Trang 3 (tiếp theo)

Thiện nam! Ta còn giỏi về các Thanh luận, âm thanh ngôn ngữ, nguồn gốc trong ngoài, giải thích danh từ, rộng rãi không cùng. Giả sử từ trời Đế Thích đến trời Phạm vương, lắng nghe âm thanh rõ ràng, cho đến lúc mãn tuổi thọ của mình, trọn vẹn cả ngàn năm, cũng không thể biết hết giới hạn của Thanh luận. Ta dùng môn toán pháp này, chỉ trong một niệm mà có thể hiểu biết hết nguồn gốc của nó.

Thiện nam! Vị ấy còn dạy cho ta môn toán pháp của Bồ-tát: Một trăm ngàn là một lạc-xoa, một trăm lạc-xoa là một câu-chi, một câuchi câu-chi là một a-du-đa, một a-du-đa a-du-đa là một na-do-tha, một na-do-tha na-do-tha là một tần-bà-la, một tần-bà-la tần-bà-la là một căng-yết-la, một căng-yết-la căng-yết-la là một a-già-la, một a-già-la a-già-la là một vi-thấp-đại-la, một vi-thấp-đại-la vi-thấp-đại-la là một bát-la-đại-la, một bát-la-đại-la bát-la-đại-la là một bát-la-ma. Một bát-la-ma bát-la-ma là một bà-phược-la, một bà-phược-la bà-phược-la là một a-bà-la, một a-bà-la a-bà-la là một đa-bà-la, một đa-bà-la đabà-la là một ưu-bát-di-na, một ưu-bát-di-na ưu-bát-di-na là một a-tỷma, một a-tỷ-ma a-tỷ-ma là một phổ-ma, một phổ-ma phổ-ma là một nễ-ma, một nễ-ma nễ-ma là một a-bà-linh, một a-bà-linh a-bà-linh là một vi-bà-già, một vi-bà-già vi-bà-già là một vi-bà-xa, một vi-bà-xa vi-bà-xa là một lý-phược-ca, một lý-phược-ca lý-phược-ca là một nahạ-la, một na-hạ-la na-hạ-la là một tỳ-la-già, một tỳ-la-già tỳ-la-già là một di-phược-già, một di-phược-già di-phược-già là một tỳ-bà-già,

một tỳ-bà-già tỳ-bà-già là một tăng-yết-la-ma, một tăng-yết-la-ma tăng yết-la-ma là một tỳ-tát-la, một tỳ-tát-la tỳ-tát-la là một tỳ-thiệmbà, một tỳ-thiệm-bà tỳ-thiệm-bà là một từ-trì-già, từ-trì-già từ-trì-già là một tỳ-thạnh-già, một tỳ-thạnh-già tỳ-thạnh-già là một tỳ-lỗ-đà, một tỳ-lỗ-đà tỳ-lỗ-đà là một vi-bà-ha, một vi-bà-ha vi-bà-ha là một vi-bạt-đế, một vi-bạt-đế vi-bạt-đế là một tỳ-khư-đãm, một tỳ-khưđãm tỳ-khư-đãm là một đô-la-na, một đô-la-na đô-la-na là một a-đỗdã, một a-đỗ-dã a-đỗ-dã là một phược-la-na, một phược-la-na phượcla na là một vi-bà-lan, một vi-bà-lan vi-bà-lan là một tam-mạt-da, một tam-mạt-da tam-mạt-da là một vi đổ la, một vi-đổ-la vi-đổ-la là một hề-bà-la, một hề-bà-la hề-bà-la là một đà-phược-la, một đà-phược-la đà-phược-la là một vi-độ-lật-na, một vi-độ-lật-na vi-độ-lật-na là một xa-di-đà, một xa-di-đà xa-di-đà là một nhĩ-thi-phược-la, một nhĩ-thiphược-la nhĩ-thi-phược-la là một-vi-giả-la, một vi-giả-la vi-giả-la là một vi-xá-la, một vi-xá-la vi-xá-la là một vi-nhĩ-tát-đa, một vi-nhĩ-tátđa vi-nhĩ-tát-đa là một a-phiêu-nghiệt-đa, một a-phiêu-nghiệt-đa aphiêu-nghiệt-đa là một vi-tất-bộ-đa, một vi-tất-bộ-đa vi-tất-bộ-đa là một nê-phược-la, một-nê-phược-la nê-phược-la là một ba-lý-sát-đà, một ba-lý-sát-đà ba-lý-sát-đà là một vi-mục-sai, một vi-mục-sai vimục-sai là một bát-lý-đa, một bát-lý-đa bát-lý-đa là một hát-lý-đa, một hát-lý-đa hát-lý-đa là một a-lỗ-ca, một a-lỗ-ca a-lỗ-ca là một ấnniếp-lý-da, một ấn-niếp-lý-da ấn-niếp-lý-da là một mịch-lỗ-ca, một mịch-lỗ-ca mịch-lỗ-ca là một nô-phược-na, một nô-phược-na nô-phược na là một a-lỗ-na, một a-lỗ-na a-lỗ-na là một bà-lỗ-đà, một bà-lỗ-đà bà-lỗ-đà là một mê-lỗ-đà, một mê-lỗ-đà mê-lỗ-đà là một ngật-sạn-da, một ngật-sạn-da ngật-sạn-da là một a-sai-mục-đa, một a-sai-mục-đa a-sai-mục-đa là một ế-lỗ-bà-da, một ế-lỗ-bà-da ế-lỗ-bà-da là một vima-lỗ-da, một vi-ma-lỗ-da vi-ma-lỗ-da là một mạn-nỗ-bà da, một mạn-nỗ-bà-da mạn nỗ-bà-da là một vi-sát-đà-da, một vi-sát-đà-da visát-đà-da là một tam-ma-đà, một tam-ma-đà tam-ma-đà là một bát-lama-chớ-la, một bát-la-ma-chớ-la bát-la-ma-chớ la là một a-la-ma-chớla, một a-la-ma-chớ-la a-la-ma-chớ-la là một bột-ma-chớ-la, một bộtma-chớ-la bột-ma-chớ-la là một a-bạn-ma-chớ-la, một a-bạn-ma-chớla a-bạn-ma-chớ-la là một-già-ma-chớ-la, một già-ma-chớ-la già-machớ-la là một na-ma-chớ-la, một na-ma-chớ-la na-ma-chớ-la là một hề-ma-chớ-la, một hề-ma-chớ-la hề-ma-chớ-la là một tảnh-ma-chớ-la, một tảnh-ma-chớ-la tảnh-ma-chớ-la là một bát-la-ma-chớ-la, một bátla-ma-chớ-la bát-la-ma-chớ-la là một thi-ma-chớ-la, một thi-ma-chớ-la thi-ma-chớ-la là một ế-la, một ế-la ế-la là một bệ-la, một bệ-la bệ-la là một đế-la, một đế-la đế-la là một kệ-la, một kệ-la kệ-la là một tốtbộ-la, một tốt-bộ-la tốt-bộ-la là một chế-la-da, một chế-la-da chế-lada là một nê-la, một nê-la nê-la là một kế-la, một kế-la kế-la là một tế-la, một tế-la tế-la là một thi-la, một thi-la thi-la là một mê-la, một mê-la mê-la là một sa-la-đồ, một sa-la-đồ sa-la-đồ là một mê-lỗ-đà, một mê-lỗ-đà mê-lỗ-đà là một-minh-lỗ-đà, một minh-lỗ-đà minh-lỗđà là một khiết-lỗ-đà, một khiết-lỗ-đà khiết-lỗ-đà là một ma-đổ-la, một ma-đổ-la ma-đổ-la là một châu-đổ-la, một châu-đổ-la châu-đổ-la là một sa-mẫu-la, một sa-mẫu-la sa-mẫu-la là một a-dã-sa, một a-dãsa a-dã-sa là một ca- ma-la, một ca-ma-la ca-ma-la là một ma-bà-già, một ma-bà-già ma bà-già là một a-bà-la, một a-bà-la a-bà-la là một hệ-lỗ-bà, một hệ-lỗ-bà hệ-lỗ-bà là một phệ-lô-bà, một phệ-lô-bà phệlô-bà là một ca-sáp-phược-la, một ca-sáp-phược-la ca-sáp-phược-la là một a-bà-la, một a-bà-la a-bà-la là một tỳ-bà-la, một tỳ-bà la tỳ-bà-la là một na-bà-la, một na-bà-la một na-bà-la là một ninh-bạn-đa, một ninh-bạn-đa ninh-bạn-đa là một ma-bà-la, một ma-bà-la ma-bà-la là một sa-la na, một sa-la na sa-la na là một bột-la-ma-na, một bột-lama-na bột la-ma-na là một vi-già-ma, một vi-già-ma vi-già-ma là một ổ-ba-bạt-ba, một ổ-ba-bạt-ba ổ-ba-bạt-ba là một nhĩ-lý-nê-xả, một nhĩ-lý-nê-xả nhĩ-lý-nê-xả là một a-sai-da, một a-sai-da a-sai-da là một tam-mỗ-đà, một tam-mỗ-đà tam-mỗ-đà là một a-bạn-đa, một abạn-đa a-bạn-đa là một a-phược-ma-na, một a-phược-ma-na a-phượcma-na là một ưu-bát-la, một ưu-bát-la ưu-bát-la là một ba-đầu-ma, một ba-đầu-ma ba-đầu-ma là một tăng-kỳ, một tăng-kỳ tăng-kỳ là một a-bà-kiệm-nhị-da, một a-bà-kiệm-nhị-da a-bà-kiệm-nhị-da là một nghiệt-đình, một nghiệt-đình nghiệt-đình là một a-tăng-kỳ, một atăng-kỳ a-tăng-kỳ là một a-tăng-kỳ chuyển, một a-tăng-kỳ chuyển atăng-kỳ chuyển là một vô lượng, một vô lượng vô lượng là một vô lượng chuyển, một vô lượng chuyển vô lượng chuyển là một vô biên, một vô biên vô biên là một vô biên chuyển, một vô biên chuyển vô biên chuyển là một vô đẳng, một vô đẳng vô đẳng là một vô đẳng chuyển, một vô đẳng chuyển vô đẳng chuyển là một bất khả số, một bất khả số bất khả số là một bất khả số chuyển, một bất khả số chuyển bất khả số chuyển là một bất khả xưng, một bất khả xưng bất khả xưng là một bất khả xưng chuyển, một bất khả xưng chuyển bất khả xưng chuyển là một bất khả tư, một bất khả tư bất khả tư là một bất khả tư chuyển, một bất khả tư chuyển bất khả tư chuyển là một bất khả lượng, một bất khả lượng bất khả lượng là một bất khả lượng chuyển, một bất khả lượng chuyển bất khả lượng chuyển là một không thể nói, một vô lượng vô lượng là một không thể nói chuyển, một không thể nói chuyển không thể nói chuyển là một vô lượng vô lượng, đây còn một vô lượng vô lượng là một vô lượng vô lượng chuyển.

Thiện nam! Ta lại đem phương pháp biết toán số của Bồ-tát này, phân biệt tính toán, biết được số hạt cát nhiều ít trong sa mạc vô số do-tuần; cũng có khả năng tính toán, biết thứ tự sự thành lập nhiều cách khác nhau, của những thế giới trong tận hư không khắp mười phương; cũng có khả năng tính toán, biết được đủ các giới hạn lớn, nhỏ, rộng, hẹp và tên gọi không đồng của tất cả thế giơi trong mười phương, như tên các kiếp, danh hiệu các Đức Phật, tên các pháp, tên các sự thật, tên các nghiệp, tên các vị Bồ-tát, tên các chúng sinh, tất cả đều hiểu biết thông suốt không trở ngại.

Thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn ánh sáng trí đại thần thông về tất cả công xảo này. Còn như các Đại Bồ-tát; có khả năng biết số lượng và tên gọi của tất cả chúng sinh; có khả năng biết số lượng, phẩm loại và tên gọi của tất cả pháp; có khả năng biết số lượng thời gian và tên gọi ba đời của kiếp số; có khả năng biết số lượng và danh hiệu các Đức Phật; có khả năng biết số lượng và danh hiệu của các Bồ-tát; cũng có khả năng tính toán để biết được: thứ tự sự nhiễm tịnh và thành hoại nối tiếp nhau của tất cả thế giới; thứ tự nối tiếp nhau của tất cả thời gian, ngày, tháng, năm, kiếp; các Đức Phật tuần tự xuất hiện và danh hiệu của các ngài; các Đức Phật tuần tự nối tiếp nhau chuyển pháp luân; các Bồ-tát tuần tự nối tiếp nhau phát tâm hành đạo; các Bồ-tát tuần tự nối tiếp nhau làm thành thục chúng sinh; các chúng sinh tuần tự nối tiếp nhau tạo nhân nghiệp; các chúng sinh tuần tự liên tục chịu thọ quả báu. Như thế, cho đến các danh và tướng cũng tuần tự nối tiếp nhau xoay vần, phát sinh duyên khởi vô tận. Thế nên, Bồ-tát đắc pháp môn toán số tự tại, phải làm đại lợi ích cho mình và người, phải có khả năng giúp cho chúng sinh tùy thuận am hiểu, tuần tự thành thục giải thoát hoàn toàn. Nhưng ta làm sao có thể nói hết công đức ấy, chỉ những việc làm ấy, nêu cảnh giới ấy, hiện năng lực thù thắng ấy, bàn luận về sở thích ấy, tuyên dương trợ đạo ấy, phát đại nguyện ấy, xiển dương diệu hạnh ấy, diễn thuyết những độ ấy, khen ngợi sự thanh tịnh ấy và mở thông ánh sáng trí tuệ thù thắng ấy. Vì vậy, những công đức của Bồ-tát, cho đến một phần nhỏ còn không thể biết, nói gì là biết hết biển đại công đức, oai thần thắng diệu của tất cả chư Phật, viên mãn kết quả Ba-la-mật và đống báu phước trí của tất cả chư Phật, chứng ngộ pháp giới của chư Phật như đèn sáng tỏ không ngại, diễn thuyết giáo pháp tự tại thanh tịnh rộng lớn của chư Phật, hiện bày diệu dụng trong cảnh giới định sâu xa, tối thắng của chư Phật, thông đạt pháp môn giải thoát thần thông trí sáng của chư Phật!

Thiện nam! Ở phương Nam có một thành, tên Hải biệt trụ, ở đó có vị Ưu-bà-di tên là Biện Cụ Túc. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: “Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.”

Nghe Thiện tri thức nói vậy, Thiện Tài hết sức vui mừng, sinh tâm tôn kính, đạt được tâm báu tin tưởng thích thú hiếm có, thành tựu tâm rộng lớn làm lợi ích cho chúng sinh, có khả năng thấy hết các Đức Phật tuần tự ra đời: Đản sinh, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn, thanh tịnh, tối thắng, viên mãn, hoàn toàn, ngộ nhập trí tuệ vi diệu sâu xa; tùy nghi hiện thân khắp cảnh giới, biết rõ cảnh giới khác nhau trong ba đời, đạt được tạng đại công đức vô tận, phóng ra ánh sáng đại trí tuệ tự tại, mở khóa cửa thành tam hữu, hướng về Bồ-đề trọn vẹn của trí Phật, đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, quyến luyến rồi từ giã ra đi.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài tùy thuận tư duy lời dạy của Thiện tri thức, quán sát chánh niệm và hết sức khát ngưỡng, tâm không thấy đủ hoặc nhàm chán, giống như biển cả tiếp nhận trận mưa lớn và nuốt chửng các dòng sông; rồi suy nghĩ: “Lời dạy của Thiện tri thức như mặt trời mùa xuân, làm sinh trưởng rễ mầm của tất cả thiện pháp; lời dạy của Thiện tri thức như vầng trăng tròn mùa thu, ai được ánh sáng chiếu đến, thân ý đều có cảm giác mát mẻ; lời dạy của Thiện tri thức như núi Tuyết vào mùa hạ, có khả năng dứt trừ khát và nóng bức cho các loài cầm thú; lời dạy của Thiện tri thức như mặt trời trên ao thơm có khả năng làm nở bung tất cả các hoa sen thiện tâm; lời dạy của Thiện tri thức như vừng mặt trời tròn đang chuyển soi đường cho chúng sinh đến chỗ pháp bảo; lời dạy của Thiện tri thức như cây Diêm-phù sai quằn vô số những hoa quả phước trí; lời dạy của Thiện tri thức như Đại Long vương, tự tại giăng mây tuôn mưa diệu pháp; lời dạy của Thiện tri thức như núi Diệu cao, tích chứa đủ các công đức vô lậu, cõi trời Tam thập tam trang nghiêm trụ trên ấy; lời dạy của Thiện tri thức như trời Đế Thích, các chư Thiên có công đức cùng nhau vây quanh tạo khả năng phá được quân A-tu-la ái kiến”.

Đồng tử tư duy như thế, thong thả tiến về phía trước, đến thành Hải trụ, tìm kiếm vị Ưu-bà-di ấy khắp nơi. Lúc này mọi người ở đây bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Vị Ưu-bà-di ấy hiện đang ở nhà bên trong thành này.

Nghe rồi, Thiện Tài liền đến cửa thành, đứng chắp tay: Trông thấy ngôi nhà của vị ấy rộng rãi, tráng lệ, trng nghiêm đủ cách, tường bằng các báu bao bọc xung quanh, bốn mặt đều có cửa trang nghiêm bằng báu. Thiện Tài bước vào, thấy vị ấy ngồi trên bảo tòa, tuổi xuân sung mãn, dung mạo xinh đẹp, xõa tóc, không dùng đến hoa và anh lạc, mặc y phục tơ trắng, tỏa ánh sáng đặc biệt, ai cũng thích ngắm. Ngoại trừ Phật và Bồ-tát, ngoài ra không ai có thể sánh kịp, có tâm rộng rãi và oai lực lớn, làm cho các chúng sinh thấy, nghe gần gũi, đều tôn trọng quý kính. Trong nhà này, có trải mười ức tòa, hơn hẳn số tòa ở khắp cõi trời và người, đều tạo thành từ nghiệp lực của Bồ-tát. Trong nhà, không có đồ ăn, thức uống, y phục và những vật dụng để trang nghiêm, chỉ đặt một bình nhỏ ở trước nhà. Còn có mười ngàn đồng tử vây quanh, thân trang sức bằng các thứ báu đẹp, giọng nói hòa nhã, đứng hầu hai bên, chiêm ngưỡng phụng sự, tâm không mệt mỏi; thân tỏa hương thơm, xông khắp nội thành và khắp cả hư không. Toàn thể trời người, nghe mùi hương ấy, đều không còn thoái chuyển tâm Bồ-đề. Những chúng sinh khác, gặp mùi hương ấy, thân tâm nhu hòa, không phẫn nộ, không kết oán, không keo kiệt, ganh tị, dua nịnh, không xúc xiểm, không tham ái, không sân hận, không dối trá, không hèn hạ, không ngạo mạn, không tà vạy, không chướng ngại, không chấp trước, trụ tâm bình đẳng, khởi tâm đại Bi, phát tâm lợi ích, an trú tâm luật nghi, xa tâm tham cầu. Nghe đến tiếng của vị ấy, thì hết sức vui mừng; thấy được thân của vị ấy, thì không còn tham nhiễm.

Bấy giờ, Thiện Tài bước đến phía trước, đảnh lễ sát chân vị Ưubà-di, đi nhiễu quanh phía phải, đứng chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây, con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát. Con được nghe nói, Thánh giả khéo léo dạy dỗ, xin từ bi thuyết giảng cho con.

Vị ấy nói:

–Này thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát Tạng phước đức trang nghiêm vô tận của Bồ-tát. Trong một cái bình nhỏ như thế, cũng có khả năng sinh ra các thứ ăn, uống, ngon, bổ dưỡng, đầy đủ màu sắc hương vị đậm đà, đáp ứng tùy theo những nhu cầu của các chúng sinh. Thiện nam! Ta làm ra các món ăn từ trong bình nhỏ này, nhưng giả sử có trăm chúng sinh, ngàn chúng sinh, trăm ngàn chúng sinh, ức chúng sinh, trăm ức chúng sinh, ngàn ức chúng sinh, trăm ngàn ức chúng sinh, triệu chúng sinh cho đến vô lượng vô lượng chúng sinh. Giả sử chúng sinh nhiều như số cực vi trần của cõi Diêm-phù-đề, chúng sinh nhiều như số cực vi trần trong bốn đại châu, chúng sinh nhiều như số cực vi trần của giới tiểu thiên, thế giới trung thiên, thế giới đại thiên; cho đến chúng sinh nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật. Giả sử chúng sinh nhiều như số cực vi trần trong tất cả thế giới khắp mười phương thì cũng đều đáp ứng đầy đủ theo nhu cầu của họ, để họ dứt hết đói khát, an lạc thân tâm và tăng trưởng trí tuệ. Nhưng món ăn, thức uống này, không bao giờ hết, cũng không bớt đi. Chẳng những tạo món ăn, thức uống mà còn có khả năng tạo đủ loại giường, tòa ngồi, đủ loại dụng cụ, đủ loại gấm lụa, đủ loại y phục, đủ loại xe, đủ loại cờ phướn, đủ loại lọng báu, đủ loại vòng hoa, đủ loại anh lạc, đủ loại ngọc báu, đủ loại hương bôi, đủ loại hương viên, đủ loại hương xoa, đủ loại hương đốt hương trầm cho đến đủ loại vật dụng riêng tư như pháp. Ai đến cũng sẵn lòng đón nhận, cung cấp, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo; đáp ứng đầy đủ theo nhu cầu. Đối với ta, họ đều sinh tâm tôn trọng, cung kính, vui thích, thuận hợp.

Thiện nam! Giả sử toàn thể chúng sinh, trong một thế giới ở phương Đông, tu tập pháp Thanh văn, Độc giác; ăn cơm của ta, rồi đều chứng quả vị Thanh văn, Độc giác và trụ ở thân cuối cùng; tuần tự như thế, tất cả chúng sinh trong một thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, ức thế giới, trăm ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức triệu thế giới. Diêm-phù-đề số cực vi trần thế giới, bốn đại châu số cực vi trần thế giới, tiểu thiên thế giới số cực vi trần thế giới, trung thiên thế giới số cực vi trần thế giới, đại thiên thế giới số cực vi trần thế giới, cho đến vô lượng vô lượng cõi Phật số cực vi trần thế giới mà trong đó tất cả chúng sinh đều tu tập pháp của hàng Thanh văn, Độc giác; ăn thức ăn của ta; rồi đều chứng quả Thanh văn và Bích-chi-phật, trụ ở thân cuối cùng. Các phương Nam, Tây, Bắc bốn góc trên dưới cũng thế.

Thiện nam! Như có các vị Bồ-tát, mạng thân cuối cùng, ở trong một thế giới phương Đông, cho đến ở thế giới số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật, ăn thức ăn của ta, rồi đều đến đạo tràng Bồđề tối thắng hàng phục quân ma, thành Đẳng chánh giác. Bồ-tát mang thân cuối cùng trong một thế giới cho đến vô lượng vô lượng cõi Phật số cực vi trần thế giới ở các phương Nam, Tây, Bắc bốn góc trên dưới; ăn cơm của ta, rồi đến đạo tràng Bồ-đề tối thắng, hàng phục quân ma, thành Đẳng chánh giác. Thiện nam! Ông có thấy mười ngàn đồng nữ quyến thuộc của ta đây chăng?

Đáp:

–Dạ thấy!

