Trang 2 (tiếp theo)

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài tùy thuận tư duy, chuyên tâm quán niệm pháp môn trang nghiêm biện tài vi diệu của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm biển từ ngữ giáo hóa của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm phương tiện vi tế của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm sự giải thoát thanh tịnh của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm ánh sáng thiện căn của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm thiện xảo thanh tịnh của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm trí nhiếp hóa chúng sinh của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm trí lực rộng lớn của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm sự dũng mãnh bất thoái của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm chí lạc thù thắng của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm vô lượng công đức của các Bồ-tát, chuyên tâm quán niệm pháp môn vô ngại của các Bồ-tát. Đồng tử tư duy như thế rồi, phát thệ nguyện rộng lớn kiên cố, tinh tấn dũng mãnh làm giáp vị, luôn tự trang nghiêm bằng sức chánh tín, chuyên cần cầu chánh pháp không biết mệt mỏi, chí nguyện kiên cố, giống như Kim cương và Na-la-diên không ai có thể hủy hoại; luôn kính thuận tu hành theo sự chỉ dạy của các Thiện tri thức không gián đoạn; tâm không nhiễm chấp các cảnh giới, diệu hạnh phổ môn đều hiện rõ, ánh sáng trí chiếu khắp các biển pháp; viên mãn các tầng bậc của pháp môn Tổng trì, thấy khắp mười phương, biết rõ giới hạn của các pháp; dùng trí vô ngại trang nghiêm khắp nơi, chứng ngộ pháp tánh vô y thanh tịnh, hiển thị pháp môn vô đối vô nhị; vượt qua hết thảy để đến bờ giải thoát tối thắng, nhập vào môn tịnh trí, vĩnh viễn xa lìa các tưởng; có khả năng quán chiếu sâu sắc vào thực tế của các pháp; biết hết các pháp môn khác biệt trong ba đời; đi khắp các thế giới sai biệt trong mười phương; thấy hết các thân Phật không đồng nhất trong mười phương; nhập vào các thời các kiếp khác nhau trong mười phương; quán khắp những nghiệp tánh khác nhau trong mười phương; chuyển toàn bộ những bánh xe pháp khác biệt của chư Phật, trí Tam-muội rộng lớn chiếu sáng nơi tâm; tâm luôn nhập khắp vào các cảnh giới bình đẳng; ánh sáng trí tuệ của Như Lai chiếu sáng trên thân này; các dòng nước trí tuôn hoài không dứt; cả thân và tâm đều có uy lực tự tại thường không xả bỏ, tất cả Phật pháp; nhờ tín lực sâu sắc, nên thường được oai lực của chư Phật gia trì; nhờ sức tịnh tuệ; nên được ánh sáng của các Đức Phật chiếu đến, nhờ sức thệ nguyện, nên thân nguyện bao trùm được khắp tất cả cõi, tất cả pháp giới đều hòa nhập vào thân này.

Trải mười hai năm liên tục du hành, dừng chân tại thành Trụ Lâm, Đồng tử đi khắp nơi hỏi thăm để tìm Trưởng giả Giải Thoát. Gặp Trưởng giả rồi, Thiện Tài cung kính đảnh lễ sát chân vị ấy rồi đứng dậy chắp tay thưa:

–Thưa Thánh giả! Con nay được hội ngộ cùng Thiện tri thức; được gặp Ngài là một lợi ích lớn cho con. Vì sao? Vì Thiện tri thức ít xuất hiện, khó được nghe tên, khó được gặp gỡ, khó được thân cận, khó được tiếp đón, khó được sống chung, khó được hầu cận, khó làm cho vui, khó được khai ngộ, khó được đi theo. Nhưng nay con lại được gặp gỡ chân Thiện tri thức tức là con đã được lợi ích tối thắng; như thế-là tuần tự con đã đạt được cái khó trong cái khó.

Thưa Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Bồ-đề vô thượng vì muốn gặp gỡ các Đức Phật ra đời, vì muốn nghe hết danh hiệu của tất cả chư Phật, vì muốn thấy hết thảy các thân của tất cả chư Phật, vì muốn đến khắp thế giới của tất cả chư Phật, vì muốn vào pháp hội của tất cả chư Phật, vì muốn quán sát khắp cảnh giới của tất cả chư Phật, vì muốn biết hết thảy ý của tất cả chư Phật, vì muốn được hết thảy các Đức Phật thọ ký, vì muốn nhờ oai lực của tất cả chư Phật, vì muốn phụng sự tất cả chư Phật, vì muốn chứng ngộ hết tất cả Phật pháp, vì muốn tùy thuận tâm của tất cả chư Phật, vì muốn viên mãn nguyện của tất cả chư Phật, vì muốn nắm bắt được tất cả Tam-muội, vì muốn bừng sáng tất cả trí Phật, vì muốn làm trang nghiêm tất cả pháp hội của chư Phật, vì muốn tu toàn bộ bản hạnh của chư Phật, vì muốn thấy sự hiện thần thông của tất cả chư Phật, vì muốn chứng đủ các trí lực của chư Phật, vì muốn sự thanh tịnh vô úy của chư Phật, vì muốn nghe giáo pháp của tất cả chư Phật, vì muốn thọ trì pháp luân của chư Phật, vì muốn cầu phân tích tất cả Phật pháp, vì muốn trụ trì biển giáo pháp của chư Phật, vì muốn bảo vệ thành trì giáo pháp của chư Phật, vì muốn quán sát pháp giác ngộ của chư Phật, vì muốn liễu ngộ giáo pháp do Đức Phật chứng được, vì muốn thâm nhập pháp của Đức Phật đã biết, vì muốn thấy tất cả Phật pháp đều sinh ra từ thân mình, vì muốn cùng một thể với hết thảy các Bồ-tát, vì muốn đồng loại với các Bồ-tát, vì muốn ngang bằng thiện căn với các Bồ-tát, vì muốn quán chiếu sở học của các Bồ-tát, vì muốn cùng tu tập tịnh hạnh với các Bồ-tát, vì muốn thành tựu sự tu tập như các vị Bồ-tát, vì muốn viên mãn Ba-la-mật của các Bồ-tát, vì muốn phát nguyện thanh tịnh của các Bồ-tát, vì muốn nhập vào biển đại nguyện của các Bồ-tát, vì muốn đầy đủ sức đại Bi của các Bồ-tát, vì muốn đạt đến chỗ cứu cánh của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng oai thần khác nhau của chư Phật và Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng ánh sáng trí tuệ vô tận của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng Tam-muội công đức rộng lớn của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng oai lực vô lượng của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng thần thông vô lượng của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng đại thần biến không cùng tận của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng đại tự tại thường hiện hữu của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng sắc tịnh diệu để trang nghiêm của các Bồ-tát, vì muốn đạt được tạng đại Từ bi của các Bồ-tát, để giáo hóa chúng sinh, giúp họ đạt đến bờ giải thoát rốt ráo.

Bạch Thánh giả! Hôm nay con đem tâm như thế, sở thích như thế, mong muốn như thế, cần cầu như thế, tư duy như thế, ngưỡng mộ như thế, tôn trọng như thế, phương tiện như thế, dũng mãnh như thế, trọn vẹn như thế, thật khiêm nhường như thế, đến chỗ Thánh giả Thiện tri thức. Con nghe nói Thánh giả là người khéo léo dạy dỗ các chúng Bồ-tát; có khả năng dùng phương tiện mở cảnh giới Phật, chỉ đường cho họ; chỉ họ đâu là bến bờ, bắt cho họ nhịp cầu; trao cho họ thuyền bè; làm cho họ đều cắt đứt được lưới ngu si; dứt trừ được chướng điên đảo, nhổ bỏ mũi tên nghi hoặc; rửa sạch bụi phiền não, chiếu sáng rừng tâm, phá tâm mê chấp, làm cho tâm trong sạch, sửa tâm dua nịnh, dập tắt tâm nhiệt não, làm cho tâm mát mẻ; ngược dòng sinh tử đi vào đường Niết-bàn, làm cho tâm xa lìa các ngục tù kiến chấp, làm cho tâm giải thoát sự tham dục trói buộc nơi ái nhiễm, làm cho tâm biến chuyển như ý, nhập vào tánh Nhất thiết trí; giúp họ sớm đến thành trì giáo pháp rộng lớn, giúp họ có tâm đại Bi vô thượng vững chắc, giúp họ an trụ hoàn toàn vào đại Từ, giúp họ phát sinh hạnh Bồ-tát, giúp họ tu tập các môn Tam-muội, giúp họ ngộ nhập địa vị của bậc Thánh đã chứng đắc, giúp họ quán sát bản tánh các pháp, giúp họ tăng trưởng nguyện lực của Phổ Hiền và có tâm bình đẳng đối với các chúng sinh. Cúi xin Thánh giả thương tưởng thuyết giảng cho con: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát để con theo đó tu tập, sớm được thanh tịnh, sớm được thông hiểu đầy đủ trọn vẹn.

Khi ấy, nhờ vào sức thiện căn đã tích tập từ quá khứ; nhờ vào sức oai thần của Như Lai trong hiện tại, sức nhớ nghĩ của Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, nhờ vào sức hạnh nguyện căn bản của tất cả Thiện tri thức khắp mười phương gia trì; Trưởng giả Giải Thoát tức thì nhập vào môn Tam-muội thù thắng của Bồ-tát. Tam-muội ấy có tên là Toàn Tổng trì, nhiếp khắp tất cả cõi Phật vô biên. Nhập Tam-muội này rồi, thân của vị ấy thanh tịnh ánh sáng rực rỡ; ở trong thân vị ấy, hiện ra vô số chư Phật nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật khắp mười phương và các cõi Phật ấy thì thanh tịnh trang nghiêm; có đầy đủ ánh sáng, đạo tràng chúng hội và cũng hiện ra các chúng Bồ-tát đồng hành thuở xưa với Đức Phật ấy như: Thấy thần thông biến hóa khi xưa, thệ nguyện rộng lớn đã phát khi xưa, pháp trợ đạo đã tu khi xưa, các đạo xuất ly đã tịnh khi xưa, sự thanh tịnh trang nghiêm đã có khi xưa, các hạnh Bồ-tát đã tu khi xưa. Cũng thấy được Đức Phật ấy thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân mầu nhiệm, giáo hóa chúng sinh. Tất cả đều hiện rõ ràng nơi thân không bị chướng ngại. Cũng ở trong thân này, đều hiện các thân có ở khắp tất cả cõi; không đâu là không có; thân và cõi Phật hổ tương, nhiếp nhập, không bị trở ngại, đủ loại hình sắc nhưng không đến không đi, tất cả đều riêng biệt, đứng theo thứ tự không bị lẫn lộn; đó là nhiều cõi Phật trang nghiêm khác nhau, các loại chúng hội các quyến thuộc đầy đủ, đủ các oai nghi, cung kính, cúng dường, đủ các loại đạo tràng được trang nghiêm trong đó các Đức Phật thị hiện đủ các thần thông, du hý, kiến tạo đủ các đạo phẩm khác nhau, biểu hiện đủ các đại nguyện rộng lớn, đủ các thần lực trang nghiêm khắp nơi. Hoặc một thế giới, thị hiện sinh lên cung trời Đâu-suất, để làm Phật sự; hoặc trong một thế giới, tịch ở Đâu-suất được sinh xuống cung vua, để làm Phật sự; hoặc hiện các loại thần biến khi còn nằm trong thai mẹ; hoặc hiện đủ loại tướng tốt lúc mới đản sinh; hoặc hiện đủ các trò đùa khi còn thơ ấu; hoặc hiện đồng tử ở nơi nội cung; hoặc thị hiện xuất gia thực hành khổ hạnh; hoặc đến giác thọ ngồi như đạo tràng; hoặc hiện thần thông phá chư ma quân; hoặc hiện tự tại thành đạo Vô thượng; hoặc hiện các vua khuyến thỉnh thuyết pháp; hoặc thị hiện nhận lời chuyển pháp luân mầu nhiệm; hoặc hiện thiên, long, Càn-thát-bà cung kính vây quanh, thường theo hộ vệ; hoặc hiện thân mình vào khắp các cảnh giới; hoặc đến trụ chỗ ở của tất cả chúng sinh; hoặc có lúc thị hiện độ chúng sinh rồi nhập Niết-bàn, làm cho thế gian thêm mến mộ; hoặc hiện xá-lợi toàn thân thành xá-lợi nhuyễn phân chia cho trời người để họ tăng phần phước đức; hoặc xây tháp miếu lớn khắp tất cả các cõi trời người để trang nghiêm cảnh giới cõi nước và làm lợi ích chúng sinh. Các Đức Như Lai ấy ở thế giới khác nhau, sinh trong các nẻo khác nhau, các loài khác nhau, chúng hội khác nhau, căn khí khác nhau, sở thích khác nhau, hạnh nghiệp khác nhau, tin hiểu khác nhau, căn lực khác nhau, tu tập khác nhau, hạnh nguyện khác nhau, giác ngộ khác nhau, tâm tưởng khác nhau, tập khí phiền não và tùy miên khác nhau. Trong các biển chúng sinh như thế, đều nhờ oai lực của Phật, hiện thần thông đến khắp mọi nơi, để thi hành Phật sự, như: Hoặc ở nơi đạo tràng nhiều như cực vi trần, hoặc ở nơi đạo tràng rộng lớn vô biên, hoặc ở nơi đạo tràng bằng một do-tuần, hoặc ở nơi đạo tràng bằng mười dotuần… cho đến ở nơi đạo tràng chúng hội mà số lượng nhiều như số cực vi trần không thể nói trong biển thế giới ở trong không thể nói các cõi Phật; ở đó dùng đủ các thần thông, đủ loại âm thanh, đủ loại từ ngữ, đủ các biện tài, đủ cách giải thích và dùng đủ các tiếng rống đại Sư tử vô úy ở trong biển Thánh đế của Như Lai; vì các loại chúng sinh mà diễn thuyết vô số giáo pháp, khai thị đủ các môn Tổng trì, chuyển toàn bộ pháp luân của Như Lai, thọ ký cho tất cả Bồ-tát. Những pháp môn và âm thanh, ngôn ngữ mà Đức Như Lai ấy đã thuyết; Đồng tử Thiện Tài đều có khả năng lắng nghe tiếp nhận, ghi nhớ không quên, tư duy quán sát, cũng thấy được sực thần biến tự tại của các môn Tammuội chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồ-tát. Hiện tướng ấy rồi, bấy giờ, Trưởng giả Giải Thoát bình thản xuất định, bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta đã tự tại ra vào môn giải thoát trang nghiêm sâu xa vô ngại này. Thiện nam! Trong lúc an trụ môn giải thoát ấy ta liền thấy thế giới có ánh sáng màu vàng Diêm-phù-đàn ở phương Đông có Đức Như Lai Long Tự Tại Vương Ứng Chánh Đẳng Giác đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na tạng làm thượng thủ; lại thấy thế giới Tốc tật cụ túc chư lực ở phương Nam, có Đức Như Lai Biến Phú Phổ Hương Vương Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Tư Duy Tâm vương làm thượng thủ; lại thấy thế giới Cụ túc nhất thiết hương viên mãn quang ở phương Tây, có Đức Như Lai Tu-di Đăng Vương Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Vô Ngại Tâm làm thượng thủ; lại thấy thế giới Ca-sa tràng ở phương Bắc, có Đức Như Lai Kim Cương Kiên Cố Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Kim Cương Du Bộ Dũng Mãnh Hạnh làm thượng thủ; lại thấy thế giới Nhất thiết thù thắng diệu bảo ở Đông bắc, có Đức Như Lai Vô Sở Đắc Cảnh Giới Nhãn Tỳ-lô-giá-na Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Vô Sở Đắc Diệu Biến Hóa làm thượng thủ; lại thấy thế giới Tự tại hương diễm quang âm ở Đông nam, có Đức Như Lai Hương Đăng Vương Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Kim Cương Diệm Tuệ Tự Tại Diệu Âm Vương làm thượng thủ; lại thấy thế giới Trí nhật diệm phổ quang minh ở Tây nam, có Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na Phổ Trí Thanh Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Phổ Diệm Thùy Kế Biến Hiện Hương Hoa Quang làm thượng thủ; lại thấy thế giới Phổ thanh tịnh diệu hương trang nghiêm tạng ở Tây bắc, có Đức Như Lai Vô Lượng Công Đức Hải Tràng Viên Mãn Quang Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Vô Ngại Oai Lực Thân Trí Tràng Vương làm thượng thủ; lại thấy thế giới Sư tử đằng diệm giải thoát quang minh ở Hạ phương, có Đức Như Lai Vô Ngại Pháp Giới Tràng Cụ Túc Trí Tuệ Diệm Quang Ứng Chánh Đẳng Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Pháp Giới Trí Diệm Quang Minh Biến Chiếu Thế Giới Tràng làm thượng thủ; lại thấy thế giới Quang minh biến chiếu thứ đệ xuất hiện vô tận Phật, có Đức Như Lai Danh Xưng Vô Biên Vô Ngại Trí Tuệ Viên Mãn Quang Tràng Vương Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh, Bồ-tát Vô Ngại Tinh Tấn Lực Pháp Giới Trí Tràng Vương làm thượng thủ. Thiện nam! Ta thấy có mười Đức Thế Tôn làm thượng thủ như thế cho đến thấy chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như số cực vi trần trong mười cõi Phật, ở khắp mười phương và có những đạo tràng chúng hội vây quanh; mỗi vị đều có Bồ-tát làm thượng thủ và các quyến thuộc hiển hiện rõ ràng, nhưng toàn thể Đức Như Lai ở thế giới ấy, không đến đây; bản thân ta cũng không đến đó.

Thiện nam! Nếu ta muốn thấy Đức Như Lai Vô Lượng Thọ ở thế giới An lạc; thì được thấy ngay; hoặc muốn thấy Đức Như Lai Nguyệt Trí, ở thế giới Bạch chiên-đàn hương; Đức Như Lai Bảo Quang Minh, ở thế giới Diệu hương; Đức Như Lai Bảo Liên Hoa Quang Minh, ở thế giới Liên hoa; Đức Như Lai Tịch Tịnh Quang, ở thế giới Diệu kim quang; Đức Như Lai Bất Động, ở thế giới Diệu hỷ; Đức Như Lai Sư Tử Tướng, ở thế giới Thiện trụ; Đức Như Lai Nguyệt Giác, ở thế giới Cảnh quang minh; Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na, ở thế giới Cát tường sư tử bảo trang nghiêm; các Đức Như Lai ở khắp tất cả các thế giới trong mười phương như thế, nếu ta muốn thấy thì được thấy ngay; nhưng các Đức Như Lai ấy, không phải đến đây, ta cũng không đến đó.

Thiện nam! Nếu như ta muốn thấy hết chư Phật trong tất cả kiếp cùng tận đời quá khứ và chúng hội đạo tràng, thần thông biến hóa, điều phục chúng sinh và những cách trang nghiêm trong cõi Phật ấy; hoặc muốn thấy các Đức Như Lai, trong tất cả kiếp hải ở vô tận đời vị lai và chúng hội đạo tràng, điều phục chúng sinh, thần thông biến hóa cùng các Bồ-tát làm trang nghiêm cõi nước; tất cả như thế, ta đều thấy được theo ý muốn. Các Đức Như Lai, các kiếp và tất cả cõi Phật được trang nghiêm với đủ cách khác nhau ấy, không đến đây, tâm ta cũng không vào quá khứ, vị lai, nhưng việc ta thấy đều như hiện tại.

Thiện nam! Ta có khả năng biết rõ tất cả Đức Như Lai trong ba đời ở khắp mười phương và các Bồ-tát, cùng các việc như trang nghiêm cõi nước và thần thông không từ đâu đến, cũng chẳng về đâu, không có nơi đi cũng không có điểm trụ và biết chính mình cũng không đi không đến, không có chỗ đi, chỗ trụ. Vì sao? Vì ta biết các Đức Phật và tâm của mình đều như mộng, cảnh thấy trong mộng do phân biệt mà sinh ra, thấy các Đức Phật do tâm sinh khởi, lại biết tâm ta như nước trong bình; hiểu rõ các pháp như bóng dưới nước; lại biết tâm mình như trò huyễn thuật; biết tất cả các pháp do huyễn tạo ra; lại biết chư Phật, Bồ-tát và tâm của mình tất cả đều như âm vang. Ví như khoảng không nơi hang động tùy tiếng mà phát tiếng vang, hiểu rõ tâm mình do suy nghĩ mà được thấy Phật. Ta biết như vậy, ghi nhớ như vậy, việc thấy được các Đức Phật đều nhờ vào tâm của mình.

Thiện nam! Ông nên biết, Bồ-tát tu tập các pháp Phật, làm thanh tịnh các cõi Phật, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sinh, phát đại thệ nguyện: Nhập Nhất thiết trí, tự tại diệu dụng với pháp môn giải thoát chẳng thể nghĩ bàn; đắc quả Bồ-đề, hiện đại thần thông đến khắp tất cả pháp giới trong mười phương, dùng trí vi tế nhập khắp các kiếp. Như thế, tất cả pháp của Phật và Bồ-tát đều do tự tâm mình.

Thiện nam! Do các nghiệp hư vọng tích tập nên gọi là tâm; lấy Mạt-na làm tư lượng, dùng ý thức để phân biệt. Năm thức như: Nhãn phân biệt các cảnh không đồng. Phàm phu ngu muội không thể hiểu biết, sợ lão bệnh tử, cầu mong nhập Niết-bàn, nhưng sinh tử và Niếtbàn, cả hai họ đều không biết, mà chỉ vọng khởi phân biệt tất cả cảnh. Người phàm phu ngu muội cho các căn vị lai đoạn diệt cảnh giới năm trần là Niết-bàn. Trong khi đó chư Phật và Bồ-tát tự chứng ngộ, chuyển A-lại-da thành Trí bản giác.

