo như cõi nước ta vậy.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Thánh giả đã thực hành những pháp nào để được thanh tịnh cõi nước?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Bồ-tát nào có thể đối với hết thảy mọi hoàn cảnh, tâm không kiêu mạn đối với các chúng sinh sinh tâm bình đẳng; hết lòng cúng dường chư Như Lai; thì cõi nước sẽ được tịnh diệu như cõi nước của ta.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Thưa Thánh giả! Thế nào là tâm không kiêu mạn?

Thế nào là sinh tâm bình đẳng?

Thế nào là chân tu cúng dường?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Này thiện nam! Bồ-tát có mười pháp, nếu suy nghĩ chân thật kỹ càng, đầy đủ viên mãn thì sẽ thành tựu tâm không kiêu mạn. Mười pháp đó là những gì?

  1. Nhất tâm tư duy, quán sát kỹ thân giới, rồi suy nghĩ: “Ta đã xuất gia, giống như người quyết chết. Nghĩ là ta đã xa lìa tất cả những người yêu mến và gần gũi như cha mẹ, thân bằng quyến thuộc và tất cả những gì ta có…” suy nghĩ như vậy thì tâm không sinh kiêu mạn.
  2. Suy nghĩ ta được thân này, mặc y phục hoại sắc, giữ gìn oai nghi, không giống người thế gian.” Suy nghĩ như vậy thì được tâm không kiêu mạn.
  3. Suy nghĩ: “Ta đã bỏ thân hình tốt đẹp, tay ôm bình bát, xin ăn

ở mọi người.” Suy nghĩ như vậy thì được tâm không kiêu mạn.

  1. Suy nghĩ ta xin ăn giống như Chiên-đà-la.” Suy nghĩ như vậy sẽ sinh tâm thấp hèn, đạt được tâm không kiêu mạn.
  2. Suy nghĩ: “Ta cầu đoạn thực là để nuôi lớn thân, mạng sống của ta tùy thuộc vào người khác.” Suy nghĩ như vậy thì đạt được tâm không kiêu mạn.
  3. Suy nghĩ: “Thức ăn ta đã xin được, là thức ăn dư của người, vật. Nếu họ dư ra ta mới được ăn.” Suy nghĩ như vậy thì tâm không kiêu mạn.
  4. Suy nghĩ: “Đối với sư trưởng, ta phải sinh tâm hoan hỷ, cung kính cúng dường.” Suy nghĩ như vậy thì tâm không kiêu mạn.
  5. Suy nghĩ: “Ta muốn đạt được phạm hạnh, sinh tâm hoan hỷ, cần đầy đủ oai nghi, thuận với chánh pháp.” Suy nghĩ như vậy thì tâm không kiêu mạn.
  6. Suy nghĩ: “Ta đã xuất gia mà chưa đạt được một phần nào ở trong Phật pháp.” Suy nghĩ như vậy thì tâm không kiêu mạn.
  7. Suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh sân hận ta, ta vẫn an nhiên nhẫn nhịn.” Suy nghĩ như vậy thì tâm không kiêu mạn.

Thiện nam! Đó là Bồ-tát suy nghĩ đầy đủ viên mãn mười pháp, có năng lực thành tựu tâm không kiêu mạn.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát mà đầy đủ viên mãn mười pháp sau đây, thì đối với chúng sinh sẽ được tâm bình đẳng. Mười pháp đó là:

  1. Đối với chúng sinh mọi việc làm đều bình đẳng.
  2. Đối với chúng sinh, tâm không ngăn ngại.
  3. Đối với chúng sinh, tâm không mệt mỏi.
  4. Vì muốn lợi ích chúng sinh, phải tu hành đầy đủ sáu Ba-lamật.
  5. Huân tập Nhất thiết trí cho chúng sinh, cũng không chỗ nương tựa vào tướng không hai.
  6. Quán sát khắp tất cả chúng sinh đồng với như như, không có sự phân biệt.
  7. Thấu rõ thể tánh bình đẳng của chúng sinh mà chứng nhập tâm tánh bình đẳng.
  8. Nguyện cùng chúng sinh được ra khỏi nhà lửa sinh tử.
  9. Biết mình đã ra khỏi sinh tử rồi, thì quay lại cứu giúp chúng sinh.
  10. Làm cho tất cả chúng sinh đều được bình đẳng an vui, không có sầu ưu phiền não.

Thiện nam! Ví như ở thế gian, có vị Trưởng giả, sinh năm người con và thương yêu chúng như nhau; tất cả vật dùng đều chia đồng đều; nhưng mà những đứa con ấy ngu si vô trí, không thể phân biệt được sự việc ấy. Khi ấy các người con của Trưởng giả đang ở trong nhà thì lửa dữ nổi lên.

–Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Lúc ấy, Trưởng giả cứu các con ra khỏi nhà lửa có tâm phân biệt không?

Thiện Tài đáp:

–Tâm của Trưởng giả không có phân biệt cứu trước cứu sau, tùy theo chỗ gần nhất thì được cứu trước.

Văn-thù-sư-lợi bảo:

–Này thiện nam! Vị Đại Bồ-tát đối với chúng sinh ở trong nhà sinh tử bị lửa tam độc đốt cháy cũng như vậy; nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp, không phân biệt được, nên tùy theo nghiệp lực mà thọ sinh trong năm loài. Bồ-tát bình đẳng, điều phục thành thục cho tất cả, tùy theo chỗ thân cận mà cứu độ trước và đưa họ đến chỗ tịch tĩnh hoàn toàn.

Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ viên mãn mười pháp đối với chúng sinh để thành tựu tâm bình đẳng.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nếu thành tựu viên mãn mười pháp sau đây thì được thành tựu chân tu cúng dường Như Lai. Mười pháp đó là:

  1. Dùng pháp cúng dường.
  2. Tu hành các hạnh.
  3. Làm lợi lạc bình đẳng với tất cả chúng sinh.
  4. Dùng tâm Từ bi mà tùy thuận sự thâu giữ.
  5. Dùng thần lực Như Lai mà tùy thuận khắp tất cả.
  6. Siêng tu các thiện pháp.
  7. Không bỏ các việc làm của Bồ-tát.
  8. Lời nói đi đôi hành động, hành động đúng như lời nói.
  9. Tinh tấn tu hành tâm không nhàm chán.
  10. Không xa lìa tâm đại Bồ-đề.

Nếu Bồ-tát, đầy đủ mười pháp này, thì có năng lực thành tựu việc cúng dường Như Lai; chẳng phải dùng của cải vật báu, y phục, thức ăn mà gọi là chân thật cúng dường. Vì sao? Vì đó là pháp để cung kính tôn trọng Như Lai, cũng giống như người con hiếu thảo tôn trọng cha mẹ, chú ý từng chút để làm vừa tâm cha mẹ không lìa một giây. Nếu có người nào tôn kính cha mẹ mình, thì mình lại càng tôn kính họ gấp bội. Đối với chư Phật Như Lai, cũng lại như vậy. Nếu các chúng sinh, đem pháp cúng dường, tức đã thành tựu cúng dường Như Lai vì chư Như Lai thường tôn trọng chánh pháp.

Thiện nam! Như Lai từ chỗ tu hành mà đến. Nếu người siêng năng tu hành tức đã thành tựu cúng dường Như Lai. Mục đích chư Phật xuất hiện ở đời là làm lợi ích cho chúng sinh, dùng tâm Từ bi thâu nhận chúng sinh, đem hết năng lực mà tùy thuận vào lợi lạc cho chúng sinh.

Thiện nam! Người nào không siêng năng tu hành các thiện pháp, cũng không làm lợi lạc cho chúng sinh hoặc bỏ sở nguyện tu hành theo sự nghiệp của Bồ-tát, thì không thể đem lợi lạc cho chúng sinh; hoặc lời nói không đúng với việc làm, việc làm không đúng với lời nói, thì cũng không làm lợi lạc cho chúng sinh, hoặc tâm chí thấp hèn, nên sinh nhàm chán, tức cũng không làm lợi lạc cho chúng sinh; hoặc tạm xa lìa Bồ-đề tâm, tức cũng không làm lợi lạc cho chúng sinh. Vì sao? Này thiện nam! Vì Bồ-tát phải cần cầu Vô thượng Bồ-đề là để muốn làm lợi lạc cho chúng sinh. Nếu không có chúng sinh, tất cả Bồtát không thành Chánh giác.

Này thiện nam! Ông nên hiểu rõ pháp cúng dường như vậy, tức sẽ được thành tựu cúng dường Như Lai, chẳng phải dùng của cải, vật báu, các thức ăn uống ở thế gian mới gọi là cúng dường.

Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp có khả năng thành tựu cúng dường Như Lai.

Khi ấy, Văn-thù-sư-lợi chỉ bày rõ nghĩa vô lượng, vô biên pháp vi diệu như vậy, để khuyến khích chỉ dạy Thiện Tài tu hành, rồi thâu nhiếp thần lực, không còn thấy nữa.

Bấy giờ, Thiện Tài liền thấy tam thiên đại thiên thế giới cực vi trần số Thiện tri thức mà mình đã được gần gũi thừa sự cúng dường, làm cho các ngài sinh tâm hoan hỷ; đối với sự dạy dỗ của các ngài thì tùy thuận vâng làm, tăng thêm chí hướng cầu Nhất thiết trí; đối với cảnh giới Phật thì sinh quyết định giải, dùng biển đại Bi dung nạp tất cả, dùng mây giáo Đại Từ che khắp tất cả; đối với mây thân rộng lớn của Đức Tỳ-lô-giá-na thì tăng trưởng tâm ái kính. Đối với Bồ-tát vô ngại giải thoát tâm thường an trụ mau chóng được sinh ra ở khắp cửa Như Lai. Dùng mắt thanh tịnh không đắm, quán hết thảy Phật, tu hành đầy đủ biển lớn công đức; tin sâu vào Như Lai, về sự tích chứa tu hành Nhất thiết trí; tinh cần mau chóng tăng trưởng pháp trợ đạo Nhất thiết trí, khéo dùng năng lực hồi hướng thân tâm thanh tịnh của Bồ-tát; khéo biết tất cả Như Lai trong ba đời tiếp nối thị hiện; thâm nhập tất cả biển giáo Phật pháp, tùy thuận hiểu rõ pháp luân của chư Phật; đối với thế gian như ảnh hiện; thâm nhập tất cả biển nguyện của Bồ-tát; thấu suốt tất cả kiếp, tu hạnh Bồ-tát được trí Phổ Môn, chiếu sáng cảnh giới Như Lai; tăng trưởng thiện căn Bồ-tát; đạt được ánh sáng thanh tịnh của Nhất thiết trí, chiếu soi mười phương pháp giới; giáo hóa chúng sinh trong từng sát-na, phát tâm tu hành thành tựu lợi ích; tùy thuận giải thoát sinh tử cho các loài; dẹp sạch nghiệp phiền não và núi chướng cho chúng sinh tùy thuận chứng ngộ pháp vô chướng ngại; nhập vào tạng pháp giới bình đẳng địa; thường trú vào môn giải thoát tịch tĩnh của Bồ-tát; cần cầu các cảnh giới của Như Lai và oai lực gia trì của chư Phật.