Ưu-bà-di nói:

–Thiện nam! Hiện nay ta có trăm vạn a-tăng-kỳ Bồ-tát quyến thuộc, đứng đầu là mười ngàn đồng nữ này. Họ đều cùng ta tu một hạnh, cùng một đại nguyện, cùng một thiện căn, cùng một đạo xả ly, cùng một kiến giải thanh tịnh, cùng một niềm tin thanh tịnh, cùng một ý nghĩ thanh tịnh, cùng một chí hướng thanh tịnh, cùng một trí thanh tịnh, cùng một sự giác ngộ, cùng làm thanh tịnh các căn, cùng một tâm phổ biến, cùng một tâm rộng rãi, cùng đạt đến một cảnh giới, cùng chứng một lý, cùng hiểu chắc chắn, cùng thông đạt pháp, cùng một màu sắc tươi đẹp, cùng có vô lượng năng lực, cùng hết sức tinh tấn, cùng một âm thanh chánh pháp, cùng một âm thanh tùy chủng loại, cùng một âm thanh thanh tịnh, cùng một âm thanh bậc nhất, cùng khen ngợi công đức, cùng đời sống thanh tịnh, cùng một quả báu tốt đẹp, cùng một tâm Từ rộng lớn, cùng một tình thương bao la, cùng cứu hộ khắp, cùng làm thành thục khắp, cùng làm sạch nghiệp tự thân, tùy duyên ứng hiện, ai thấy cũng hoan hỷ; cùng thanh lọc nghiệp nơi lời nói, đem pháp tự tại, tuyên thuyết giảng dạy, thích ứng với đời; cùng có khả năng đến khắp các đạo tràng của chư Phật; cùng có khả năng đến khắp chỗ của tất cả chư Phật, phụng sự cúng dường; cùng hiện một trí giác, hiểu toàn bộ những pháp môn khác nhau của chư Phật; cùng được an trụ vào phẩm hạnh thanh tịnh của tất cả Bồ-tát. Thiện nam! Mười ngàn đồng nữ ấy, chỉ trong một niệm, có thể đem thức ăn này, đến khắp mười phương, cúng dường tất cả Đại Bồ-tát, trụ ở thân cuối cùng và các hàng Thanh văn. Độc giác; cho đến đi tới khắp chỗ các ngạ quỷ, ở khắp thế giới trong mười phương, dứt trừ đói khát và giúp cho họ được no đủ. Thiện nam! Mười ngàn đồng nữ này, lại thường đem thức ăn của ta, đến cõi chư Thiên làm cho thức ăn của chư Thiên được sung túc; cũng đem đến cho loài rồng, làm cho thức ăn của chúng cũng được sung túc; cho đến cũng thường đem tới cho loài người và phi nhân tùy theo nhu cầu của họ, mà cấp cho những món ăn thức uống thích hợp giúp họ được no đủ. Nhưng trong bình của ta chưa bao giờ giảm bớt chớ đừng nói là hết.

Thiện nam! Hãy đợi chốc lát, rồi ông sẽ thấy. Nói vừa dứt lời, Thiện Tài liền thấy vô lượng chúng sinh, từ bốn cửa vào. Họ đều do bản nguyện của Ưu-bà-di mời đến. Mọi người đến đủ, trải tòa cho họ ngồi, rồi tùy theo nhu cầu, mà cung cấp đầy đủ các thức ăn cho đến các vật dụng hảo hạng, làm cho các chúng sinh vui vẻ thích thú và an ổn, cùng chào hỏi lẫn nhau, mà những thứ ấy ra từ trong bình này không giảm, không hết. Thực hiện pháp thí xong, Ưu-bà-di nói với Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát tạng phước đức trang nghiêm vô tận của Bồ-tát này. Còn như các vị Đại Bồ-tát có tạng phước đức Đại trang nghiêm vô tận, sâu xa, không đáy, giống hệt như biển cả, rộng lớn không bờ bến như hư không; làm mãn nguyện chúng sinh như bảo châu như ý; nhu cầu thành tựu như đống báu lớn; bảo hộ tất cả như núi Luân vi; làm tăng trưởng các thiện căn như trận mưa lớn; giữ gìn tạng pháp như ổ khóa cửa; Tổng trì toàn bộ pháp bảo giống như núi Diệu cao; phá bóng tối vô minh như đốt đuốc, che khắp chúng sinh giống như lọng cao nhưng ta làm sao biết và nói hết công đức và hạnh của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam, có một thành tên Đại hữu, nơi đó có vị trưởng giả, tên là Cụ Túc Trí. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, từ giã ra đi.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đã được môn giải thoát tạng Phước đức trang nghiêm vô tận của Bồ-tát, liền tư duy lại biển đại phước đức ấy, quán sát phước đức như hư không ấy, hướng tới phước đức quy tụ ấy, lên núi phước đức ấy, thâu nhiếp tạng phước đức ấy, uống nước suối phước đức ấy, bơi trong hồ phước đức ấy, làm sạch bãi phước đức ấy, thấy kho phước đức ấy, nhập vào giáo pháp phước đức ấy, mở mắt phước đức ấy, đi trên đường phước đức ấy, gieo trồng phước đức ấy, thong thả tiến đến thành Đại hữu, Đồng tử hỏi thăm cư sĩ Minh Trí khắp nơi, đem tâm khát ngưỡng Thiện tri thức, chuyên tâm tưởng nhớ không gián đoạn Thiện tri thức, ý nguyện kiên cố mến mộ Thiện tri thức, luôn khát khao tìm cách cầu gặp các Thiện tri thức, chuyên cần mạnh mẽ, muốn được hầu cận Thiện tri thức, nương Thiện tri thức để tu tập tâm mình; biết rằng mình nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức, cho nên có khả năng viên mãn các điều thiện; nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức; cho nên có khả năng phát sinh các phước; nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức, cho nên có khả năng phát sinh các phước; nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức; cho nên có khả năng phát triển các hạnh; nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức; cho nên khỏi phải nhờ người khác dạy bảo; do đó mình có thể phụng sự tất cả bạn bè; nhờ chỗ nương tựa Thiện tri thức, nên được thanh tịnh các căn của tất cả Bồ-tát. Đồng tử tư duy như thế rồi, thì thiện căn phát triển, chí nguyện vững chắc, gốc đức lan tỏa, tình thương cao cả rộng lớn, gần gũi Nhất thiết trí, đầy đủ hạnh Phổ hiền, chiếu sáng vào tất cả chánh pháp của chư Phật, tăng trưởng hạnh nguyện của tất cả Bồ-tát, sáng ngời trí quang mười lực của Như Lai.

Bấy giờ, Thiện Tài thấy các cư sĩ ấy đang ngồi trên đài thất bảo, giữa ngã tư phố, thuộc nội thành, ở trên tòa đầy các báu trang nghiêm. Tòa này xinh đẹp, thân tòa làm bằng vô số ngọc như ý bảo vương sáng ngời, chân tòa làm bằng các loại kim cương và Ma-ni đế thanh, lưới châu và các dây báu đan chéo nhau, dùng báu ma-ni Vô cấu tạng đề trang sức.

Lại dùng năm trăm hình tượng báu, đẹp đẽ trang nghiêm, trải vải báu của cõi trời, dựng cờ phướn cõi trời, giăng lưới báu lớn, phủ trướng báu lớn, lọng báu bằng vàng Diêm-phù-đàn, cán bằng báu lưu ly để người cầm ghe bên trên: Quạt làm bằng lông cánh ngỗng chúa. Phất trần bằng lông đuôi của bò trắng; toàn thể đều trang nghiêm bằng báu lưu Ly cấu, được các đồng tử cõi trời cầm, đứng đầu hai bên; xông các loại hương thơm, mưa các loại hoa trời, ngày đêm thường tấu năm trăm loại nhạc, âm thanh tuyệt diệu, hay hơn cả nhạc trời; những chúng sinh được nghe đều vui thích; lại có mười ngàn quyến thuộc vây quanh, sắc tướng đoan nghiêm, mọi người đều thích nhìn, trang sức bằng các vật nghiêm sức của cõi trời nhưng vượt hơn hẳn cả trời người, tối thắng không ai sánh kịp; đã thành tựu chí nguyện của Bồ-tát; đều đã trồng thiện căn với cư sĩ từ xưa, đứng chiêm ngưỡng hai bên chờ làm theo sự hướng dẫn của vị ấy. Lúc ấy, ở chỗ của cư sĩ, tất cả chúng sinh trong thành này và chúng trời trên hư không đều phát sinh tâm tùy thuận, trìu mến, ưa thích rồi dùng những tâm này mà tùy thuận mến mộ Thiện tri thức, rồi lập tức lấy tất cả mây hoa câu-tô-ma báu đẹp của cõi trời, tuôn mưa hoa xuống khắp nơi. Những vị trời người này, từ xưa cũng đã cùng cư sĩ trồng thiện căn thanh tịnh.

Khi thấy sự việc như thế, Thiện Tài đến đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Con phát tâm Vô thượng Bồ-đề là vì tạo lợi lạc cho các chúng sinh, giúp tất cả chúng sinh diệt trừ nạn khổ, giúp tất cả chúng sinh hoàn toàn an lạc, giúp tất cả chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, giúp tất cả chúng sinh nhập đảo pháp bảo, giúp tất cả chúng sinh làm khô sông ái, giúp tất cả xhúng sinh đại Từ bi, giúp tất cả chúng sinh bỏ hẳn tham đắm, giúp tất cả chúng sinh khao khát trí Phật, giúp tất cả chúng sinh vượt khỏi đồng hoang sinh tử, giúp tất cả chúng sinh yêu thích công đức thù thắng của chư Phật, giúp tất cả chúng sinh ra khỏi thành tam giới, giúp tất cả chúng sinh vào thành Nhất thiết trí. Vì những lợi ích như thế, nên con phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát, để có khả năng nhiếp hộ tất cả chúng sinh, làm nơi nương tựa cho các chúng sinh. Con nghe nói Thiện tri thức khéo léo dạy bảo, xin Thánh giả chỉ dạy cho con!

Cư sĩ nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Chỉ vì muốn có khả năng làm lợi ích như thế, mà ông phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

–Thiện nam! Phát tâm Vô thượng Bồ-đề là người khó có được. Ai có thể phát tâm, thì chính người ấy có khả năng cầu hạnh Bồ-tát, tâm không thoái chuyển; gặp Thiện tri thức, tâm không biết đủ hoặc nhàm chán; thân cận Thiện tri thức, tâm không mỏi mệt, hầu cận Thiện tri thức, tâm không phiền muộn; cúng dường Thiện tri thức, trọn đời không thoái chuyển; tưởng nhớ Thiện tri thức, không lúc nào nguôi; khát ngưỡng Thiện tri thức không thể tạm dừng; cần gặp Thiện tri thức không thể tạm dừng; thực hiện lời dạy của Thiện tri thức; chưa từng biếng trễ; tuân theo Thiện tri thức; tâm không có lầm lỗi. Thiện tri thức là người có oai lực lớn, khó được gần gũi, hầu hạ, cúng dường. Người nào có thể cung cấp, hầu hạ, chiêm ngưỡng, lễ bái, khen ngợi, tâm không buồn phiền, thì sẽ được đầy đủ tất cả công đức, không bị độc của phiền não làm loạn tâm mình.

Thiện nam! Ông có thấy mười ngàn quyến thuộc chúng hội của ta đây không?

Đáp:

–Dạ thấy!

Cư sĩ nói:

–Thiện nam! Ta đã giúp cho họ phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sinh vào nhà Như Lai, tăng trưởng bạch pháp, an trụ vào vô lượng các Bala-mật, học mười Lực của Phật, xa hạt giống thế gian, trụ hạt giống Như Lai, phá bánh xe sinh tử, chuyển bánh xe chánh pháp, đóng bít nẻo ba ác, đi trên con đường chánh pháp. Những hạnh Bồ-tát nhu thế, đều thành tựu và đều có khả năng cứu hộ tất cả chúng sinh.