Thiện nam! Tất cả phàm phu ngu muội, đều mê lầm phương tiện của Phật, nên chấp có ba thừa; không biết tam giới là do tâm sinh; không biết hết thảy pháp Phật trong ba đời đều tự tâm lương tri hiện thực, thấy năm trần bên ngoài chấp là có thật, giống như bò, dê không có khả năng hiểu biết, nên ở trong xe sinh tử mà không thể nào thoát ra được.

Thiện nam! Đức Phật thuyết các pháp là không sinh, không diệt, cũng không có ba đời. Vì sao? Ví như tâm ta hiện cảnh giới của năm trần nhưng thật ra không có, vì các pháp có và không ấy vốn không sinh khởi, ví như sừng thỏ. Bậc thánh, tự mình ngộ cảnh giới như thế.

Thiện nam! Phàm phu ngu si vọng khởi phân biệt, trong không chấp có, trong có chấp không, nắm giữ các hành tướng của A-lại-da, nên rơi vào hai loại kiến chấp sinh và diệt, không rõ tự tâm nên sinh ra phân biệt.

Thiện nam! Ông nên biết rằng tự tâm chính là pháp của tất cả chư Phật và Bồ-tát; nhờ biết được tự tâm là Phật pháp nên có khả năng làm thanh tịnh tất cả cõi và nhập vào các kiếp.

Thế nên, thiện nam! Ông nên dùng thiện pháp hỗ trợ cho tâm mình, nên dùng mưa pháp để thấm nhuần tâm mình; nên dùng diệu pháp tắm gội tâm mình, nên dùng tinh tấn làm vững chắc tâm mình, nên dùng nhẫn nhục làm cho tâm mình khiêm nhường, nên dùng Thiền định làm tâm mình thanh tịnh, nên dùng trí tuệ làm cho tâm mình sáng suốt, nên dùng đức của Phật làm cho tâm mình phát triển, nên dùng bình đẳng mà mở mang tâm mình và nên dùng mười lực, bốn Vô sở úy soi sáng tâm mình.

Thiện nam! Ta chỉ được ra vào tự tại được pháp môn giải thoát trang nghiêm, sâu xa, vô ngại này của Như Lai; còn như các Đại Bồtát khác an trụ trí vô ngại, thực hành hạnh vô ngại, thông đạt các cảnh giới, hiện tại thường được thấy Tam-muội rộng lớn của các Đức Phật, an trụ vào môn thành Chánh giác không nhập cảnh giới Niết-bàn của các Đức Phật, biết rõ khắp những cảnh giới của các biển Tam-muội, có thể tùy thuận quán sát các pháp trong ba đời đều bình đẳng, phân thân đến khắp tất cả sát hải, nhập vào cảnh giới không phân biệt của chư Phật, tất cả cảnh giới đều hiện rõ, thường hay quán sát tất cả các pháp, dùng trí viên mãn thuyết giảng và thực hành hết thảy các công đức và hạnh nguyện của các Bồ-tát, trong thân các vị ấy, đều có thể hiện rõ tướng thành hoại của các thế giới, nhưng tự thân và thế giới kia không sinh hai tướng. Diệu hạnh của các vị ấy thì như thế, còn ta không làm sao có thể biết và nói cho cùng.

Thiện nam! Từ đây đến phương Nam, bên bờ Diêm-phù-đề, có một trú xứ, tên Biến vô cấu, ở đó có vị Tỳ-kheo tên Hải Tràng. Ông nên đến đó tham vấn: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ Trưởng giả, nhiễu quanh bên phải, quán sát, tư duy chiêm ngưỡng, tán dương, khen ngợi, vô lượng công đức, tưởng niệm sự cứu hộ của Thiện tri thức, thường tỏ niềm vui với Thiện tri thức, nương Thiện tri thức mà phát hạnh nguyện; nhờ Thiện tri thức làm cho ta tỏ ngộ; kính trọng Thiện tri thức; tâm không trái ý; làm việc với Thiện tri thức, không dối nịnh; thờ Thiện tri thức bằng tấm lòng trung trực; luôn làm vừa ý Thiện tri thức; xem Thiện tri thức như mẹ hiền, vì giúp cho ta xa lìa tất cả điên đảo; xem Thiện tri thức như cha lành vì giúp ta thành tựu thiện pháp của Bồ-tát. Nghĩ như thế rồi càng kính mến hơn, bùi ngùi rơi lệ từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài chuyên tâm ghi nhớ lời dạy của Trưởng giả ấy và quán theo đúng như thuyết để tu hành, nhớ kỹ môn giải thoát của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; tư duy môn ánh sáng trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; thâm nhập môn thứ tự pháp giới chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; tỏ ngộ môn nhập khắp các pháp chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; thấy rõ thần biến của Đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; quán sát sự nhập khắp các cõi Phật chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; tin tưởng sâu xa năng lực Phật trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; quán chiếu Tam-muội Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; thông suốt những thế giới khác nhau chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; tu tập tịnh nghiệp Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy; phát sinh thệ nguyện rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của vị ấy.

Quán sát như thế rồi thông thả đi về phương Nam, đến làng Vô cấu, thuộc bờ Diêm-phù-đề, tìm kiếm Tỳ-kheo Hải Tràng khắp nơi, chợt gặp vị ấy đang ngồi kiết già, ở cạnh khu rừng kinh hành, thân ngay thẳng chánh niệm, lìa cả hơi thở ra vào, không phân biệt tầm tư giác quán, an trụ nơi Tam-muội rộng lớn bất tư nghì, dùng sức Tammuội, hiện đại thần thông: Từ đầu đến chân, khắp các chi, cho đến từng lỗ chân lông trên thân vị ấy, đều hiện vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các loại mây thân giống như thân tướng của mình. Hiện tất cả thân, khắp tất cả nơi, để cúng dường tất cả Đức Như Lai, làm nghiêm tịnh khắp tất cả cõi Phật, thành thục khắp tất cả Bồ-tát, điều phục khắp tất cả chúng sinh, cứu vớt hết các khổ uẩn, dứt trừ hết ba đường ác, khai mở hết con đường nhân thiên, tiêu diệt các độc phiền não, làm cho chúng sinh nhập sâu vào biển trí tuệ và làm cho chúng sinh an trụ trọn vẹn vào Nhất thiết trí.

Từ hai chân vị ấy, phóng ra các chúng Trưởng giả, cư sĩ, Bà-lamôn nhiều bằng cực vi trần trong vô số cõi Phật, giống như đám mây thân, đầu đội mão hoa, thân đeo anh lạc, đỉnh đầu buột minh châu, y phục chỉnh tề, vô lượng đồng nam làm quyến thuộc, đi khắp tất cả thế giới trong mười phương, ban các vật cúng dường tốt đẹp nhất cho tất cả chúng sinh như: Mưa xuống những thức ăn nước uống bổ dưỡng thượng hạng đúng pháp, các loài hoa báu rất đẹp nhiều màu, các loại y phục, các loại y phục, các loại anh lạc, các loại vòng hoa, các loại hương xông, các loại hương xoa, các vật dụng báu, các phòng xá các vật dụng cá nhân cần thiết cho đời sống, cứu giúp những chúng sinh nghèo cùng cơ cực khắp nơi, đáp ứng cho họ đầy đủ những vật cần thiết, an ủi hết thảy những chúng sinh khổ não, giúp họ thân tâm an lạc, làm cho họ hoan hỷ, giúp cho căn lành của chúng sinh được thuần thục, tâm ý nhu hòa, khiến họ được thanh tịnh trọn vẹn trong đạo Vô thượng Bồ-đề; thị hiện như thế đầy khắp mười phương.

Từ hai đầu gối vị ấy, xuất hiện vô số trăm ngàn vạn ức những người dòng dõi vua chúa, Bà-la-môn và quyến thuộc của họ nhiều giống như đám mây thân, tất cả đều thông tuệ, đầy đủ tài nghệ, am hiểu cả thế gian và xuất thế gian, đủ các sắc tướng, đủ loại dung mạo, đủ loại y phục cao cấp trang nghiêm, ở khắp các thế giới trong mười phương, thường dùng bốn Nhiếp pháp hóa độ chúng sinh đó là cho của báu để họ giàu sang, vui vẻ nói lời từ hòa để người nghe hoan hỷ, hoặc cùng làm việc để khuyên nhủ họ tiến bộ. Như thế, tất cả người nghèo được đủ, người bệnh được nhẹ, người nguy được an, người sợ được khỏi, người đau khổ được vui sướng. Lại dùng phương tiện làm cho họ đều phát tâm, truyền trao chánh pháp để họ tỏ ngộ, nhanh chóng giúp cho họ tích tập những thiện pháp và tránh xa những điều bất thiện, cứu vớt họ ra khỏi vũng bùn sinh tử, đặt họ vào trong pháp vô úy chân thật nghĩa. Thị hiện như thế đầy khắp mười phương.

Từ rốn vị ấy chuyển động lại xuất hiện các loài chúng sinh, chư tiên và ngoại đạo nhiều như đám mây thân, đủ các hình tướng trang nghiêm khác nhau, người mặc áo cỏ, người mặc áo vỏ cây, tất cả đều cầm bình tắm, oai nghi tịch tĩnh, dẫn các tiên chúng rảo bước trên không trung, qua lại xoay vần khắp các thế giới trong mười phương, cùng nhau cất lên vô lượng lời ca ngợi để tán dương những công đức của chư Phật, hoặc khen ngợi các Bồ-tát đã tu phạm hạnh đã thuyết diệu pháp, đã chứng thanh tịnh, âm thanh ấy hòa nhã, trong trẻo, thanh thoát, vang khắp mười phương không bị chướng ngại; họ điều phục thành thục tất cả chúng sinh; nhiếp phục các căn không cho phóng túng; làm cho quán sát được cảnh giới chân thật, hoặc nói các pháp đều không có tự tánh, giúp cho họ phát tâm Nhất thiết trí và an trụ trọn vẹn vào con đường chân thật; hoặc nói lời có ích giúp cho đời sống tư riêng ở thế gian; hoặc hiện khuôn phép thế tục từng vùng mà dẫn dắt hoặc dùng phương tiện thiện xảo, tùy nghi hóa độ, mở cửa pháp yếu, xuất Nhất thiết trí làm cho các chúng sinh đều được lợi ích, tùy theo đẳng cấp mà tu tập đạo nghiệp; thị hiện như thế khắp cả mười phương.

Từ hai bên hông vị ấy xuất hiện vô số bất tư nghì, rồng chúa, rồng con, rồng nữ và quyến thuộc của chúng, nhiều như đám mây thân, sự xuất hiện thần biến của loài rồng đầy khắp hư không chẳng thể nghĩ bàn, như: Phun ra phun mây trang nghiêm bằng hương quý chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng hoa đẹp chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm vòng báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng lọng báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng các cờ báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng phướng báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng các loại anh lạc báu đẹp chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng đại ma-ni bảo vương chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng nhiều loại tòa báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng vật nghiêm sức báu của cõi trời chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng cung điện báu cõi trời chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng thể nữ của chư Thiên ca vịnh, tán thán chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng lưới châu báu của cõi trời chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng hoa sen báu với cánh, tua, đài nhụy đều bằng ma-ni chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng mão bằng ma-ni báu chẳng thể nghĩ bàn, phun mây trang nghiêm bằng vật báu của trời, chói sáng vô biên chẳng thể nghĩ bàn; phun mây trang nghiêm bằng thân trời với vòng hoa, cờ phướn, phan lọng chẳng thể nghĩ bàn, mây thể nữ cung kính chắp tay chẳng thể nghĩ bàn, mây hoa sen màu vàng tỏa sáng rực rỡ chẳng thể nghĩ bàn, mây đại âm thanh diễn thuyết công đức của tất cả chư Phật. Như thế, tất cả đều được trang nghiêm chật cả hư không khắp cả đạo tràng của chư Phật trong mười phương thế giới để cúng dường, làm cho chúng sinh đều sinh tâm hoan hỷ, dứt lửa phiền não, được niềm vui tươi mát. Thị hiện như thế đầy cả mười phương.

Từ trong tướng cát tường nơi ngực vị ấy, xuất hiện vô số A-tu-la vương và quyến thuộc của họ nhiều như số các vi trần trong cõi Phật, tương tự như đám mây thân, tất cả đều hiện rõ sức huyễn thuật khéo léo chẳng thể nghĩ bàn và các loại thần biến, đầy khắp hư không; nghĩa là có khả năng làm cho vô lượng trăm ngàn vạn ức thế giới đều chấn động; các núi lớn va chạm, nước các biển đều vọt lên, cung địên chư Thiên đều lay động, ánh sáng của chúng ma đều ẩn mất, chúng của ma quân đều bị đánh dẹp, làm cho chúng sinh bỏ hết kiêu mạn, tâm không phóng túng, trừ bỏ ganh tỵ keo kiệt, dứt các oán hại, đều khởi tâm Từ, phá núi phiền não, cạn biển ái dục, trưởng dưỡng hòa bình, luôn sống hiền thiện. Lại dùng huyễn lực thần thông du hý để khai ngộ chúng sinh, làm cho họ rời bỏ tham đắm, thường tránh xa các pháp ác, ghê sợ sinh tử, thích cầu giải thoát; làm cho họ ra khỏi các nẻo của thế gian, làm cho tâm họ trụ vào Vô thượng Bồ-đề, làm cho họ tu diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, làm cho họ hướng đến con đường Ba-la-mật của Bồ-tát, làm cho họ nhập vào tất cả địa vị của Bồ-tát, làm chiếu sáng pháp môn vi diệu của Bồ-tát, làm cho họ thấy được phương tiện quyền xảo của các Bồ-tát. Thị hiện như thế đầy khắp pháp giới.

Từ lưng vị ấy xuất hiện vô lượng hàng Thanh văn Độc giác nhiều như số cực vi trần trong a-tăng-kỳ cõi Phật, tương tự như đám mây thân, vì tất cả chúng sinh, nên phải dùng Nhị thừa làm người hóa độ thì giảng rộng về pháp yếu để điều phục họ, như: Hạng chấp ngã, giảng về vô ngã; hạng chấp thường, thì giảng các hành vô thường; hạng tham dục, thì giảng về quán bất tịnh; hạng có nghiệp sân, thì giảng về quán từ bi; hạng nghiệp si, thì giảng về quán duyên khởi; hạng đẳng phần giảng về cảnh giới tương ưng trí tuệ, đối trị từng sai khác giúp họ quán sát được khắp; hạng đắm chấp cảnh giới thì giảng về tánh vô sở hữu để họ không tham đắm; hạng đắm chìm vào cảnh giới năm dục thì giảng về tánh không nhiễm vướng, để họ rời bỏ các sự ham muốn; hạng đắm chặt như trói buộc vào định tịch tĩnh thì giảng về môn đại nguyện, làm cho họ tăng sự thích thú, mà thệ nguyện làm lợi ích cho khắp tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe pháp đến tận đời vị lai làm cho ước nguyện của toàn thể chúng sinh được viên mãn. Khắp cả pháp giới đầy những thần biến như thế.

Từ hai vai vị ấy, xuất hiện nhiều như số cực vi trần trong a-tăngkỳ cõi Phật những Dạ-xoa, La-sát chúa đủ các dung mạo, đủ các sắc tướng, cao, thấp, lớn, bé; đủ các dung nghi, uy thế hùng mạnh, thật đáng ghê sợ và vô lượng quyến thuộc vây quanh; hiện đủ các thần lực, gầm vang đủ loại tiếng, tùy theo nhu cầu, tạo mọi phương tiện đầy khắp tất cả thế giới nơi mười phương, qua hộ tất cả chúng sinh hành thiện và các bậc Hiền thánh, Bồ-tát thuyết pháp nơi đạo tràng chúng hội, những vị thọ trì tịnh hạnh của Bồ-tát, thích cầu chánh trí của Như Lai; hoặc hướng chánh trụ và là kẻ chánh trụ; hoặc có lúc hiện thần cầm Kim cang thủ hộ, phụng sự, cúng dường các Đức Phật và trú xứ của Phật; hoặc thủ hộ khắp cả thế gian để họ khỏi rơi vào các đường ác; người sợ sệt làm cho an ổn, người bệnh tật làm cho chóng lành; người gặp ách nạn làm cho dứt đau khổ; người có lầm lỗi làm cho họ tự hối cải, người bị tai nạn bất ngờ thì giúp họ tiêu diệt; tích tập phước trí, giúp chúng sinh có tâm rộng lớn, có thể chuyển bánh xe pháp của chư Phật, bỏ bánh xe sinh tử, trụ bánh xe chánh pháp, khuất phục tất cả tà luận ngoại đạo. Lợi ích ấy, đầy khắp pháp giới trong mười phương.

Từ bụng vị ấy, xuất hiện vô lượng trăm ngàn Khẩn-na-la vương nhiều như số vi trần trong a-tăng-kỳ cõi Phật, cùng với vô số trăm ngàn vạn ức Khẩn-na-la nữ và quyến thuộc vây quanh. Cũng xuất hiện vô lượng Càn-thát-bà vương nhiều như số vi trần trong a-tăng-kỳ cõi Phật, cùng với vô số trăm ngàn vạn ức nữ Càn-thát-bà và quyến thuộc vây quanh. Họ đều tấu vô số a-tăng-kỳ trăm ngàn loại nhạc trời; ca vịnh, khen ngợi thật tánh và duyên sinh của tất cả các pháp; ca vịnh, khen ngợi công đức khó suy tư của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi oai lực phổ biến của sự phát tâm Bồ-đề; ca vịnh, khen ngợi sự tu tập hạnh viên mãn của các Bồ-tát; ca vịnh, khen ngợi môn thành Chánh giác của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi môn hiện thần biến của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi môn bát Niết-bàn của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật; ca vịnh, khen ngợi môn làm cho chúng sinh đều hoan hỷ; khai thị diễn thuyết môn làm nghiêm tịnh tất cả cõi của chư Phật; khai thị diễn nói pháp môn vi diệu của tất cả chư Phật; khai thị diễn thuyết môn soi chiếu vô chướng ngại của tất cả các pháp; khai thị diễn thuyết môn làm phát triển tất cả thiện căn. Lợi ích như thế, đầy khắp mười phương.

Từ diện môn vị ấy, xuất hiện vô lượng Chuyển luân thánh vương nhiều như số cực vi trần trong trăm ngàn a-tăng-kỳ cõi Phật, với đầy đủ bảy báu, bốn binh chủng vây quanh, phóng ra ánh sáng đại Xả, mưa vô số báu, trang nghiêm thế giới bằng ma-ni thượng hạng, ban bố cho chúng sinh được sung túc, giúp họ dứt mười nghiệp ác, tu mười điều thiện. Nghĩa là: Làm cho tất cả đồ tể, thợ săn, ngư ông và các chúng sinh bạo ác, đều khởi tâm Từ không đoạn mạng sống; làm cho những chúng sinh nghèo hèn khổ cực bỏ hẳn nghiệp trộm cướp, thường ban ân huệ, có thể xả bỏ vô lượng trăm ngàn vạn ức thể nữ xinh đẹp, không chút hối tiếc, để giúp các chúng sinh dứt trừ tà dâm, tu tập phạm hạnh; làm cho những chúng sinh nói dối, luôn nói lời chân thật; không đặt điều bàn luận hư dối vô ích, để họ tiếp nhận lời của người khác; không tạo việc ly gián, thường thích hòa hợp, không có tranh cãi, nói lời từ ái, không nói thô bỉ, làm cho người nói tạp uế, thường diễn thuyết ý nghĩa sâu xa dứt khoát, mạch lạc, thuận với Phật pháp, lợi ích cho việc tu hành; bỏ hẳn những lời thêu dệt vô nghĩa, để giúp các chúng sinh thâm nhập vào pháp cú; làm cho người nhiều tham dục tu tập thiểu dục tri túc, chánh hạnh vô sinh, đoan nghiêm tối thắng; làm cho người nhiều phẫn nộ, diệt trừ được sân hận, thường khởi tâm Từ đối với chúng sinh, tâm không khiếm khuyết, thuyết giảng về tình thương cao cả, để họ hoan hỷ tiếp nhận và khiến nhập được vào pháp Phật; thuyết thật nghĩa cho người bị rơi vào lưới tà kiến, để cho họ quán các pháp, thâm nhập nhân duyên, thấy rõ chân lý, vững chắc, phân rõ chánh tà, làm cho tâm thanh tịnh, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, giúp các chúng sinh ngộ được thật tánh của tâm, am hiểu sâu xa, thông đạt đầy đủ, tất cả chướng ngại đều được diệt trừ. Việc làm như thế đầy khắp cả pháp giới.

Từ đôi mắt của vị ấy, xuất hiện vô số vừng mặt trời to lớn, nhiều như cực vi trần trong trăm ngàn a-tăng-kỳ cõi Phật, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả các địa ngục lớn, làm cho các khổ não đều chấm dứt; lại chiếu vào không gian của các thế giới để tiêu diệt hết hắc ám, chỉ còn ánh sáng; lại chiếu đến tất cả các loài ngạ quỷ, bàng sinh trong các thế giới khắp mười phương, làm cho chúng bỏ hẳn ngu si ám chướng được đại trí tuệ, vứt bỏ các khổ; lại phóng ra ánh sáng thanh tịnh đến tất cả thế giới nhơ bẩn; phóng ra ánh sáng Hoàng kim đến thế giới Bạch ngân; phóng ra ánh sáng Bạch ngân đến thế giới Hoàng kim; phóng ra ánh sáng pha lê đến thế giới lưu ly, phóng ra ánh sáng lưu ly đến thế giới pha lê; phóng ra ánh sáng mã não đến thế giới xa cừ, phóng ra ánh sáng xa cừ đến thế giới mã não; phóng ra ánh sáng ma-ni vương nhật tạng đến thế giới xích châu, phóng ra ánh sáng xích châu đến thế giới ma-ni vương nhật tạng; phóng ra ánh sáng ma-ni bảo vương diệm võng nguyệt tạng đến thế giới đế thanh; phóng ra ánh sáng đế thanh đến thế giới mani bảo vương diệm võng nguyệt tạng; phóng ra ánh sáng đủ loại báu đến thế giới thuần nhất một thứ báu; phóng ra ánh sáng thuần một thứ báu đến thế giới tạp báu. Chiếu ánh sáng như thế khắp chúng hội trong đạo tràng, nơi cõi Phật để làm Phật sự; chiếu vào rừng tâm của chúng sinh là để hoàn tất vô lượng sự nghiệp của họ, làm trang nghiêm tất cả cảnh giới của thế gian giúp cho tâm của chúng sinh được tươi mát, sinh vui mừng lớn, phấn khởi, an ổn, khoái lạc; việc làm như thế đầy khắp pháp giới.