Đồng tử Thiện Tài khởi tâm quán sát vi tế như vậy, rồi an trụ thâm sâu vào cảnh giới Phổ Hiền, liền được nghe danh hiệu và đại nguyện tối thắng của Phổ Hiền, từ sơ phát tâm cho đến tối thắng trợ đạo, tối thắng hiện tiền, phát sinh công đức, oai nghi vi tế và được nghe các địa của Bồ-tát Phổ Hiền, địa xứ sở, địa sai biệt đắc, địa tự tại hành, địa sai biệt trụ, địa dũng mãnh, địa oai đức, địa dồng trú, đã nghe như vậy rồi khao khát muốn thấy Bồ-tát Phổ Hiền, hiện ngay ở trước tòa Sư tử Kim cang hải tạng nơi Bồ-đề đạo tràng của Như Lai. Ở trên tòa, rất nhiều báu Liên hoa tạng phát khởi tâm rộng lớn như hư không giới, nhổ sạch tâm chấp trước hiện tiền, khởi tâm không chấp trước huân tập tất cả đức, làm thanh tịnh tâm vô tưởng trong mọi sátna; thông rõ tâm hoan hỷ tất cả pháp, dùng tâm vô ngại quán tất cả cảnh giới, dùng tâm biến khắp nhập vào tất cả mọi nơi, dùng tâm vô chướng ngại hành tất cả hạnh, dùng tâm diệu hạnh tự tại làm thanh tịnh cảnh giới Nhất thiết trí, dùng tâm minh liễu quán tất cả đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát, dùng tâm rộng lớn thâm nhập tất cả biển pháp của Như Lai, dùng tâm biến khắp điều phục thành thục tất cả chúng sinh, dùng tâm vô lượng làm thanh tịnh tất cả cõi Phật, dùng tâm như ảo ảnh thông rõ tất cả chúng hội, dùng tâm vô tận an trú vô số kiếp, dùng tâm không thoái chuyển rốt táo lực Như Lai lực, vô sở úy, bất cộng Phật pháp.

Đồng tử Thiện Tài phát khởi các tâm như vậy nên căn lành được rồi thấm nhuần được sức gia bị của tất cả chư Như Lai và được sức thiện căn đồng như Phổ Hiền. Muốn thấy Phổ Hiền cần phải có mười điều lành. Những gì là mười?

  1. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, tất cả đạo tràng trang nghiêm của Như Lai.
  2. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, không có xen tạp các loại ác đạo.
  3. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, dùng nhiều hoa sen đẹp để trang nghiêm.
  4. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh thân tâm trong mát.
  5. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, màu sắc của thân thể được trang nghiêm bằng nhiều châu báu.
  6. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, tất cả thân chúng sinh có đủ các hình sắc và tướng tốt trang nghiêm.
  7. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, được mây trang nghiêm che phủ ở phía trên.
  8. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh cùng khởi từ tâm, cùng nhau làm lợi ích.
  9. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, hình thể Bồ-đề đạo tràng trang nghiêm.
  10. Thấy tất cả cõi nước Phật thanh tịnh, tâm của tất cả chúng

sinh thường tùy thuận nhớ nghĩ chư Phật.

Đồng tử Thiện Tài lại thấy mười tướng đại quang minh. Những gì là mười?

  1. Thấy tất cả số vi trần hiện có của thế giới, trong mỗi vi trần phát xuất các Như Lai nhiều như số cực vi trần nơi hết thảy thế giới, với lưới mây sáng rỡ, chiếu sáng khắp nơi.
  2. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất các Như Lai nhiều như số cực vi trần trong hết thảy thế giới, với vầng mây sáng rỡ tròn đầy, có vô lượng, vô số các loại sắc tướng biến khắp pháp giới.
  3. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất vô các số Như Lai nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới, với mây ảnh tưởng báu biến khắp pháp giới.
  4. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất vô số các Như Lai nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới, với vầng mây lửa đỏ rực, biến khắp pháp giới.
  5. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất vô số mây hương thơm, hương xoa, hương đốt, vòng hoa nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới biến khắp hết thảy pháp giới trong mười phương, âm thanh vang dội, khen ngợi biển đại công đức hạnh nguyện của Phổ Hiền.
  6. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất vô số mây ánh sáng đủ loại của mặt trời, mặt trăng và các vì sao nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới đều phóng ra ánh sáng của Bồ-tát Phổ Hiền, biến khắp pháp giới.
  7. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất vô số mây đen đủ các hình tượng cũa chúng sinh nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới, đều sáng rỡ giống như ánh sáng của Phật, biến khắp pháp giới.
  8. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất ra vô số thân Như Lai nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới, với mây báu Ma-ni đủ các hình tượng, biến khắp pháp giới.
  9. Thấy trong mỗi vi trần phát xuất ra vô số các Như Lai nhiều như số cực vi trần nơi tất cả thế giới với mây thân, ánh sáng đủ các hình tượng, như mưa giông lớn thuyết giảng đại nguyện và diệu lực nơi oai đức của tất cả Như Lai.
  10. Thấy trong mỗi mỗi vi trần phát xuất ra vô số Bồ-tát nhiều

như số cực vi trần nơi tất cả thế giới, với mây thân, ảnh tượng, đủ các ánh sáng viên mãn; tùy thuận chúng sinh mà biến hóa đủ cách, khiến cho khắp tất cả đều sinh yêu thích. Những việc như thế hiện bày khắp pháp giới.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng sau khi thấy mười tướng ánh sáng như vậy rồi liền nghĩ: “Ta nhất định sẽ thấy Bồ-tát Phổ Hiền”.

Lúc ấy, Thiện Tài tự trụ vào năng lực thiện căn chiếu sáng, trụ vào năng lực hộ niệm của Như Lai nên có khả năng sinh ra ánh sáng trí của Phật pháp, với hạnh Phổ hiền, chiếu rõ ra trước mặt; với nguyện Phổ hiền, thâm nhập không bờ bến. Ở trong các cảnh giới Như Lai thì tin hiểu sâu xa. Ở trong cảnh giới rộng lớn Bồ-tát, được quyết định lực, tu tập được tưởng thấy Phổ Hiền; thâm nhập Nhất thiết chủng trí của Như Lai, thâu nhiếp các căn đều khiến được tịch tĩnh, khởi tâm đại tinh tấn, không có thoái chuyển, thân tâm hiện khắp mười phương thế giới. Dùng mắt thường quán sát các cảnh giới khắp mười phương, tất cả chư Phật, Bồ-tát, chúng hội đều trang nghiêm, đều làm được việc tưởng thấy Phổ Hiền.

Dùng mắt trí tuệ quán sát việc hành đạo của Phổ Hiền, từ lúc mới phát tâm cho đến lúc tâm rộng lớn giống như hư không, đại Bi kiên cố như kim cang, oai đức gia trì cho đến kiếp vị lai, nguyện không xa lìa. Bồ-tát Phổ Hiền, dùng tâm bình đẳng, hành Phổ Hiền hạnh, niệm niệm tùy thuận, thanh tịnh tự tại, thường được an trú ở cảnh giới Như Lai, thành tựu các trí địa của Phổ Hiền.

Đồng tử Thiện Tài quán sát đầy đủ như vậy rồi, liền thấy Bồ-tát Phổ Hiền ở trước Đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ngồi nơi tòa Sư tử Liên hoa tạng, các chúng Bồ-tát thân tướng đặc biệt thù thắng đi nhiễu quanh ngài; đủ cả cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn trí tuệ công đức mà thế gian không thể sánh bằng. Quán sát vi tế tất cả Bồ-tát cùng với Như Lai đều bình đẳng không khác, không có giới hạn.

Đồng tử Thiện Tài thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân của Phổ Hiền, cứ từng niệm từng niệm phóng ra những vừng mây nhiều như số thế giới cực vi trần, với đầy đủ loại ánh sáng biến khắp pháp giới, hư không giới và tất cả thế giới; ánh sáng đó sáng rực khắp nơi, trừ diệt tất cả khổ hoạn cho chúng sinh.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông trong từng niệm lại phóng ra những vừng mây ánh sáng nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, với đủ loại màu sắc làm cho các Bồ-tát mau chóng tăng trưởng tâm hoan hỷ rộng lớn.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông nơi giữa chân mày và trên đỉnh đầu của ngài Phổ Hiền, cứ từng niệm lại phóng ra những vừng mây như ánh lửa, nhiều như cực vi trần các cõi Phật, với đủ các loại hương sắc, biến khắp pháp giới; tạo ra những cơn mưa hương lớn, xông khắp tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền, trong từng niệm lại phóng ra những vừng mây ánh sáng nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, với đủ các loài hoa, biến khắp pháp giới, hư không giới, làm mưa nhiều loại hoa vi diệu khắp Như Lai và đạo tràng chúng hội.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền, trong từng niệm lại phóng ra những vừng mây bằng cây nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, với đủ cách trang nghiêm, biến khắp pháp giới, hư không giới, làm mưa không dứt những tàng hương như hương, bột đồ hương, xoa và nhiều hương tốt khác khắp Như Lai và đạo tràng chúng hội.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm lại phóng ra những vừng mây ánh sáng nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, với đủ loại y phục biến khắp pháp giới, hư không giới, làm mưa y phục đẹp trang nghiêm che khắp.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm lại phóng ra những vừng mây nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây lụa ngũ sắc, những vừng mây anh lạc đủ các tạp báu; những vừng mây báu Như ý đủ các loại biến khắp pháp giới, hư không giới. Tất cả Như Lai và đạo tràng chúng hội được cơn mưa lụa ngũ sắc và báu anh lạc này và tất cả chúng sinh cũng thành tựu được tâm ưa mến.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây cây báu đủ loại, biến khắp pháp giới, hư không giới. Rồi từ trong tạng các cây báu ấy chảy ra những vừng mây sáng tan ra như các vì sao trông rất trang nghiêm.

Tất cả Như Lai và đạo tràng chúng hội được cơn mưa báu vi diệu đó.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những mây thân của chúng cõi Sắc, biến khắp pháp giới, hư không giới, để khen ngợi, mừng vui lòng Bồ-đề.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân của quyến thuộc Phạm thiên, cung thỉnh chư Như Lai, chuyển pháp luân vi diệu.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân của thiên chúng Dục giới, đang giữ gìn, thọ trì diệu pháp của Như Lai.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây về tất cả cõi nước Phật có trong ba đời, biến khắp pháp giới, hư không giới; làm cho chúng sinh không có chỗ nương tựa, được nương tựa; chúng sinh không có người che chở, được che chở; chúng sinh không biết nẻo quay về, được nẻo và quay về.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây về cõi nước thanh tịnh trong, biến khắp pháp giới, hư không giới; trong ấy xuất hiện tất cả chư Phật và chúng hội Bồ-tát cùng ở đạo tràng thanh tịnh làm cho chúng sinh mến mộ, cung kính, tin ưa, đạt được thanh tịnh.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây về cõi nước tịnh và bất tịnh của các cõi Phật, biến khắp pháp giới, hư không giới làm cho chúng sinh bị nhiễm ô xen tạp đều được thanh tịnh.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây về cõi nước tịnh và bất tịnh của các cõi Phật, biến khắp pháp giới, hư không giới; làm cho chúng sinh đã bị thuần nhiễm đều được thanh tịnh.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân chúng sinh, biến khắp pháp giới, hư không giới, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giáo hóa; làm cho đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân Bồ-tát đủ loại biến khắp pháp giới, hư không giới, khen ngợi đủ các danh hiệu chư Phật, làm cho căn lành của chúng sinh được tăng trưởng.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân Bồ-tát đủ loại, biến khắp pháp giới, hư không giới, tuyên dương sự chỉ bày của chư Phật và Bồ-tát, về căn lành phát sinh từ lúc mới phát khởi cho đến lúc làm thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân Bồ-tát đủ loại, biến khắp pháp giới, hư không giới ở trong mỗi cõi nước tất cả các cõi chư Phật để tuyên dương biển nguyện rộng lớn của Bồ-tát vì muốn làm thanh tịnh diệu hạnh Phổ hiền.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền làm cho tất cả chúng sinh đều yêu thích tu tập, mau chóng viên mãn thể Nhất thiết trí.