Thiện nam! Ta được môn giải thoát phát sinh tạng phước đức tùy ý. Toàn thể chúng sinh ai có nhu cầu gì đều được mãn nguyện. Như cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cho đến các loại y phục anh lạc, tràng hoa, nhung lụa, hương đốt, hương bột, hương xoa, vàng bạc, trân châu, các loại báu quý giá và lạ, các loại cờ phướn, các loại lọng báu, các loại phòng ốc, các dụng cụ để ngồi, nằm; các loại đèn đuốc, thuốc thang cung cấp cho người bệnh, đủ loại tàu bè, voi ngựa, xe cộ, trâu dê, người hầu và các cận vệ. Tất cả các vật tư hữu trong đời sống như thế đều được ban cho; còn có thể ban cho mão trời và đồ báu để trang sức, ban cho cả minh châu trên búi tóc, cho đến vợ yêu, con quý, mắt, tai, mũi, lưỡi, da bụng, thịt xương, tủy, tay chân, thân thể. Tùy theo nhu cầu của người đến xin đều cung cấp đủ, không phân biệt tốt, xấu, sang, hèn, giàu, nghèo; cho đến việc phải thuyết diệu pháp chân thật để giúp họ tu chứng viên mãn cứu cánh.

Thiện nam! Chờ chốc lát nữa, ông sẽ thấy điều đó. Nói vừa dứt lời, có vô lượng chúng sinh, từ các phương, các thế giới, các nước, các thành ấp, các xóm làng, các địa phương, hình thể và chủng loại khác nhau, cảm xúc khác nhau; hạng ấy có vô lượng, đều nhờ vào nguyện lực từ xưa của Bồ-tát mà tụ hội về.

Biết các chúng đã vân tập, bấy giờ cư sĩ mới quán sát khắp nơi, buộc niệm trong khoảnh khắc, rồi nhìn lên hư không. Tùy theo nhu cầu của họ, mà các vật dụng từ hư không nối tiếp rơi vào tay của Cư sĩ, rồi tùy theo những sự mong cầu của chúng hội, mà ngài trao tận tay để họ được đầy đủ. Mãn nguyện rồi, hô hết sức vui mừng, thân sắc tươi nhuận, tâm ý nhu hòa, đủ sức tiếp nhận sự giáo hóa, đến lúc đó, mới thuyết giảng các diệu pháp cho họ. Người no đủ các thức ăn ngon thì thuyết giảng các môn phước tích tập diễn thuyết các hạnh thoát khỏi bần cùng, diễn thuyết các hạnh giàu có của cải cam lồ, diễn thuyết hạnh hết sức tôn trọng pháp trí, diễn thuyết hạnh thân tướng tốt trang nghiêm, thành tựu oai đức, chinh phục ma oán, thành tựu hạnh pháp hỷ thực và thiền duyệt thực, thành tựu tăng trưởng hạnh khó khuất phục, khéo có thể liễu đạt hạnh vô thượng thực, làm cho đạt được pháp môn thành tựu trọn vẹn thần sắc và sức lực mạng sống. Người được đầy đủ thức uống ngon thì thuyết pháp, làm cho họ rời bỏ khát ái nơi sinh tử, thích thú quả vị Phật, thâm nhập pháp vị. Người được đầy đủ các món ngon hảo hạng thì thuyết pháp, làm cho họ đều đầy đủ pháp vị sung mãn, chứng đắc trung thượng vị của Như Lai. Người được đầy đủ tàu thuyền và xe cộ thì thuyết pháp môn xuất ly, làm cho họ đều vượt khỏi biển cả sinh tử, lái được xe Đại thừa tối thắng vô thượng. Người được đầy đủ các loại y phục thì thuyết pháp, giúp họ đạt được thanh tịnh không hổ thẹn về y phục, cho đến nước da màu hoàng kim và diệu tướng thanh tịnh của Như Lai. Tất cả các vật dụng trong đời sống như thế đều tùy ý cho họ, ai cũng có phần, kế đó, mới thuyết pháp phù hợp với căn cơ cho mọi người. Tùy theo khả năng mà họ đều ngộ nhập pháp môn trí tuệ thanh tịnh Vô thượng. Nghe pháp xong mọi người đều trở về chỗ ở của mình.

Chỉ bày cảnh giới giải thoát bất tư nghì của Bồ-tát cho Đồng tử Thiện Tài xong, cư sĩ bảo:

–Này thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát tạng phước đức phát sinh tùy ý này. Còn như các Đại Bồ-tát thành tựu bàn tay báu, che khắp tất cả thế giới trong mười phương, để cúng dường các Đức Phật và bố thí khắp các chúng sinh; dùng sức tự tại, nổi mây báu nhiều màu sắc, tuôn mưa báu nhiều màu sắc. Đó là: Anh lạc nhiều màu, mão báu nhiều màu, vòng hoa nhiều màu, y phục thế tục nhiều màu, pháp y nhiều màu, vật dụng để trang nghiêm nhiều màu, hoa đẹp nhiều màu, hương thơm nhiều màu, hương xoa nhiều màu, hương bột nhiều màu, lâu đài nhiều màu, long báu nhiều màu, cờ phướn nhiều màu, nhạc cụ nhiều màu, âm thanh tuyệt diệu để ca ngơi Phật pháp; cho đến các vật dụng trong đời sống, khắp chỗ ở của các chúng sinh, đầy khắp tất cả đạo tràng nơi cõi Phật, đều để cúng dường các Đức Phật, cũng để làm thành thục khắp tất cả chúng sinh. Nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết các công đức và sức thần thông tự tại của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này, có một thành lớn, tên gọi là Cung sư tử. Nơi đó có vị trưởng giả tên là Tôn Pháp Bảo Kế. Ông hãy đến đó thỉnh vấn: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài vui mừng phấn khởi và lấy làm vui sướng; biết rằng mình nhờ tất cả Thiện tri thức, nên mới được công đức viên mãn. Tôn trọng, khiêm nhường, cung kính Thiện tri thức, đúng pháp của người đệ tử. Nghĩ: “Nhờ vị cư sĩ này khai ngộ, nên ta được nghe giáo pháp hy hữu. Do tư duy như thế, nên luôn luôn thương tưởng đến phút giây gặp Thiện tri thức, một lòng một dạ tôn trọng Thiện tri thức, thường ưa tiếp nhận và thực hiện lời dạy của Thiện tri thức, định tính theo lời của Thiện tri thức, quý kính bậc Thiện tri thức, thì lần lược tăng sự thù thắng, thờ Thiện tri thức tâm không thoái chuyển, đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, rồi từ giã ra đi.

*********

Lúc ở chỗ cư sĩ, nghe môn giải thoát sâu xa này rồi, Đồng tử Thiện Tài chí thú tu tập không gián đoạn, bơi trong biển phước đức ấy, làm sạch ruộng phước đức ấy, hướng đến bến phước đức ấy, trông lên núi phước đức ấy, mở kho phước đức ấy, chuyển bánh xe phước đức ấy, quán chiếu pháp phước đức ấy, gieo nhân phước đức ấy, sinh năng lực phước đức ấy, tăng uy thế phước đức ấy, làm lớn tâm phước đức ấy, liễu ngộ môn phước đức ấy; rồi lần lượt đến cung thành Sư tử tìm kiếm Trưởng lão Bảo Kế khắp nơi. Trông thấy vị ấy ở trong chợ, đồng tử liền đến đảnh lễ, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát? Lành thay, Thánh giả! Xin Ngài nói cho con về đạo của các Bồ-tát, con nương vào đạo ấy mà hướng đến Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Trưởng giả nắm tay Thiện Tài dắt vào nhà chỉ chỗ ở của mình, rồi bảo đồng tử:

–Thiện nam! Ông hãy quán sát nhà cửa chỗ ở của ta!

Thiện Tài liền quán sát khắp thấy nhà cửa của vị này rộng rãi tráng lệ. Ở bốn mặt đều có mở hai cửa được làm bằng vàng Diêmphù-đàn, tường bằng bạch ngân bao bọc xung quanh, cung điện bằng pha lê trang nghiêm bằng đủ các loại báu, lầu các làm bằng ngọc lưu ly xanh, trụ bằng ngọc báu xa cừ, cửa hông, cửa sổ, thềm, hiên, tam cấp đều bằng các báu, trăm ngàn loại báu trang sức xen lẫn rất đẹp, ao báu bằng mã não chứa nước hương đầy ắp, lan can bốn mặt đều bằng trân châu, vườn cây bằng đủ loại báu, khắp nơi thẳng tắp, tòa Sư tử bằng châu ma-ni đỏ được trang nghiêm bằng vô số báu xen lẫn, trướng bằng ma-ni vương Tỳ-lô-giá-na. Trước tòa này, hai bên có treo cờ ngọc ma-ni, ánh sáng rực rỡ, dùng lưới châu như ý vương, nhiều màu sắc, che bên trên. Trong nhà của vị ấy, có ngôi lầu lớn cao đến mười tầng, mỗi tầng mở tám cửa. Thiện Tài bước vào, rồi tuần tự quán sát; thấy tầng dưới cùng cung cấp đủ các thức ăn uống thượng hạng; tầng hai cung cấp những y báu và các vật dụng; tầng ba cung cấp toàn những vật trang sức bằng châu báu; tầng bốn cung cấp các thể nữ, có lời lẽ khéo léo hợp ý thân tộc và trang sức bằng các trân bảo xinh đẹp; tầng năm hàng Bồ-tát ngũ địa vân tập ở đó, để diễn thuyết diệu pháp, giúp cho chúng sinh an lạc. Những người được cung cấp, ai nấy đều được lợi lạc và thành tựu bậc luận tối thắng của Như Lai, môn Đà-lani, các biển Tam-muội và đủ các trí của thế gian, ánh sáng chiếu đi khắp. Tầng sáu, có các Bồ-tát đều đã thành tựu trí tuệ sâu xa, thông đạt pháp tánh, được đại Tổng trì, đầy đủ ba minh, sáu thông, nhập môn phổ tạng, thoát khỏi cảnh chướng ngại, an trụ pháp bất nhị, thực hiện oai nghi của Phật, cùng nhau tập họp trong chúng hội đạo tràng biển đẹp trang nghiêm không thể nói. Họ đều dùng tên gọi khác nhau để phân biệt và biểu hiện môn Bát-nhã ba-la-mật: Đó là môn Bát-nhã ba-la-mật Tạng tịch tĩnh, môn Bát-nhã ba-la-mật Khéo léo phân biệt trí của các chúng sinh, môn Bát-nhã ba-la-mật Không thể chuyển động, môn Bát-nhã ba-la-mật Quang minh lìa dục, môn Bát-nhã ba-lamật Không thể chinh phục, môn Bát-nhã ba-la-mật Chiếu sáng bánh xe chúng sinh, môn Bát-nhã ba-la-mật Lưới tùy thuận giáo hóa, môn Bát-nhã ba-la-mật Tạng biển công đức, môn Bát-nhã ba-la-mật Xả đắc phổ nhãn, môn Bát-nhã ba-la-mật Nhập tạng vô tận và tùy thuận tu hành, môn Bát-nhã ba-la-mật Nhập tất cả biển phương tiện vô tận của thế gian, môn Bát-nhã ba-la-mật Nhập tất cả biển giáo pháp theo thế gian, môn Bát-nhã ba-la-mật Biện tài vô ngại, môn Bát-nhã ba-lamật Tùy thuận chúng sinh chiếu khắp không ngại, môn Bát-nhã ba-lamật Quang minh ly cấu, môn Bát-nhã ba-la-mật Thường quán duyên đời trước mà giăng mây pháp; thuyết trăm vạn a-tăng-kỳ loại môn Bát-nhã ba-la-mật như thế đến khắp các không thể nói chúng hội đạo tràng, để biểu hiện trí tuệ sâu xa trang nghiêm. Thấy tầng thứ bảy, các Bồ-tát… đạt được nhẫn như tiếng vang đầy khắp trong ấy, các vị dùng trí phương tiện diễn thuyết phân biệt các môn xuất ly và đều có khả năng lắng nghe, thọ trì những chánh pháp, do tất cả Như Lai thuyết. Thấy tầng thứ tám, có vô lượng Bồ-tát không thoái chuyển, được đầy đủ thần thông, trí lực, cùng nhau vân tập trong ấy; dùng trí vi tế, quán chiếu thế gian, biết các cõi Phật và đạo tràng chúng hội đều như huyễn, như ánh lửa, như bóng, như hình, không có thật tánh; thấy các cảnh giới không phân biệt của các Đức Như Lai, sắc thân của tất cả chư Phật hiện đầy khắp, có khả năng dùng một âm thanh làm vang khắp mười phương pháp giới. Thân của vị ấy đến khắp đạo tràng và tận pháp giới, vào khắp các cảnh Phật, thấy hết thân của các Đức Phật, có khả năng thọ trì hết tất cả Phật pháp, làm thượng thủ trong các chúng hội của các Đức Phật, đang diễn nói pháp yếu. Thấy tầng thứ chín có các chúng Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ vân tập ở đó. Thấy tầng thứ mười, tất cả các Đức Như Lai ở khắp trong ấy; từ lúc mới phát tâm, tu hạnh Bồ-tát, vượt khỏi vòng sinh tử, thành tựu biển đại nguyện, đầy đủ thần thông thù thắng, đắc thắng tự tại, dùng oai lực thù thắng, làm cho cõi nước của Phật thanh tịnh trang nghiêm thù thắng, hiện khắp chúng hội đạo tràng trong mười phương, diễn thuyết chánh pháp; cho đến lúc thị hiện diệt độ, tận đời vị lai, điều phục hóa độ và làm lợi ích cho chúng sinh. Những hình ảnh như thế, đồng tử đều thấy rõ.