*********

Bấy giờ, từ tướng bạch hào, giữa chân mày của Tỳ-kheo Hải Tràng, xuất hiện vô lượng vua trời Đế Thích, nhiều như số cực vi trần, trong trăm ngàn cõi Phật; với oai đức của ánh sáng vượt hơn thiên chúng, làm dứt hẳn tất cả dục lạc của thế gian, tự tại nơi các cảnh giới; trên đỉnh buộc châu ma-ni, ánh sáng trên thân che lấp cung điện của chư Thiên; làm chấn động khắp núi Tu-di, cảnh tỉnh những chư Thiên phóng dật, tán thán năng lực phước đức, thuyết giảng về năng lực trí tuệ, giúp họ phát sinh niềm vui, mang đến cho họ năng lực chí nguyện, phát huy những năng lực về ý niệm trong sáng của họ, giúp họ phát tâm Bồ-đề kiên cố, khen ngợi sự thích gặp Phật, giúp họ trừ bỏ dục lạc của thế gian, khen ngợi sự thích nghe giáo pháp, khiến họ nhàm chán thế gian, khen ngợi sự thích quán trí tuệ, làm cho họ dứt ô nhiễm ở đời; dừng cuộc chiến của A-tu-la; trừ phiền não tranh chấp, dập tắt tâm sợ chết, phát nguyện hàng phục ma, dựng núi Tu-di chánh pháp, hoàn thành sự nghiệp của tất cả chúng sinh, điều phục vô lượng chúng sinh trong từng niệm; sự biểu hiện như thế đầy khắp cả pháp giới.

Từ trán vị ấy, xuất hiện vô lượng Phạm vương, nhiều như số cực vi trần trong trăm ngàn a-tăng-kỳ cõi Phật; với tướng tốt đoan nghiêm, thế gian không ai sánh bằng, oai nghi tịch tĩnh, giọng nói thanh tao, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, khen ngợi công đức của Phật, làm cho các Bồ-tát hoan hỷ, có khả năng hoàn thiện vô lượng sự nghiệp

của chúng sinh; sự biểu hiện như thế, đầy khắp cả mười phương pháp giới.

Từ đầu vị ấy, xuất hiện vô lượng chúng Bồ-tát, nhiều như cực vi trần trong trăm ngàn a-tăng-kỳ cõi Phật. Các vị ấy đều dùng tướng tốt để trang nghiêm thân mình. Những lỗ chân lông trên toàn thân của các vị Bồ-tát này, đều phóng ra ánh sáng lớn như mây, hiện rõ biển hạnh mà từ xưa các Đức Phật đã tu tập Bồ-tát và tuyên thuyết đầy đủ các hạnh của Bồ-tát, đó là:

–Tán dương, khen ngợi tất cả chư Phật; thuở xưa đã thực hiện Bố thí ba-la-mật, khắp các thế giới trong mười phương; người cho, người nhận, vật cho đều tương ưng với biển hạnh; hướng dẫn những chúng sinh keo kiệt, bỏ hẳn tâm ấy, để thành tự tâm hỷ xả; thường hành tuệ bố thí, giúp đỡ chúng sinh, để họ trụ vào bố thí độ Vô thượng, hiện rõ các công đức về tướng tốt của chư Phật, giúp họ có được thế giới trang nghiêm bằng các báu lấy đó làm chỗ nương dựa chân chánh để cho các chúng sinh thích thú tu tập.

Tán dương, khen ngợi tất cả chư Phật thuở xưa đã Trì giới ba-lamật, khắp các thế giới trong mười phương; mọi tùy thuận đều tương ưng với biển hạnh, làm cho các chúng sinh càng nhàm chán cảnh ngủ dục, chuyên tâm cầu về cảnh giới của chư Phật; trừ bỏ những ý tưởng điên đảo, thường chánh tư duy, dứt hết những phân biệt sai lầm, tách rời các điều ác, niệm giới Bồ-tát, hộ trì chúng sinh, thể hiện tâm đại Từ bi, khen ngợi giải thoát, hộ trì giới phẩm tuyệt đối của Như Lai, làm cho các chúng sinh sống theo giới của Phật, giảng rõ về các pháp hữu vi đều như mộng, thông đạt tự tánh các pháp đều không, thuyết giảng về các dục lạc không có vị ngọt, làm cho các chúng sinh xa hẳn sự trói buộc của dục, ra khỏi cấu bẩn phiền não.

Tán dương, khen ngợi tất cả chư Phật, thuở xưa đã thực hiện Nhẫn nhục ba-la-mật, ở khắp các thế giới trong mười phương và việc tùy thuận tương ưng với biển hạnh; làm cho các chúng sinh đạt được pháp tự tại, tâm tự tại và đủ sức nhẫn nhục. Tán dương, khen ngợi, hạnh nghiệp về thân kim sắc, dứt cấu bẩn sân hận, phát sinh hạnh Từ bi, dừng tâm sát hại, cắt đứt đường súc sinh.

Tán dương, khen ngợi tất cả chư Phật, thuở xưa đã thực hành

Tinh tấn ba-la-mật, ở khắp các thế giới trong mười phương và sự tùy thuận tương ưng với biển hạnh, làm cho các Bồ-tát tinh tấn mạnh mẽ; Vì Nhất thiết trí mà chuyên dốc cầu chánh pháp, phụng sự cúng dường và cung kính khen ngợi hết thảy các Đức Như Lai không biết mỏi mệt; làm cho mọi người trong cả thế gian không còn buông lung; hóa độ chúng sinh, giúp họ tách rời khổ ấm, nhập vào biển trí viên mãn hoàn hảo của Phật.

Tán dương, khen ngợi tất cả chư Phật, thuở xưa đã Thiền định ba-la-mật, ở khắp các thế giới trong mười phương và việc tùy thuận tương ưng với biển hạnh, làm cho các chúng sinh tiêu hết bụi trần, bỏ hết kiêu mạn, không khởi tham sân, giăng mây mát mẻ, dứt sự nóng bức của phiền não, làm khô biển sinh tử, xô ngã núi nghiệp kết, dạy các chúng sinh an trụ vào diệu pháp, để tâm họ được tự tại hoàn toàn.

Tán dương, khen ngợi tất cả các Đức Phật, từ xưa đã tu tập Trí tuệ ba-la-mật, của chư Phật, khắp các thế giới trong mười phương và việc tùy thuận tương ưng với biển hạnh; chiếu khắp bằng điện sáng trí tuệ chánh kiến, làm cho chúng sinh bừng sáng bản tánh; gầm vang tiếng sấm diệu pháp thanh tịnh, giúp cho các chúng sinh tăng trưởng công đức, xô ngã những núi cao ngã mạn, nhổ bật những mũi tên độc tà kiến; lột bỏ tất cả mạc mắt nghi hoặc, giúp cho các chúng sinh được trí tự tại.

Tán dương, khen ngợi các Đức Phật thuở xưa đã tu tập Phương tiện ba-la-mật. Ở khắp các thế giới trong mười phương và sự tùy thuận tương ưng với biển hạnh; thể theo những việc làm khác nhau của thế gian, khiến cho các chúng sinh được thành thục trọn vẹn; tuy điều phục khắp cả chúng sinh nhưng không bị nhiễm chấp bởi chúng sinh; tuy chiếu sáng khắp chúng hội của các Đức Phật nhưng tâm không vướng mắc nơi chúng hội; tuy tách rời sinh tử nhưng tự tại thọ sinh nơi các đường; tuy xuất hiện ở thế gian nhưng tự tại ra vào nơi Niết-bàn; Tuy thông hiểu sinh tử và Niết-bàn là không hai không khác, nhưng thường khéo léo làm lợi ích chúng sinh để họ an trú tự tại và đầy đủ nơi Bồ-tát, vượt khỏi thế gian đến bờ giải thoát.

Tán dương, khen ngợi các Đức Phật thuở xưa đã thực hiện Hạnh nguyện Ba-la-mật, khắp các thế giới trong mười phương và sự tùy thuận tương ưng với biển hạnh; làm cho các Bồ-tát cho đến tận đời vị lai, cỡi xe bốn đại nguyện, chạy trên đường chánh giác, đến khắp tất cả cõi biển, làm lợi lạc cho chúng sinh; lật núi vô minh, xé lưới ái dục, mở hết ràng buộc cho chúng sinh, thị hiện thần thông, biến hóa đủ loại, giúp các chúng sinh được tuổi thọ tự tại.

Tán dương, khen ngợi tất cả các Đức Phật, thuở xưa đã thành tựu Lực ba-la-mật, khắp mười phương thế giới và sự tùy thuận tương ưng với biển hạnh; diễn thuyết về năng lực đại Tổng trì của Bồ-tát, năng lực phương tiện đại biện tài bằng pháp âm, năng lực đại nguyện thành thục chúng sinh, năng lực trí tự tại đánh tan ma oán, năng lực tâm vô úy chế ngự các ngoại đạo, lực thân kiên cố như kim cương, có khả năng đập tan tất cả núi lớn Thiết vi, có khả năng đập tan các kiếp hỏa trong mười phương, có khả năng làm khô nước biển, có khả năng nuốt cuồng phong, có khả năng nâng hết tất cả các thế giới trong bàn tay mà thể lực không hao tổn; làm cho các chúng sinh yên ổn nơi định và tự tại thọ sinh khắp nơi.

Tán dương, khen ngợi các Đức Phật, từ xưa đã tu tập Trí ba-lamật khắp mười phương và sự tùy thuận tương ưng với biển hạnh. Lại phân biệt diễn thuyết đủ các trí địa, đó là:

–Trí địa cụ túc, sinh ra mười Lực vô úy và tất cả công đức của chư Phật.

Trí địa cụ túc, làm viên mãn tất cả tướng tốt tự tại trang nghiêm của chư Phật.

Trí địa cụ túc, phát sinh tất cả đại nguyện của Bồ-tát.

Trí địa cụ túc, che chở khắp tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, hiện rõ vô ngã cho tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, quán sát khắp những ý nghĩ khác nhau, của tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, phân biệt những căn cơ khác nhau của tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, tùy thuận niềm tin khác nhau của tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, biết rõ biển nghiệp sâu xa, với vô lượng sự khác biệt của tất cả chúng sinh.

Trí địa cụ túc, nhập khắp vô lượng biển nguyện và sở thích khác nhau của tất cả chúng sinh.

Từ nơi nhục kế trên đỉnh đầu vị ấy, xuất hiện vô lượng thân Như Lai bằng vô số cực vi trần trong a-tăng-kỳ cõi Phật. Thân ấy thật tối thắng, trên đời không ai sánh bằng. Các vẻ đẹp trên thân trong sạch trang nghiêm, oai quang sáng rực như núi vàng, có vô lượng ánh sáng chiếu khắp mười phương, diễn nói toàn là âm vi diệu vang khắp pháp giới, hiện ra vô lượng sức đại thần thông, tuôn mưa chánh pháp khắp các thế gian, lợi ích cho từng chúng sinh có căn cơ khác nhau, đó là:

–Mưa đại mưa pháp, tên Trí bình đẳng hiện tiền, cho các Bồ-tát ngồi nơi Bồ-đề đạo tràng; mưa đại mưa pháp, tên Pháp giới phổ môn cho các Bồ-tát ở bậc Quán đỉnh; mưa đại mưa pháp tên Nhập chư Bồtát môn phổ trang nghiêm cho các Bồ-tát ở hàng Pháp vương tử; mưa đại mưa pháp tên Mây đại pháp trí trụ núi kiên cố, cho các Bồ-tát ở địa vị đồng chân; mưa đại mưa pháp tên Hải tạng bình đẳng trang nghiêm khắp nơi cho các Bồ-tát ở địa vị bất thoái; mưa đại mưa pháp tên Dùng trí kim cương chiếu khắp cảnh giới, cho các Bồ-tát ở địa vị thành tựu chánh tâm; mưa đại mưa pháp tên Môn tự tánh trang nghiêm bảo hộ toàn thể chúng sinh, cho các Bồ-tát ở địa vị phương tiện cụ túc; mưa đại mưa pháp tên Sự tùy thuận viên mãn thế gian của Như Lai, cho các Bồ-tát ở địa vị sinh quý; mưa đại mưa pháp tên Thương tưởng thế gian thuyết pháp bản tế, cho các Bồ-tát ở địa vị tu hành tương ưng; mưa đại mưa pháp tên Tích tập pháp tạng cho các Bồ-tát ở địa vị trị địa; mưa đại mưa pháp tên Bảo hộ khắp chúng sinh trang nghiêm bình đẳng, cho các Bồ-tát mới phát tâm; mưa đại mưa pháp tên Nguyện tạng của Như Lai giải thoát vô tận, cho các Bồ-tát có sức tin hiểu rộng lớn; mưa đại mưa pháp tên Vô tận tạng trí Phổ môn, cho chư Thiên cõi Vô sắc; mưa đại mưa pháp tên Tạng trí Phổ môn vô lượng âm thanh giáo pháp, cho chư Thiên trời Phạm thế; mưa đại mưa pháp tên Kho tàng vô tận có khả năng sinh những dụng cụ pháp lực, cho trời Tha hóa tự tại; mưa đại mưa pháp tên Chuyên cần cầu Nhất thiết trí bằng đủ loại cờ tâm, cho các chúng ma; mưa đại mưa pháp tên Trí báu tịnh niệm trụ vào những ách thiện, cho chư Thiên trời Hóa Lạc; mưa đại mưa pháp tên Nhiều loại cờ nguyện báu của Bồ-Tát phát tâm, cho chư Thiên trời Đâu-suất; mưa đại mưa pháp tên Tịnh niệm theo tạng hoan hỷ của Như Lai, cho chư Thiên trời Dạ-ma; mưa đại mưa pháp tên là Nhanh chóng thấy tạng trang nghiêm, làm phát sinh sự mến mộ của Như Lai, cho chư Thiên trời Đao-lợi; mưa đại phát vũ tên là Phát sinh đủ loại thần biến như cờ hoan hỷ của Bồ-tát nhàm chán cảnh giới rồng, cho các Long vương; mưa đại mưa pháp tên là Thấy tạng thần biến Phật hoan hỷ khắp pháp giới của Như Lai, cho các Dạ-xoa vương; mưa đại mưa pháp tên Mây. Âm thanh tập pháp của các Đức Như Lai, cho các Càn-thát-bà vương; mưa đại mưa pháp tên Cảnh giới đại pháp xe kim cương trí, cho các A-tu-la vương; mưa đại mưa pháp tên Vô biên phương tiện phát sinh ánh sáng của các Đức Như Lai, cho các Calâu-la vương; mưa đại mưa pháp tên Mây trí thù thắng làm lợi ích thế gian của các Đức Như Lai, cho các Khẩn-na-la vương; mưa đại mưa pháp tên Mong muốn pháp tăng trưởng nhanh chóng, cho các Ma-hầula-già vương; mưa đại mưa pháp tên Được pháp trí tuệ thù thắng của tất cả chúng sinh, cho các vị nhân vương; mưa đại mưa pháp tên Chánh niệm trang nghiêm nhờ vắng lặng các âm thanh, cho chúng sinh ở địa ngục; mưa đại mưa pháp tên Thuận theo kho tàng đầy đủ trí tuệ của Như Lai thì không có tiếng kêu của nghiệp ác, cho loài súc sinh; mưa đại mưa pháp tên Phát sinh âm thanh Ba-la-mật của Như Lai không bỏ chúng sinh ở cõi vua Diêm-la; mưa đại mưa pháp tên Khắp những nơi yên ổn vắng lặng âm thanh, đều cầu cho chúng sinh xa hẳn sầu khổ, được dự vào chúng hội của Hiền thánh, cho các chúng sinh ở nơi ách nạn. Việc làm như thế, đầy khắp pháp giới trong mười phương.

Mỗi lỗ chân lông trên toàn thân Tỳ-kheo Hải Tràng, đều phát ra vô lượng lưới ánh sáng lớn, bằng số cực vi trần trong a-tăng-kỳ cõi Phật. Mỗi ánh sáng, có đầy đủ a-tăng-kỳ sắc tướng. Mỗi sắc tướng có vô số cách trang nghiêm. Mỗi cách trang nghiêm hiện ra vô số cảnh giới. Mỗi cảnh giới đều hoàn thành vô số sự nghiệp. Khắp pháp giới trong mười phương đầy như thế.

Bấy giờ, từ tướng lưới ánh sáng lớn ấy, Đồng tử Thiện Tài trông thấy Tỳ-kheo Hải Tràng, thuở xưa đã tu hành Bố thí ba-la-mật, xả bỏ tất cả các vật sở hữu trong và ngoài thân, viên mãn sự bố thí giống như sự tu tập của tất cả Bồ-tát trong ba đời. Thuở xưa đã tu hành Trì giới ba-la-mật, từ lúc mới phát tâm đến tận đời vị lai, thề bỏ thân mạng, chứ tâm không khởi một niệm nào hủy phạm, giống như sự tu hành của các Bồ-tát trong ba đời; thuở xưa đã tu tập Nhẫn nhục ba-lamật gặp kẻ gây thương tổn, cắt đứt tay chân, đầu mắt, tứ chi, hủy nhục bằng lời ác, tất cả những việc ấy, đều có khả năng tiếp nhận mà không giao động, luôn nghỉ cách để tâm xả bỏ oán thù, quán sát thân của ta và người không có tướng ngã, sinh đại Từ bi, thành tựu Nhất thiết trí, vì nhân duyên ấy nên đạt được sắc thân tự tại, đầy đủ tướng tốt của Bồ-tát, hiện rõ tất cả thân ở khắp nơi, trải qua nhiều kiếp thọ các khổ nhưng vẫn chuyên cần cầu chánh pháp, làm lợi ích chúng sinh, không có một niệm nhàm chán thoái lui; dùng đủ loại thần biến để hiện các loại thân trước các chúng sinh như bóng theo hình, đầy khắp pháp giới, như sự tu tập của các Bồ-tát trong ba đời. Thuở xưa đã tu tập Tinh tấn ba-la-mật; đã học diệu hạnh dũng mãnh tinh tấn ly tướng của chư Phật và Bồ-tát trong ba đời; đã hiện đủ các thần thông biến hóa, làm chấn động các biển cả, nơi các thế giới trong mười phương, làm cho các chúng sinh chuyên cần không lười biếng, chán biển sinh tử, xa rời cảnh giới ma, tất cả ngoại đạo đều khiếp sợ, toàn thể quân ma đều bị đập nát, ánh sáng chiếu khắp tất cả pháp giới trong mười phương, giúp cho các Bồ-tát tu đủ các hạnh và các thần biến, lợi ích khắp các chúng sinh, giống như sự tu tập của tất cả Bồ-tát trong ba đời. Thuở xưa đã tu tập Thiền định ba-la-mật, hoặc thấy thọ thân sinh từ các quý tộc, hoặc từ các vua, hoặc gặp Thiện tri thức, được phát tâm Bồ-đề, rời bỏ quốc thành xuất gia học đạo, lập đại thệ nguyện, đầy đủ oai nghi, thọ trì giới cấm, thân tâm vắng lặng, chuyên tu các thiền định, giống như sự tu tập của tất cả Bồ-tát trong ba đời. Thuở xưa đã tu tập Trí tuệ ba-la-mật, vì muốn phát triển Nhất thiết trí, nên sinh tâm chánh kiến, chuyên dốc cầu Phật pháp; vì muốn cứu vớt chúng sinh, nên thờ Thiện tri thức, gần gũi phụng sự, trân trọng tôn kính, không trái ý, hết tâm tin tưởng, cúng dường lễ bái, tâm không mệt mỏi; vì cầu thỉnh một câu chánh pháp của Như Lai mà xả bỏ toàn bộ vật sở hữu trong và ngoài thân; đối với tài sản, thân mạng, tâm không tiếc rẻ, cho đến cầu thỉnh nhiều câu pháp cũng vậy. Như thế, các việc tu hành trong từng niệm, cho đến tận đời vị lai, đều chính vì để giáo hóa chúng sinh và viên mãn hoàn toàn về sự nghiệp, trí tuệ giống tất cả các Bồ-tát trong ba đời, thuở xưa đã tu tập Phương tiện ba-la-mật tương ưng với sự tu tập của các Bồ-tát trong ba đời, có khả năng ở với tất cả các loại chúng sinh trong biển giới, hiện toàn thể sắc tướng của chúng sinh giống như những vừng mây thân, dùng đủ các oai nghi khéo léo, che chở và giúp cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn.

Từ xưa đã phát Nguyện ba-la-mật như sở cầu của các vị Bồ-tát trong ba đời. Đó là: Nguyện phụng thờ tất cả chư Phật, nguyện thành tựu tất cả chúng sinh, nguyện làm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Đã phát những thệ nguyện như thế và tu hành viên mãn, đã thành tựu công đức và đầy đủ tướng tốt của các Đức Như Lai, tu các thiện pháp đối trị, diệt trừ tất cả tai họa sinh tử, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh tận đời vị lai, nhưng thệ nguyện vẫn không tận.

Từ xưa đã tu Lực ba-la-mật, như các Bồ-tát đã tu hành trong ba đời, đó là: Lực phát sinh đại nguyện, lực cúng dường khắp chư Phật, lực làm thanh tịnh khắp cõi Phật, lực tu khắp các diệu hạnh, lực hóa độ khắp các chúng sinh.