Thấy ở mỗi lỗ chân lông, trong từng niệm phóng ra nhiều như cực vi trần số các cõi Phật, những vừng mây thân Chánh giác, mà trong tất cả cõi nước Phật, hiển thị chủng trí, hiện thành Chánh giác, làm cho các Bồ-tát đều được huân tập pháp lớn, đều được nhanh chóng giác ngộ trong hiện tại.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thấy cảnh giới thần thông tự tại của Bồ-tát Phổ Hiền như vậy rồi, thì thân tâm rất vui mừng hớn hở.

Khi ấy, Thiện Tài lại quán sát thật kỹ mỗi phần trên thân, mỗi mỗi chi tiết, mỗi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền, đều có tam thiên đại thiên thế giới. Trong ấy bao gồm đất, nước, gió, lửa, biển lớn, bốn châu, núi Tu-di, núi Thiết vi và các núi báu, cõi nước, thành ấp, cung điện, vườn hoa cho đến cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diêm-la vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Người và Phi nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc với đủ những hình sắc; mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió, mây, sấm sét, ngày, đêm, tháng, năm, kiếp số, chư Phật xuất thế, chúng hội Bồ-tát, đạo tràng trang nghiêm; tất cả các việc như thế, đều được thấy rõ. Thấy thế giới này rồi, cho đến các thế giới khác ở phương Đông cũng thấy như vậy. Cũng như phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương trên dưới cũng như vậy. Thấy mười phương thế giới hiện tại, quá khứ, vị lai; các thế giới tiếp nối nhau không gián đoạn; thấy các việc sai biệt liên quan giao kết với nhau không có tạp loạn.

Như Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na ở trên tòa báu Sư tử Liên hoa tạng, thị hiện thần thông du hý vậy.

Ở phương Đông, thuộc thế giới Liên hoa cát tường, nơi Đức Như Lai Hiền Cát Tường cũng thị hiện các loại thần thông du hý như vậy. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc bốn phương trên dưới khắp cả thế giới cũng như vậy; cũng giống như chỗ Như Lai Hiền Cát Tường.

Trong mỗi vi trần đều có các cõi nước của chư Phật ở mười phương. Trong ấy, đều có pháp giới của chư Phật và chúng hội. Mỗi cõi nước Phật, đều có Bồ-tát Phổ Hiền, ngồi trên tòa báu Sư tử Liên hoa, hiện ra các loại thần thông du hý, cũng lại như vậy.

Lại nữa, trong mỗi thân của ngài Phổ Hiền đều thấy các cảnh giới ba đời giống như soi gương hiện các hình ảnh. Đó là các tài vật, các cõi Phật, các chúng sinh, chư Phật xuất hiện, các đạo tràng chúng hội Bồ-tát.

Lại nghe các loại âm thanh của chúng sinh, âm thanh các Đức Phật, âm thanh Chuyển pháp luân của các Đức Như Lai, âm thanh thần thông du hý của các Đức Như Lai, âm thanh dạy bảo của các Bồtát. Tất cả cảnh giới thần thông của Bồ-tát: Bồ-tát Trí Thông, Bồ-tát Phổ Tập, Bồ-tát Thuyết Pháp, Bồ-tát Du Hý, đều có đủ các loại âm thanh.

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài sau khi đã thấy, nghe vô lượng chẳng thể nghĩ bàn thần thông du hý của Bồ-tát Phổ Hiền như vậy rồi liền đạt được mười loại Trí ba-la-mật. Những gì là mười?

  1. Trí ba-la-mật: Trong một niệm khiến thân biến khắp các cõi nước Phật.
  2. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm đều có khả năng đi đến chỗ các Đức Phật.
  3. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm đều có khả năng cúng dường tất cả Như Lai.
  4. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm có thể ở khắp tất cả chỗ Như Lai để nghe pháp và thọ trì.
  5. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm có thể quán sát kỹ lưỡng tất cả chỗ Như Lai chuyển pháp luân.
  6. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm biết tất cả đại thần thông chẳng thể nghĩ bàn của các Đức Phật.
  7. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm nói một câu pháp tận đến vị lai cũng là biện tài vô ngại.
  8. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm dùng biển trí trước mắt đó quán sát tất cả pháp.
  9. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm đạt được biển giáo hóa của tất cả pháp giới.
  10. Trí ba-la-mật: Trong mỗi niệm biết tất cả chúng sinh lìa chúng sinh tưởng. Trí ba-la-mật trong mỗi niệm, tuệ hạnh của Phổ Hiền đều hiện ra ngay trước.

Đồng tử Thiện Tài đã được như vậy rồi, Bồ-tát Phổ Hiền liền duỗi cánh tay phải, xoa đầu Thiện Tài khiến Thiện Tài liền đạt được sự thâm nhập vào các đại Tam-muội cực vi trần số cõi nước Phật, đều dùng Tam-muội cực vi trần số cõi Phật làm quyến thuộc. Mỗi mỗi Tam-muội đều thấy tất cả việc xưa nay chưa từng thấy, chưa từng nghe. Trong tất cả biển thế giới nhiều như cực vi trần số cõi Phật, thấy có nhiều chúng hội của chư Phật: làm tăng trưởng đầy đủ pháp trợ đạo Nhất thiết trí nhiều như cực vi trần số cõi Phật; làm xuất hiện cực vi trần số cõi Phật những pháp môn Nhất thiết trí; làm thành tựu cực vi trần số cõi Phật từ lúc mới phát tâm Nhất thiết trí. Thâm nhập cực vi trần số cõi Phật những biển đại nguyện Nhất thiết trí. Cực vi trần số cõi Phật phát sinh xuất yếu đạo Nhất thiết trí. Tu tập cực vi trần số cõi Phật các hạnh Bồ-tát Nhất thiết trí. Viên mãn cực vi trần số cõi Phật về sức nhanh chóng Nhất thiết trí. Được cực vi trần số cõi Phật chiếu sáng khắp Nhất thiết trí. Ở chỗ Đức Tỳ-lô-giá-na Phật, thuộc thế giới Ta-bà, Bồ-tát Phổ Hiền xoa đầu Thiện Tài nên đạt được các pháp môn như vậy.

Các thế giới ở mười phương và trong mỗi vi trần của thế giới ấy gồm tất cả thế giới, tất cả chư Phật; ngài Phổ Hiền đều xoa đầu Thiện Tài, cũng đạt được các pháp môn như vậy, tất cả đều bình đẳng như nhau.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ông có thấy sức thần thông của ta không?

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Con đã thấy các việc đại thần thông chẳng thể nghĩ bàn này, tuy nhiên chỉ có trí tuệ Phật mới có thể biết được.

Phổ Hiền bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ở trong vô lượng vô lượng kiếp, ta hành hạnh Bồtát, cầu Nhất thiết trí. Trong mỗi mỗi kiếp; vì cầu Bồ-đề tâm thanh tịnh nên ta phụng sự không thể nói, không thể nói các Như Lai. Trong mỗi số kiếp vì muốn tích tập đầy đủ phước đức Nhất thiết trí, nên ta lập đại hội bố thí rộng lớn cho vô lượng vô lượng kiếp cực vi trần số cõi Phật. Tất cả thế gian không ai sánh bằng, ta đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh.

Trong mỗi số kiếp, vì cầu pháp Nhất thiết trí, ta đem không thể nói bất, khả thuyết cực vi trần số cõi Phật, những tài vật làm việc đại xả.

Trong mỗi kiếp số, vì cầu Phật trí nên ta đem không thể nói, không thể nói cực vi trần số cõi Phật, những cõi nước, ngôi vua, binh lính, thành ấp, xóm làng, cung điện, vợ con, quyến thuộc, các chi tiết của thân thể: Mắt, tai, mũi, lưỡi cho đến thân mạng để làm việc bố thí.

Trong mỗi số kiếp, vì cầu đầu Nhất thiết trí nên ở trong cực vi trần số cõi Phật ta đem không thể nói, không thể nói cực vi trần số cõi Phật, những đầu để làm việc bố thí.

Trong mỗi số kiếp, vì cầu Nhất thiết trí, nên đối với không thể nói, không thể nói cực vi trần số cõi Phật, những chỗ ở của Như Lai ta đều cung kính, tôn trọng, thừa sự cúng dường. Tất cả các vật tốt đẹp nhất cần dùng như y phục, đồ dùng nằm ngồi, thuốc men ta đều cung cấp đầy đủ. Sau đó ta xin xuất gia học đạo, thọ trì giáo pháp, tùy thuận tu hành.

Thiện nam! Ta ở trong biển đại kiếp, nhớ nghĩ lại, chưa từng có một niệm nào mà không thuận theo giáo pháp của Phật. Trong các kiếp số ấy, chưa từng có một niệm nào mà sinh tâm sân giận, làm hại, tâm ngã, ngã sở; tâm phân biệt mình và người; ở trong sinh tử; ta chưa từng có một niệm xa lìa Bồ-đề tâm, khởi tâm nhàm chán, sinh tâm thấp kém, nhớ tâm lười biếng, có tâm chướng ngại, khởi tâm mê hoặc; ta chỉ trú ở Đại Bồ-đề tâm Vô thượng tánh Nhất thiết trí thì không thể bại hoại.

Thiện nam! Ngày xưa ta đã làm thanh tịnh các cõi Phật. Ta dùng đại Bi cứu hộ chúng sinh, giáo hóa thành thục làm cho họ được thanh tịnh. Ta cúng dường thừa sự tất cả chư Phật và Thiện tri thức. Ở chỗ chư Phật và Thiện tri thức ấy, vì cầu chánh pháp, được mở rộng, tuyên dương và hộ trì, nên tất cả trong ngoài ta đều xả bỏ cho đến thân mạng cũng không lẫn tiếc. Như vậy vô lượng hạnh nguyện đều tương ưng với việc làm. Trong tất cả biển kiếp, ta đều nói về nhân duyên ấy. Biển kiếp có thể tận nhưng nhân duyên ấy không cùng tận.

Thiện nam! Ở trong biển pháp không có một lời, một câu nào mà ta lại phải xả bỏ ngôi vua Chuyển luân để cầu chứng đắc. Và tất cả các vật sở hữu cũng lại như vậy.

Thiện nam! Việc cầu pháp của ta đều vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Ta luôn luôn quán sát cẩn thận kỹ càng làm cho mau chứng đắc hiện tiền pháp tối thắng. Nguyện dùng ánh sáng trí chiếu rõ để khai ngộ thế gian, khai ngộ trí xuất thế gian, nguyện cho chúng sinh đều được an lạc, nguyện khen ngợi khắp tất cả công đức của chư Như Lai. Các việc như vậy của ta ngày xưa, đã tương ưng viên mãn với môn hạnh nguyện. Ở trong biển kiếp không thể nói, không thể nói cực vi trần số cõi Phật nói không cùng tận. Cho nên, này thiện nam! Ta nhờ tích tập sức cho pháp trợ đạo, tăng trưởng sức cho các thiện căn, làm rộng lớn cho sức tin thâm sâu, sức tu hành các công đức lực, sức quán sát như thật tất cả pháp, sức thành tựu tuệ nhãn lực Nhất thiết trí, sức gia trì của chư Như Lai, sức vô lượng và sự đẫn khởi đại nguyện, sức bất khả lay động vô biên đại Bi, sức thần thông làm thanh tịnh diệu trí, sức thâu nhận của đầy đủ thiện hữu. Do các việc này, nên được Pháp thân thanh tịnh, bình đẳng rốt ráo trong ba đời, được sắc thân vô thượng thanh tịnh, vượt qua thế gian và tùy thuận từng tâm ưa thích của chúng sinh, hiện hình nhập vào khắp các cõi nước, biến khắp mọi nơi tùy thuận mà thị hiện thần thông, làm cho chúng sinh đều được an lạc.