Lúc thấy những sự việc đặt biệt và kỳ lạ như thế rồi, Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây Thánh giả trồng thiện căn gì, ở nơi nào mà đạt được những quả báo thù thắng như thế, làm cho các chúng hội thảy đều thanh tịnh?

Trưởng giả đáp:

–Thiện nam! Ta nhớ thuở xưa số kiếp hơn cả số cực vi trần cõi Phật, có một thế giới tên là Chủng chủng sắc trang nghiêm luân, Đức Phật hiệu là Vô Biên Quang Viên Mãn Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương gồm đủ mười mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; cùng với trăm ngàn ức chúng Thanh văn; ngài Trí Tỳ-lô-giá-na làm thượng thủ. Còn có đủ trăm ngàn ức chúng Bồ-tát, đứng đầu là Bồtát Trí Nhật Oai Đức Quang. Vị vua thời ấy, tên là Pháp Tự Tại. Nhận lời thỉnh cầu của vua, Đức Phật ấy đi vào trong vườn Tràng ma-ni trang nghiêm.

Lúc đó, ta đứng ở đầu ngã tư tấu âm nhạc hay và đốt một viên hương để cúng dường. Nhờ Đức Như Lai cùng các Bồ-tát và chúng Thanh văn ấy, nhận sự cúng dường của ta, nên làm cho khói hương ấy bay lên, thành một vừng mây hương lớn làm cái lọng che khắp hư không cõi Diêm-phù-đề suốt bảy ngày đêm, mây hương vi diệu đó mưa xuống vô biên màu sắc và tướng thân của chúng sinh, lại làm cho các nhạc cụ phát ra đủ các âm thanh tuyệt diệu, vang khắp cả hư không; lại diễn ra chẳng thể nghĩ bàn sự tích tụ trí rộng lớn vô ngại của Như Lai trong ba đời, làm cho người nghe dứt trừ tất cả cấu chướng phiền não, phát triển các thiện căn chân thật, nhanh chóng viên mãn trí Nhất thiết trí, có khả năng phát sinh đủ loại thần thông.

Thời ấy, ta dùng thiện căn cúng dường này, hồi hướng về ba nơi:

  1. Nguyện cho ta tránh xa khốn khổ bần cùng.
  2. Nguyện thường gặp chư Phật và Bồ-tát.
  3. Nguyện thường được nghe chánh pháp của chư Phật. Nhờ nhân duyên ấy nên ta được quả báo này.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát tạng phước đức trang nghiêm khắp với nguyện không chướng ngại của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát, được tạng công đức báu bất tư nghì, sinh ra vô lượng công đức bất tư nghì, nhập vào biển thân không phân biệt của Như Lai, làm bóng mây pháp vô thượng không phân biệt, tu công đức trợ đạo không phân biệt, giăng lưới hạnh Phổ hiền không phân biệt, chứng cảnh giới Tam-muội không phân biệt, bằng thiện căn của Bồtát không phân biệt, an trụ vào chỗ trụ của Như Lai không phân biệt, thấy sự bình đẳng trong ba đời không phân biệt; ở trong các kiếp không nhàm chán, trụ ở hàng tự tại cảnh giới Phổ Nhãn không thể hoại. Nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết công đức hạnh nguyện của vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam có một nước tên Đằng căn, nước ấy có một thành tên là Phổ biến môn, trong ấy có vị trưởng giả tên là Phổ Nhãn. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồtát và tu đạo Bồ-tát?

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ, nhiễu quanh vô số vòng chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Lúc ở chỗ Trưởng giả Bảo Kế, nghe môn giải thoát này rồi, Đồng tử Thiện Tài thâm nhập vô lượng tri kiến của chư Phật, an trụ vô lượng thắng hạnh của Bồ-tát, thông đạt vô lượng phương tiện của Bồ-tát, mong cầu vô lượng pháp môn của Bồ-tát, làm thanh tịnh vô lượng tín giải của Bồ-tát, làm linh hoạt vô lượng các căn của Bồ-tát, thành tựu vô lượng mong muốn của Bồ-tát, thông đạt vô lượng môn hạnh của Bồ-tát, phát triển vô lượng nguyện lực của Bồ-tát, dựng lên vô biên cờ tối thắng của Bồ-tát, phát huy vô biên trí tuệ của Bồtát, chứng được vô biên ánh sáng pháp của Bồ-tát, gia nhập khắp vô biên đại hội của Bồ-tát; đối với pháp của Bồ-tát đồng tử không còn nghi ngờ, chuyên cầu môn giải thoát thanh tịnh của Bồ-tát, trụ tâm Bồ-tát, hết sức tin tưởng, yêu thích, tùy thuận, tác ý và thong thả tiến bước.

Đến nước Đằng căn, đồng tử đi khắp nơi tìm kiếm, hỏi thăm về vị trí của thành kia. Tuy trải qua mọi gian nan, nhưng đồng tử không sợ khổ nhọc, thân không mệt mỏi, tâm không nhàm chán; duy chỉ ghi nhớ lời dạy của Thiện tri thức, nguyện được thân cận, phụng sự, cúng dường, thâu giữ các căn, xa rời sự buông lung, đối với Thiện tri thức, tâm luôn quý kính.

Sau đó, đồng tử vào thành Phổ Biến môn. Thành ấy rộng lớn, có trăm ngàn xóm làng vây xung quanh; trang bị đủ cách, tường vách sừng sững, có đường thông bốn ngã, rộng và bằng phẳng; phố phường thẳng tắp, trăm nghề buôn bán, hàng hóa có nhiều vật báu lạ, chuyên chở qua lại. Ở đây người vật đều xinh đẹp.

Lúc ấy, Thiện Tài ở trong thành này và đang đi tìm chỗ ở của trưởng giả, có người bảo:

–Ông ấy đang ở trong chợ, nơi hàng hương và thuốc.

Nghe xong, đồng tử đi đến đó, trông thấy vị ấy ngồi trên tòa hương, ông liền đến trước đảnh lễ sát chân, rồi đứng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát phải làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Trưởng giả nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam, ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Thiện nam! Xưa ta đã từng ở chỗ Đồng tử Văn-thù-sưlợi tu học, biết rõ nguồn gốc phát sinh bệnh tật và biết các phương thuốc đặc biệt, các hương vị cần thiết. Nhân đó ta biết những bệnh duyên của tất cả chúng sinh đều có thể cứu chữa. Như: Phong huỳnh, đàm nhiệt, quỷ mị, trùng độc cho đến bị nước lửa tổn hại. Tất cả các bệnh trong ngoài như thế, phẩm loại có vô biên. Chỉ trong một niệm, ta có khả năng dùng đủ các phương thuốc điều trị đúng phương pháp, làm cho tiêu trừ, giúp họ được an lạc. Pháp môn như thế, ông nên tu học.

Thiện Tài thưa tiếp:

–Bạch Thánh giả! Con hỏi về sự tu tập diệu hạnh của Bồ-tát, cớ sao ngài lại giảng về phương thuốc của thế tục này?

Trưởng giả nói:

–Thiện nam! Khi Bồ-tát bắt đầu tu học đạo Bồ-đề, thì phải biết bệnh là một chướng ngại rất lớn. Những chúng sinh nào thân có bệnh tâm sẽ không yên, thì làm sao có thể tu tập các Ba-la-mật. Vì vậy, khi Bồ-tát tu đạo Bồ-đề, trước hết phải điều trị những chứng bệnh về thân. Bồ-tát lại quán toàn thể chúng sinh, trong tất cả thế giới, thành tựu được sự nghiệp, thọ hưởng an lạc; cho đến xuất gia, tinh tấn, tu tập, đắc quả Thánh, đều có nguyên nhân từ vua cả. Nhân quan trọng nhất trong việc trị vì của vua là không bệnh. Vì sao? Vì các vị vua chính là nguồn gốc an lạc cho các chúng sinh. Thế nên, người mà Bồtát giáo hóa trước nhất là vua, kế đến mới là chúng sinh, làm cho họ dứt hết các nỗi khổ, sau đó mới thuyết pháp, để điều phục tâm họ.

Thiện nam! Bồ-tát nào muốn điều trị cho các người bệnh trước hết phải chuẩn đoán kỹ nguyên nhân phát sinh các bệnh. Nó có vô lượng, vô biên chủng loại tăng giảm; nay ta sẽ nói đôi phần về chúng cho ông rõ.

Thiện nam! Tất cả chúng sinh do bốn đại chủng hòa hợp làm thân. Từ thân bốn đại có khả năng sinh ra bốn bệnh. Đó là: bệnh thân, bệnh tâm, bệnh khách và bệnh câu hữu (bệnh chung, ai cũng có).

  1. Nói về bệnh thân, thì đứng đầu là phong huỳnh, đàm nhiệt.
  2. Bệnh tâm đứng đầu là điên cuồng tâm loạn.
  3. Bệnh khách đứng đầu là dao gậy làm tổn thương và làm việc quá sức.
  4. Bệnh câu hữu đứng đầu là đói khát, nóng lạnh, sướng khổ, buồn vui. Ngoài ra, còn những bệnh khác, phẩm loại biến chuyển theo nguyên nhân, có thể làm cho chúng sinh chịu khổ về thân tâm.

Này thiện nam! Những bệnh như thế, người nghèo hèn ít vì làm nhiều việc nặng nhọc; người giàu sang nhiều bởi quá lo vui sướng.

Thiện nam! Tất cả chúng sinh đều do vô lượng cực vi đại chủng kết hợp thành thân. Giống như biển cả chứa vô số giọt nước nhỏ như cực vi. Thế nên mỗi thân người, lông và chân lông có ba câu-chi, ba câu-chi đều có sinh trùng nương sống trong đó. Do đó phải quán sát kỹ sự bài tiết của da, trong hai tròng mắt, tâm bàn tay, bàn chân, mỡ đặc, mỡ lỏng; đều là chỗ chúng tập họp. Chỉ có lông là trùng không sinh. Ngoài ra những phần khác trên thân không sót một điểm nào.

Thiện nam! Ta lại quán sát thân này có năm đại tánh. Đó là: Cứng, ướt, nóng, động và tánh hư không.