Từ xưa đã tu hành Trí ba-la-mật, như các vị Bồ-tát đã tu trong ba đời; thường dùng năng lực trí viên mãn của tất cả cảnh giới vi tế đánh thức pháp giới vô minh ngủ say của tất cả chúng sinh được thức tỉnh và phát sinh hoàn toàn đạo Nhất thiết trí.

Từ đầu đến chân trong các lỗ chân lông, trên toàn thân của Tỳkheo Hải Tràng, những cảnh giới ấy đã hiện và Đồng tử Thiện Tài đã thầy rõ trong từng niệm.

Khi chăm chú quán sát Tỳ-kheo Hải Tràng, Thiện Tài càng tăng lòng ngưỡng mộ; nhớ lại định giải thoát bất tư nghì của vị ấy; tùy thuận định tự tại bất tư nghì của vị ấy, tư duy biển phương tiện thiện xảo, làm lợi ích chúng sinh bất tư nghì của vị ấy, thể nhập môn Phổ trang nghiêm diệu dụng không tạo tác bất tư nghì của vị ấy, thích quả cảnh giới thanh tịnh niềm tin sâu sắc bất tư nghì của vị ấy, quán sát trí thanh tịnh làm trang nghiêm pháp giới bất tư nghì của vị ấy, an trụ nơi trí gia trì cứu cánh được tiếp nhận bất tư nghì của vị ấy, phát sinh năng lực tự tại bất tư nghì của Bồ-tát từ vị ấy, làm vững chắc năng lực đại nguyện bất tư nghì của Bồ-tát từ vị ấy, làm phát triển năng lực các hạnh bất tư nghì của Bồ-tát từ vị ấy. Đồng tử đứng tư duy quán sát như thế, trải qua một ngày đêm cho đến bảy ngày đêm, nửa tháng rồi một tháng, như thế cho đến sáu tháng sáu ngày. Sau thời gian ấy, Tỳ-kheo Hải Tràng xuất định.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài trải thân trên đất cung kính đảnh lễ, rồi đứng lên chắp tay phát lời khen ngợi việc chưa từng có:

–Bạch Thánh giả! Tam-muội ấy rất đặc biệt và hiếm có; môn Tam-muội ấy thật là sâu xa; môn Tam-muội ấy thật là rộng lớn; môn Tam-muội ấy cảnh giới vô lượng; môn Tam-muội ấy thần biến khó lường; môn Tam-muội ấy ánh sáng không gì bằng; môn Tam-muội ấy trang nghiêm hết mực; môn Tam-muội ấy khó có oai lực nào ngăn được; môn Tam-muội ấy cảnh giới bình đẳng, không động, không loạn, môn Tam-muội ấy chiếu khắp tất cả thế giới trong mười phương; môn Tam-muội ấy có vô lượng phương tiện và khả năng thù thắng. Vì sao? Vì Tam-muội ấy, có vô tận lợi ích; đã có công năng diệt trừ vô lượng khổ ấm cho chúng sinh, như: Có công năng đoạn trừ nghiệp bần cùng, cứu thoát khổ não nơi địa ngục, tránh khỏi cảnh giới súc sinh, cắt tuyệt nhân ngạ quỷ, đóng các cửa hoạn nạn, khai phóng đường nhân thiên, thân cận các pháp an lạc, phát sinh niềm vui thù thắng của trời người; làm cho họ yêu thích cảnh giới định, có công năng làm cho phát triển niềm vui hữu vi, có công năng làm hiện rõ pháp chuyên cần cầu xuất ly ba cõi, có khả năng làm phát tâm chuyên dốc cầu Vô thượng Bồ-đề, có khả năng làm cho tăng trưởng nhân phát sinh đại phước trí tụ, có khả năng làm cho tâm đại Bi sớm tăng trưởng rộng lớn, có khả năng làm phát sinh nguyện lực rộng lớn, có khả năng làm cho đạo trí tuệ của Bồ-tát chiếu sáng, có khả năng làm trang nghiêm đạo Ba-la-mật, có khả năng làm cho nhập vào Đại thừa tối thắng, có khả năng làm cho sáng rõ diệu hạnh của Phổ Hiền, có khả năng làm cho nhập vào ánh sáng trí của hàng Bồ-tát, có khả năng làm cho tích tập những thành tựu các hạnh nguyện của Bồ-tát, có khả năng làm cho an trụ cảnh giới trí Nhất thiết trí, có khả năng làm thanh tịnh năng lực biến hóa của Bồ-tát, có khả năng làm cho họ chuyên cần cầu toàn bộ sức gia trì tự tại.

–Bạch Thánh giả! Môn Tam-muội này tên là gì?

Hải Tràng đáp:

–Thiện nam! Tên của môn Tam-muội ấy là: Phổ nhãn xả đắc, cũng gọi là cảnh giới thanh tịnh quang minh của Trí tuệ ba-la-mật, còn gọi là môn Phổ trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng.

Này thiện nam! Ta nhờ tu tập môn Phổ trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng này, nên làm bậc dẫn đầu, đầy đủ trọn vẹn trăm vạn atăng-kỳ Tam-muội trên hết, hơn hết, không gì bằng.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới cứu cánh của môn Tam-muội này, chỉ có chừng ấy sao?

Hải Tràng đáp:

–Thiện nam! Cảnh giới của môn Tam-muội này, rộng lớn, sâu xa, không lường. Nếu có người tu tập mà thân tâm tịch tĩnh, thì khi nhập Tam-muội này, họ đếu biết rõ tất cả thế giới trong mười phương mà không bị chướng ngại; đến khắp các thế giới trong mười phương cũng không bị chướng ngại; ra vào nơi tất cả thế giới trong mười phương mà không bị chướng ngại; làm trang nghiêm khắp tất cả thế giới trong mười phương mà không bị chướng ngại; cải tạo tất cả thế giới trong mười phương mà không bị chướng ngại; làm trang nghiêm và sạch đẹp tất cả các thế giới trong mười phương mà không bị chướng ngại; thấy tất cả chư Phật ở khắp mười phương mà không bị chướng ngại; quán oai đức rộng lớn của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; biết sự thần thông diệu dụng của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; chứng trí lực sâu xa của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; nhập vào biển đại công đức của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; giăng mây pháp vô thượng của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; tiếp nhận vô lượng mưa pháp của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; đối với việc tu tập diệu hạnh của các pháp Phật mà không bị chướng ngại; biết trí tánh bình đẳng, chuyển bánh xe diệu pháp của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; hiện sức thần thông, nhập vào đại chúng đạo tràng của tất cả chư Phật mà không bị chướng ngại; thuận theo sự khởi diệu hạnh của tất cả chư Phật trong mười phương mà không bị chướng ngại, quán sát tất cả chư Phật trong mười phương đang diễn thuyết diệu pháp mà không bị chướng ngại, nhập vào khắp tất cả cõi Phật trong mười phương đang vận thần thông mà không bị chướng ngại; đem đại Bi bảo hộ chúng sinh khắp mười phương, làm cho họ thoát khổ mà không bị chướng ngại, thường sinh tâm đại Từ trang trải niềm vui cho tất cả chúng sinh khắp mười phương mà không bị chướng ngại; thấy tất cả chư Phật khắp mười phương, tâm không biết chán mà không bị chướng ngại; nhập khắp các biển kiến giải của tất cả chúng sinh khắp mười phương mà không bị trở ngại; biết hết các loại biển căn tánh, của tất cả chúng sinh khắp mười phương mà không bị chướng ngại; biết hết các biển nghiệp khác nhau của tất cả chúng sinh khắp mười phương mà không bị chướng ngại.

Thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn định ánh sáng thanh tịnh của Trí tuệ ba-la-mật này; còn như các vị Đại Bồ-tát đã nhập biển trí cứu cánh sâu xa, đã thanh tịnh cảnh giới của các pháp tối thắng, đã đạt pháp môn của tất cả chư Phật, đã đến khắp vô lượng cõi Phật trong mười phương có ánh sáng Tổng trì đại trí, đã trụ định tự tại viên mãn, đã hiện đủ loại thần thông thanh tịnh, đã có đủ biển lớn biện tài vô tận, đã được âm thanh tao vô úy, khéo léo tuyên thuyết công đức của các địa và có khả năng ủng hộ tất cả chúng sinh; thì làm sao ta có khả năng biết được diệu hạnh của vị ấy, tán thán nguyện lực của vị ấy, hiện ánh sáng của vị ấy, nhập môn hóa độ của vị ấy, đạt đến sở chứng của vị ấy, tích tập thắng nghiệp của vị ấy, hiểu rõ tuần tự về vị ấy, biết hết về vị ấy, trụ định của vị ấy, thấy được cảnh giới tâm của vị ấy, thuyết chánh đạo của vị ấy, biện thuyết về uy thế và đạt được trí tuệ bình đẳng của các vị ấy!

Này thiện nam! Từ đây qua phương Nam, đến xứ Hải triều, ở đó có một thành lớn, tên Viên mãn quang; thành này có vị vua tên là Diệu Viên Quang, phía Đông của thành ấy, có vườn cây tên Phổ trang nghiêm. Vua có một phu nhân tên Y-xá-na là Ưu-bà-di, đang ở khu vườn này, tu hạnh Bồ-tát. Ông hãy đến đó để thỉnh vấn: “Bồ-tát làm thế nào học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát? “.

Lúc ở chỗ của Tỳ-kheo Hải Tràng, Đồng tử Thiện Tài đã được

pháp tối thắng, thân được bảo vệ kiên cố, chứng cảnh giới Tam-muội, thấu triệt trọn vẹn về giải thoát thanh tịnh, ngộ sâu vào pháp giới; tâm thuận theo biển giáo hóa của chư Phật, ghi nhớ không quên các pháp môn, an trụ môn phổ trang nghiêm rộng lớn, ánh sáng trí tuệ chiếu đầy khắp mười phương; tâm vô cùng vui vẻ phấn khởi, chí thành đảnh lễ sát chân Hải Tràng, nhiễu quanh vô số vòng, rồi trở lại đảnh lễ, cung kính chiêm ngưỡng, quán sát tư duy; tưởng về dung nghi của thầy, trì danh hiệu của thầy, niệm công đức của thầy, quán hạnh nguyện của thầy, nhớ giọng nói của thầy, tư duy môn Tam-muội của thầy, tưởng lại khắp cảnh giới của thầy đã hành, tiếp nhận trí tuệ Tổng trì và ánh sáng thanh tịnh mà thầy đạt được, rồi bùi ngùi lưu luyến, từ giã đi đến phương Nam.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, nhờ năng lực của Thiện tri thức, cho nên thân công đức và tín giải được viên mãn, chánh niệm tư duy theo sự hướng dẫn của Thiện tri thức, ghi nhớ lời dạy của Thiện tri thức để lần lược khai triển; so với hạnh của Thiện tri thức lại càng hổ thẹn nên càng cung kính mến mộ; được quán sát và khéo léo tiếp nhận trọn vẹn tâm của Thiện tri thức thì thật vui vẻ và vô cùng ích lợi. Đồng tử lại nghĩ: “Nhờ Thiện tri thức, nên ta được thấy hết tất cả chư Phật; nhờ Thiện tri thức nên ta được nghe giáo pháp nơi tất cả chư Phật. Thiện tri thức chính là bậc thầy mẫu mực của ta, hướng dẫn pháp Nhất thiết trí cho ta thấy được tất cả. Thiện tri thức chính là con mắt của ta, giúp ta thấy được khắp cảnh giới của chư Phật như thấy hư không. Thiện tri thức chính là dòng nước mạnh đưa ta vào hồ sen của các Đức Phật”. Đồng tử suy nghĩ như thế rồi từ từ đi về phương Nam, đến xứ Hải Triều, vào cửa Đông của thành ấy, trông thấy vườn Phổ trang nghiêm, có tường bằng các thứ báu bao bọc xung quanh, các hàng cây báu thẳng tắp trang nghiêm, như: Các cây có lá báu; cành lá nương nhau vươn thẳn sum xuê, tươi tốt, sáng ngời. Các cây có hoa báu, như hoa Câu-tô-ma báu đẹp tỏa ánh sáng hồng rơi khắp mặt đất. Các cây có hương quý, tỏa hương thơm như những đám mây múi hương ngạt ngào quyện khắp các thế giới của chư Phật trong mười phương. Các cây có vòng hoa báu thì những vòng hoa báu ấy rơi xuống khắp nơi làm thành rừng báu rất trang nghiêm. Cây ma-ni bảo vương lại mưa nhiều loại ma-ni báu, trải đầy khắp nơi, tùy chỗ mà các báu này trng nghiêm hết thảy cõi trời này. Cây Kiếp-ba-y làm mưa nhiều loại tơ lụa đẹp và y phục đủ màu xuống khắp nơi, giăng trải trang sức thích ứng với mọi người. Cây âm nhạc báu, sinh các loại nhạc cụ đẹp, gió nhẹ thoảng qua, chúng phát ra âm thanh hòa nhã, âm thanh ấy mầu nhiệm và hay hơn cả nhạc trời. Các vật dụng báu riêng tư thì được cất giữ ở cây trang nghiêm; mà mỗi lần mưa là có rất nhiều đồ chơi báu lạ và đẹp rơi xuống các vật dụng ất rất trang nghiêm, được phân bố khắp nơi dùng để trang sức. Nơi đây, đất sạch sẽ, rộng rãi, bằng phẳng, không có gò đống, trang nghiêm đủ cách. Trong vườn có đến trăm vạn ngôi nhà làm bằng báu đại ma-ni, trăm vạn lầu đài, được thiết bị bằng vàng Diêm-phù-đàn; trăm vạn cung điện bằng ma-ni bảo vương Tỳ-lô-giána hòa lẫn trang nghiêm; mây giăng từng đoạn khúc quanh co trải dài khắp xa gần; mái nhà nối liền nhau trông như bay lượn; trăm vạn ao tắm kiến tạo bằng bảy báu, bờ làm bằng các loại báu đẹp, mặt đáy ao có trải lớp cát vàng mịn, thềm cấp đều đính bằng bảy báu, lan can xung quanh được tạo bằng ma-ni, bốn mặt đều trang nghiêm, quanh bờ cỏ quý chen nhau mọc thơm ngát, trong hồ nước hương Chiên-đàn đầy ắp; ấm; mát; vừa tùy theo sở thích của chúng sinh. Giữa những hàng cây báu, có phân ra bằng các hào nước; châu; thủy; thanh; báu xen lẫn khắp nơi, ngày đêm thường xuyên tuôn ra nước tám công đức. Trong hồ có nhiều loại chim như: Le le; nhạn; uyên ương, hạc trắng; khổng tước; Ca-lăng-tần-già, bồ câu… chúng có đủ các màu sắc, bay đến; bay đi; qua lại đùa giỡn; rỉa lông sửa cánh, bơi lặn dạo chơi, cất tiếng hót véo von, hòa nhã, thánh thót rất hay, giống như nhạc trời làm cho mọi người đều thích nghe. Hàng cây Đa-la báu, bao quanh ngay thẳng, được phủ bằng lưới báu, treo những chuông nhỏ vàng, gió nhẹ thoảng qua, thường phát ra tiếng; dựng lên vô số cờ báu bằng ma-ni, phướng báu bằng lụa và đủ các loại báu trang sức bốn mặt, ánh sáng chiếu khắp trăm ngàn do-tuần. Trong ấy, còn có trăm ngàn hồ chứa nước hương, đầy ắp, trong suốt, thơm lừng, loãng đọng tùy lúc, bùn hương chiên-đàn lắng xuống đáy hồ. Còn có các điều kỳ thú như: Các hoa sen báu nở xoè thơm ngát; hoa đại ma-ni màu sắc sáng rực. Trong vườn còn có cung điện rộng lớn, tên là Trang nghiêm tràng, nền lát bằng hải tạng báu đẹp, hiện lên đủ loại hình ảnh, trụ làm bằng lưu ly, lưới báu bằng vàng Diêm-phù-đàn phủ bên trên trang nghiêm, lầu đài liên kết nhau, cao rộng nguy nga, giống như núi vàng, người xem đều vui thích; trang nghiêm bằng đủ các loại báu thù thắng ma-ni quang thường tỏa ánh sáng vi diệu chiếu khắp; trang sức bằng ma-ni bảo vương Tỳ-lô-giá-na tạng rất đẹp, ánh sáng rực rỡ. Các loại quý giá, như hương thơm vô giá, thường thỏang mùi thơm xông khắp nơi đó là: Hương quý đầy đủ những đặc tính thù thắng, múi thơm tỏa khắp như sương khói hòa quyện; hương quý như ý hiện khắp, mùi thơm thích hợp, tỏa khắp pháp giới, giác ngộ cho từng căn cơ; hương quý thượng hạng, ai ngửi đến thì các căn của họ đều được lợi ích và có khả năng chuyên cần với chánh pháp không biết mệt mỏi. Trong cung điện ấy, còn có vô lượng tòa sen báu, vây quanh, thẳng tắp như: Tòa sen báu bằng ma-ni diệu tạng, có ánh sáng chiếu khắp mười phương; tòa sen báu bằng ma-ni Như ý Tỳ-lô-giá-na; tòa sen báu bằng ma-ni Tạng vô cấu; tòa sen báu bằng ma-ni và trang nghiêm bằng các báu. Tòa sen báu trang nghiêm toàn bằng ma-ni; tòa sen báu bằng ma-ni tràn đầy ánh sáng trang nghiêm; tòa sen báu bằng ma-ni thanh tịnh; trang nghiêm; an trụ nơi hải tạng; tòa sen báu bằng ma-ni tỏa ánh sáng rực chiếu khắp; tòa sen báu bằng ma-ni và kim cương tạng sư tử; tòa sen báu bằng ma-ni; ánh sáng chiếu khắp thế gian. Có vô số tòa sen báu bằng ma-ni như thế. Mỗi tòa đều treo những dải lụa quý đẹp chẳng thể nghĩ bàn, rũ xuống bốn mặt, dùng màu sắc ngọc ma-ni bất tư nghì để trang sức; nơi cung điện ánh sáng của những hình màu sắc đan chéo nhau, tô thêm vẻ trang nghiêm cho cả không gian ở đó. Còn có vô lượng trướng báu như: Trướng y báu, trướng tóc báu, trướng hoa báu, trướng hương báu, trướng vàng Diêm-phù-đàn, trướng cành cây rủ báu, trướng ma-ni tạp báu, trướng anh lạc diệu báu, trướng kim cương ánh sáng hồng, trướng kỹ nhạc của chư Thiên, trướng thần biến Tượng vương, trướng thần biến mã vương, trướng báu bằng ma-ni chỗ Đế Thích ngồi. Đủ các loại trướng báu trang nghiêm như thế, treo khắp hư không. Còn có trăm vạn lưới báu giăng bên trên. Đó là: Lưới báu linh, lưới báu cái, lưới báu thân, lưới trân châu hải tạng, lưới báu bằng ma-ni và lưu ly xanh biếc, lưới báu bằng ma-ni Sư tử, lưới báu bằng ma-ni nguyệt ái ánh sáng, lưới hương quý với đủ loại hình tượng của tất cả trời người, lưới mảo báu đủ tất cả màu sắc, lưới anh lạc đủ các thứ báu đẹp. Những lưới như thế, giăng khắp trên không, rũ xuống rất trang nghiêm. Còn có trăm vạn ánh sáng báu lớn tỏa chiếu. Đó là: Ánh sáng báu ma-ni Diệm quang, ánh sáng báu ma-ni Phật tạng, ánh sáng báu ma-ni Nguyệt tạng, ánh sáng báu ma-ni Hương diễm, ánh sáng báu ma-ni Cát tường diệm tạng, ánh sáng báu ma-ni Liên hoa diệm tạng, ánh sáng báu ma-ni Diệm tràng, ánh sáng báu ma-ni Đại diệm, ánh sáng báu ma-ni chiếu khắp mười phương, ánh sáng báu mani hiện các vật dụng trang nghiêm bằng mây thơm. Tất cả chúng đều là những ánh sáng báu lớn chiếu sáng rực rỡ. Vả lại thường làm mưa với trăm vạn mây vật dụng trang nghiêm, để tùy ý sử dụng; trăm vạn mây hương Chiên-đàn trắng luôn tỏa hương thơm xông khắp đạo tràng; trăm vạn mây nhạc cụ của chư Thiên, mà âm thanh tuyệt diệu; trăm vạn mây hoa Mạn-đà-la rải khắp; trăm vạn vương miện của chư Thiên rơi xuống khắp nơi để nghiêm sức; trăm vạn mây vải lụa của chư Thiên rơi xuống khắp nơi để làm y phục; trăm vạn mây anh lạc báu hơn cả anh lạc cõi trời để trang nghiêm các lầu và rừng cây; trăm vạn Thiên tử ở cõi Dục, thích thú chiêm ngưỡng và cung kính lễ bái; trăm vạn chư Thiên và thể nữ cùng đến tu hành, thường xuyên chí thành lễ bái ở đây, thân cận phụng sự; trăm vạn Bồ-tát thường đến đạo tràng chăm chú nghe pháp. Y-xá-na ngồi tòa chân kim, đầy đủ tướng đại nhân, đội mão bằng lưới trân châu hải tạng, vượt hơn cả chiếc xuyến báu chân kim của chư Thiên, tóc xanh tỏa xuống, búi tóc trang nghiêm, được trang sức bằng ngọc ma-ni bảo vương cát tường diệm tạng, hoa tai bằng bảo châu ma-ni Sư tử khẩu, vòng anh lạc trang điểm nơi cổ vị ấy bằng ngọc đại như ý Ma-ni bảo vương, tấm khăn đội trên đầu bằng lưới ma-ni đại oanh đức đế thanh, khoát trên thân bằng lưới báu ma-ni với nhiều màu sắc, ánh sáng rực rỡ. Còn có trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, nghiêng mình cung kính, thân cận cúng dường. Có vô lượng chúng sinh từ phương Đông đến chỗ vị ấy. Đó là: Trời Đại phạm; trời Phạm phụ, trời Phạm chúng cùng tất cả chư Thiên ở cõi Sắc giới. Ở cõi Dục có: Trời Tha hóa tự tại, trời Hóa lạc, trời Đâu-suất, trời Dạ-ma, trời Đao-lợi, các loài Long, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà. Ở cõi Diêm-la vương thì có đại lực quỷ thần, cho đến loài người và phi nhân cùng chúng vương,…. Các phương Nam, Tây, Bắc và bốn góc trên dưới cũng thế. Những ai được gặp Ưu-bà-di này thì tất cả những bệnh tật về thân tâm, các loại trói buộc; như những tà kiến, những sự chướng ngại do chấp trước và có những khổ gì đều bị tiêu diệt, sớm xa lìa tất cả cấu bẩn phiền não, sớm nhổ hết những mũi tên độc, sớm phá toàn thể các núi chướng ngại để thể nhập vào cảnh giới thanh tịnh vô ngại, trồng những thiện căn viên mãn, vun bón những mầm căn thiện pháp, nhập vào các môn trí thanh tịnh, giữ gìn được tất cả môn Đà-la-ni, chứng ngộ khắp tất cả biển đại Tam-muội, thông đạt tất cả biển giáo pháp của chư Phật, mở thông tất cả cửa đại nguyện của chư Phật, tất cả đều hiện rõ sự tu tập diệu hạnh của Bồ-tát, các biển cả công đức của Như Lai đều thanh tịnh, tâm họ rộng rãi đầy đủ những thần thông tự tại, thân vô ngại đến khắp các nơi, đi khắp mười phương không bị trở ngại, tuần tự thành tựu tất cả pháp môn.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài vào vườn Phổ trang nghiêm, quán sát khắp nơi, trông thất Ưu-bà-di Y-xá-na, đồng tử đến chỗ vị ấy, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng thẳng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Bồ-đề vô thượng nhưng con chưa biết Bồ Tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Con được nghe Thánh giả khéo hướng dẫn cho các Bồ-tát, cúi xin ngài chỉ dạy cho con!