Thiện nam! Ông có thấy thân oai đức rộng lớn viên mãn này của ta không? Ông nên quán sát và suy nghĩ thấu đáo về nó.

Thiện nam! Thân vi diệu này của ta, đã thành tựu từ trong vô biên biển kiếp; từ vô lượng trăm ngàn na-do-tha kiếp, khó được xuất hiện, khó được trông thấy.

Thiện nam! Nếu có chúng sinh chưa trồng thiện căn hay có một ít thiện căn thì khó được nghe danh tự của ta huống nữa là thấy thân ta!

Thiện nam! Chúng sinh nào được nghe tên ta, đều được ở trong A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được không thoái chuyển; hoặc thấy, hoặc nhớ nghĩ, hoặc nghênh đón, hoặc tiễn đưa hoặc tạm thời đi theo cho đến trong mộng đều cũng như vậy.

Hoặc có chúng sinh, một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta, tùy thuận tu hành thì đều được thành tựu; hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng một tháng, nửa năm một năm, trăm năm ngàn năm, một kiếp trăm kiếp, cho đến vô lượng vô lượng kiếp như cực vi trần số cõi Phật mà nhớ nghĩ đến ta thì đều được thành tựu; hoặc một đời, trăm đời, cho đến vô lượng vô lượng đời như cực vi trần số cõi Phật, mà nhớ nghĩ đến ta thì cũng đều được thành tựu như vậy; hoặc thấy viên quang của ta, hoặc thấy phóng quang, hoặc thấy sắc thân, hoặc thấy thần thông chấn động cõi Phật, hoặc sinh sợ hãi, hoặc sinh hoan hỷ đều cũng được thành tựu.

Thiện nam! Ta dùng các môn phương tiện ấy như cực vi trần số cõi Phật, làm cho chúng sinh đối với Vô thượng Bồ-đề, đạt được không thoái chuyển.

Này thiện nam! Chúng sinh nào hoặc thấy hoặc nghe cõi nước thanh tịnh của ta tất sẽ được sinh vào cõi nước thanh tịnh của ta. Hoặc chúng sinh nào thấy, nghe thân thanh tịnh của ta tất sẽ được sinh trong thân thanh tịnh như ta.

Thiện nam! Ông nên quán sát thân đại oai đức thanh tịnh này của ta!

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài quán sát rất kỹ thân Phổ Hiền. Thấy trong mỗi lỗ chân lông trên thân có không thể nói, không thể nói cõi nước Phật. Mỗi mỗi cõi nước Phật, đều có chư Phật xuất hiện ở đời đầy khắp trong đó, chúng Đại Bồ-tát vây quanh. Các cõi nước nhiều như số bụi trần kia, có đủ các loại kiến lập, các loại hình trạng, có đủ các loại trang nghiêm, các núi lớn bao quanh nhiều vòng, có mây nhiều màu sắc che phủ ở trên, có vô lượng Phật xuất hiện, có vô lượng pháp được diễn nói, các việc như vậy xảy ra không đồng đều.

Ở một lỗ chân lông, trong tất cả lỗ chân lông, trong mỗi tướng trạng, trong mỗi sự tốt đẹp, trong mỗi chi tiết, đều cũng như vậy.

Lại thấy, ở trong mỗi biển thế giới, Bồ-tát Phổ Hiền phóng ra những vừng mây thân chư Phật biến hóa nhiều như cực vi trần số cõi Phật biến khắp mười phương thế giới, để giáo hóa chúng sinh, làm cho thành thục Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Tài tùy thuận theo sự dạy bảo của Phổ Hiền, nhập vào trong lỗ chân lông trên thân Phổ Hiền đang có trong mười phương thế giới, để giáo hóa chúng sinh.

Lại nữa, này thiện nam! Ông đã thấy các Thiện tri thức như cực vi trần số cõi Phật, đi đến để gần gũi, thừa sự cúng dường, tích tập sự tăng trưởng các thiện căn, trí tuệ sáng suốt; nếu đem so sánh với thiện căn mà Bồ-tát Phổ Hiền đã đạt được thì trong trăm phần không bằng một phần; trong ngàn phần, trăm ngàn phần, trăm ngàn ức phần, số phần, toán phần, dụ phần, Ưu-ba-ni-sa-đà phần cũng không bằng một phần.

Thiện nam! Từ lúc mới phát tâm cho đến lúc được thấy Bồ-tát Phổ Hiền, trong thời gian ấy, ông luôn luôn nhập vào các cõi nước liên tục không dứt. Ngày nay ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ-tát Phổ Hiền chỉ một niệm thôi, ông cũng đã luôn nhập vào cõi nước của chư Phật liên tục không dứt nhiều hơn gấp bội lần vô lượng vô lượng lần trước đây. Trong mỗi lỗ chân lông như vậy, thì trong tất cả lỗ chân lông cũng đều như vậy.

Trong cõi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền, Đồng tử Thiện Tài đi một bước, vượt qua vô lượng vô lượng thế giới như cực vi trần số cõi Phật. Thiện Tài cứ đi như vậy, cho đến tận cùng của kiếp vị lai, cũng không biết được các cõi nước nối tiếp nhau trong mỗi lỗ chân lông; cũng không biết được những ngằn mé vô lượng sát hải như sát hải tạng, sát hải sai biệt, sát hải xuất sinh môn, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm; cũng không thể biết được giới hạn có được của những Phật hải xuất hiện liên tục: Phật hải xuất hiện tạng, Phật hải sai biệt, Phật hải xuất sinh môn, Phật hải sinh, Phật hải diệt; cũng không thể biết được những ngằn mé của Bồ-tát chúng hội đạo tràng hải xuất hiện liên tục: Bồ-tát chúng hải tạng, Bồ-tát chúng hải sai biệt, Bồ-tát chúng hải xuất sinh môn, Bồ-tát chúng hải tập, Bồ-tát chủng hải tán. Khi nhập vào cảnh giới chúng sinh, biết căn cơ chúng sinh để giáo hóa điều phục chúng sinh các cõi, giác ngộ thành thục chúng sinh trí. Bồtát trú ở thần thông tự tại. Bồ-tát nhập vào các địa, các đạo; nhưng các cõi như vậy, đều không thể biết được rốt ráo ngằn mé của nó.

Ở trong cõi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền hoặc có cõi nước đi trong một ngày, hoặc có cõi nước đi trong một năm, cho đến vô lượng vô lượng kiếp như cực vi trần số cõi Phật, đi như vậy, không động, không xuất, trong từng niệm có ở khắp vô biên biển cõi nước, giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh khiến họ hướng đến Vô thượng Bồđề.

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài, lần lượt đạt được biển hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền, cùng với Phổ Hiền đều bình đẳng như nhau cùng với chư Phật một thân đầy khắp các thế giới, viên mãn các hạnh nguyện, chánh giác hiện tại, đại dụng thần thông, vô lượng pháp luân, thanh tịnh biện tài, xuất sinh ngôn từ, đủ loại âm thanh, các lực vô úy, đủ các Phật trú, đại Từ, đại Bi; cho đến chẳng thể nghĩ bàn giải thoát tự tại đều đồng như nhau.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền, quán sát tất cả Bồ-tát trong hội chúng và Đồng tử Thiện Tài, rồi nói kệ rằng:

Các ông cần xa lìa nghi hoặc
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Ta nói Phật viên mãn các độ.
Tất cả đạo giải thoát chân thật
Xuất thế điều nhu thắng trượng phu
Tâm ngài thanh tịnh như hư không
Thường phóng ánh sáng mặt trời trí
Chiếu khắp thế gian trừ mê hoặc
Như Lai rất khó được thấy nghe
Vô lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa Ưu đàm một lần hiện
Cho nên cần nghe công đức Phật
Tùy thuận các việc ở thế gian
Ví như ảo thuật hiện các việc
Chỉ để vui lòng các chúng sinh
Chưa có một niệm sinh phân biệt.

Nghe bài kệ này rồi, tất cả Bồ-tát một tâm kính ngưỡng phát đại thệ nguyện, ước ao được nghe công đức chân thật nghĩa lý của Như Lai, nên đều nghĩ: “Bồ-tát Phổ Hiền có đủ các hạnh, thể tánh thanh tịnh, lời nói hợp với việc làm, việc làm hợp với lời nói nên được tất cả Đức Như Lai khen ngợi”. Nghĩ như vậy rồi càng sinh tâm khát ngưỡng.

Lúc ấy, Phổ Hiền với đầy đủ các loại công đức trí tuệ, trang nghiêm thân tâm cũng giống như hoa sen không dính bùn ba cõi; bảo chúng Bồ-tát:

–Các ngài phải nhất tâm lắng nghe, tôi nay muốn nói tướng của một giọt nước trong biển nước công đức của Phật, rồi nói kệ rằng:
Phật trí rộng lớn như hư không
Biến khắp tất cả tâm chúng sinh
Vọng tưởng thế gian, đều chẳng có
Không khởi các phân biệt sai khác
Một niệm đều biết pháp ba đời
Biết rõ căn tánh các chúng sinh
Ví như nhà ảo thuật tài giỏi
Một niệm thị hiện vô biên việc
Tùy các tâm hạnh của chúng sinh
Cùng các nghiệp và nguyện lực xưa
Làm cho họ thấy biết không đồng
Phật vốn tịch nhiên không động niệm
Mà thấy Phật ngồi ở khắp nơi
Cùng khắp mười phương các thế giới
Hoặc có chúng sinh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật
Có người tín giải tâm vô ngã
Một niệm phát ý thấy Như Lai
Hoặc kẻ dua nịnh tâm bất tịnh
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật
Hoặc ở các nơi nghe tiếng Phật
Âm thanh tuyệt diệu đẹp tâm người
Có kẻ trăm ngàn vạn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh nên chẳng nghe
Hoặc thấy Đại Bồ-tát thanh tịnh
Khắp tam thiên đại thiên thế giới
Đều đã đầy đủ hạnh Phổ hiền
Như Lai an nhiên ngồi trong đó
Cõi này tuyệt diệu khó sánh bằng
Phật đã nghiêm tịnh vô lượng kiếp
Đức Tỳ-lô-giá-na tối thắng
Ở đây giác ngộ thành Chánh giác
Hoặc thấy hoa sen cõi Thắng diệu
Hiền Thủ Như Lai ở trong đó
Vô lượng chúng Bồ-tát vây quanh
Đều siêng tu tập hạnh Phổ hiền
Hoặc thấy Đức Phật vô lượng thọ
Quán Âm, Bồ-tát cùng vây quanh.
Đều là bậc quán đỉnh trụ xứ
Cùng khắp mười phương các cõi nước
Hoặc thấy tam thiên thế giới này
Thanh tịnh trang nghiêm như Diệu hỷ
A-súc Như Lai ngự nơi đây
Và Bồ-tát, Hương tượng vây quanh.
Hoặc thấy Nguyệt Giác xưng danh Phật
Cờ Kim cang cùng chư Bồ-tát
Trụ như gương tròn diệu trang nghiêm
Khắp mười phương cõi nước thanh tịnh.
Hoặc thấy Đức Thế Tôn Nhật Tạng
Ở khắp cõi thanh tịnh ánh sáng
Cùng các Bồ-tát được quán đỉnh
Thuyết pháp cùng khắp ở mười phương
Hoặc thấy Kim Cang Đại Diễm Phật
Cùng chư Bồ-tát và cờ trí
Đi khắp tất cả cõi rộng lớn
Thuyết pháp trừ mê cho chúng sinh
Mỗi mỗi đầu lông không thể nói
Chư Phật đủ ba hai tướng tốt.
Chúng hội Bồ-tát cùng vây quanh
Thường xuyên thuyết pháp độ chúng sinh
Thấy ở mỗi lỗ chân lông Phật
Đầy đủ cõi trang nghiêm rộng lớn
Vô lượng Như Lai ở trong đấy
Đầy đủ các Phật tử thanh tịnh.
Hoặc thấy mười phương cõi bình đẳng,
Mà ở trong mỗi cực vi trần
Đều có vô lượng các Bồ-tát
Không thể nói kiếp tu các hạnh
Lại thấy trên đầu một sợi lông
Vô lượng vi trần những cõi biển
Các loại nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ-lô-giá-na chuyển pháp luân.
Hoặc có thế giới chẳng thanh tịnh
Hoặc có cõi tịnh toàn là báu
Như Lai sống lâu đến vô lượng
Thị hiện đầy đủ đến Niết-bàn
Cùng khắp mười phương các thế giới
Thị hiện nhiều việc bất tư nghì
Tùy tâm, trí nghiệp các chúng sinh
Thảy đều hóa độ cho thanh tịnh
Đó là Vô thượng Điều ngự sư
Cùng khắp mười phương các cõi nước
Thị hiện các loại thần thông lực.
Tôi nói một ít ngài nên nghe
Hoặc thấy Thích-ca thành Phật đạo
Trải qua chẳng thể nghĩ bàn kiếp,
Hoặc thấy nay mới làm Bồ-tát
Lợi ích chúng sinh ở mười phương,
Hoặc có người thấy Thích Sư Tử
Cúng dường chư Phật tu đạo hạnh,,
Hoặc thấy Bậc Tối thắng trong đời
Hiển hiện các việc đại thần thông
Hoặc thấy Bố thí hoặc Trì giới Nhẫn nhục,
Tinh tấn hoặc Thiền định Bát-nhã,
Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí.
Tùy tâm chúng sinh mà thị hiện,
Hoặc thấy rốt ráo Ba-la-mật,
Hoặc thấy an trụ ở các địa,
Tổng trì Tam-muội trí thần thông
Các việc như vậy đều hiện đủ
Hoặc hiện tu hành vô lượng kiếp
Trụ ở bậc Bồ-tát kham nhẫn,
Hoặc là trụ ở bậc Bất thoái
Hoặc hiện nước pháp rưới trên đầu
Hoặc hiện thân Phạm, Thích, Hộ thế
Hoặc hiện La-sát, Bà-la-môn
Nhiều loại sắc tướng rất xinh đẹp
Như nhà ảo thuật hiện nhiều hình
Hoặc hiện từ Đâu-suất giáng thần
Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc
Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa
Xa lìa cung vua, đi học đạo
Hoặc thấy mới sinh, hoặc thấy chết
Hoặc thấy xuất gia học các đạo
Hoặc thấy ngồi nơi cội Bồ-đề
Nhiếp phục quân ma thành Chánh giác
Hoặc thấy Đức Phật mới Niết-bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế gian
Hoặc thấy tượng Phật thờ trong tháp
Hoặc tùy chúng sinh hiện sắc thân
Hoặc thấy Như Lai vô lượng thọ
Cùng các Bồ-tát được thọ ký
Thành Đấng chân thật đại Đạo sư
Tiếp dẫn đến nơi cõi An lạc
Hoặc thấy vô lượng ngàn ức kiếp
Phật sự đã xong nhập Niết-bàn
Hoặc thấy mới được thành Bồ-đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu hạnh
Hoặc thấy Như Lai thanh tịnh nguyệt
Ở tại Phạm thế và ma cung
Cung trời Tự tại, cung Hóa lạc,
Thị hiện đủ các loại thần biến
Hoặc thấy ở tại cung Đâu-suất
Vô lượng chư Thiên đồng vây quanh
Thuyết pháp cho họ được hoan hỷ
Một tâm phát tâm cúng dường Phật
Hoặc thấy ở tại Dạ-ma thiên
Đao-lợi, Tứ thiên, cung Long thần
Tất cả các cung điện như vậy
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân
Ở chỗ Phật Nhiên Đăng Thế Tôn
Rải hoa cắt tóc để cúng dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Thường dùng đạo đó độ chúng sinh
Hoặc thấy Niết-bàn đã từ lâu
Hoặc thấy Phật mới thành Bồ-đề
Hoặc thấy Phật trụ vô lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt
Thân tướng ánh sáng cùng thọ mạng
Trí tuệ, Bồ-đề và Niết-bàn
Với tiếng oai nghi độ chúng hội
Mỗi mỗi như vậy đều vô số
Hoặc hiện thân hình rất rộng lớn
Giống như núi Tu-di đại bảo sơn
Hoặc thấy kiết già chẳng lay động
Cùng khắp vô biên các thế giới
Hoặc thấy hào quang chiếu một tầm
Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần
Hoặc chiếu vô lượng các cõi nước
Hoặc thấy đầy khắp tất cả cõi
Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm
Hoặc thọ trăm ngàn muôn ức tuổi
Hoặc trú chẳng thể nghĩ bàn kiếp
Như vậy lần lượt vượt gấp bội
Phật trí thông đạt tịnh vô ngại
Sát-na biết rõ pháp ba đời
Đều từ tâm thức nhân duyên hiện
Sinh diệt vô thường không tự tánh
Ở trong một cõi thành Chánh giác
Ở tất cả cõi cũng như vậy
Tất cả cõi nhập vào từng cõi
Tùy tâm chúng sinh mà thị hiện
Như Lai an trụ đạo Vô thượng
Thành tựu mười Lực, bốn Vô úy
Đầy đủ trí tuệ không chướng ngại
Chuyển bánh xe pháp mười hai hành
Biết rõ Khổ, Tập và Diệt, Đạo
Phân biệt rõ ràng pháp duyên khởi
Pháp, nghĩa, từ, nhạo thuyết vô ngại
Dùng pháp vô úy tuyên dương rộng
Các pháp vô ngã không có tướng
Nghiệp tánh không sinh cũng không diệt
Xa lìa tất cả như hư không
Phật dùng phương tiện để phân biệt
Như Lai chuyển pháp luân như vậy
Động khắp mười phương các cõi nước
Cung điện, núi sông đều lay chuyển
Nhưng không làm chúng sinh kinh sợ
Như Lai diễn nói pháp âm rộng lớn
Cởi mở căn dục cho chúng sinh
Cùng nhau phát âm, trừ mê hoặc
Nhưng Phật chưa từng sinh tâm niệm
Hoăc nghe Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn
Thiền định, Bát-nhã, Phương tiện,
Trí Hoặc nghe Từ, Bi và Hỷ, Xả
Thuyết pháp bằng ngôn từ khác nhau
Tứ niệm, tứ Chánh cần, Thần túc
Căn, lực, Giác chi, bát Thánh đạo
Niệm, tuệ, thần thông và chỉ quán
Vô lượng các pháp môn phương tiện
Long, Thần, Bát bộ, nhân, phi nhân
Phạm thích, hộ thế, các thiên chúng
Phật dùng một âm để thuyết pháp
Tùy theo các loài đều được hiểu
Nếu có tham dục, sân và si
Giận, phản, đố kỵ, nịnh, tự kiêu
Tám vạn bốn ngàn phiền não khác
Đều được Phật dạy pháp đối trị.
Nếu chưa tu đủ pháp bạch tịnh
Cho họ nghe về mười học xứ.
Thường hay bố thí điều phục người
Cho nghe về Niết-bàn tịch tĩnh.
Nếu người trí kém không từ mẫn
Nhàm ghét sinh tử cầu xa lìa
Cho họ nghe về ba giải thoát
Để được thoát khổ hưởng Niết-bàn.
Nếu người tự tánh ít tham dục
Nhàm lìa ba cõi cầu tịch diệt
Cho họ nghe về các duyên khởi
Theo Độc giác thừa để xuất ly.
Nếu người thanh tịnh tâm rộng lớn
Đầy đủ thí giới, các công đức
Đầy đủ từ mẫn thân cận Phật
Cho họ nghe về đạo Đại thừa.
Hoặc có cõi nước nghe nhất thừa
Hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn năm
Như vậy cho đến nhiều vô lượng
Đều là phương tiện lực của Phật
Niết-bàn tịch tĩnh không sai biệt
Trí hạnh hơn thua có sai khác
Như thể tánh hư không là một
Chim bay gần, xa không đồng nhau
Thể tánh âm thanh Phật cũng vậy
Biến khắp tất cả cõi hư không
Tùy tâm sai khác của chúng sinh
Nên sự nghe thấy không đồng nhau
Do quá khứ Phật tu các hạnh
Tùy người nghe mà diễn diệu âm
Tâm niệm không phân biệt đây kia
Ai được nghe nói, ai thì không
Trên mặt Như Lai phóng hào quang
Đầy đủ tám muôn bốn ngàn loại
Pháp môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế gian trừ phiền não
Đầy đủ công đức trí thanh tịnh
Mà thường tùy thuận ở ba đời
Ví như hư không không nhiễm chấp
Vì các chúng sinh nên Phật hiện.
Nào là sinh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng hiện tuổi thọ ở thế gian
Vì thuận thế gian mà hiện vậy
Thể tánh thanh tịnh như hư không
Cõi nước chúng sinh thật vô biên
Căn tánh sở thích cũng vô lượng
Trí nhãn Như Lai đều thấy rõ
Tùy theo căn cơ dạy Phật đạo
Cùng khắp hư không mười phương cõi
Bao nhiêu trời người trong đại chúng
Hình tướng tùy người chẳng đồng nhau
Phật hiện thân hình cũng như vậy
Nếu ở chúng hội là Sa-môn
Cạo bỏ râu tóc mặc ca-sa
Đắp y cầm bát giữ các căn
Cho họ hoan hỷ, trừ phiền não
Nếu lúc thân cận Bà-la-môn
Vì họ, Phật hiện thân ốm gầy
Chống gậy mang bình thường sạch trong.
Đầy đủ trí tuệ giỏi giảng thuyết
Bỏ cũ nhận mới tự thấy đủ
Hít gió uống sương không ăn khác
Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng lay động
Hiện các khổ hạnh dẹp ngoại đạo
Chấp giữ giới kia để làm thầy
Khéo thông phương thuốc những luận bàn
Toán số, thiên văn và địa lý
Các tướng lành dữ đều biết rõ
Thâm nhập các thiền và giải thoát
Tam-muội, thần thông, trí tuệ, hạnh
Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui
Phương tiện dẫn họ vào Phật đạo
Hoặc hiện mặc áo để nghiêm thân
Đầu đội mão hoa, che lọng tốt
Bốn loại binh hộ vệ trước, sau
Ra oai hùng mãnh dẹp tiểu vương
Hoặc làm quan tòa xử kiện tụng
Răn ác khuyến thiện đủ phương tiện
Hoặc thưởng hoặc phạt đều phân minh
Nên họ vui vẻ và khâm phục
Hoặc làm đại thần chuyên giúp vua
Giỏi dùng chánh pháp an ổn dân
Tất cả mười phương đều lợi ích
Tất cả chúng sinh đều biết rõ
Hoặc làm túc tán các tiểu vương
Hoặc làm phi hành Chuyển luân đế
Khiến các vương tử và thể nữ
Đều theo chánh pháp để tu hành
Hoặc làm hộ thế Tứ Thiên vương
Thống lãnh Dạ-xoa các long thần thảy
Vì chúng hội đó mà thuyết pháp
Làm cho tất cả thảy mừng vui
Hoặc làm Đại Thiên vương Đao-lợi
Ở Thiện pháp đường, vườn Hoan hỷ
Đầu đội mão hoa diễn nói pháp mầu
Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được
Hoặc trú Dạ-ma, Đâu-suất thiên
Chỗ Hóa lạc, Tự tại, ma vương
Ngự ở cung điện báu Ma-ni
Giảng hạnh chân thật khiến điều phục
Hoặc đến trong chúng hội Phạm thiên
Nói bốn Vô lượng, các thiền định
Cho họ hoan hỷ rồi bỏ đi
Không ai biết tướng ngài qua lại
Hoặc đến Thiên cung Sắc cứu cánh
Để giảng các hoa báu giác phần
Cùng với vô lượng công Thánh giả
Sau đó bỏ đi chẳng ai hay
Như Lai thấy bằng trí vô ngại
Trong đó tất cả các chúng sinh
Đều đem vô biên môn phương tiện
Giáo hóa đủ cách để thành thục
Ví như thuật sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn
Phật giáo hóa chúng sinh, cũng vậy.
Vì họ mà hiện nhiều thân hình
Ví như trăng sáng giữa hư không
Thế gian chúng sinh thấy tròn khuyết
Tất cả ao sông hiện bóng trăng
Tất cả tinh tú bị che lấp
Trăng trí Như Lai xuất thế gian
Cũng dùng phương tiện hiện cao thấp
Nước tâm Bồ-tát hiện bóng hình
Tinh tú Nhị thừa bị che lấp
Ví như biển cả nhiều châu báu
Trong sạch không nhơ không giới hạn
Bao nhiêu chúng sinh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong đấy
Biển công đức Phật cũng như vậy
Không trong không đục không hạn lượng
Cho đến pháp giới các chúng sinh
Chẳng ai không hiện trong thân Phật
Ví như mặt trời chiếu ánh sáng
Chẳng rời chỗ, vẫn chiếu mười phương
Ánh sáng mặt trời Phật cũng vậy
Không đến không đi, trừ tối tăm
Ví như Long vương tuôn mưa lớn
Chẳng phải từ thân, tâm tuôn ra
Mà mưa cùng khắp đều thấm nhuận
Trừ sạch nóng bức, được mát mẻ
Mưa pháp Như Lai cũng như vậy
Chẳng phải thân tâm Phật sinh ra
Mà khai ngộ được các chúng sinh
Diệt trừ sạch hết lửa tam độc
Pháp thân Như Lai rất thanh tịnh
Tất cả ba cõi không sánh bằng
Vượt ngoài đạo ngôn ngữ thế gian
Bản tánh chẳng có cũng chẳng không
Dầu không chỗ nương có chỗ nương
Như vậy không đến cũng không đi
Như hư không, mặt trời và mộng
Phải quán thể tánh Phật như vậy
Pháp có, pháp không trong ba cõi
Chẳng thể ví dụ cùng Phật được
Ví như chim thú trong rừng núi
Không nương không gian không ở được
Ma-ni ở biển vô lượng màu
Thân Phật sai khác cũng như vậy
Như Lai phi sắc, phi phi sắc
Tùy nghi mà hiện không chỗ trụ
Hư không, chân như và thật tế
Niết-bàn, pháp tánh và tịch diệt
Chỉ có các pháp chân thật này
Khả dĩ hiển thị ở Như Lai
Tâm niệm cõi trần đếm biết được
Nước trong biển cả uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật
Nếu ai nghe biển công đức này
Sinh tâm hoan hỷ và tin tưởng
Chắc chắn sẽ được công đức này
Thận trọng chớ sinh tâm ngờ vực.