Gọi là cứng: Ba trăm sáu mươi cái xương trong thân và các phần cứng ngại khác đều thuộc về tánh đại địa. Còn những thứ ướt và thấm đều là tánh thủy đại. Tất cả các cảm giác nóng đều thuộc tánh hỏa đại; những gì hoạt động đều thuộc về tánh của phong đại, các chỗ trống đều thuộc tánh của không đại. Nhưng bốn đại ấy đều do nhiều cực vi tạo thành, chúng ở trong không giới, nương trụ vào nhau. Tự tánh của cực vi: Vi tế, khó biết; trừ Phật và Bồ-tát, ngoài ra không ai có thể thấy được.

Thiện nam! Năm đại hòa hợp thành thân, cũng như vựa chứa lúa ở đời, cuối cùng rồi cũng đổ nát. Khí thân như thế do nghiệp duy trì, không phải trời Tự tại có khả năng tạo được, cũng không có tự tánh và thời gian không gian. Ví như thợ gốm, dùng đất dẻo nặn cái bình, bên trong đựng đầy đồ nhơ bẩn, bên ngoài vẽ vời xinh đẹp để làm mê hoặc kẻ ngu.

Lại như bốn con rắn độc trong một cái hòm nhỏ. Bốn đại hòa hợp thành thân, một đại không điều hòa, thì một trăm lẻ một chứng bệnh bộc phát. Thế nên, người trí phải quán sát thân này như nuôi dưỡng rắn độc, như cầm bình đất chưa nung.

Thiện nam! Ông còn phải biết, thân này và các vật bên ngoài đều do bốn đại tạo thành, từ đầu đến cuối chuyển biến theo năm giai đoạn. Vì sao gọi là vật ngoài chuyển biến theo năm giai đoạn?

–Nghĩa là chúng sinh trong thế giới tận hư không khắp mười phương, duy trì là do sự chiêu cảm của vọng nghiệp. Khi kiếp mới thành tuổi thọ con người vô lượng, từ tự nhiên hóa sinh, không có ngã và ngã sở, kế đến ăn thức ăn nhai nuốt thì có mặt của tham… Sau đó do có ngã sở, cho nên cùng nhau lập ra điền chủ để cai quản. Về sau, tuổi thọ giảm dần cho đến mười tuổi. Vì nghiệp ác cho nên sinh ra tiểu tam tai. Đến giai đoạn thứ năm, thế giới sắp hoại, hỏa tai xuất hiện, cho đến cõi trời Phạm thế đều trống không, thủy tai, phong tai cũng nối tiếp như thế.

Thiện nam! Đó là năm giai đoạn chuyển biến của ngoại vật. Còn năm giai đoạn chuyển biến của nội thân; thì có trẻ sơ sinh tâm không phân biệt, giống như kiếp mới thành, con người không có ngã và ngã sở.

–Kế đến, thiếu niên có thể biết phải trái, như giai đoạn hai phân biệt mình và người.

–Tới tráng niên thì tham, sân, si hoành hành, như giai đoạn ba, cùng nhau lập điền chủ.

–Kế đến là già yếu các bệnh xâm nhập, giống như thời kỳ thứ tư, tuổi thọ… tổn giảm.

–Cuối cùng là chết, tuổi thọ hết, thân hoại, như giai đoạn thứ năm thế giới hoại diệt.

Đó là năm giai đoạn biến chuyển của thân.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Năm giai đoạn ấy phát sinh từ đâu?

Phổ Nhãn đáp:

–Thiện nam! Thời gian không có tự thể, do sự phân biệt mà có theo vòng vọng nghiệp xoay vần không có giới hạn, như người thức giấc, thì gọi là bắt đầu. Từ sát-na đầu đến các sát-na sau, rồi đến lạpphạ, mâu-hô, lật-đa, ngày, đêm, năm, kiếp, thời gian chia nhiều cách khác nhau. Hoặc một năm phân ra làm sáu mùa: Mùa xuân, mùa nóng, mùa mưa, mùa thu, mùa lạnh và mùa tuyết. Thế nên, người trí biết sự tăng giảm của bệnh thì khéo biết địa phương có các mùa. Nghĩa là mùa xuân, mùa tuyết thì bệnh đàm ấm hoành hành. Năm mưa nắng thì bệnh gió phát sinh. Mùa thu và mùa lạnh thì bệnh huỳnh nhiệt tăng trưởng. Tất cả những bệnh ấy tùy theo mùa mà tăng trưởng.

Thiện nam! Hôm nay ta đã nói cho ông về các bệnh tăng trưởng theo mùa; bệnh về thân như thế phát sinh từ ăn đêm. Những chúng sinh nào có thể biết vừa đủ đối với sự ăn uống, lượng sức của mình già hay trẻ, khí lực mạnh yếu, thời tiết lạnh nóng, mưa gió ướt khô, thân thể mệt khỏe, cần phải quán sát kỹ không để thiếu sót việc ấy, có thể làm cho bệnh tật của các chúng sinh không còn dựa vào đâu để phát sinh được nữa.

Thiện nam! Ta ở xứ này thường xuyên có các chúng sinh khắp mười phương, hễ có bệnh khổ gì đều đến đây, để nhờ ta điều trị. Ta dùng trí lực, quán sát nguyên nhân phát sinh ra bệnh ấy, rồi tùy theo bệnh mà ban cho phương thuốc, việc chữa trị như nhau, giúp cho tất cả bệnh đều tiêu trừ.

Lại dùng các loại nước ấm, thơm tắm gội; mặc y phục đẹp, trang sức bằng ngọc anh lạc, ban cho các món ăn thức uống và tiền của vật báu, trân châu, vật dụng đều cung cấp đầy đủ giúp cho họ sung túc, sau đó thuyết pháp phù hợp với căn cơ cho mọi người, làm cho họ dứt hẳn tâm bệnh phiền não. Như dạy cho những người nhiều tham dục phép quán bất tịnh, dạy cho người nhiều sân hận phép quán từ bi, dạy cho người nhiều ngu si phép quán phân biệt các pháp tướng khác nhau, chỉ rõ bất tịnh và từ bi cho người bình thường, hoặc tóm lược lại phần cốt yếu của pháp môn thù thắng. Như thế, tùy sự thích nghi mà cắt đứt các phiền não.

Vì muốn làm cho họ phát tâm Bồ-đề, nên tuyên dương công đức

của tất cả chư Phật; muốn làm cho họ phát tâm đại Bi, nên chỉ rõ vô lượng khổ não trong sinh tử; muốn làm cho họ tăng trưởng công đức nên khen ngợi sự tu tập vô lượng phước trí, muốn làm cho họ phát đại thệ nguyện, nên khen ngợi sự điều phục tất cả chúng sinh, muốn làm cho họ tu hạnh Phổ hiền, nên nói về tất cả cõi của Bồ-tát đã an trụ, trải qua các kiếp tu các lưới hạnh; muốn giúp cho họ đầy đủ sắc thân tướng tốt trang nghiêm nên tán dương khen ngợi Bố thí ba-la-mật; muốn giúp họ được Pháp thân vô cấu thanh tịnh của Phật, nên tán dương khen ngợi Trì giới Ba-la-mật; muốn giúp họ được thân công đức bất tư nghì của Phật nên tán dương khen ngợi hành Nhẫn nhục ba-lamật; muốn giúp cho họ đạt được thân vô năng thắng của Đức Như Lai, nên tán dương khen ngợi Tinh tấn ba-la-mật; muốn giúp cho họ đạt được thân thanh tịnh không gì có thể sánh của Phật, nên tán dương khen ngợi Thiền định ba-la-mật; muốn giúp cho họ đạt được Pháp thân bình đẳng cứu cánh của Phật, nên tán dương khen ngợi Trí tuệ ba-la-mật; muốn giúp cho họ đạt được sắc thân khác nhau hiện khắp của Phật, nên khen ngợi Phương tiện ba-la-mật; muốn cho họ vì các chúng sinh mà an trụ tất cả kiếp, tâm không nhàm chán, nên tán dương khen ngợi nguyện Ba-la-mật; muốn giúp họ hiện thân khắp làm nghiêm tịnh tất cả cõi của chư Phật nên tán dương khen ngợi lực Bala-mật, muốn giúp họ hiện thân thanh tịnh tùy theo sở thích của chúng sinh, nên tán dương khen ngợi trí Ba-la-mật; muốn giúp họ đạt được thân xinh đẹp, tôn quý tuyệt đối, không đắm nhiễm nên tán dương, khen ngợi sự xa hẳn các pháp bất thiện hồi hướng về tất cả thiện pháp của chư Phật. Ta dùng đủ loại tài và pháp như thế, ban cho các chúng sinh đều mãn nguyện, ai nấy đều hoan hỷ tiếp nhận sự giáo hóa, rồi ra đi.

Thiện nam! Ta lại khéo léo chế biến tất cả các loại pháp hương đặc biệt như hương Vô đẳng thượng hạng, hương Tần-đầu-tát-lý-đa thượng hạng, hương Vô năng thắng thượng hạng, hương Chủng chủng giác ngộ thượng hạng, hương A-lũ-noa-miệt-đê thượng hạng (hương ấy màu đỏ như mặt trời mới mọc, cây màu như dòng nước nhựa, dùng để làm hương), hương Tùy thân sở dục xuất sinh thượng hạng, hương Chiên-đàn thượng hạng cứng mềm, tùy thời, hương Long thắng kiên cố Chiên-đàn thượng hạng, hương Kiên hắc trầm thủy thượng hạng, hương Bất động chư căn thượng hạng. Những loại hương như thế ta, đều biết công năng, giá trị, xuất xứ và phương pháp biến chế hơn kém của chúng.

Thiện nam! Ta đem hương này cúng dường khắp các Đức Phật đã gặp, đã giúp bản nguyện của ta được viên mãn. Đó là:

–Nguyện cứu hộ tất cả chúng sinh.

–Nguyện làm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật.

–Nguyện cúng dường tất cả Như Lai.

Thiện nam! Khi ta xông hương này để cúng dường, thì từ một hương sinh ra vô lượng hương, đầy khắp tất cả pháp giới trong mười phương. Trong biển đạo tràng của tất cả Như Lai, hóa ra đủ các cung điện bằng hương thơm, hương tường vách, hương lầu gác, hương lan can, hương đuổi kẻ địch, hương cửa, hương cửa sổ, hương bán nguyệt, hương lưới, hương hình tượng, hương vầng sáng, hương vật trang sức, hương ánh sáng, hương mưa mây, hương cờ, hương trướng, hương phướn, hương long báu, hương làm trang sức khắp cả mười phương pháp giới, đầy cả mọi nơi dùng để cúng dường.

Thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn tất cả chúng sinh thấy khắp các Đức Phật, hoan hỷ phụng sự cúng dường này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát như Đại Dược Vương nếu thấy, nếu nghe, nếu nhớ, nếu nghĩ, nếu sống chung, nếu sinh hoạt chung, nếu xưng danh, nếu tùy hỷ thì đều được lợi ích, đều được kết quả. Chúng sinh nào được gặp thì họ lập tức tiêu diệt được tất cả phiền não, nhập vào Phật pháp, rời các khổ ấm, dứt hẳn tất cả nỗi sợ sinh tử đến nơi Nhất thiết trí vô sở úy, đập tan các núi lớn già chết, an trụ bình đẳng ở thành Đại Niết-bàn. Nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết hạnh và công đức của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này có một thành lớn tên Đa-la tràng, thành ấy có vị vua, tên là Cam Lộ Hỏa. Ông đến thỉnh vấn vị ấy, Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Tưởng giả Phổ Nhãn, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng ân cần, một tâm mến mộ; rồi từ giã ra đi.