Ưu-bà-di Y-xá-na bảo Thiện Tài:

–Này thiện nam! Ta đạt được một môn giải thoát của Bồ-tát tu tập không gián đoạn; nếu chúng sinh nào, vừa thấy thân ta, thoáng nghe danh ta, hoặc được nghe giáo pháp nơi ta, hoặc nhớ đến ta, cùng sống với ta, thân cận phụng sự cung cấp cho ta, thì đều được lợi ích. Thiện nam! Chúng sinh nào, không trồng thiện căn, không được sự ủng hộ của bạn bè, không được chư Phật hộ niệm thì tuy ở bên ta, trải nhiều thời gian cùng sống với ta, nhưng họ hoàn toàn không được gặp. Thiện nam! Còn những xhúng sinh nào được gặp ta, thì đều không có thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.

Thiện nam! Ở phương Đông có các Đức Như Lai, đang thành Chánh đẳng giác, thường đến ngồi nơi tòa Sư tử báu này, thuyết pháp cho ta. Các Đức Như Lai ở phương Nam, Tây, Bắc; bốn góc trên dưới cũng đều đến đây, ngồi trên bảo tòa thuyết giáo pháp cho ta.

Thiện nam! Ta luôn gần gũi chư Phật nghe pháp, cùng sống chung với các Bồ-tát, không rời Tam-muội giải thoát của Bồ-tát.

Thiện nam! Chúng hội sống với ta, ở trong vườn Phổ trang nghiêm, có đến tám vạn bốn ngàn ức na-do-tha người mà từ xưa đã cùng khắng khít với ta, tụ tập môn hạnh đồng loại của các Bồ-tát; tất cả đều đạt. Bất thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Ngoài ra còn có những chúng sinh khác, sống trong vườn này, hoặc lâu, hoặc mới đều tu theo môn hạnh đồng loại của ta và đều đứng vào hàng bất thoái chuyển.

Thiện Tài thưa:

–Bạch, Thánh giả phát tâm Vô thượng Bồ-đề bao lâu rồi?

Đáp:

–Thiện nam! Ta nhớ, vào thời Đức Phật Nhiên Đăng, ta đã từng thân cận phụng sự, cung kính cúng dường, nghe pháp thọ trì, tu hành phạm hạnh. Đến thời Đức Phật Ly Cấu, ta xuất gia học đạo, thọ trì chánh pháp. Đến thời Đức Phật Tinh Tú Tràng, ta nghe pháp mà tu hành và hoan hỷ cúng dường. Rồi đến thời Đức Phật Diệu Thắng Cát Tường, Đức Phật Liên Hoa Đức Tạng, Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, Đức Phật Phổ Nhãn, Đức Phật Phạm Thọ, Đức Phật Kim Cương Tế, Đức Phật Thủy Thiên…

Thiện nam! Ta còn nhớ, trong vô lượng đời, vô lượng kiếp về trước; ta đã từng thân cận với ba mươi sáu hằng sa Đức Phật, hết tâm thờ phụng, cung kính cúng dường, xuất gia học đạo, tiếp nhận chánh pháp, phát thệ nguyện, được nhập Tam-muội, chúng được giải thoát, tất cả các môn hạnh như thế ta đều ghi nhớ hết, tâm không bỏ sót. Còn trước thời gian ấy, thì chỉ có trí Phật mới biết, còn khả năng của ta không nhớ hết được.

Thiện nam! Nên biết Bồ-tát mới phát tâm, không có hạn lượng đầy khắp tất cả pháp giới. Cửa đại Bi của Bồ-tát không có hạn lượng dung nạp tất cả cảnh giới chúng sinh. Cửa đại nguyện của Bồ-tát không có hạn lượng để làm rốt ráo tất cả pháp giới trong mười phương. Cửa đại Từ của Bồ-tát không có hạn lượng, để che chở tất cả cảnh giới chúng sinh. Sự tu hành của Bồ-tát, không có hạn lượng, ở trong tất cả kiếp, tất cả cõi thường luôn tụ tập. Sức Tam-muội của Bồtát, không có hạn lượng làm cho đạo Bồ-tát không còn thoái chuyển. Sức Tổng trì của Bồ-tát không có hạn lượng, để có thể thâu giữ biển giáo pháp thính ứng với thế gian. Sức trí sáng của Bồ-tát không có hạn lượng để có khả năng lãnh hội vào khéo léo hành theo giáo pháp của chư Phật trong ba đời. Sức thần thông của Bồ-tát không có hạn lượng, để có thể hiện khắp cõi lưới biển trong mười phương. Sức biện tài của Bồ-tát không có hạn lượng để một lời được nói ra làm cho các chúng sinh tùy loài đều thấu hiểu. Thân thanh tịnh của Bồ-tát không có hạn lượng để có thể hiện thân khắp các cõi của chư Phật.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Còn bao lâu nữa thì chứng đắc Vô thượng Bồđề?

Đáp:

–Thiện nam! Bồ-tát không vì giáo hóa, điều phục một chúng sinh, mà phát tâm Bồ-đề; không vì giáo hóa, điều phục một trăm chúng sinh, mà phát tâm Bồ-đề; không vì giáo hóa, điều phục một trăm ngàn chúng sinh, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì giáo hóa, điều phục không thể nói xoay vòng không thể nói sở chúng sinh, mà phát tâm Bồ-đề, không vì giáo hóa thành thục chúng sinh trong một thế giới, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì giáo hóa thành thục chúng sinh trong khắp không thể nói xoay vòng không thể nói thế giới, mà phát tâm Bồ-đề; không vì giáo hóa thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong một cõi Diêm-phù-đề, mà phát tâm Bồđề; không vì thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong một tứ thiên hạ, mà phát tâm Bồ-đề; không vì thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong một tiểu thiên thế giới, mà phát tâm Bồ-đề; không vì thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong một trung thiên thế giới, mà phát tâm Bồ-đề; không vì thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong Tam thiên đại thế giới, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì giáo hóa thành thục chúng sinh như số cực vi trần thế giới trong không thể nói xoay vòng không

thể nói của tam thiên đại thế giới, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồtát không vì thân cận, cúng dường nơi một Đức Như Lai, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì thân cận, cúng dường, cực vi trần Đức Như Lai trong khắp không thể nói rồi lại không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề; không vì thân cận cúng dường, các Đức Như Lai tuần tự tại thế cho đến tận đời vị lai trong một thế giới, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì thân cận cúng dường Đức Như Lai tuần tự tại thế cho đến tận vị lai trong khắp không thể nói thế giới, mà phát tâm Bồ-đề; không vì thân cận cúng dường các Đức Như Lai tuần tự ra đời cho đến tận vị lai kiếp trong số cực vi trần thế giới một cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì thân cận cúng dường các Đức Như Lai tuần tự ra đời cho đến tận vị lai kiếp trong số cực vi trần thế giới không thể nói rồi lại không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồtát không vì làm nghiêm tịnh một thế giới, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì làm nghiêm tịnh khắp không thể nói rồi không thể nói thế giới, mà phát tâm Bồ-đề; không vì làm nghiêm tịnh trong một cõi Phật mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì làm nghiêm tịnh số cực vi trần thế giới khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì thọ trì giáo pháp của một Đức Như Lai, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì thọ trì giáo pháp của số cực vi trần Như Lai khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì tu tập hạnh nguyện từ một Đức Như Lai mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì tu tập hạnh nguyện của số cực vi trần Như Lai khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì đi đến một cõi Phật mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì đi đến số cực vi trần khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì làm trang nghiêm chúng hội của một Đức Như Lai, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì làm trang nghiêm chúng hội của số cực vi trần Đức Như Lai khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì thọ trì việc chuyển xe diệu pháp của một đúc Phật thuyết giảng, mà phát tâm Bồđề cho đến không vì thọ trì việc chuyển xe diệu pháp của số cực vi trần Đức Như Lai thuyết giảng khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Hơn nữa, Bồ-tát không vì trụ trì pháp để lại của một Đức Như Lai, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì trụ trì pháp để lại của số cực vi trần Như Lai khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề không vì trụ trì pháp để lại của các Đức Như Lai, tuần tự xuất hiện trong một thế giới cho đến tận đời vị lai, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì trụ trì pháp để lại của các Đức Như Lai, tuần tự xuất hiện trong cực vi trần thế giới khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, đến tận đời vị lai, mà phát tâm Bồđề; không vì trụ trì pháp để lại của các Đức Như Lai, tuần tự xuất hiện trong cực vi trần thế giới như cõi Diêm-phù-đề đến tận đời vị lai, mà phát tâm Bồ-đề; không vì trụ trì pháp để lại của các Đức Như Lai, tuần tự xuất hiện trong cực vi trần thế giới như một tứ thiên hạ (bốn đại châu) đến tận vị lai kiếp, mà phát tâm Bồ-đề cho đến không vì trụ trì pháp để lại của các Đức Như Lai, tuần tự ra đời trong số cực vi trần thế giới khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, đến tận đời vị lai, mà phát tâm Bồ-đề. Lược nói như vầy: Không vì hoàn tất thệ nguyện của một Đức Phật, không vì đi đến cõi của một Đức Phật, không vì gia nhập chúng hội của một Đức Phật, không vì thọ trì pháp nhãn của một Đức Phật, không vì truyền bá giáo pháp của một Đức Phật, không vì biết thứ tự các kiếp trong một thế giới, không vì biết đủ loại biển tâm nơi một chúng sinh, không vì biết đủ loại biển căn nơi một chúng sinh, không vì biết đủ loại biển nơi một chúng sinh, không vì biết đủ loại biển hạnh nơi một chúng sinh, không vì biết đủ loại biển phiền não nơi một chúng sinh, không vì biết đủ loại biển tập khí phiền não nơi một chúng sinh cho đến không vì biết đủ loại biển tập khí phiền não nơi số cực vi trần chúng sinh khắp không thể nói rồi không thể nói cõi Phật, mà phát tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát muốn giáo hóa điều phục hết tất cả chúng sinh, nên mới phát tâm Bồ-đề; muốn thân cận cúng dường tất cả chư Phật không bỏ sót nên phát tâm Bồ-đề; muốn làm nghiêm tịnh hết thảy cõi nước của tất cả chư Phật, nên phát tâm Bồ-đề; muốn thủ hộ hết thảy giáo pháp của tất cả chư Phật, nên phát tâm Bồ-đề; muốn thuận theo hết thảy những sự hành đạo, của tất cả Như Lai, nên phát tâm Bồ-đề; muốn thành tựu trọn vẹn hết thảy mọi thệ nguyện rộng lớn của tất cả Như Lai, nên phát tâm Bồ-đề; muốn đến hết các cõi nước của tất cả chư Phật, nên phát tâm Bồ-đề; muốn gia nhập khắp những chúng hội của tất cả chư Phật, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết tuần tự hết thảy các kiếp, trong tất cả thế giới, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết hết thảy biển tâm của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết hết thảy biển căn tánh của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết hết thảy biển tâm của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết hết thảy biển nghiệp của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn biết hết thảy biển hạnh của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn diệt hết các biển phiền não của tất cả chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề; muốn lấp hết biển tập khí phiền não của tất cả chúng sinh nên phát tâm Bồđề.

Thiện nam! Tóm lại, Bồ-tát dùng trăm vạn a-tăng-kỳ hạnh và phương tiện như vậy mà phát tâm Bồ-đề.

Thiện nam! Hạnh của Bồ-tát là có thể nhập khắp các pháp, đều được chứng; có thể nhập khắp tất cả cõi, đều nghiêm tịnh.

Thiện nam! Thế nên, làm nghiêm tịnh hết thảy tất cả thế giới, thì nguyện của ta mới tận; biết hết thứ tự các kiếp trong tất cả thế giới khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; thành tựu hết thảy biển công đức của tất cả chư Phật khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; làm trang nghiêm hết biển chúng hội của tất cả chư Phật khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; thấy hết biển sở thích của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận, biết hết biển khí căn của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận, của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; quán chiếu hết những biển hạnh của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; làm khô hết biển hoặc nghiệp của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; diệt hết biển khổ của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận; lấp hết biển tập khí của tất cả chúng sinh khắp mười phương, thì nguyện của ta mới tận.

Thiện nam! Như thế, cho đến trăm ngàn vạn ức a-tăng-tỳ hạnh môn của Bồ-tát đều viên mãn, thì nguyện của ta mới viên mãn. Vì thế, Bồ-tát muốn viên mãn Nhất thiết trí, muốn tùy thân hạnh Bồ-tát, muốn làm nghiêm tịnh tất cả cõi, thì không được biếng lười, phải dũng mãnh dốc cầu đối với tất cả các pháp.

Thiện nam! Nên biết Bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì việc đã tu hành hạnh nguyện và chí lạc phải rộng lớn như pháp giới, hoàn toàn như hư không, trọn vẹn vô cùng tận thì nguyện của ta cũng hoàn toàn vô cùng tận; pháp giới rộng lớn nên không ngằn mé, thì nguyện của ta cũng rộng lớn không ngằn mé; cảnh giới chúng sinh vĩnh viễn vô tận, thì nguyện của ta cũng vĩnh viễn vô tận.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Môn giải thoát này tên gì?

Ưu-bà-di Y-xá-na đáp:

–Thiện nam! Môn giải thoát này tên là Ly ưu an ổn tràng. Thiện nam! Ta chỉ biết một môn giải thoát ấy. Còn như các Đại Bồ-tát ý chí sâu rộng như biển cả dung chứa Phật pháp tâm biết đủ không chán; ý chí vững chãi như núi Tu-di tu tập chánh hạnh không bị khuynh động; việc làm hữu ích như thuốc Thiện kiến, có khả năng trừ trọng bệnh phiền não cho chúng sinh; thân tuệ vô ngại như mặt trời sáng rực, diệt trừ vô minh đen tối cho các chúng sinh; tâm thương cao cả vô tận giống như đại địa, làm chỗ nương dụa cho khắp tất cả chúng sinh; công đức phước trí giống như gió thuận, giúp cho các chúng sinh, làm đại lợi ích, chiếu khắp thế gian như đại đăng, có công năng sinh tất cả ánh sáng trí tuệ. Thân hiện khắp nơi giống như vừng mây lớn, có khả năng mưa pháp tịch diệt cho chúng sinh; ánh sáng phước đức như vầng trăng tròn, có khả năng làm cho người thấy đều được an lạc; oai đức tối thắng giống như Đế Thích, có khả năng bảo hộ tất cả chúng sinh nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết biển pháp, giới định, vô biên và cong đức, hạnh nguyện khó lường của các Đại Bồ-tát ấy.

Thiện nam! Nơi phương Nam xứ Hải Triều này, có một nước tên Na-la-tố, ở đó có vị tiên nhân tên Đại Oai Mãnh Thanh. Ông đến đó thỉnh vấn: “Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát”.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Ưu-bà-di Y-xá-na, đi nhiễu vô số vòng, chí thành chiêm ngưỡng, bùi ngùi rơi lệ nghĩ: “Bậc Thiện tri thức khó xuất hiện ở đời, ví như hoa Ưu-đàm; bậc Thiện tri thức rất khó gặp gỡ; bậc Thiện tri thức khó được thân cận; bậc Thiện tri thức khó được phụng sự; bậc Thiện tri thức khó làm cho hoan hỷ”. Lại nghĩ tiếp: “Khó được Bồ-đề; khó được những thiện căn của Bồ-tát; khó làm cho các căn thanh tịnh như Bồ-tát; khó gặp bậc Thiện tri thức đồng hành; khó tích tập thiện căn rộng lớn của các Bồtát; khó làm cho cảnh giới rộng lớn tịch tĩnh như các Bồ-tát, khó quán sát đúng các hạnh nguyện của các Bồ-tát; khó tư duy theo mỗi giáo pháp của Bồ-tát; khó tu hành theo y diệu hạnh của Bồ-tát; khó ghi nhớ thiện tâm phát sinh của các Bồ-tát; khó nhanh chóng làm phát sinh phương tiện của các Bồ-tát; khó khéo léo làm phát triển ánh sáng pháp Nhất thiết trí”, suy nghĩ thế xong rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, nhớ lại lời dạy của Bồ-tát, nhớ lại tịnh hạnh của Bồ-tát liền phát sinh tâm nhanh chóng làm tăng trưởng pháp lực của các Bồ-tát; phát sinh tâm nhanh chóng thấy ánh sáng khắp nơi của chư Phật; phát sinh tâm nhanh chóng gìn giữ được tất cả tạng pháp; phát sinh tâm nhanh chóng làm tăng trưởng tất cả đại nguyện; phát sinh tâm nhanh chóng hiện thấy các pháp trong mười phương; phát sinh tâm nhanh chóng chiếu sáng bản tánh của các pháp; phát sinh tâm nhanh chóng dẹp tan tất cả chướng ngại; phát sinh tâm nhanh chóng quán sát pháp giới không tối tăm; phát sinh tâm nhanh chóng như kim cương, có khả năng hủy hoại nội cấu; phát sinh tâm nhanh chóng đánh gục quân ma vương phát sinh tâm nhanh chóng làm thanh tịnh trang nghiêm ý báu; tư duy như thế và từ từ đi đến nước Na-la-tố, tìm tiên Đại Oai Mãnh khắp nơi. Đồng tử gặp một khu rừng lớn, khu rừng này rất um tùm được trang trí bang vô số loại cây như: Các loại cây có lá, thì cành lá nương nhau vươn thẳng, lá xanh che kín um tùm; các loại cây có hoa, cành lá che phủ chen với nhiều hoa tươi đẹp; các loại cây ăn trái thì đua nhau chín rộ; các loại cây báu thì làm mưa quả ma-ni. Cây đại chiên-đàn đứng thẳng có ở khắp nơi. Các cây trầm thủy, thường tỏa hương thơm. Cây Diêm-phù-đàn, thường mưa trái ngọt; cây hương vừa ý có mùi thơm trang nhã. Cây Ba-trá-la, hoa của nó tươi tốt và xinh đẹp, hương thơm ngát cả bốn mặt; cây Ni-câu-đà thì thân cao vút, cành lá vươn dài xoay tròn như cái lọng; hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng nở đầy khắp nơi, tảo vẻ đẹp cho các hồ nước.

Lúc bước vào khu đại lâm này, Đồng tử Thiện Tài trông thấy cây Chiên-đàn to lớn, đứng thẳng, các cành vươn rộng, hoa lá dày kín, xếp thành bóng mát và vị tiên nhân ấy đang ở dưới cây này, búi tóc vấn cao, ngồi trên chiếu bằng cỏ thơm với mười ngàn tiên chúng vây quanh kín cả trước sau. Những vị tiên này, hoặc mặc y phục da nai, hoặc mặc y phục vỏ cây, hoặc mặc y phục đan bằng cỏ mịn, đủ các loại y phục, tóc quấn búi xõa xuống, đang đứng chiêm ngưỡng.

Thiện Tài thấy rồi, liền bước đến chỗ vị ấy, chí thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, rồi thưa:

–Nay con được gặp chân Thiện tri thức! Thiết nghĩ: Bậc Thiện tri thức, chính là cánh cửa hướng đến Nhất thiết trí, giúp con nhập vào đạo chân thật. Bậc Thiện tri thức, chính là cỗ xe hướng đến Nhất thiết trí, giúp con đến được quả vị Như Lai. Bậc Thiện tri thức, chính là con thuyền hướng đến Nhất thiết trí giúp con đến đảo báu trí tuệ. Bậc Thiện tri thức, chính là ngọn đuốc hướng đến Nhất thiết trí, giúp con phát sinh ánh sáng mười Lực. Bậc Thiện tri thức, là con đường hướng đến Nhất thiết trí, giúp con sớm vào thành Niết-bàn. Bậc Thiện tri thức, chính là ngọn đèn hướng đến Nhất thiết trí, giúp con thông hiểu con đường tà và chánh. Bậc Thiện tri thức, chính là nhịp cầu hướng đến Nhất thiết trí, giúp con vượt qua dòng sinh tử. Bậc Thiện tri thức, chính là cây lọng hướng đến Nhất thiết trí, giúp con giữ được bóng mát từ bi. Bậc Thiện tri thức, chính là bến hướng đến Nhật thiết trí, giúp con sớm được đến bến bờ công đức. Bậc Thiện tri thức, chính là đôi mắt hướng đến Nhất thiết trí, giúp con thấy được cửa pháp tánh. Bậc Thiện tri thức, chính là cơn thủy triều hướng đến Nhất thiết trí, giúp con hiện được khả năng không hiện thời gian. Thưa như thế rồi, đồng tử đứng lên đi nhiễu vô số dòng, đến trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, Bồ-tát làm thế nào để tu đạo Bồ-tát? Con được nghe Thánh giả có khả năng khéo léo chỉ dạy, xin mở lòng chỉ dẫn.