*********

Đại Bồ-tát Phổ Hiền sau khi xưng tán công đức thù thắng của Như Lai rồi, lúc bấy giớ mới bảo các Bồ-tát và Thiện Tài:

–Này thiện nam! Công đức của Như Lai, giả sử các Đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như cực vi trần trong không thể nói, không thể nói cõi Phật nối tiếp nhau diễn thuyết, cũng không hết được. Nếu ai muốn thành tựu pháp môn công đức này, phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười?

  1. Lễ kính các Đức Phật.
  2. Khen ngợi các Đức Như Lai.
  3. Sắm sửa nhiều đồ vật cúng dường. 4. Sám hối các nghiệp chướng
  4. Tùy hỷ các công đức.
  5. Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
  6. Thỉnh Phật ở lại đời.
  7. Thường học tập theo Phật.
  8. Luôn luôn tùy thuận chúng sinh.
  9. Hồi hướng khắp tất cả.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Lễ kính như thế nào cho đến hồi hướng như thế nào?

Bồ-tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài:

–Này thiện nam! Nói lễ kính các Đức Phật là như vầy:

–Bao nhiêu các Đức Phật Thế Tôn, nhiều như số vi trần trong tất

cả cõi Phật, ở mười phương ba đời, khắp pháp giới, hư không giới, tôi đều nương vào năng lực hạnh nguyện của Phổ Hiền, phát khởi tâm tin hiểu sâu xa, như trước mắt, là đem thân, ngữ, ý ba nghiệp thanh tịnh thường tu hạnh lễ kính. Nơi mỗi Đức Phật, đều hóa hiện thân nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật. Mỗi thân đều lễ khắp các Đức Phật, nhiều như số cực vi trần trong trong vô lượng vô lượng cõi Phật. Cõi hư không hết, thì sự lễ kính của tôi mới hết. Nhưng cõi hư không chẳng cùng tận nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận. Như vậy cho đến cõi chúng sinh hết, nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết, sự lễ kính của tôi mới hết. Nhưng cõi chúng sinh cho đến phiền não chẳng cùng tận nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, trong từng niệm từng niệm luôn luôn như vậy không gián đoạn ba nghiệp: thân, ngữ, ý không hề chán mỏi mỏi.

Này thiện nam! Nói khen ngợi Đức Như Lai là như vầy.

Có bao nhiêu vi trần trong tất cả các cõi nước ở mười phương ba đời khắp pháp giới, hư không giới, mà trong mỗi vi trần đều có các Đức Phật nhiều như số cực vi trần trong tất cả thế giới. Nơi mỗi Đức Phật, đều có các Bồ-tát vây quanh nhóm họp. Tôi phải dùng sức hiểu biết thông suốt sâu xa, những tri kiến hiện tiền; dùng thiệt căn vi diệu vượt qua cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi căn lưỡi phát xuất vô tận biển âm thanh; mỗi âm thanh phát xuất tất cả biển ngôn từ, xưng tụng khen ngợi tất cả biển công đức của Như Lai, cho đến tận đời vị lai liên tục không dứt, biến khắp pháp giới không thiếu chỗ nào. Như vậy, cõi hư không hết, cõi chúng sinh hết, nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết; thì việc khen ngợi công đức Phật của tôi mới hết. Nhưng cõi hư không cho đến phiền não chẳng cùng tận nên sự của tôi cũng không cùng tận; trong từng niệm từng niệm liên tục không gán đoạn như vậy mà ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Sắm sửa nhiều thứ cúng dường là vầy:

Trong số cực vi trần của tất cả cõi Phật, ở mười phương ba đời, khắp pháp giới, hư không giới; mỗi mỗi chư Phật đều có ở khắp cực vi trần số tất cả thế giới. Nơi mỗi Đức Phật, đều có các Bồ-tát vây quanh nhóm họp. Tôi dùng sức hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền, nên khởi tâm tin hiểu sâu xa những thấy biết trước mắt; rồi sắm sửa đủ các thứ cúng dường thượng diệu mà cúng dường, như là: mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàng lọng cõi trời, mây y phục cõi trời, các thứ hương trời: Hương xoa, hương đốt, hương bột. Các thứ mây trên đây, mỗi mỗi đều như núi Tu-di. Lại thắp các thứ đèn: Đèn-tôlạc, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn như núi Tu-di, dầu trong đèn như nước biển cả; thường đem các thứ cúng dường như trên để cúng dường.

Thiện nam! Trong các thứ cúng dường, cúng dường pháp là hơn hết. Cúng dường pháp là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy, để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, thâu nhận chúng sinh để cúng dường; chịu khổ cho chúng sinh để cúng dường, siêng năng tu học căn lành để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ-tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ-đề để cúng dường.

Thiện nam! Như vô lượng công đức của việc cúng dường trước kia đem sánh với một niệm công đức của pháp cúng dường thì công đức ấy không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không một phần trăm ngàn câu-chi na-do-tha, một phần ca-la, một phần toán, một phần số, một phần ví dụ, một phần ưu-ba-di-sa-đà. Vì sao? Vì các Đức Như Lai tôn trọng chánh pháp. Vì theo đúng như lời Phật dạy mà tu hành thì sẽ thành Phật. Bồ-tát nào thực hành pháp cúng dường là thành tựu sự cúng dường Phật. Tu hành như vậy mới thật là cúng dường. Nên pháp cúng dường là sự cúng dường rộng, là sự cúng dường lớn hơn tất cả. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận; sự cúng dường của tôi mới cùng tận; nhưng cõi hư không cho đến phiền não không cùng tận nên sự cúng dường của tôi cũng không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn mà thân, khẩu, ý nghiệp không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói sám hối nghiệp chướng là như vầy: Bồ-tát tự nghĩ: “Tôi từ vô thỉ kiếp về quá khứ; do tham, sân, si làm cho thân, miệng, ý tạo ra vô lượng, vô biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác này mà có hình tướng, thì khắp cõi hư không cũng không thể chứa đựng hết được. Nay tôi đem cả ba nghiệp trong sạch ra trước các Đức Như Lai và chúng Bồ-tát khắp cực vi trần cõi nước trong pháp giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm nữa, thường an trụ giới trong sạch đầy đủ công đức. Như vậy cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận; thì sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không giới cho đến chúng sinh, phiền não chẳng cùng tận, nên sự sám hối của tôi đây cũng không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn mà ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói tùy hỷ công đức là thế này:

–Bao nhiêu Đức Phật như số vi trần, trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới, mười phương ba đời; từ khi mới phát tâm vì muốn chứng Nhất thiết trí nên siêng tu các việc phước, không tiếc thân mạng, trải qua vô số kiếp như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật. Trong mỗi kiếp, đều thí xả đầu, mắt, tay, chân nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật; làm tất cả những hạnh khó làm như vậy, đầy đủ các môn Ba-la-mật, chứng nhập các trí địa của Bồ-tát, thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề của chư Phật cho đến nhập Niết-bàn, phân chia xá-lợi. Bao nhiêu căn lành ấy, tôi đều tùy hỷ. Cho đến sáu nẻo, bốn loài trong tất cả mười phương, có bao nhiêu công đức, dù nhỏ như bụi trần tôi cũng đều tùy hỷ. Mười phương ba đời tất cả các vị Thanh văn, Bích-chi-phật, Hữu học và Vô học có bao nhiêu công đức, tôi cũng đều tùy hỷ.