Khi ở chỗ Thiện tri thức Phổ Nhãn, nghe pháp môn Bồ-tát có khả năng làm cho chúng sinh hoan hỷ thấy khắp các Đức Phật; Đồng tử Thiện Tài để tâm ghi nhớ chi tiết, liên kết chúng lại và vui mừng phấn khởi, suy nghĩ: “Bậc Thiện tri thức khéo dùng phương tiện thâu nhận ta, dùng tâm nhiệt tình bảo hộ ta, khiến ta không còn thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ-đề”. Đồng tử chuyên niệm như thế, liền sinh tâm tịnh tín, tâm vui mừng, tâm phóng khoáng, tâm điều thuận, tâm dũng tiến, tâm tịch tĩnh, tâm rộng lớn, tâm trang nghiêm, tâm không chấp, tâm vô ngại, tâm đắc, tâm tự tại, tâm thường tác, tâm sư, tâm phân biệt khéo léo, tâm phục vụ khắp chúng sinh, tâm tùy chỗ nghe hiểu pháp, tâm đi đến khắp cõi Phật, tâm thấy Phật trang nghiêm, tâm luôn gần gũi Phật, tâm chuyên cầu mười Lực, tâm vững tiến không thoái lui, rồi thong thả tiến bước, vượt qua nhiều xóm làng đất nước, sau đó mới đến thành Đa-la Tràng. Đồng tử đi khắp nơi, tìm kiếm bằng mọi cách để gặp vua. Cùng lúc ấy, ông gặp những vị Bà-la-môn có kiến thức rộng rãi, đang bàn về thế pháp nơi ngã tư đường. Thiện Tài đến hỏi thăm, làm cách nào để được yết kiến vua Cam Lộ Hỏa. Khi ấy, vị Bà-la-môn đa trí trong nhóm, hỏi Thiện Tài:

–Ngài từ đâu đến? Thỉnh cầu việc gì mà muốn gặp đức vua của chúng tôi?

Đáp:

–Tôi từ nước Đằng Căn đến đây. Trưởng giả Phổ Nhãn giáo hóa cho tôi đạt được pháp môn hoan hỷ và ngài dạy tôi đến đây yết kiến đại vương, để thỉnh vấn ngài về việc Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát?

Vị Bà-la-môn nói:

–Nước Đằng Căn ấy bình yên, phồn thịnh, sắc tướng của nhân giả đức tuệ đều trang nghiêm, từ chốn ấy đến đây, chắc chắn đã đạt được lợi ích! Vì nhân giả là bậc đại trí nhất định sẽ được gặp đức vua của tôi. Ngài hãy tạm ngồi đây nghe tôi nói hết: Đức vua của tôi thường ở nơi chánh bảo điện trang nghiêm, ngồi nơi tòa Sư tử bằng ma-ni thù thắng, ban hành chánh pháp giáo hóa cho chúng sinh.

Thiện Tài lại hỏi:

–Vì sao đức vua có tên là Cam Lộ Hỏa?

Đáp:

–Đức vua của tôi có đầy đủ bảy chi, giáo hóa bằng hạnh trung đạo, trị phạt người ác, tiêu diệt kẻ phạm pháp; giống như lửa mạnh, bảo hộ người lành, ban cho họ niềm vui giống như cam lộ. Chính vì ngài từ bi giáo hóa một cách bình đẳng, nên tuổi thọ của vua tăng trưởng không cùng tâm không chán đủ. Vì thế người trong nước tôi đều khắc họa, ngợi khen là “Mỹ Vương Thạnh Đức” và đều gọi là Cam Lộ Hỏa. Đức vua tôi lại dùng đủ các phương tiện giáo hóa chúng sinh, xét xử việc tranh tụng cho họ, vỗ về khi họ yếu đuối thế cô, giúp đỡ trong lúc họ đơn độc, gầy dựng thắng hạnh cho họ, làm cho tất cả đều dứt hẳn mười nghiệp ác, chuyên tu mười điều thiện, như pháp của Chuyển luân vương thực hiện.

Thiện Tài lại hỏi:

–Vì sao gọi là đầy đủ bảy chi giáo hóa bằng hạnh trung đạo?

Đáp:

–Nhân giả lắng nghe cho kỹ, tôi xin nói rõ!

Bảy chi đó là:

  1. Vua có đức thì thần dân kính đội, như cái đầu của con người.
  2. Vua có quan phụ tá trung lương hai bên, như hai vai của con người.
  3. Đất nước có cảnh rộng rãi, trù phú, dung chứa như cái bụng của con người.
  4. Củng cố những nơi hiểm yếu, bao kín muôn phương, như lỗ rốn của con người.
  5. Có kho lẫm lương thực, tiền tài, tràn đầy; sự giao lưu không gặp khó khăn như đầu gối của con người.
  6. Có binh oai tướng sĩ, quân ngựa tinh nhuệ, điều khiển theo ý mình, như bắp chân của con người.
  7. Các nước láng giềng, khi triều cống qua lại đều tuân theo ý vua, như chân của con người.

Lại có hai pháp, có khả năng duy trì bảy chi:

  1. Uy dũng.
  2. Mưu trí.

Hai đức tương trợ như hai mắt cá chân của con người. Đức vua nương vào bảy chi mà ban hành chánh giáo, ban đến đâu tất cả đều tùng phục, trang trải khắp nơi như núi giăng mây, như đất duy trì các vật, cây cỏ thấm nhuần, đức trùm muôn dân. Do đó, khắp bốn biển đều nhờ Thánh hóa. Nếu các chi và đức khiếm khuyết thì khác nào xe còn một bánh, chim một cánh, chắc chắn không thể nào bay liệng đến nơi xa được. Những điều ấy, đức vua tôi đều trọn vẹn, tên tuổi vang khắp.

Nhân giả cũng nên biết ! Đức vua nước tôi thành tựu chín pháp có khả năng làm Chuyển luân vương. Chín pháp đó là:

  1. Oai đức bủa khắp các nước lân cận, tự mình củng cố chức sắc cho họ.
  2. Không thu thuế mà chỉ dùng ân đức và niềm tin để cảm hóa họ.
  3. Cảm hóa cho người không tuân phục, nói về chuyện quân thần làm cho họ càng nghi ngại.
  4. Thay lòng đổi dạ, quân thần ngờ vực nhau, thì nhà vua thuyết giảng cho họ hòa đồng và cùng hướng về với sự giáo hóa của bậc Thánh.
  5. Khéo léo thuyết phục, những kẻ không nghe thì đem quân chinh phạt.
  6. Xem vị chủ kia xuất tướng có đức hay không.
  7. Xét họ đức ít thì bàn cách cho họ thủ thành.
  8. Biết đoán quân mạnh hay yếu qua cách họ giữ thành.
  9. Tự mình sắp xếp việc trong nước làm cho dân hòa, quân vui.

Đức vua nước tôi đủ chín pháp này, mắt tuệ luôn luôn sáng và chiếu giúp khắp tất cả. Thế nên ngoài tám phương đều quy về chánh hóa, họ tự cầu vào làm quan vĩnh viễn không biết thoái lui. Ví như các dòng nước chảy vào biển cả đều cùng một vị không có tâm khác. Nhân giả nên biết ! Đức vua nước tôi chính là bậc Đại Bồ-tát, thờ nhiều Đức Phật, đầy đủ đại Từ bi, ứng hiện giữa cõi đời, che chở chúng sinh, biết các chúng sinh tiếp nhận chậm, nên trước hết tuyên thuyết về pháp vua cho thân của họ thấm nhuần trọn vẹn và giúp cho tâm họ được giải thoát. Thế nên đức vua của tôi có hai thánh đức. Đó là:

  1. Nội đức: Chủng tộc chân chánh, có tâm nhân từ và trí tuệ sâu xa.
  2. Ngoại đức: Nói lược như trên sau sẽ giảng rộng. Thiện Tài thưa:

–Nội đức là thế nào xin giảng giải cho?

Đáp:

–Này Nhân giả! Đức vua nước tôi chủng tộc tôn quý, đích tôn thừa kế truyền lại nhiều đời, vào thai, trụ thai đều có chư Thiên hộ niệm, sau khi sinh ra cho đến lúc đăng quang, cả vạn nước đều giao hảo chúc phúc vui vẻ, thánh đức như mặt trời mọc, học rộng nhớ sâu, nhân trí, hiếu thuận, cung kính, từ hòa, ban ân huệ, thông minh lanh lẹ, đủ các hổ thẹn; thân đầy sức lực, không có tật bệnh; tâm không thô bạo, chấp nhận nhẫn nhục, tôn hiền trọng đức, thương tưởngcác loài; đối với tài năng và vị trí của mình, luôn luôn biết dừng, biết đủ; thường nghĩ cách cứu hộ người gặp nạn; khéo thu giữ năm căn, không phóng túng tâm ý, biện tài vô ngại, thường cất tiếng gầm của sư tử, nói lời chân thật, xa rời sân hận ái nhiễm, thông hiểu âm thanh thù thắng, những luận điệu khác của thế gian; oai nghi đỉnh đạt, mọi người đều kính sợ, an ủi triều thần, che chở thứ dân, xót thương chúng sinh, tâm không phân biệt, xét sắc thái và lời nói của người mà biết được tâm tư của họ, nhìn qua hình dáng voi ngựa cũng biết chúng thuần thục hay không; với người có ân đức thì báo đáp không biết mỏi mệt, với kẻ oán thù thì khéo léo giúp đỡ, khi đến thành ấp xa thì ngài ngồi thẳng trong xe, soi xét kỹ tâm mình không quên việc trong ngoài; dựa đi lại như vậy, để an ủi người trong nước. Nếu có người nào phản lại lệnh vua, nhiễu hại dân chúng, hành động phi pháp, thì trước hết đức vua dùng lời hay, khuyên giảng đúng pháp. Họ bỏ nghịch theo thuận thì vua từ bi lượng thứ. Các nơi ngài cai trị không giảm bớt, không có cướp đoạt, cũng không xua đuổi khách, nghe dạy không chối cãi, tăng cường chinh phạt, đánh thắng kẻ địch, mục đích là làm cho mọi người được an; vì thế mà đức vua của tôi, được ca ngợi khắp như vậy.

Nhân giả nên biết! Ngày đêm ở đời phân ra tám thời. Sớm bốn thời, tối bốn thời, mỗi thời khác nhau. Trong ấy mỗi thời lại chia bốn phần, suốt ngày lẫn đêm có ba mươi hai phần, dùng giọt nước đầy để phân định mà biết giờ giấc. Bốn thời trong ngày là: Từ sau lúc gà gáy cho đến giờ thìn là thời thứ nhất, sau thời đầu đến đầu giờ ngọ là thời thứ hai, sau nửa giờ ngọ cho đến giờ thân là thời thứ ba, nửa giờ thân đến mặt trời lặn là thời thứ tư. Thời thứ nhất, khoảng mặt trời chưa mọc là hai phần đầu, sau lúc mặt trời mọc cho đến khi sáng hẳn là hai phần sau. Bốn phần như thế gọi là thời đầu trong ngày. Đức vua của tôi chuyên cần, không tham ngủ nghỉ, trong đêm bốn thời, an nghỉ hai thời, thời thứ ba thức dậy thiền định, thọ hưởng pháp lạc, từ tâm chánh định của mình. Trong thời thứ tư, nghĩ đến chúng dân không nghĩ đến tham sân. Từ thời đầu trong ngày, trước hết là đánh răng… cho đến cúng tế có mười việc:

  1. Đánh răng.
  2. Tắm rửa.
  3. Mặc áo mới.
  4. Xoa hương thơm.
  5. Đội mão châu đẹp.
  6. Xoa dầu nơi chân.
  7. Mang giày vớ.
  8. Cầm lọng.
  9. Xếp đặt người hầu.
  10. Chuẩn bị tế lễ.

Thiện Tài hỏi:

–Vì sao mỗi sáng sớm, đức vua phải đánh răng cho đến tế lễ rồi mới lâm triều?

Đáp:

–Thưa Nhân giả! Nguyên nhân chính làm cho thế giới tăng trưởng là nhờ vào vua. Vua sửa đổi nơi dân chúng thì trước hết phải sửa đổi thân mình, do thân an nên tâm ý hài hòa, tinh thần trong sáng, thân thể linh hoạt thì việc ban lệnh dạy dỗ không chật hẹp, vì thế mà đức vua của tôi phải đánh răng cho đến tế lễ. Vả lại, mười việc này mỗi việc có khả năng sinh ra mười loại công đức.