Bấy giờ, vị Tiên ấy xoay người nhìn khắp tiên chúng, rồi nói với họ:

–Các vị nên biết! Vị đồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đồng tử muốn bố thí vô úy cho tất cả chúng sinh. Đồng tử muốn cho tất cả chúng sinh được lợi ích. Đồng tử muốn ban sự an lạc cho tất cả chúng sinh. Đồng tử muốn được che mây pháp của các Đức Như Lai. Đồng tử muốn dạo khắp biển giáo pháp của tất cả chư Phật. Đồng tử muốn thắp ngọn đèn bằng tất cả ánh sáng đại trí. Đồng tử muốn tuôn tất cả mây đại Từ bi. Đồng tử muốn uống hết nước pháp cam lồ. Đồng tử muốn mưa mưa pháp rộng lớn cho tất cả. Đồng tử muốn đem vầng trăng trí chiếu khắp thế gian. Đồng tử muốn dập tắt hơi nóng độc của phiền não cho chúng sinh. Đồng tử muốn ban thiện pháp mát mẻ cho thế gian. Đồng tử muốn làm tăng trưởng tất cả thiện căn cho hàm thức.

Khi nghe lời ấy rồi, các tiên chúng đều đem những loài hương hoa thượng hạng dâng lên Thiện Tài, rồi trải thân đảnh lễ, nhiễu quanh vô số vòng, tán dương khen ngợi và nói:

–Hôm nay đồng tử nhất định có khả năng cứu hộ tất cả chúng sinh, nhất định có khả năng diệt trừ các khổ địa ngục, nhất định có khả năng dứt hẳn các nẻo súc sinh, nhất định có khả năng tách xa cảnh giới Diêm-la vương, nhất định có khả năng đóng bít các cửa nạn xứ, nhất định có khả năng làm khô kiệt các biển ái dục, nhất định có khả năng làm khô kiệt biển ái dục, nhất định có khả năng dập tắt hết khổ ấm cho chúng sinh, nhất định có khả năng phá tan hắc ám vô minh, nhất định đem núi Đại luân vi phước đức, giúp đỡ khắp thế gian làm cho họ được an lạc, nhất định đem núi Tu-di trí tuệ báu, chỉ rõ công đức trí tụ cho thế gian, nhất định đem mặt trời trí thanh tịnh vô ngại, mở thông kho tàng pháp của tất cả thiện căn, nhất định giúp cho chúng sinh mở mắt trí sáng, cảnh tỉnh thế gian về đường chánh.

Bấy giờ, Đại Oanh Mãnh Thanh nói với chúng tiên:

–Này các vị! Người nào có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thì nhất định có khả năng dũng mãnh hành hạnh Bồ-tát, nhất định có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nhất định cho chúng sinh đại lợi lạc, nhất định có khả năng thành tựu tất cả đạo trí. Vị Thiện nam này đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sẽ làm thanh tịnh đất công đức cho tất cả chư Phật.

Nói thế rồi vị ấy bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta được môn giải thoát Vô thắng tràng của Bồ-tát.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn giải thoát này thế nào?

Vị Đại tiên này liền đưa cánh tay phải, xoa đầu Thiện Tài, nắm tay Thiện Tài. Ngay khi ấy, Thiện Tài tự thấy thân mình được đến khắp cực vi trần thế giới trong trăm ngàn cõi Phật khắp mười phương, đến chỗ cực vi trần các Đức Như Lai trong ngàn cõi Phật khắp mười phương; thất cõi Phật và chúng hội ấy có đủ cách trang nghiêm, thấy các Đức Phật ấy có đủ những tướng hảo, ánh sáng rực rỡ, lại được nghe Đức Phật ấy diễn thuyết giáo pháp thích ứng với tâm của chúng sinh, một câu, một kệ đều thông đạt, cùng tiếp nhận những giáo pháp khác của chư Phật cùng tiếp nhận, thọ ký và thông hiểu những nghĩa lý khác nhau, tuần tự trước sau, không có nhầm lẫn; biết Đức Phật ấy độ chúng sinh đủ các căn cơ, tùy theo căn tánh của họ mà mưa xuống những trận mưa pháp, làm cho họ đều được thành thục; biết các Đức Phật ấy từ xưa, đã dùng đủ các trí giải, làm thanh tịnh các biển nguyện, dùng nguyện thanh tịnh làm thành tựu các lực; cũng thấy Đức Phật kia, tùy theo tâm của chúng sinh mà hiện đủ những sắc thân sai biệt; thấy lưới ánh sáng lớn của Đức Phật kia, đủ các sắc tướng thanh tịnh viên mãn; cũng biết trí vô chướng ngại và chúng hội đạo tràng của Đức Phật ấy là thanh tịnh trang nghiêm; lại thấy thân mình ở khắp chỗ của các Đức Như Lai, thân cận cúng dường và thọ trì chánh pháp, hoặc ở nơi Đức Phật một ngày đêm, hoặc ở nơi Đức Phật bảy ngày đêm, hoặc trải qua nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, một trăm năm, một ngàn năm, hoặc trải qua một ức năm, rồi trăm ức, ngàn ức, trăm ngàn ức năm, hoặc triệu ức năm, hoặc mười vạn ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp hoặc trăm ngàn ức, triệu vạn ức kiếp cho đến vô lượng vô lượng cõi Phật cực vi trần kiếp. Tất cả như thế đều biết rõ và thông đạt hết.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhờ ánh sáng từ trí giải thoát Vô thắng tràng của Bồ-tát chiếu đến, cho nên đạt được ánh sáng Tammuội Tỳ-lô-giá-na tạng; nhờ ánh sáng Tam-muội giải thoát trí vô tận chiếu đến, cho nên đạt được ánh sáng Tổng trì, gồm thâu chung hết các phương và hiện thân các phương; nhờ ánh sáng Tổng trì kim cương luân chiếu đến, cho nên đạt được ánh sáng Tam-muội trí tuệ tụ cảnh giới thanh tịnh; nhờ ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật tạng trang nghiêm giới hạn cảnh giới Phổ môn chiếu đến, cho nên được ánh sáng Tammuội tạng hư không viên mãn của Đức Phật; nhờ ánh sáng Tam-muội pháp luân giới, định, tuệ của các Đức Phật chiếu đến, cho nên được ánh sáng Tam-muội trí viên mãn vô tận trong ba đời.

Khi ấy, vị tiên kia buông tay Thiện Tài ra, đồng tử chợt thấy thân mình vẫn nguyên chỗ cũ. Vị tiên nói:

–Thiện nam, ông có nhớ gì không?

Thiện Tài đáp:

–Duy chỉ có sức của Thánh giả Thiện tri thức mới giúp cho con nhớ lại rõ ràng mạch lạc.

Vị tiên nói:

–Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Vô thắng tràng Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát thành tựu tất cả Tam-muội thù thắng, trong tất cả trời đềy được tự tại; trong một niệm, có khả năng phát sinh vô lượng cảnh giới trí tuệ vi diệu của chư Phật; dùng trí tuệ của Phật để trang nghiêm, chiếu khắp thế gian không bị chướng ngại. Chỉ trong một niệm vị ấy có khả năng nhập khắp cảnh giới ba đời, phân thân đến khắp cõi nước trong mười phương, trí thân nhập khắp tất cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sinh mà hiện ra trước họ, phóng ra ánh sáng thanh tịnh, làm cho họ quán chiếu lại căn hạnh của mình, để vượt an vui và lợi lạc; nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết những công đức và những hạnh nguyện thù thắng ấy, cõi nước trang nghiêm ấy, cảnh giới trí ấy, việc nhập định ấy, thần thông biến hóa ấy, diệu dụng giải thoát ấy, thân tướng khác nhau ấy, âm thanh tịnh ấy, ánh sáng trí tuệ ấy, cảnh giới ba đời ấy, sắc thân đến khắp nơi ấy, trí thân chiếu khắp nơi ấy, tùy căn cơ hiện khắp ấy, tùy thời làm lợi ích ấy, tùy phong tục mà hướng dẫn ấy, thuyết giảng bằng viên âm ấy, diệu hạnh thanh tịnh ấy, chiếu lưới ánh sáng ấy!

Thiện nam! Ở phương Nam này có một xóm làng tên Y-sa-na,

nơi đó có một trụ xứ tên A-dã-đát-na và chính nơi đấy có vị Bà-lamôn tên là Thắng Nhiệt, ông nên đến chỗ vị ấy tham vấn: “Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát?”.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài vui mừng phấn khởi, đem tâm kính mến, đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, thành tâm chiêm ngưỡng, rồi từ giã đến phương Nam.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhờ ánh sáng môn giải thoát Vô thắng tràng của Bồ-tát chiếu vào tâm; cho nên được trụ vào năng lực các loại thần thông nơi cảnh giới bất tư nghì của chư Phật, chứng trí các loại thần thông giải thoát bất tư nghì của Bồ-tát; được ánh sáng trí Tam-muội bất tư nghì của Bồ-tát; được ánh sáng trí của Tam-muội huân tập tất cả thời; được ánh sáng trí biết rõ khắp tất cả cảnh giới, đều nương vào tưởng mà trụ Tam-muội; được nhập vào ánh sáng trí cụ túc thù thắng của tất cả thế gian. Do được ánh sáng trí như thế, cho nên ở khắp nơi, đều tùy cảnh mà hiện thân, tùy theo từng thân hiện mà dùng trí cứu cánh, diễn nói pháp cưu cánh bình đẳng, pháp không hai, pháp không khác và pháp không phân biệt; dùng trí sáng suốt chiếu khắp cảnh giới. Người nào được nghe pháp tạng thanh tịnh giải thoát sâu xa, đều có thể tin hiểu thọ nhận và quyết định trong sạch để hiểu rõ hoàn toàn về tự tánh của các pháp, không có nghi hoặc, tâm không xả bỏ mà luôn thâu giữ tu tập diệu hạnh của các Bồ-tát, tinh tấn dũng mãnh hướng đến Nhất thiết trí, không bị thoái chuyển đạt được ánh sáng trí khác nhau của mười lực, thường mến mộ pháp sâu xa không biết nhàm chán; nhờ tu hành chân chánh, an trụ vào Nhất thiết trí, nên tâm vị ấy hướng thẳng đến và nhập cảnh giới Phật, phát sinh sự trang nghiêm rộng lớn của Bồ-tát và tròn đầy vô biên đại nguyện thanh tịnh; bằng trí vô chướng ngại, biết vô biên mạng lưới thế giới, dùng tâm không biếng trễ, độ vô biên biển chúng sinh; thông đạt vô biên cảnh giới các hạnh của Bồ tát; thấy khắp vô biên các loại khác nhau của tất cả thế gian; nhập vô biên thế giới rộng hẹp đẹp xấu; biết vô biên lưới tưởng khác nhau của tất cả thế giới; biết hết vô biên lập trường của tất cả thế giới; biết hết vô biên ngôn từ khen ngợi của tất cả thế giới; biết khắp vô biên sự tin hiểu khác nhau của tất cả chúng sinh; biết hết vô biên thời tiết thành thục của tất cả chúng sinh; biết hết vô biên tư tưởng khác nhau của tất cả chúng sinh; thấy hết vô biên sắc tướng khác nhau của tất cả chúng sinh, tùy theo căn cơ của họ mà tạo phương tiện, Làm cho thuần thục và tưởng nhớ Thiện tri thức; tuần tự đi đến làng Y-sa-na. Đến nơi, đồng tử trông thấy vị Bàla-môn Thắng Nhiệt tu các pháp khổ hạnh trong mặt trời đỏ rực, lửa cháy bốn phía giống ngọn núi lớn, bên trong có núi đao hết sức cao lớn. Người nào muốn chuyên cần cầu trí Nhất thiết trí thì leo lên núi đao ấy, nhảy vào lửa.

Đồng tử Thiện Tài đến chỗ vị ấy, đảnh lễ sát chân rồi chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con được nghe, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, xin thuyết giảng cho con!

Vị Bà-la-môn nói:

–Thiện nam! Nếu hôm nay ông có can đảm leo lên núi đao này và gieo thân vào trong lửa, thì các hạnh Bồ-tát đều được thành tựu.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài suy nghĩ như vầy: “Được thân người là khó, thoát các nạn là khó, được không nạn là khó, xa pháp ác là khó, được pháp tịnh là khó, đầy đủ các căn là khó, được nghe chánh pháp là khó, gặp chân Thiện tri thức là khó, tiếp nhận chánh giáo đúng lý là khó, được đời sống chân chánh là khó, được tu hành theo chánh pháp là khó. Đây có phải ma không? Phải ma làm ra không? Hay chẳng phải ma, hoặc là do bè nhóm hiểm ác, giả làm tướng Bồtát Thiện tri thức để gây oán thù với các Bồ-tát nhưng lại muốn làm cho ta khó tạo thiện căn muốn sống cũng khó, muốn thực hiện phạm hạnh cũng khó, cản trở ta tu hành đạo Nhất thiết trí, dẫn dắt ta đi vào con đường tà ác, ngăn không cho ta chứng pháp môn giải thoát, ngăn sự cầu Phật pháp Vô thượng của ta”.

Khi đồng tử suy nghĩ như vậy, có mười ngàn Phạm thiên đứng trong không trung nói:

–Thiện nam! Đừng nghĩ như vậy, đừng nghĩ như vậy! Vị Thánh giả này đã được ánh sáng Tam-muội kim cương diệm, đã phát đại tinh tấn dũng mãnh bất thoái, đã nguyện vào sinh tử để độ các chúng sinh, muốn làm khô tất cả các biển tham dục, muốn rọc nát tất cả các lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn vận độ những sa mạc hiểm nạn, muốn đoạn trừ hết những kinh sợ về già, bệnh, chết; muốn thổi tan núi chướng vô minh, muốn hướng dẫn toàn thể ra khỏi rừng đầy những mê hoặc, muốn phóng ra ánh sáng của tất cả diệu pháp để xua đuổi hết những bóng tối ngu si trong ba đời.

–Thiện nam! Chúng ta là những Phạm thiên, chấp trước tà kiến, đều cho mình là bậc tự tại, là người có năng lực tạo tác, là bậc siêu việt hơn tất cả thế gian. Nhưng khi năm nhiệt đốt thân của vị Bà-la-môn này, ánh sánbg lửa ấy chiếu đến cung điện của ta, ta liền tỏ ngộ, không còn chấp vào chỗ ở và các cảnh giới Thiền định của mình, rồi cùng nhau đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vì chúng ta, vị Bà-lamôn ấy lập tức dùng sức thần thông hiện đại khổ hạnh, giúp chúng ta diệt trừ hết các tà kiến và thuyết pháp để chúng ta đoạn trừ hết tất cả kiêu mạn; rồi vì toàn thể chúng sinh trong thế gian mà an trụ đại Từ, thể hiện đại Bi, phát tâm rộng lớn, phát ý Bồ-đề, an trụ nguyện kiên cố, thích cầu giải thoát, thường thấy chư Phật, thường thuyết giáo pháp, tâm không chấp trước vào tất cả các nơi, có khả năng chuyển tất cả xe pháp viên mãn, giọng nói của bậc ấy vang vọng khắp nơi không bị ngăn ngại.

Lại còn có mười ngàn chúng thiên ma, đứng trên không trung, đem ma-ni báu của cõi trời, tung lên mình vị Bà-la-môn, rồi nói với Thiện Tài:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, ánh sáng từ nơi lửa ấy, che khuất những cung điện của chúng ta, cho đến thân, ngọc anh lạc và các vật để trang nghiêm của chúng ta cũng bị ánh sáng ấy làm mờ hẳn; khiến cho ta không đắm chấp vào nó, rồi ta cùng quyến thuộc đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vị ấy thuyết pháp, giúp cho ta cùng với vô lượng Thiên tử, Thiên nữ khác được bất thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề.

Lại có mười ngàn vua trời Tha hóa tự tại, ở trên không trung cùng tunh hoa trời rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này thì ánh sáng ấy, che khuất cả cung điện, ngọc anh lạc cho đến vật trang nghiêm và thân của ta, tất cả đều bị ánh sáng ấy làm mờ hẳn; khiến cho ta không đắm chấp vào nó, rồi ta cùng quyến thuộc đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vị ấy thuyết pháp, giúp thân và tâm của ta đều được tự tại; ở trong phiền não mà vẫn được tự tại đối với các việc như: Thọ sinh, thọ mạng, nghiệp chướng, Tam-muội, vật dụng để trang nghiêm và tâm Bồ-đề cho đến các pháp Phật đều đạt được tự tại.

Lại còn có mười ngàn vua trời Hóa lạc, đứng trên không trung trổi nhạc trời và dùng âm thanh vi diệu cung kính cúng dường rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, ánh sáng của lửa ấy chiếu đến cung điện của chúng ta, thì các thứ để trang nghiêm và các ánh sáng đều ẩn mất, làm cho thân ta với các thể nữ không đắm nhiễm vào năm dục, không thọ hưởng dục lạc, thân tâm mềm mại, rồi cùng các quyến thuộc đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vị ấy thuyết pháp, làm cho tâm của chúng ta đều được thanh tịnh, được sáng suốt, có bản lãnh, được thuần thiện, được nhu hòa, được hoan hỷ cho đến việc làm đầy đủ nơi trí thân thanh tịnh của mười lực, phát sinh vô lượng sắc thân thanh tịnh, phát ra vô lượng từ ngữ thanh tịnh, phát sinh vô lượng âm thanh của Như Lai, ngộ nhập vào tâm của vô lượng Đức Như Lai, đạt được trọn vẹn trí Nhất thiết trí.

Lại có mười ngàn vua trời Đâu-suất, Thiên tử, Thiên nữ và vô lượng quyến thuộc, ở trên không trung, giăng các mây hương, mưa các loại hương thơm, cung kính cúng dường rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân Bà-la-môn này, ánh sáng ấy chiếu đến cung điện của chúng ta làm cho chư Thiên chúng ta và các quyến thuộc ở nơi cung điện của mình không sinh đắm nhiễm, không tham thú vui, đều cùng nhau đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, Bà-la-môn đó thuyết pháp, giúp cho chúng ta đoạn trừ những ái nhiễm nơi năm dục, sống thiểu dục, tri túc, vui vẻ, vừa ý, phát sinh các thiện căn, phát triển các tâm Bồ-đề cho đến hoàn thiện tất cả pháp Phật.

Lại có mười ngàn vua trời Dạ-ma, các Thiên tử, các Thiên nữ, quyến thuộc của mình, vây quanh ở trên không trung, đem các loại hoa trời như Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la và hoa Câu-tô-ma, tung lên thân của Bà-la-môn để cung kính cúng dường, rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân Bà-la-môn này, ánh sáng ấy chiếu đến cung điện của chúng ta, nó có năng lực làm cho chúng ta khi hội họp không còn tham đắm các âm nhạc cõi trời, cũng không yêu thích tự thân và các quyến thuộc mà đến chỗ vị ấy, nghe thuyết pháp, xả bỏ các thứ dục lạc, quay về cầu xin tất cả pháp Phật.

Lại còn có mười ngàn chư Thiên trời Tam thập tam và các vua Đế Thích cùng các Thiên tử, các Thiên nữ, quyến thuộc của mình, vây quanh ở trên không trung, mưa xuống các loại y phục như: Thiên y, các anh lạc báu, các vật dụng để trang nghiêm và hoa Câu-tô-ma, thành kính cúng dường, rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân Bà-la-môn này, thì ánh sáng ấy chiếu đến cung điện của chúng ta, làm cho chúng ta và các thiên chúng hoặc đang tập hợp nơi cung điện thù thắng của mình, hoặc dạo chơi ngoài vườn cây, hoặc nơi hý trường trổi các âm nhạc để vui đùa; bỗng nhiên không còn thích thú, đành phải cùng quyến thuộc đi đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vị ấy thuyết giảng cho chúng ta, tất cả các pháp đều vô thường, dời đổi, biến động, tiêu tan, hư hoại; giúp ta dứt trừ sự buông lung kiêu mạn, mến mộ đạo Vô thượng Bồ-đề. Thiện nam! Lúc ta gặp vị Bà-la-môn này thì đỉnh núi Tu-di chấn động sáu cách, chư Thiên chúng ta thấy tướng ấy rồi tâm hết sức kinh sợ và nhàm chán, cùng lúc ấy, đồng phát tâm Vô thượng Bồ-đề, cầu trí Nhất thiết trí.

Lại có mười ngàn đại Long vương, đó là Long vương Y-la-bát-na Long vương Nan-đà, Long vương Ưu-ba-nan-đà… ở trong không trung, giăng vầng mây hương lớn, từng lúc tuôn xuống vô lượng trận mưa hương chiên-đàn thơm ngào ngạt. Vô số long nữ hòa tấu nhạc trời, mưa hoa đẹp và nước đầy hương của cõi trời để cung kính cúng dường, rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân của vị Bà-la-môn này, thì ánh sáng ấy chiếu đến cung điện của chúng ta, làm cho các long chúng dứt hết kinh sợ về cát nóng, về chim cánh vàng và trừ nhiệt sân hận. Tâm không còn nhiễm ô, thân được mát mẻ, an ổn thư thái; lại giảng thuyết hợp với căn cơ của chúng ta. Người nghe tin hiểu và chán ghét cảnh giới rồng, đem hết tâm lực, dứt trừ tất cả các nghiệp chướng ác, cho đến phát tâm Vô thượng Bồ-đề, an trụ trọn vẹn vào trí Nhất thiết trí.