Các công đức rộng lớn của chư Bồ-tát, do tu vô lượng hạnh khổ khó làm, để quyết chí cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tôi đều tùy hỷ. Như vậy cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy hỷ này của tôi không có cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn , ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói thỉnh Phật chuyển pháp luân là vầy:

–Trong số cực vi khắp hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả cõi Phật, mỗi cực vi đều có các cõi Phật rộng lớn, nhiều như số cực vi trong vô lượng vô lượng cõi Phật. Mà ở mỗi cõi, trong một niệm, đều có tất cả chư Phật thành Đẳng chánh giác đông như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật, tất cả đều có chúng Bồ-tát nhóm họp vây quanh. Tôi đều đem ba nghiệp thân, khẩu, ý cùng những phương tiện, ân cần thỉnh tất cả chư Phật, nói pháp nhiệm mầu. Như vậy cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự thỉnh Phật chuyển pháp luân chân chánh của tôi không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói thỉnh Phật ở lại đời là như vầy:

–Các Đức Như Lai nhiều như số cực vi trong tất cả cõi Phật, khắp hư không pháp giới mười phương ba đời, cùng các Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, Hữu học, Vô học cho đến tất cả các bậc Thiện tri thức, sắp muốn nhập Niết-bàn; tôi đều cung thỉnh, xin đừng nhập Niết-bàn, xin ở lại đời trong vô số kiếp như cực vi trần tất cả cõi Phật, để cho tất cả chúng sinh được lợi lạc. Như vậy, cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời của tôi đây vẫn không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói thường học tập theo Phật là như vầy:

–Như Đấng Tỳ-lô-giá-na Phật ở cõi Ta-bà đây, từ khi mới phát tâm, tinh tấn không thoái lui, đem vô lượng vô lượng thân mạng ra mà bố thí như lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực để biên chép Kinh điển chất cao như núi Tu-di; vì tôn trọng chánh pháp, nên không tiếc thân mạng, huống là ngôi vua, thành ấp, cung điện, vườn rừng và thực hành bao nhiêu hạnh khó làm khác, cho đến khi ngồi dưới gốc cây mà thành quả Đại Bồ-đề, thị hiện các thứ thần thông, khởi các sự biến hóa, hiện các thân Phật ở trong những chúng hội như trong chúng hội đạo tràng của các vị Đại Bồ-tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thanh văn, Duyên giác, hoặc ở trong đạo tràng của Chuyển luân vương, các vị tiểu vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội cư sĩ, Trưởng giả, Bà-la-môn cùng Sát-đế-lợi; cho đến hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân. Ở trong các chúng hội như vậy, âm thanh tròn đầy mãn như tiếng sấm sét lớn rồi tùy theo căn tánh mong muốn của mỗi hạng, mà giáo hóa cho chúng sinh, đều được thành thục; cho đến thị hiện nhập Niết-bàn. Tất cả hạnh đức như thế, tôi đều học tập theo. Như Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na hiện nay, hoặc như các Đức Phật Như Lai như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không giới mười phương ba đời đều cũng như thế ấy, trong mỗi niệm tôi đều học tập theo. Như vậy, cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự theo học của tôi đây vẫn không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói hằng tùy thuận chúng sinh là như vầy: Có bao nhiêu chúng sinh sai khác, trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không giới, chính là những loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh; hoặc các loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sống; cũng có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sống. Tất cả chúng sinh ấy, với những sự sống khác nhau, sắc thân khác nhau, hình trạng khác nhau, tướng mạo khác nhau, tuổi thọ khác nhau, tộc loại khác nhau, danh hiệu khác nhau, tâm tánh khác nhau, tri kiến khác nhau, ham muốn khác nhau, ý hành khác nhau, oai nghi khác nhau, y phục khác nhau, ăn uống khác nhau, ở trong các thôn xóm, thành ấp, doanh trại cung điện khác nhau cho đến tất cả Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, loài không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân; loài có hình sắc, loài không hình sắc; loài có tâm tưởng, loài không có tâm tưởng; loài chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Các loài như vậy, tôi đều thuận theo tất cả mà thực hành đủ các sự vâng thờ cúng dường như kính cha mẹ, như thờ bậc thầy cùng A-la-hán, cho đến Đức Như Lai đều không khác. Trong các loài ấy; nếu là kẻ có bệnh thì tôi vì họ mà làm lương y. Nếu ai bị lạc đường, thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chân chánh. Nơi đêm tối, tôi vì họ mà làm ánh sáng. Đối với người nghèo thiếu, tôi làm cho họ được kho báu. Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh bình đẳng như vậy.

Vì sao? Vì Bồ-tát nếu có thể tùy thuận chúng sinh, thì chính là tùy thuận cúng dường các Đức Phật; còn tôn trọng và thừa sự chúng sinh thì chính là tôn trọng và thừa sự các Đức Phật. Nếu làm cho chúng sinh vui mừng là làm cho tất cả Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các Đức Như Lai dùng tâm đại Bi làm hình thể. Chúng sinh là nhân để sinh tâm đại Bi, tâm đại Bi là nhân để phát tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề là nhân để thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ví như giữa chốn sa mạc hoang vu, cây chúa to lớn, nếu rễ hút được nước thì cành lá, hoa quả đều được sum suê tươi tốt.

Cây Bồ-đề ở chốn sa mạc sinh tử rộng lớn cũng lại như vậy. Tất cả chúng sinh là gốc rễ, Bồ-tát là hoa, Phật là quả. Dùng nước đại Bi đượm nhuần gốc rễ chúng sinh, thì có thể trổ hoa Bồ-tát trí tuệ và kết thành quả Phật.

Vì sao thế? Bởi các Bồ-tát dùng nước đại Bi làm lợi ích cho chúng sinh thì có thể thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên quả Bồ-đề thuộc về chúng sinh, vì nếu không chúng sinh, tất cả Bồ-tát chắc chắn không thể thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này thiện nam! Đối với nghĩa ấy, ông nên hiểu như vậy.

Bởi đối với chúng sinh mà dùng tâm bình đẳng thì có thể sinh tâm đại Bi đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại Bi mà tùy thuận chúng sinh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Bồ-tát tùy thuận chúng sinh là như thế ấy.

Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận chúng sinh của tôi đây vẫn không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Nói hồi hướng khắp tất cả là như vầy:

–Từ sự lễ kính ban đầu cho đến tùy thuận, có bao nhiêu công đức, tôi đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh, khắp trong tận hư không giới, pháp giới.

Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được an lạc, không có các bệnh khổ, muốn thực hành pháp ác đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu, đóng chặt cửa của tất cả cõi ác, mở bày đường chánh nhân, Thiên, Niết-bàn. Nếu các chúng sinh, do vì trước kia tích tập các nghiệp ác, nên chịu lấy tất cả quả rất khổ, tôi đều chịu thay cho, để chúng sinh được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát tu hạnh hồi hướng là như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự hồi hướng của tôi đây vẫn không cùng tận, trong từng niệm từng niệm liên tục không gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề chán mỏi.

Này thiện nam! Ấy là mười điều nguyện rộng lớn đầy đủ viên mãn của Đại Bồ-tát. Nếu các vị Bồ-tát đối với mười điều nguyện rộng lớn này là tùy thuận tu hành, thì có thể giáo hóa thuần thục tất cả chúng sinh, thì có thể tùy thuận đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì có thể thành tựu đầy đủ các biển hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền. Này thiện nam! Do đó, đối với nghĩa trên đây ông phải hiểu như vậy.

Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, dùng bảy món báu thượng diệu và những sự an lạc tối thắng của trời, người, nhiều đến nỗi dẫy đầy vô lượng, vô biên thế giới như số cực vi trần vô lượng vô lượng cõi Phật khắp mười phương, đem bố thí cho tất cả chúng sinh trong bao nhiêu thế giới, cúng dường cho các Đức Phật và Bồ-tát trong bao nhiêu thế giới, trải qua vô số kiếp như số cực vi trong bao nhiêu cõi Phật liên tục không dứt; cúng dường, bố thí như vậy được bao nhiêu công đức, đem sánh với công đức của người chỉ một lần nghe mười điều nguyện lớn này, thì công đức trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến cũng không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà!

Hoặc có người, dùng tâm tin sâu xa ở nơi mười đại nguyện này, mà thọ trì, đọc tụng cho đến biên chép một bài kệ bốn câu, thì có thể dứt trừ được năm nghiệp vô gián; tất cả thân bệnh, tâm bệnh, khổ não trong thế gian cho đến các ác nghiệp nhiều như số cực vi trong cõi Phật đều được tiêu trừ, tất cả các quân ma, quỷ Dạ-xoa, La-sát, hoặc quỷ Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-xà, Bộ-đa các quỷ thần hung ác, uống máu, ăn thịt, đều phải lánh xa, hoặc là phát tâm gần gũi theo hộ trì.

Vì thế, người nào trì tụng nguyện này thì đi trong thế gian không bị chướng ngại, cũng giống như mặt trăng giữa không trung ra khỏi mây mù; được các Đức Phật khen ngợi, tất cả trời người đều lễ kính, tất cả chúng sinh đều cúng dường. Người này sẽ được thân người với đầy đủ những công đức của Phổ Hiền, chẳng bao lâu sẽ như Bồ-tát Phổ Hiền, mau được thành tựu sắc thân vi diệu, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu. Nếu sinh ở cõi người hay cõi trời, thường ở dòng dõi cao quý, đều có thể hủy hoại tất cả đường ác, xa lìa tất cả bạn dữ, có thể chế phục tất cả ngoại đạo, giải thoát tất cả phiền não, giống như vua sư tử dẹp tan bầy thú. Người ấy lãnh thọ sự cúng dường của tất cả chúng sinh.

Lại nữa, người ấy trong phút cuối đời lúc lâm chung, tất cả căn của thân người thảy đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải xa lìa, tất cả oai lực đều lụi tàn, cho đến các quan phụ tướng đại thần, với cung thành trong ngoài, voi ngựa, xe cộ, trân bảo, kho báu tất cả đều không đem một món nào theo được; chỉ có mười nguyện vương này là chẳng rời người mà thôi! Trong tất cả mọi nơi, nó thường ở trước dẫn đường, chỉ một khoảnh khắc là sinh về cõi cực lạc. Đến cõi cực lạc rồi, người này liền thấy Đức Phật A-di-đà cùng các ngài Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Di-lặc các vị Bồ-tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ và cùng vây quanh Đức Phật.

Bấy giờ, người ấy tự thấy mình từ hoa sen sinh ra, được Đức Phật thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức nado-tha kiếp, khắp cả mười phương vô lượng vô lượng thế giới, người ấy dùng sức trí tuệ, tùy theo tâm của chúng sinh mà làm lợi ích, chẳng bao lâu sẽ được ngồi ở đạo tràng Bồ-đề, nhiếp phục quân ma, thành bậc Đẳng chánh giác, giảng nói pháp mầu vi diệu, có thể làm cho chúng sinh trong những cõi Phật nhiều như số cực vi trần, đều phát tâm Bồ-đề; tùy theo căn tánh của chúng sinh mà dạy dỗ cho thành thục, cho đến tận kiếp vị lai cũng đều làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Này thiện nam! Các chúng sinh kia nếu nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe, thì công đức ấy chỉ có Đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế, các người được nghe mười điều nguyện này, thì chớ sinh tâm nghi hoặc, cần phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên giữ gìn luôn, cho đến biên chép, giảng dạy cho người. Những người như vậy, trong một niệm, tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, được phước vô lượng, vô biên; có thể ở trong biển khổ phiền não mà cứu vớt chúng sinh, làm cho chúng sinh đều được giải thoát, được vãng sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền, muốn nói lại nghĩa trên, ngài quán sát khắp mười phương, rồi nói kệ rằng:

Tất cả chư Phật trong ba đời
Có thế giới khắp mười phương
Tôi đem thân, ngữ, ý trong sạch
Lạy khắp chư Phật không hề sót
Bằng oai lực, hạnh nguyện Phổ hiền
Phân thân hiện khắp trước Như Lai
Một thân lại hiện vô số thân
Một thân lạy khắp vô số Phật
Vô số Phật trong một hạt bụi
Đều an tọa giữa chúng Bồ-tát
Vô tận pháp giới cũng như vậy
Tin sâu chư Phật rất đầy đủ
Nên dùng tất cả biển âm thanh
Phát sinh vô tận lời nói hay
Cho đến tận cùng kiếp vị lai
Khen công đức sâu dày của Phật
Sắm vật hảo hạng: Nào tràng hoa
Âm nhạc, hương, hoa, cùng tán, lọng
Các thứ trang nghiêm đẹp như vậy
Tôi đem cúng dường chư Như Lai
Y phục đẹp nhất, hương thơm nhất
Hương bột, hương xông cùng đèn đuốc
Mỗi món nhiều như núi Tu-di
Tôi đem cúng dường các Đức Phật
Tôi đem tâm thắng giải rộng lớn
Tin sâu tất cả Phật ba đời
Dùng sức hạnh nguyện của Phổ Hiền
Cúng dường khắp các Đức Như Lai.
Xưa tôi đã tạo nhiều nghiệp ác
Đều do ba độc: Tham, sân, si
Theo thân, khẩu, ý phát sinh ra
Nay tôi thảy đều xin sám hối
Tất cả chúng sinh trong mười phương
Hữu học, Vô học và Nhị thừa
Tất cả Như Lai và Bồ-tát
Có bao nhiêu công đức đều tùy hỷ
Các đấng soi đời khắp mười phương
Vừa mới chứng nên đạo Chánh giác
Tôi nay khuyến thỉnh đều tất cả
Chuyển xe chánh pháp diệu vô thượng
Chư Phật nếu muốn nhập Niết-bàn
Tôi xin thành tâm mà mời thỉnh
Cúi mong ở lại lâu trong đời
Cho chúng sinh được nhờ lợi lạc
Bao nhiêu phước đức lễ cúng dường
Thỉnh Phật, trụ thế chuyển xe pháp
Tùy hỷ, sám hối, các căn lành
Hồi hướng chúng sinh cùng Phật đạo
Tôi nay theo học với Như Lai
Tu tập đầy đủ hạnh Phổ hiền
Cúng dường chư Phật trong quá khứ
Cùng với mười phương hiện tại Phật
Và vị lai, những Thiên Nhân Sư
Hết thảy ý muốn đều viên mãn
Nguyện theo học khắp ba đời Phật
Mau chứng nên quả đại Bồ-đề
Tất cả cõi trong khắp mười phương
Rộng lớn, thanh tịnh, trang nghiêm đẹp
Chúng hội vây quanh các Như Lai
Đều ngồi dưới gốc cây Bồ-đề
Bao nhiêu chúng sinh trong mười phương
Nguyện lìa lo khổ, thường an lạc
Để đạt được chánh pháp sâu xa
Diệt sạch phiền não không bỏ xót
Khi tôi vì Bồ-đề mà tu
Ở trong các loài, biết đời trước
Thường được xuất gia, tu tịnh giới
Không nhơ không lỗi cũng không hư
Trời, Rồng, Dạ-xoa, quỷ Bàn trà
Cho đến loài người cùng phi nhân
Bao nhiêu ngôn ngữ của chúng sinh
Đều dùng các âm để nói pháp
Siêng tu Ba-la-mật trong sạch
Tâm Bồ-đề luôn giữ không mất
Dứt trừ chướng nhơ không để thừa
Thành tựu tất cả các diệu hạnh
Đối với các hoặc, nghiệp, cảnh ma
Trong cõi thế gian, được giải thoát
Cũng như hoa sen không dính nước
Mặt trời, mặt trăng chẳng trụ không
Dứt hết tất cả khổ ác đạo
Ban bố an vui cho chúng sinh
Như thế trải qua vô số kiếp
Lợi ích mười phương không cùng tận
Tôi thường tùy thuận các chúng sinh
Cho đến tận các kiếp vị lai
Thường tu hạnh lớn của Phổ Hiền
Viên mãn quả Vô thượng Bồ-đề
Những người cùng tôi đồng một hạnh
Ở khắp mọi nơi đồng nhóm họp
Nghiệp thân, khẩu, ý đều đồng nhau
Cùng nhau tu học các hạnh nguyện
Thiện tri thức cho tôi lợi ích
Chỉ bày cho tôi, hạnh Phổ hiền
Nguyện cùng tôi, thường chung hội họp
Đối với tôi tâm luôn hoan hỷ
Nguyện thường diện kiến các Như Lai
Và hàng Phật tử vây quanh Phật
Tôi đều sửa sang cúng dường họ
Đến kiếp vị lai không nhàm mỏi
Nguyện giữ gìn pháp mầu Như Lai
Rõ bày tất cả hạnh Bồ-đề
Rốt ráo thanh tịnh đạo Phổ hiền
Đến kiếp vị lai vẫn tu tập
Tôi ở trong tất cả các cõi
Tu phước vô tận, trí vô tận
Định, tuệ, phương tiện và giải thoát
Đạt được vô tận kho công đức
Trong một trần có trần số cõi
Mỗi mỗi cõi có nan tư Phật
Mỗi mỗi Phật ở trong chúng hội.
Tôi thấy thường giảng hạnh Bồ-đề
Cùng khắp mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật và cõi nước nhiều vô lượng
Tôi tu hành khắp vô số kiếp
Tiếng của Như Lai thường thanh tịnh
Một lời đủ cả biển âm thanh
Thuận tâm yêu thích tiếng chúng sinh
Biện tài của Phật đều ban khắp
Tất cả Như Lai trong ba đời
Dùng những ngữ ngôn vô tận kia
Luôn chuyển lý thú xe pháp diệu
Nhờ trí sâu tôi đều lãnh thọ
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Các kiếp đều thâu làm một niệm
Tất cả những kiếp trong ba đời
Chỉ khoảng một niệm tôi đều nhập
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các Đấng Nhân Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực
Trong số cực vi đầu sợi lông
Xuất hiện cõi trang nghiêm ba đời
Các cõi mười phương những đầu lông
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh
Vị lai, các Đấng Chiếu Thế Đăng
Thành đạo chuyển pháp độ chúng sinh
Phật sự viên mãn hiện Niết-bàn
Tôi đều đến đó để thân cận
Sức thần thông mau chóng biến khắp
Sức Phổ môn nhập khắp Đại thừa
Sức trí hạnh khắp tu công đức
Sức oai thần che khắp đại Bi
Sức phước trang nghiêm đều thanh tịnh
Sức trí tuệ không nương không đắm
Sức định, tuệ, phương tiện, oai thần
Sức thường chứa đạo Bồ-đề
Sức thanh tịnh thảy đều thiện nghiệp
Sức xô dẹp tất cả phiền não
Sức nhiếp phục tất cả loài ma
Sức viên mãn các hạnh Phổ hiền
Thường hay nghiêm tịnh các cõi nước
Giải thoát tất cả biển chúng sinh
Phân biệt rành rẽ các biển pháp
Có thể thâm nhập biển trí tuệ
Các biển công hạnh đều thanh tịnh
Viên mãn tất cả biển các nguyện
Gần gũi cúng dường các Đức Phật
Tu hành vô lượng kiếp không mệt
Tất cả Như Lai trong ba đời
Những hạnh nguyện Bồ-đề tối thắng
Tôi đều cúng dường tu tập đủ
Dùng hạnh Phổ hiền ngộ Bồ-đề
Tất cả Như Lai có trưởng tử
Danh hiệu ngài là Đức Phổ Hiền
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Nguyện các trí hạnh đều như đó
Nguyện thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh
Các công hạnh cõi nước cũng như vậy.
Trí tuệ ấy gọi rằng Phổ Hiền
Tôi nguyện cùng ngài đều đồng đẳng
Tôi biến khắp hạnh Phổ hiền tịnh
Các hạnh nguyện lớn của Văn-thù
Đầy sự nghiệp kia không thừa sót
Đến kiếp vị lai thường không mỏi
Tôi tu các hạnh đều vô lượng
Được các công đức cũng không lường
An trụ trong những hạnh vô lượng
Thấu suốt tất cả sức thần thông
Sức trí mạnh mẽ của Văn-thù
Tuệ hạnh Phổ hiền cũng như vậy
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Thường theo các ngài mà tu học
Chư Phật ba đời luôn khen ngợi
Các hạnh nguyện tối thắng như vậy
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Để được hạnh Phổ hiền thù thắng
Nguyện trong lúc tôi sắp qua đời
Không còn tất cả các chướng ngại
Được gặp Đức Phật A-di-đà
Liền được vãng sinh cõi Cực lạc
Tôi đã vãng sinh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu hạnh nguyện này
Tất cả tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sinh
Chúng hội Di-đà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Được thấy Đức Phật Vô Lượng Quang
Thọ ký cho tôi đạo Bồ-đề
Nhờ Đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí tuệ rộng lớn khắp mười phương
Lợi lạc tất cả cõi chúng sinh
Cho đến hư không thế giới tận
Chúng sinh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng các pháp ấy không cùng tận
Nên hạnh Nguyện cho tôi hằng vô tận
Vô biên cõi nước ở mười phương
Trang nghiêm các báu cúng dường Phật
Tối thắng an lạc thí nhân thiên
Trải kiếp vi trần luôn cúng thí.
Nếu có người với nguyện vương này
Một lần nghe liền sinh tín kính
Mong cầu khát ngưỡng quả Bồ-đề
Công đức được nhiều hơn tài thí
Nhờ đấy thường xa các bạn ác
Thoát khỏi tất cả ba đường dữ
Mau thấy Đức Phật Vô Lượng Quang
Đầy đủ nguyện Phổ hiền tối thắng
Người này tuổi thọ được dài lâu
Sinh trong kiếp người tôn quý
Người này không lâu sẽ thành tựu
Công hạnh như Bồ-tát Phổ Hiền
Ngày trước vì không sức trí tuệ
Tạo ra năm nghiệp ác vô gián
Chuyên tụng nguyện lớn của Phổ Hiền
Tất cả tội ác tiêu diệt mau
Dòng họ chủng loài cùng dung sắc
Đều đầy đủ tướng tốt trí tuệ
Các ma, ngoại đạo không phá được
Ưng chịu cúng dường cho ba cõi
Tất mau đến cội Bồ-đề vương
Ngồi đó mà an hàng phục chúng ma
Thành Đẳng Chánh Giác chuyển xe pháp
Lợi lạc tất cả các chúng sinh
Nếu người với nguyện Phổ hiền này
Đọc, tụng, thọ trì và giảng nói
Quả báo chỉ Phật mới biết được
Quyết định sẽ được đạo Bồ-đề
Nếu người tụng nguyện Phổ hiền này
Tôi nói chút ít phần căn lành
Một niệm tất cả đều tròn đầy
Nguyện thành tựu thanh tịnh chúng sinh
Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Nguyện các chúng sinh đang chìm đắm
Mau sinh cõi Phật Vô Lượng Quang.

Lúc ở trước Đức Như Lai, Đại Bồ-tát Phổ Hiền nói bài kệ hạnh nguyện thanh tịnh này rồi, Đồng tử Thiện Tài vui mừng vô cùng, các Bồ-tát cũng đều hoan hỷ, Đức Như Lai khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay!

Lúc Đức Thế Tôn cùng hàng Thánh chúng Đại Bồ-tát, diễn nói pháp môn quả thắng cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn như vậy, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm bậc dẫn đầu trong các vị Đại Bồ-tát và có sáu ngàn thầy Tỳ-kheo đã được thành thục: Đức Di-lặc Bồ-tát làm bậc dẫn đầu trong các vị Đại Bồ-tát ở hiền kiếp. Đức Bồ-tát Vô Cấu Phổ Hiền đứng đầu các vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ trụ quán đỉnh vị, cùng với các vị Đại Bồ-tát đông như số vi trần trong các thế giới ở mười phương đều đến nhóm họp. Trong hàng đại Thanh văn thì có ngài Đại trí Xá-lợi-phất, ngài Mục-kiền-liên làm thượng thủ cùng các bậc chúa tể của hàng trời, người và đầy đủ các chúng: Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân… tất cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều rất vui mừng, đồng tín thọ phụng hành.

Hết

Trọn bộ 40 Quyển

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8