Lại có mười ngàn Dạ-xoa vương, ở trên không trung, đều đem các phẩm vật thượng hạng cúng dường vị Bà-la-môn ấy và Thiện Tài, rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm loại nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, có một năng lực làm cho chúng ta và quyến thuộc đều phát tâm thương tưởng đến các chúng sinh. Các La-sát và Cưu-bàn-trà… cũng phát tâm Từ, nhờ thế mà có khả năng ban sự an lạc cho các chúng sinh, không còn bị quấy nhiễu; tất cả đều dẫn quyến thuộc đến gặp chúng ta, rồi chúng ta cùng họ liền đi đến chỗ vị Bà-la-môn. Bấy giờ, vị ấy thuyết pháp, làm cho thân tâm của chúng ta đều được an lạc, oai lực tăng trưởng. Vả lại còn làm cho vô lượng Dạ-xoa, La-sát và Cưu-bàn-trà đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

*********

Lại có mười ngàn Càn-thát-bà vương, ở trên không trung, nói:

–Thiện nam! Khi năm loại nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, thì ánh sáng của lửa ấy chiếu đến cung điện của chúng ta và các quyến thuộc, làm cho chúng ta đều được thọ hưởng vô lượng diệu lạc bất tư nghì. Thế rồi chúng ta đến chỗ vị ấy và nghe thuyết pháp giúp chúng ta có năng lực không còn thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề.

Lại có mười ngàn A-tu-la vương, từ biển cả vọt lên, đứng trên không trung, duỗi bánh xe ở gối phải, chắp tay cung kính, thưa:

–Thiện nam! Khi năm loại nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, thì tất cả các núi, đại địa và cung điện của chúng ta đều chấn động, biển cả nổi sóng dữ dội làm cho chúng ta và các quyến thuộc mất cả oai lực, xả bỏ tâm kiêu mạn, rời xa sự buông lỏng và dứt trừ tâm chiến đấu tổn hại; cùng đến chỗ Bà-la-môn này, nhờ nghe vị ấy thuyết pháp, nên xa hẳn tính dua nịnh dối trá, để nhập pháp nhẫn, an trụ Tam-muội, thành tựu mười lực, kiên cố không lay chuyển.

Lại có mười ngàn Ca-lâu-la vương ở trên không trung, đứng đầu là Ca-lâu-la Đại Lực Dũng Trì. Tất cả hóa làm hình tướng đồng tử cao lớn, dung mạo đoan nghiêm, sắc tướng đầy đủ, từ không trung xướng lên như vầy:

–Thiện nam! Khi năm loại nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, thì ánh sáng chiếu đến cung điện của chúng ta, làm cho tất cả đều chấn động và toàn thể chúng ta đều kinh sợ, sinh tâm nhàm chán, không

còn thích ở nơi này nên lập tức đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, vị ấy thuyết pháp hợp với căn cơ của chúng ta, giúp chúng ta tu tập đại Từ, phát triển tâm đại Từ bi, tinh tấn không bỏ pháp thiện, nhổ chúng sinh ra khỏi năm dục, giúp họ phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nhập vào pháp giới thanh tịnh sâu xa, để họ đạt được trí tuệ bén nhạy và dùng phương tiện quyền xảo, điều phục tất cả chúng sinh.

Lại có mười ngàn Khẩn-na-la vương ở trên không trung, xướng lê như vầy:

–Thiện nam! Khi năm loại nhiệt đốt thân vị Bà-la-môn này, thì từ trong lửa đỏ phát ra một ngọn gió lớn, thổi vào cung điện của chúng ta, làm cho tất cả hồ chứa nước, cây Đa-la báu, những lưới linh báu, những loại lụa ngũ sắc, vương miện anh lạc, những cây âm nhạc, nhũng cây diệu bảo, các loại nhạc cụ và toàn thể vật dụng riêng tư đều bị chấn động. Rồi phát ra những âm thanh như âm thanh của Phật, âm thanh của pháp, âm thanh của tăng, của Bồ-tát bất thoái chuyển, âm thanh phát ra đại nguyện và đạo Bồ-tát, âm thanh của bậc đang trụ Vô thượng Chánh đẳng giác. Nói: Ở phương… thế giới… cõi nước… xứ, có Bồ-tát… phát tâm Bồ-đề và đại nguyện. Ở phương… thế giới… cõi nước… xứ… có Bồ-tát tu khổ hạnh, có khả năng bỏ được những thứ khó bỏ như của cải, thân mạng. Ở phương… thế giới… cõi nước… xứ… có Bồtát muốn sớm viên mãn trí Nhất thiết trí, nên tích tập diệu hạnh và công đức của Bồ-tát, cho đến pháp môn vô tác tuyệt đối. Ở phương… thế giới… cõi nước… xứ… có Bồ-tát… đi đến đạo tràng, ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, hàng phục ma quân, thành Đẳng chánh giác… cho đến ở phương… thế giới… cõi nước… xứ, có Đức Như Lai… chuyển xe đại pháp. Ở phương… thế giới… cõi nước… xứ… có Đức Như Lai… đã hoàn mãn Phật sự, đang nhập Niết-bàn.

Thiện nam! Giả sử có người đem đất cõi Diêm-phù-đề và cỏ cây, cùng tất cả các vật sở hữu, nghiền làm bụi nhỏ. Con số vi trần ấy, còn có thể biết được giới hạn; nhưng số âm thanh phát ra từ cung điện, từ cây Đa-la báu, cho đến các vật dụng để trang nghiêm của ta như: Âm thanh nói về danh hiệu Bồ-tát, nói về danh hiệu Như Lai, nói tên pháp, nói tên tăng, phát đại thệ nguyện, tu các hạnh và việc của chư Phật, Bồ-tát việc đi, việc ở, việc thuyết giảng, hóa độ thì không thể nào biết hết giới hạn của nó.

Thiện nam! Chúng ta nhờ nghe âm thanh Phật, Pháp và Bồ-tát tăng; đó là âm thanh an trụ nơi hạnh nguyện của Bồ-tát ấy cho nên hết sức vui mừng, liền đến chỗ vị ấy. Bấy giờ, bậc Thánh thuyết pháp hợp với căn cơ chúng ta, làm cho chúng ta và vô lượng chúng sinh không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.

Lại còn có vô lượng Thiên tử ở cõi Dục, hiện thân cao lớn ở trên không trung đem đủ các lễ vật thượng hạng, cung kính cúng dường, rồi nói:

–Thiện nam! Khi năm nhiệt đốt thân của vị Bà-la-môn này, thì ánh sáng của lửa ấy chiếu xuống địa ngục A-tỳ và các địa ngục khác, những kẻ thọ khổ đều được dừng nghỉ. Chúng ta gặp ánh sáng này chiếu đến cho nên sinh tâm tin chân chánh, nhờ tín tâm nên các tội, cấu được trừ diệt, nhờ đó, mà khi mạng chung, được sinh vào cõi Trời. Hôm nay chúng ta chẳng hổ thẹn, vì biết báo đáp thâm ân, rời bỏ thú vui, đi đến chỗ vị ấy, quyến luyến, cung kính chiêm ngưỡng, không biết chán. Bấy giờ, Tánh giả thuyết pháp cho ta, giúp chúng ta và vô lượng trăm ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Khi được nghe nói đủ các pháp như vậy, Đồng tử Thiện Tài rất vui mừng và hết sức phấn khởi, coi vị Bà-la-môn là chân Thiện tri thức, đảnh lễ sát chân, chắp tay cung kính, xướng lên:

–Đối với Thánh giả Thiện tri thức, con đã không có niềm tin mà còn hoài nghi, cúi xin Thánh giả bao dung thứ lỗi.

Lúc ấy, vị Bà-la-môn liền nói kệ cho Thiện Tài:

Nếu có các Bồ-tát

Tin lời Thiện tri thức

Hoàn toàn không nghi sợ

Tâm an trụ bất động

Người ấy quyết định được Trí tự nhiên của Phật

Ngồi nơi đạo tràng trừ ma Độ hết vô biên chúng.

Nghe kệ xong, Đồng tử Thiện Tài liền leo lên núi đao, gieo mình vào đống lửa, ngay khoảng còn lơ lững liền chứng đắc Tammuội thanh tịnh an trụ vững bền của Bồ-tát; khi chạm đến lửa đỏ, lại đắc Tam-muội từ môn thần thông tịch tĩnh lạc của Bồ-tát.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Thật là kỳ diệu, mũi dao nhọn và đám lửa đỏ như thế, nhưng lúc thân con vừa chạm đến lại được an ổn sướng vui.

Khi ấy, vị Bà-la-môn bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta chỉ đạt được bánh xe giải thoát vô tận viên mãn khắp của Bồ-tát. Còn như các Đại Bồ-tát; dùng lửa hồng đại công đức, có công năng thiêu rụi các tà kiến và phiền não của tất cả chúng sinh, tâm an trụ không còn thoái chuyển của Bồ-tát, tâm không cùng tận, tâm không lười biếng, tâm không khiếp nhược, tâm như Na-la-diên và kim cương tạng, tâm không kiêu mạn, uể oải, nhanh chóng tu hành các hạnh, tất cả đều được bảo trì bằng phong luân đại nguyện, thệ nguyện kiên cố dũng mãnh, không còn thoái chuyển nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết được hạnh nguyện và công đức của các vị ấy.

Này thiện nam! Ở phương Nam có một thành, tên là Sư tử tần thân, thành ấy có vị vua tên Vô Úy Tinh Tú Tràng. Vua có một người con gái tên là Từ Hạnh. Ông nên đến đó tham vấn vị ấy. “Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát”.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị Bà-la-môn Thắng Nhiệt, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi giã từ ra đi.

Lúc này, đối với Thiện tri thức, Đồng tử Thiện Tài phát sinh niềm kính trọng tột đỉnh không thể nghĩ bàn, tâm tin hiểu thanh tịnh rộng lớn, thường nghĩ về Đại thừa không chút xa rời, chuyên tâm cầu trí Phật; không nghĩ gì khác; tâm quán chiếu cảnh giới pháp; không có nghi hoặc, chuyên tâm buộc niệm đến Thiện tri thức, trí vô chướng ngại luôn hiện hữu, quyết định trụ vào cảnh giới trí chân thật; khéo có khả năng phân biệt về các pháp thật tế; nhập vào khắp cảnh giới ở từng sát-na trong ba đời, tùy thuận hiểu rõ cảnh giới như hư không; hiện thấy các pháp không có hai ranh giới; trụ vào pháp giới không có phân biệt ranh giới; hiểu các nghĩa không có dấu vết của chướng ngại; trụ vào tất cả kiếp không quên một mảy may; tùy thuận điều phục từng phần của các tánh nghiệp, sự tối thắng của Như Lai không chung với ngằn mé pháp; hiểu rõ ngằn mé và không ngằn mé của Như Lai; dùng trí tối thắng phá tan lưới tưởng điên đảo của tất cả sự chấp trước; không nắm giữ tướng khác nhau của tất cả cõi nước đồng và không đồng; cũng không nắm giữ tướng hòa hợp từ chúng hội đạo tràng, của tất cả chư Phật; không nắm giữ tướng thanh tịnh của cõi Phật; hiểu rõ tất cả chúng sinh nhưng không có tướng ta và tướng chúng sinh; cũng biết tất cả âm thanh, ngôn ngữ, như tiếng vang trong hang núi; cũng biết màu sắc khác nhau đều như bóng hình. Chánh niệm, quán sát và tư duy như thế, rồi từ từ đi về phương Nam, đến thẳng thành Sư tử tần thân, thăm dò tin tức của Đồng nữ Từ Hạnh khắp nơi. Đồng tử nghe mọi người bảo; cô ấy là con gái của vua; sống trong vương cung, có năm trăm đồng nữ hầu cận, đang ở nơi cung điện Tỳ-lô-giá-na ma-ni tạng, ngồi trên tòa Long thắng chiên-đàn, được trải đư các lưới kim tuyến và thiên y để thuyết diệu pháp.

Nghe xong, Thiện Tài đến trước hoàng cung, hết tâm khát ngưỡng được yết kiến cô gái này. Ngay khi ấy, đồng tử chợt thấy có vô số người đang vào trong cung.

Thiện Tài hỏi:

–Chư vị hôm nay có việc gì vào đây?

Mọi người đều đáp:

–Chúng tôi muốn lãnh thọ diệu pháp của Đồng nữ Từ Hạnh.

Thiện Tài liền nghĩ: “Cửa hoàng cung này, không có gì trở ngại, ta cũng nên vào đó xem”, rồi cùng đi thẳng vào vương cung; trông thấy bảo điện ấy nền bằng pha lê, trụ bằng lưu ly, vách bằng kim cương, tường bằng vàng Diêm-phù-đàn, những lan can bằng trăm ngàn loại báu, cửa sổ là những ánh sáng của ngọc và trang nghiêm bằng a-tăng-kỳ ngọc ma-ni thù thắng; gương ma-ni bảo tạng, tròn phẳng trang nghiêm; bảo châu ma-ni quang tạng quý nhất thế gian, chiếu sáng ngày lẫn đêm để thay đèn, vô số lưới báu giăng rũ xuống xung quanh, ánh sáng các cửa sổ chiếu vào các báu tương phản nhau; bên trên treo hàng trăm ngàn cái linh vàng, mỗi khi gió nhẹ thổi qua, chúng phát ra âm thanh vi diệu; có chẳng thể nghĩ bàn loại báu để trang nghiêm như thế. Thân của Đồng nữ Từ Hạnh màu chân kim, mắt và tóc đều xanh, dung mạo đoan nghiêm, đầy đủ tướng tốt, diễn thuyết diệu pháp bằng Phạm âm. Gặp rồi, Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng rồi đứng về một bên, chắp tay, cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con được nghe Thánh giả khéo dạy bảo, cúi xin hãy chỉ dạy cho con!

Đồng nữ bảo:

–Thiện nam! Ông hãy quán chiếu trong ngoài cung điện và các việc được trang nghiêm nơi ta ở.

Thiện Tài đảnh lễ rồi quán sát phắp; thấy trong mỗi bức vách, mỗi tấm gương, mỗi cây trụ, mỗi tướng, mỗi hình báu, mỗi lưới báu, mỗi lan can, mỗi linh vàng, mỗi cây báu, mỗi ngọc báu anh lạc, mỗi vật để trng nghiêm, mỗi hình tượng báu, mỗi ma-ni, mỗi ánh sáng chiếu ra từ ngọc báu Tỳ-lô-giá-na trong thế gian; đều thấy tất cả pháp giới trong mười phương, tất cả các Đức Như Lai từ lúc mới phát tâm hành đạo Bồ-tát, những hạnh nguyện, những cảnh giới, những cảnh xuất hưng thành Chánh đẳng Chánh giác, những cảnh thị hiện thần thông rộng lớn, chuyển pháp luân vi diệu cho đến những cảnh đang nhập Niết-bàn, hình tướng đủ loại cảnh giới như thế, đều như bóng hiện trong gương và cũng như nước trong hiện mặt trời, mặt trăng và tinh tú trong hư không. Đây là toàn bộ sự tu tập sức đại thiện căn, từ thời quá khứ, của Đồng nữ Từ Hạnh, nên có những ảnh tượng hiển hiện trong ấy.

Bấy giờ, Thiện Tài ghi nhớ những tướng đã quán sát như công đức, hạnh nguyện, thần biến và cõi nước trang nghiêm của tất cả chư Phật; rồi cung kính chắp tay, nhiếp tâm chiêm ngưỡng Đồng nữ Từ Hạnh.

Lúc ấy, Đồng nữ Từ Hạnh nói với Thiện Tài:

–Thiện nam! Môn Phổ trang nghiêm Trí tuệ ba-la-mật này, do ta cầu được từ nơi ba mươi sáu hằng hà sa số Đức Như Lai. Các Đức Như Lai này, đều dùng đủ các môn phương tiện khác nhau, để giúp ta được nhập môn ấy, từng Đức Phật diễn thuyết không bị trùng lặp.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn Trí tuệ ba-la-mật Phổ trang nghiêm này thế nào?

Đồng nữ đáp:

–Để thể nhập môn Trí tuệ ba-la-mật Phổ trang nghiêm này, ta phải tùy thuận tới nơi; quán sát tư duy; ghi nhớ phân biệt; có những cảnh giới; có những oai nghi; có những tướng trạng và có những điều nhân chứng nào. Ngay lúc ấy, ta đạt được môn Tổng trì phát sinh khắp nơi và trăm vạn a-tăng-kỳ môn Tổng trì. Tất cả đều hiện hữu, hiển hiện nhanh chóng như dòng nước cuốn. Đó là môn Tổng trì của Phật, môn Tổng trì của Pháp, môn Tổng trì của cõi Phật, môn Tổng trì của chúng sinh, môn Tổng trì biến khắp môn Tổng trì quá khứ, môn Tổng trì vị lai, môn Tổng trì hiện tại, môn Tổng trì thường trụ, môn Tổng trì phước đức, môn Tổng trì phước đức quy tụ, môn Tổng trì trí tuệ, môn Tổng trì trí tuệ quy tụ, môn Tổng trì về các nguyện, môn Tổng trì phân biệt các nguyện, môn Tổng trì về hạnh, môn Tổng trì hạnh thanh tịnh, môn Tổng trì hạnh tu tập, môn Tổng trì hạnh viên mãn, môn Tổng trì về nghiệp, môn Tổng trì nghiệp không bị hư hoại, môn Tổng trì nghiệp thanh tịnh, môn Tổng trì nghiệp chảy xiết, môn Tổng trì nghiệp tạo tác hiện hữu, môn Tổng trì xả bỏ nghiệp ác, môn Tổng trì tu tập chánh nghiệp, môn Tổng trì nghiệp tự tại, môn Tổng trì thiện hạnh, môn Tổng trì thường bảo hộ thiện hạnh, môn Tổng trì định, môn Tổng trì định tùy thuận, môn Tổng trì định quán sát, môn Tổng trì cảnh giới định, môn Tổng trì từ định phát sinh, môn Tổng trì thần thông, môn Tổng trì tâm hải, môn Tổng trì đủ loại tâm, môn Tổng trì trực tâm, môn Tổng trì tâm thanh tịnh, môn Tổng trì chiếu vào rừng rậm của tâm, môn Tổng trì đất tâm thanh tịnh, môn Tổng trì biết nơi sinh tâm của chúng sinh, môn Tổng trì biết tâm vi diệu của chúng sinh, môn Tổng trì biết hành nghiệp và phiền não của chúng sinh, môn Tổng trì biết tập khí phiền não, môn Tổng trì biết phiền não phương tiện, môn Tổng trì biết phiền não tạo tác, môn Tổng trì biết niềm tin của chúng sinh, môn Tổng trì biết sự thấu hiểu của chúng sinh, môn Tổng trì biết hạnh của chúng sinh, môn Tổng trì biết tin hiểu về các hạnh khác nhau của chúng sinh, môn Tổng trì biết tánh của chúng sinh, môn Tổng trì biết tâm ham muốn của chúng sinh, môn Tổng trì biết ý tưởng của chúng sinh, môn Tổng trì biết sự phát sinh của thế giới, môn Tổng trì thấy khắp mười phương, môn Tổng trì thấy khắp tất cả pháp, môn Tổng trì thuyết pháp, môn Tổng trì đại Từ, môn Tổng trì đại Bi, môn Tổng trì tịch tĩnh, môn Tổng trì về đạo ngôn ngữ, môn Tổng trì giải thoát, môn Tổng trì phát sinh khắp nơi, môn Tổng trì không chấp trước ngằn mé, môn Tổng trì phương tiện và không phải phương tiện, môn Tổng trì tùy thuận, môn Tổng trì sai biệt, môn Tổng trì nhập khắp, môn Tổng trì biên tế vô ngại, môn Tổng trì biến khắp tất cả, môn Tổng trì pháp Phật, môn Tổng trì pháp Bồ-tát, môn Tổng trì pháp Thanh văn, môn Tổng trì pháp Độc giác, môn Tổng trì pháp thế gian, môn Tổng trì thế giới thành, môn Tổng trì thế giới hoại, môn Tổng trì thế giới trụ, môn Tổng trì thế giới trang nghiêm, môn Tổng trì thế giới hình trạng, môn Tổng trì thế giới hẹp, môn Tổng trì thế giới rộng, môn Tổng trì thế giới cấu, môn Tổng trì thế giới tịnh, môn Tổng trì nơi thế giới tịnh hiện thế giới cấu, môn Tổng trì nơi thế giới cấu hiện thế giới tịnh, môn Tổng trì thế giới thuần cấu, môn Tổng trì thế giới thuần tịnh, môn Tổng trì thế giới vừa cấu vừa tịnh, môn Tổng trì thế giới vừa tịnh vừa cấu, môn Tổng trì thế giới bằng phẳng, môn Tổng trì thế giới gò đống, môn Tổng trì thế giới cúi, môn Tổng trì thế giới ngữa, môn Tổng trì thế giới nghiêng, mông Tổng trì thế giới lưới, mông Tổng trì thế giới chuyển, môn Tổng trì thế giới khác nhau nương hau trụ nơi tưởng, môn Tổng trì thế giới hành, môn Tổng trì tế nhập vào thô, môn Tổng trì thô nhập vào tế, môn Tổng trì đại thâu vào tiểu, môn Tổng trì tiểu nhập vào đại, môn Tổng trì thấy các Đức Phật, môn Tổng trì phân biệt thân Phật, môn Tổng trì thấy lưới ánh sáng trang nghiêm của Phật, môn Tổng trì nghe âm thanh vi diệu viên mãn của Phật, môn Tổng trì Phật chuyển pháp luân, môn Tổng trì thành tựu pháp không khác nhau của Phật, môn Tổng trì pháp luân khuyên dạy của Phật, môn Tổng trì pháp luân xoay chuyển của Phật, môn Tổng trì phân thân hiện khắp, môn Tổng trì chúng hội của Phật viên mãn, môn Tổng trì thường làm Phật sự, môn Tổng trì biết rõ tướng khác nhau nơi chúng hội của Phật, môn Tổng trì gia nhập vào biển cả chúng hội của Phật khắp nơi, môn Tổng trì ánh sáng của chư Phật chiếu đến, môn Tổng trì định của chư Phật, môn Tổng trì dụng tự tại từ định của Phật, môn Tổng trì chỗ ở của chư Phật, môn Tổng trì sự gia trì của chư Phật, môn Tổng trì sự biến hóa của chư Phật, môn Tổng trì sự du hý của chư Phật, môn tởng trì Phật biết tâm hạnh khác nhau của chúng sinh, môn Tổng trì thần thông của chư Phật biến hiện đủ cách, môn Tổng trì về nghiệp tạo tác khi an trú nơi cung trời Đâu-suất… cho đến môn Tổng trì thị hiện nhập ngay vào Niết-bàn, môn Tổng trì làm lợi ích chúng sinh, môn Tổng trì nhập vào pháp sâu xa, môn Tổng trì thể nhập pháp vi diệu, môn Tổng trì tướng của tâm Bồ-đề, môn Tổng trì về chỗ sinh theo tâm Bồ-đề, môn Tổng trì tướng trợ đạo của tâm Bồ-đề, môn Tổng trì các nguyện, môn Tổng trì các hạnh, môn Tổng trì tướng thần thông, môn Tổng trì tướng xuất ly, môn Tổng trì tướng Tổng trì thanh tịnh, môn Tổng trì tướng trí luân thanh tịnh, môn Tổng trì tướng trí tuệ thanh tịnh, môn Tổng trì tướng vô lượng giải thoát, môn Tổng trì sức nghĩ thanh tịnh, môn Tổng trì tự tâm thanh tịnh.

Này thiện nam! Ta chỉ biết môn Trí tuệ ba-la-mật Phổ trang nghiêm này; còn như các Đại Bồ-tát, tâm ngài rộng lớn, ngang bằng hư không, sánh đồng pháp giới, trí tuệ thông suốt, phước đức viên mãn, vững chắc bất động, trụ pháp xuất thế, xa lìa thế gian, chuyên cần tu tập, hướng về Nhất thiết trí; mắt trí trong sáng, không có bụi bặm, hành nghiệp của thân, ngữ, ý hoàn toàn thanh tịnh; dùng trí sai biệt; nhập khắp các pháp, trí tuệ không bị chướng ngại, giống như hư không, thông đạt tất cả cảnh giới của thế gian, đạt đến tạng đại quang minh của hàng vô ngại; khéo léo phân biệt nghĩa của tất cả pháp, tất cả thế gian không ai có thể sánh nổi; thường sống trong đời, nhưng không nhiễm thế pháp; hay làm lợi ích cho đời, không bị đời hủy hoại; làm nơi nương tựa hoàn thiện cho các chúng sinh; hiểu rõ tất cả ngôn ngữ của chúng sinh; giải rõ đủ các nghi thức cho chúng sinh; biết rõ căn khí và tập nghiệp của chúng sinh, tùy theo tân hạnh của họ mà thuyết pháp, phù hợp với căn cơ; tùy nghi hiện thân ở khắp nơi, trong các thời đều được tự tại; nhưng làm sao ta biết và nói hết công đức của các hạnh ấy!

Thiện nam! Ở phương Nam này, có một nước tên Tam mục, ở đó có vị Tỳ-kheo tên là Diệu Kiến, ông đến thỉnh vấn vị ấy: “Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát”.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị ấy, đi quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã đến phương Nam.

Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài tùy thuận tư duy lại sự hành trụ sâu xa của Bồ-tát, tư duy về sự chứng đắc bến bờ pháp giới sâu xa của Bồ-tát, tư duy về trí vi tế sâu xa đối với chúng sinh của Bồ-tát, tư duy về tánh vô tác sâu xa của chúng sinh, tư duy về tâm xuyên suốt sâu xa của chúng sinh, tư duy về mức độ sâu xa của các pháp duyên khởi, tư duy về mức sâu xa chân thật của chúng sinh, tư duy về chúng sinh như bóng dáng sâu xa, tư duy về mức sai biệt sâu xa của tên họ chúng sinh, tư duy về mức sâu xa của ngôn ngữ chúng sinh, tư duy về pháp trang nghiêm sâu xa của chúng sinh, tư duy về mức sâu xa bí mật của chúng sinh, tư duy về mứa độ sâu xa nơi ánh sáng của chúng sinh rồi thong thả đi về phương Nam, đến nước Tam Mục. Ở đây đồng tử tìm kiếm hỏi thăm Tỳ-kheo Diệu Kiến khắp thành ấp, chợ búa, làng quán, rừng núi, sông đầm và chỗ ở của Tiên nhân; chợt trông thấy vị ấy đang đi kinh hành qua lại trong một khu rừng bên cạnh. Về tướng tốt của vị ấy: xương đầu giống như lọng, trên đỉnh có nhục kế thù thắng đoan nghiêm, đôi mắt rộng như lá sen xanh cuốn lại, sống mũi cao thẳng như đỉnh chân kim, môi đỏ thắm như trái tần-bà, răng đủ bốn mươi cái trắng trong tròn khít, má vuông đầy đặn như cằm sư tử, lông mày cao và dài, vầng trán rộng và bằng phẳng, tướng bạch hào sáng rực như ngọc lưu ly trắng, tai dài thòng xuống như hạt châu treo, gương mặt như vầng trăng tròn, người nhình không chán, cổ tròn thẳng có ba ngấn, tâm ngực hiện đức tướng diệu tạng trang nghiêm, ức như Sư tử, vai và bắp tay nở tròn, lưng eo nhỏ như chày kim cương, cánh tay tròn thẳng đứng buông quá gối, tướng vân chỉ nơi ngón tay như chân bạch nga vương, trong tâm bàn tay, bàn chân có tướng bánh xe kim cương và mềm mại mịn láng như hoa Đâu-la mới nở, bảy nơi bằng đầy như bắp vế con nai Y-ni, ngón tay thon dài, gót chân tròn bằng, nước da màu hoàng kim thường phóng ra ánh sáng một tầm, tất cả lông trên thân đều quay về phía phải, thân tròn đầy như cây ni-câu-đà, tướng tốt nghiêm khiết như núi Tuyết, các căn vắng lặng, mắt nhìn không nháy, tâm không lay động trước các cảnh giới; trí tuệ rộng lớn giống như biển cả, hoặc thăng, hoặc trầm là trí chẳng phải trí, cho đến đùa giỡn và lý luận tất cả đều dứt; đạt đến việc làm bình đẳng cảnh giới của Phật; nhập vào pháp môn duyên khởi khác nhau; làm cho tất cả chúng sinh được thuần thục, tâm không mệt mỏi; thường sinh tâm thương cao cả viên mãn sâu rộng, để giáo hóa hướng dẫn, tâm không tạm rời; chính vì muốn thọ trì chánh pháp nhãn tạng của các Đức Như Lai; muốn làm con mắt trí cho khắp tất cả chúng sinh và muốn luôn cất bước trên đường hành đạo của các Đức Như Lai, cho nên vị ấy bước đi vững chãi, không chậm không mau, đoan nghiêm lặng lẽ như vầng trăng tròn, oai nghi, đĩnh đạt như trời Tịnh cư, bên cạnh còn có vô số Thiên, Long, Càn-thát-bà, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế, người và phi nhân trước sau vây quanh. Thần chủ xoay phương nào người đi trước dẫn đường chuyển theo hướng đó; các Thần túc hành bưng hoa sen báu nâng chân vị ấy, Thần hỏa coi về ánh sáng vô tận, cầm đuốc báu đưa lên soi đường; Thần rừng coi về cờ Diêm-phù, làm mưa các hoa Câu-tô-ma đẹp; Thần đất coi về các kho tàng bất động, tùy nghi hiện ra những kho báu; Thần hư không coi về ánh sáng khắp nơi làm trang nghiên hư không; Thần biển coi về các điềm lành làm mưa báu ma-ni; Thần núi coi về các kho tàng trong núi Tu-di chắp tay làm lễ; Thần gió coi về những năng lực vô ngại; rải những hoa thơm; Thần đêm coi về không khí hiền hòa tươi trẻ, nghiêng mình cung kính, Thần ngày coi về sự tỉnh thức hoàn toàn, cầm cờ báu ma-ni đứng trên không trung, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương. Đồng tử Thiện Tài đến đảnh lễ sát chân vị ấy, chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn chuyên cần cầu đạo Bồ-tát. Con được nghe nói thầy có năng lực dạy dỗ tốt, vậy cúi xin thầy chỗ nương tựa dạy cho: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát?

Diệu Kiến đáp:

–Thiện nam! Tôi còn nhỏ tuổi, xuất gia cũng chưa được bao lâu. Sở dĩ tôi có được cuộc sống như hôm nay, chính là do tôi ở nơi ba mươi tám hằng hà sa các Đức Như Lai, thân cận cúng dường, tịnh tu phạm hạnh: Hoặc ở nơi các Đức Phật một ngày đêm, chuyên tu phạm hạnh; hoặc có lúc ở nơi các Đức Phật bảy ngày đêm, chuyên tu phạm hạnh; hoặc có lúc ở nơi các Đức Phật nửa tháng, một tháng, một năm, một trăm năm, một ngàn năm, một triệu năm na-do-tha năm cho đến vô lượng vô lượng năm; hoặc có lúc ở nơi các Đức Phật, trải qua một tiểu kiếp, một trung kiếp, mộ đại kiếp cho đến vô lượng vô lượng a-tăngkỳ kiếp, để thân cận cúng dường, tinh tu phạm hạnh, nghe nhận và y giáo phụng hành diệu pháp, làm cho các đại thệ nguyện thanh tịnh trang nghiêm; chứng nhập vào cảnh giới sâu xa của chư Phật; tu tập các diệu hạnh của Bồ-tát; viên mãn các môn Ba-la-mật; thấy các Đức Phật đang viên thành Chánh giác, đang hiện thần thông, đang chuyển pháp luân, đang nhập Niết-bàn, hoặc đang phó chúc cho đến thời kỳ cuối của chánh pháp mỗi mỗi khác nhau, đều thọ trì trọn vẹn, không bị nhầm lẫn. Cũng biết các Đức Phật ấy; từ xưa đã phát năng lực đại thệ nguyện, làm trang nghiêm thanh tịnh khắp cõi nước của chư Phật; từ xưa đã nhập vào năng lực các Tam-muội, làm cho viên mãn diệu hạnh sâu xa của Bồ-tát; từ xưa đã tu năng lực Phổ Hiền hạnh nguyện, làm cho thanh tịnh biển Ba-la-mật của chư Phật. Vả lại, thiện nam! Ta chưa từng rời nơi kinh hành này; trong một niệm tất cả mười phương đều hiện hữu, được trí tịnh diệu, quán sát hiểu biết không bị chướng ngại; trong một niệm, tất cả thế giới đều hiện hữu, đạt được năng lực mau lẹ; trong một niệm, có khả năng vượt qua vô lượng vô lượng thế giới, không bị chướng ngại; trong một niệm có vô lượng vô lượng cõi Phật đều hiện hữu, được thành tựu nguyện lực của Bồ-tát, làm nghiêm tịnh khắp; trong một niệm, có vô lượng vô lượng, hạnh sai biệt của chúng sinh, đều hiện hữu, được trọn vẹn biển môn Phổ Hiền giáo; trong một niệm, có vô lượng vô lượng thân thanh tịnh của Phật đều hiện hữu, được thân cận khắp nơi và thành tựu năng lực hạnh nguyện của Phổ Hiền; trong một niệm, có cực vi trần Đức Như Lai, nơi vô lượng vô lượng Phật sát đều hiện hữu, được tâm hiền hòa và sức đại nguyện, phụng sự cúng dường tất cả các Đức Như Lai; trong một niệm, có vô lượng vô lượng Đức Như Lai, rót mưa pháp vào tâm của chúng sinh đều hiện hữu, được thông suốt a-tăng-kỳ pháp môn tùy thuận với nguyện lực Đà-la-ni; trong một niệm, có vô lượng vô lượng biển hạnh của Bồ-tát đều hiện hữu, được hoàn thiện tất cả hạnh của Bồ-tát, giống như lưới đế châu, làm cho nguyện lực càng thù thắng; trong một niệm, có vô lượng vô lượng các biển Thiền định đều hiện hữu, được tự tại nhập xuất trong một định và nguyện lực hết thảy các định; trong một niệm, có vô lượng vô lượng biển các căn đều hiện hữu, biết rõ giới hạn của các ăn, trong một căn thấy rõ tất cả nguyện lực của các căn; trong một niệm, có vô lượng vô lượng thời gian đều hiện hữu, được ở nơi tất cả thời chuyển bánh xe chánh pháp, cảnh giới chúng sinh tận như pháp luân và nguyện lực vô tận; trong một niệm, có vô lượng vô lượng biển tam thế đều hiện hữu, biết rõ ánh sáng trí và nguyện lực được phân chia ba đời trong tất cả thế giới.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát tùy thuận vô tận đăng của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát khác, tâm và hạnh kiên cố giống như kim cương, được sinh vào gia đình và chủng tộc của Như Lai, thành tựu chân chánh không hoại, thường trụ vào mạng căn, thường đốt ngọn đèn trí không để tắt, thân ấy kiên cố không bị hư hoại, có khả năng thị hiện sắc thân như huyễn, dung mạo xinh đẹp trên đời không ai bằng; tùy theo vô lượng sự sai biệt nơi tâm của chúng sinh, theo pháp duyên khởi giáo hóa vô tận. Những tai nạn, lửa, độc, đao nhọn không thể hại được, hàng phục chúng ma, diệt trừ ngoại đạo, sắc thân tuyệt đẹp như vàng Diêm-phù-đàn, thù thắng siêu việt, tất cả thế gian không sánh kịp, phóng lưới ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương. Người nào được thấy thì nhất định phá tan được tất cả núi chướng ngại, nhất định nhổ tất cả gốc rễ bất thiện và nhất định trồng thiện căn thù thắng rộng lớn. Với người như thế, rất là khó được gặp và rất ít xuất hiện, quý như hoa Ưu-đàm nhưng ta làm sao để có thể biết và nói hết công đức cùng hạnh của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này, có một nước, tên Viên mãn đa văn, trong nước ấy có thành tên Diệu môn, nơi đó có vị đồng tử tên là căn Tự Tại Chủ. Ông nên đến tham vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát?

Lúc ấy, vì muốn thành tựu viên mãn các hạnh Bồ-tát, muốn tu vô tận công đức của Bồ-tát, muốn mặc giáp đại thệ nguyện của Bồtát, muốn phóng ra ánh sáng đại lực của Bồ-tát, muốn thành tựu sức tin hiểu vững chắc của Bồ-tát, muốn làm phát sinh vô lượng thắng hạnh của Bồ-tát, đối với pháp của Bồ-tát tâm không nhàm chán, lại muốn nhập vào tất cả công đức của Bồ-tát, nguyện luôn thâu giữ tất cả chúng sinh, muốn thoát khỏi rừng rậm và đồng hoang sinh tử; nên Đồng tử Thiện Tài, đối với Thiện tri thức, luôn khao khát sự thấy nghe, phụng sự cúng dường, không biết mỏi mệt, tâm luôn sinh niềm tôn trọng vô lượng pháp, đảnh lễ Diệu Kiến, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài tiếp nhận lời dạy của Tỳ-kheo Diệu Kiến, rồi ghi nhớ trọn vẹn, tư duy tu tập, rõ ràng, rành rẽ và tùy thuận ngộ nhập pháp môn của vị ấy, rồi cùng với Trời, rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà… và quyến thuộc vây quanh, tuần tự tiến về phía trước. Đến nước Viên mãn đa văn, đồng tử vào thành Diệu môn để tìm đồng tử căn Tự Tại chủ. Cùng Lúc ấy, chư Thiên, Long thần ở trên không trung báo cho Thiện Tài:

–Này thiện nam! Hôm nay đồng tử này cùng với các đồng tử hiện đang vun cát nô đùa trên bãi sông.

Nghe nói thế, Thiện Tài liền đi đến đó. Trông thấy đồng tử ấy cùng mười ngàn đồng tử khác vây quanh vun cát nô đùa, Thiện Tài đến gần, đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, đến trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát. Con nghe nói Đại sĩ có khả năng khéo léo dạy dỗ, cúi xin tâm thương xót, thuyết giảng cho con.

Dồng tử Tự Tại Chủ nói:

–Thiện nam! Thuở xưa, ta đã từng ở chỗ Đồng tử Văn-thù-sư-lợi tu học các pháp toán số, ấn tướng ngay khi ấy ta được ngộ nhập môn trí thông của tất cả công xảo. Thiện nam! Nhờ đó, nên ta biết mọi người trong thế gian có: Thinh luận, nội minh, nhân minh, y phương minh, văn chương, toán số thủ ấn và các loại luận trí; cũng biết cách bào chế giải trừ độc dược, độc trùng, cũng có thể điều trị bệnh động kinh, héo gầy, quỷ mị bởi chấp trước các chứng bệnh như thế, đều được chữa trị, cũng có khả năng kiến tạo thành ấp, xóm làng, thắng cảnh, các nhà ở, cửa tiệm, quán, đường, vườn cây, hồ chứa nước, nhà nghĩa, trạm xá, đài tập võ, lâu đài, cung điện, nhà, phòng, cửa sổ, cửa chính trang trí đủ cách; cũng giỏi về điều khiển xe tứ mã, trong pháp chiến lược an nguy, tiến dừng, giữ bỏ, thắng bại, cũng giỏi về việc luyện các thuốc tiên, huyễn thuật, biến hóa, cũng giỏi về mặt kinh doanh vườn ruộng nông nghiệp, thương mại nói chung là đủ các ngành; cũng giỏi về nghi lễ, thứ tự, tôn ti; cũng biết về hạnh nghiệp thiện ác và thân tướng tốt xấu của chúng sinh; cũng biết chúng sinh đầy đủ tất cả thiện căn và bất thiện căn; cũng biết chũng loại khác nhau giữa nẻo thiện và ác của chúng sinh; cũng biết rõ hoàn toàn về nghiệp đạo thanh tịnh của các bậc Thánh hiền; Vị này xứng đáng ở hàng Thanh văn đạo; Vị này xứng đáng ở hàng Bích-chi-phật đạo, vị này xứng đáng ở hàng Bồ-tát đạo, vị này nên được nhập vào trí của Như Lai. Như thế, cho đến có khả năng biết cả hai pháp Chân đế và Tục đế; cũng biết pháp thức mô phạm của tất cả chúng tịch tĩnh: ăn uống đúng thời và phi thời, đáng dùng và không đáng dùng; tự điều dưỡng để kéo dài mạng sống; cũng biết sửa đổi phương pháp mưu sinh của thế tục và tài sản xuất phát là giàu hay nghèo; cũng biết từng phần trong thân có được của mình và trong quá khứ: khi nhập thai, thụ thai đến giai đoạn sinh khác nhau của người thọ thai; cũng biết tất cả chúng sinh ở thời vị lai, sinh nơi kia, tử nơi này; sinh chỗ này, tử chỗ kia; mất chỗ kia, trở lại sinh chỗ kia, mất nơi này trở lại sinh nơi này, cũng biết những pháp môn khác nhau của tất cả chư Phật ở quá khứ và hiện, đã dạy bảo, truyền trao, điều phục, làm cho chúng sinh vững mạnh, tu trì theo, để vượt dòng sinh tử đến bờ Niết-bàn, thân tâm thanh tịnh, thành tựu rộng lớn ánh sáng chiếu khắp tinh luyện vàng ròng.

Thiện nam! Ta còn giỏi về mười tám môn công xảo, đủ các kỹ thuật và sáu mươi hai minh luận quyến thuộc cùng nội minh tất cả phương pháp ấy là để trị phiền não bên trong. Phiền não nội thân là những gì? Có bốn nhân duyên:

  1. Nhãn căn tiếp nhận với sắc nơi cảnh.
  2. Do từ vô thỉ đã đắm chấp vào tập khí.
  3. Do họ biết bản tánh của tự tánh.
  4. Tác ý hy vọng về cảnh sắc.

Do sức của bốn nhân duyên này, nên tạng thức chuyển biến và

sóng thức sinh. Giống như dòng nước chảy mạnh liên tục không ngừng.

Thiện nam! Như nhãn thức sinh ra các căn thức, vô số lỗ chân lông cũng đồng thời phát sinh, như tấm gương sáng nhanh chóng hiện các hình ảnh, các thức cũng tùy lúc nhanh chóng hiện như thế.

Thiện nam! Như trận gió mạnh thổi nước biển cả, làm cho nổi sóng không dừng. Do gió cảnh giới thổi vào biển tâm yên tĩnh, làm cho sóng thức nổi dậy không dừng. Nhân duyên tương tác không bỏ rơi nhau, không một không khác như sóng và nước. Do nghiệp lực đồng sinh buộc chặt, nên không thể biết rõ sắc… và tự tánh năm thức của thân, khi chuyển A-lại-da kia, thì hoàn toàn không thể tự nói: Ta có bảy thức, bảy thức cũng không nói ta sinh ra từ A-lại-da. Chỉ có tâm mình chấp vào tướng của cảnh phân biệt nên sinh. Hành tướng của thức A-lại-da sâu xa và vi tế hoàn toàn không có giới hạn như thế. Chỉ có hàng Bồ-tát trụ địa của các Như Lai mới thông đạt, còn hàng Thanh văn ngu pháp, Bích-chi-phật đến phàm phu và ngoại đạo, thì hoàn toàn không thể biết.

 

Xin xem tiếp trang 3

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8