Trước hết nói về mười công đức đánh răng:

  1. Tiêu thức ăn ngày hôm qua.
  2. Trừ đàm.
  3. Giải các độc.
  4. Tẩy chất bẩn trong răng.
  5. Miệng phát sinh mùi thơm.
  6. Làm sáng mắt.
  7. Sạch yết hầu.
  8. Môi không bị nứt.
  9. Làm cho tiếng nói mạnh mẽ.
  10. Ăn món gì cũng thấy ngon.

Sau mỗi buổi ăn sáng, vua đều đánh răng, dùng các cây cay đắng làm tăm xỉa răng, dụng tâm một cách vi tế như vậy thì đủ những phước đức.

Lại nữa, đức vua của tôi tắm gội bằng nước hương có đủ mười công đức:

  1. Có khả năng trừ gió.
  2. Đuổi yêu quái.
  3. Tinh khí sung mãn.
  4. Tuổi thọ tăng trưởng.
  5. Giải tỏa những khổ nhọc thiếu kém.
  6. Thân thể mịn màng.
  7. Trừ sạch cấu uế.
  8. Phát triển khí lực.
  9. Làm cho người thích chiêm ngưỡng.
  10. Khéo trừ bỏ bực bội.

Lại nữa, đức vua của tôi mặc áo mới có đủ mười công đức:

  1. Tăng trưởng điềm lành.
  2. Vui thích đi bộ.
  3. Quyến thuộc kính yêu.
  4. Mọi người không sợ.
  5. Thân tâm an lạc.
  6. Lợi ích cho tuổi thọ.
  7. Tinh sạch không có bụi bẩn.
  8. Tiếng khen vang khắp.
  9. Hiền thánh hộ niệm.
  10. Tất cả đều khen ngợi.

Lại nữa, đức vua của tôi xoa các loại hương thì có đủ mười công đức:

  1. Tinh khí tăng trưởng.
  2. Thân thơm tho tinh khiết.
  3. Điều hòa ấm mát.
  4. Tuổi thọ kéo dài.
  5. Hình sắc tươi đẹp.
  6. Tâm thần vui thích.
  7. Tai mắt tinh sáng.
  8. Con người cường tráng.
  9. Người chiêm ngưỡng sinh quý kính.
  10. Đủ đại oai đức.

Lại nữa, đức vua của tôi đội mão bằng châu báu đẹp, có đầy đủ mười công đức:

  1. Mỗi ngày tăng trưởng phước thù thắng.
  2. Châu báu tự đến. 3. Sắc diện rạng rỡ.
  3. Biện tài trong trẻo, lưu loát.
  4. Đủ các điềm lành.
  5. Thân tâm không còn khổ não.
  6. Niềm vui thường đến.
  7. Tuổi thọ tăng trưởng.
  8. Đủ nghị lực mạnh mẽ.
  9. Hầu cận ân cần vui vẻ.

Lại nữa, đức vua của tôi xoa dầu thơm nơi chân có đủ mười công đức:

  1. Có khả năng trừ bệnh phong.
  2. Thân tâm nhẹ nhàng.
  3. Tai mắt sáng tỏ.
  4. Tinh khí phát triển.
  5. Ghi nhớ không quên.
  6. Giảm bớt hôn mê.
  7. Mộng thấy điềm lành.
  8. Tuổi thọ được kéo dài.
  9. Trừ các cấu uế.
  10. Không sinh các bệnh.

Lại nữa, đức vua của tôi mang giày vớ đẹp đủ mười công đức:

  1. Mui bàn chân mịn màng.
  2. Thân sảng khoái nhẹ nhàng.
  3. Có sức đi bộ.
  4. Lợi ích cho tinh khí.
  5. Đi đứng an ổn.
  6. Tuổi thọ tăng trưởng.
  7. Oai nghi đĩnh đạt.
  8. Tả hữu vui vẻ.
  9. Hình tướng đoan nghiêm.
  10. Chư Thiên kính sợ.

Lại nữa, đức vua của tôi có người hầu cầm bảo cái có đủ mười công đức:

  1. Tôn trọng uy nghiêm.
  2. Hình sắc rạng rỡ.
  3. Đi đường khỏi nắng.
  4. Không bị vướng gió bụi.
  5. Có khả năng che mưa.
  6. Không nhìn những điều vô phước.
  7. Mọi người kính sợ.
  8. Thân được bảo vệ.
  9. Khí lực được tăng trưởng, lợi ích tuổi thọ.
  10. Sạch sẽ sáng ngời.

Lại nữa, đức vua của tôi có thị vệ trang nghiêm đủ mười công đức:

  1. Oai nghi nghiêm túc.
  2. Làm cho người kính sợ.
  3. Tăng thêm vẻ cương nghị cho vua.
  4. Có uy thế cho phụ tá của vua.
  5. Hàng phục người ác.
  6. Thiên thần hộ vệ.
  7. Chế ngự thú dữ.
  8. Hợp ý vua.
  9. Yêu tà không xâm nhập.
  10. Thi hành lệnh vua, quyến thuộc trang nghiêm vây quanh như thế.

Đức vua của tôi như người đi xe bốn ngựa, kiểm soát trước sau, điều phục mình và người, rộng lượng mạnh mẽ, hợp với pháp độ, cương nhu thích nghi, như đại thuyền trưởng thống lãnh các thuyền, chiếc nào lủng chảy thì tu bổ kịp thời. Người hầu cận vua, thể nữ nội cung; tuổi cao đức trọng, trông coi cung vua. Người dung mạo trẻ trung thì cho họ làm thị vệ hoặc đi trước dẫn đường, đốt hương, tung hoa, thổi ốc, trổi nhạc, ca vịnh, khen ngợi, trang nghiêm đủ cách; hoặc đi theo hầu vua, cầm quạt, nắm phất trần, xoa hương lo y phục. Những vật dụng riêng tư đẹp sử dụng tùy thời, đều có đầy đủ. Người dẫn đường như thế phục vụ đúng ý vua.

*********

Khi ấy vị Bà-la-môn lại nói với Đồng tử Thiện Tài:

–Đức vua của tôi có đủ các pháp thức và oai nghi thanh tịnh viên mãn như trên. Khi nhà vua vào đạo tràng, đảnh lễ Hiền thánh là cầu phước phù hộ, thấm nhuần cho chúng sinh; hoặc cúng tế tổ tông để báo đáp ân đức, dạy người hiếu kính, làm lợi ích khắp muôn phương; hoặc đi kinh lý để vỗ về dân chúng và xem xét các phương cầm quân rút quân, việc xong cáo từ, có nước, hạn hán, điều lành, điều dữ đều cầu chúc được an lành. Khi cúng tế, ngài nhất tâm chuyên chú, cung kính hết mực, tưởng như đang có vị ấy hiện hữu trước mắt và nhớ nghĩ đến lời dạy của vị ấy, hết lòng hiến dâng, dốc hết tâm lực, không còn ý niệm riêng biệt. Quan phụ tá trong nước hiền lương tiết hạnh, có công có đức, tuổi cao đức trọng, tại gia hoặc xuất gia, đều được mọi người tôn thờ. Giả sử sau khi chết thì được tạc họa hình ảnh, tùy theo công hạnh của họ mà xây dựng tháp miếu. Đức vua của tôi trong mỗi ngày như thế, bên trong rất thật tâm, ngoài thì biểu lộ sự cung kính cúng dường; có nhiều của cải đồ ăn uống và những thứ trân châu báu lạ. Việc thờ kính lễ bái không bỏ bê. Mười việc như trên từ đánh răng đến cúng tế thực hiện ở hai phần trước của thời đầu trong ngày, còn hai phần sau, là trước khi mặt trời mọc, đầu tiên là mời lương y vấn an sức khỏe ngài, ngày đêm phục vụ ăn uống thế nào, kế đến mời thầy toán số vào, xủ quẻ âm dương, xem sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, mưa, gió và các vì sao ẩn hiện chính hoặc lệch trên đường đi báo điềm tốt hay xấu, làm lễ giải trừ. Mọi việc đều thành thật báo cáo kín đáo cho vua, không tiết lộ ra ngoài vì sợ mọi người có thể nghe lén. Người trong thời ấy chỉ nghe phán ra một lời, là làm hoàn tất mọi việc. Khi vua lâm triều có mười ngàn đại thần vây quanh để phụ tá vua, thực hiện lệnh vua. Những việc này chiếm hết hai phần sau của thời đầu trong ngày. Kế đến thời thứ hai là dâng thức ăn lên cho vua, tấu nhạc hay và đủ các trò vui để vua vui lòng. Thời thứ ba, tắm rửa, nghỉ ngơi, có mười ức thể nữ, tấu âm nhạc bên trong, dung mạo tuyệt đẹp tâm ý hiền hòa vây quanh hầu hạ theo ý vua và luôn luôn khởi tâm Từ. Đức vua có vườn cây thanh tịnh trang hoàng khắp nơi, nếu được nghe hoặc thấy thì tiêu trừ phiền não. Đến thời thứ tư, trên chánh điện của vua, có đặt một bảo tòa luận đạo, được trang trí bằng các báu, ở trong nước, vua đi khắp nơi thỉnh cầu những vị Sa-môn, Bà-lamôn có đại trí tuệ hoặc đạt được đạo quả về diễn thuyết chánh pháp. Vì cần lắng nghe nghĩa pháp, nên vua hết tâm cung kính, hết tâm tôn trọng, chắp tay chào hỏi, lễ bái, mời vị ấy an tọa, rồi thưa hỏi: “Những gì là pháp thiện? Những gì là pháp ác? Thế nào là chánh? Thế nào là tà? Thế nào là tổn hại? Thế nào là ích lợi? Những gì cần làm để làm ngay? Những gì dừng để dừng ngay?” Nhà vua còn triệu tập các vị quan kỳ cựu ẩn dật có đạo đức và trí thức gần gũi, học hỏi để được thông làu, thỉnh vấn việc triều chánh, bàn việc thành bại. Nhờ đức của vua mỗi ngày một hưng thạnh trọn vẹn, nên chúng sinh trong nước đều lần lượt được an lạc, có thể làm cho họ gieo nhân giải thoát trong đời hiện tại. Vì sao? Vì việc làm của tất cả các vị Bồ-tát đều là Phật sự. Ví như vầng trăng non đầu tháng sẽ sáng dần cho đến ngày mười lăm thì ánh sáng tròn đầy tỏa chiếu khắp mười phương; ví như nước hải triều đầu tháng, dâng cao dần đến ngày mười lăm là trào dâng thành sóng lớn cuốn xa vạn dặm. Pháp cai trị và giáo hóa của vua cũng thế, đức của vua tăng trưởng như vậy. Nếu không có vua và cựu đại thần trí tuệ thì khác nào thuyền không có chủ tất bị đắm chìm trong dòng nước xoáy.

Lại như chúng sinh, gặp lúc hạn hán không có nước, cầu sự giúp đỡ của trời Đế Thích để ông ta hộ niệm, nhưng rồi không mưa, giả sử kéo dài đến mười năm, những chúng sinh này cũng chưa chắc đã chết.

Ngược lại, nội trong một ngày nếu không có vua, thì bá tánh sẽ loạn lạc, giết hại lẫn nhau cho đến hết. Thế nên biết rằng, sự che chở chúng sinh, vua hơn Đế Thích.

Còn nữa, nhờ nghe pháp thù thắng nên đức vua của tôi thường tự cảnh tỉnh để giáo hóa chúng sinh. Mỗi khi lâm triều, đức của vua tăng trưởng, uy lực mạnh mẽ, chinh phục khắp các nước lân cận. Ngoài việc thiết lập nghi lễ cung đình đủ cách tôn nghiêm, tấu âm nhạc hay để kính cẩn hầu vua. Vua còn cùng với quyến thuộc nội cung vây quanh đến tòa Sư tử, thân tâm vô úy, như mặt trời ra khỏi mây ánh sáng chiếu khắp. Giống như trời Đế Thích giữa chúng trời, ở bốn góc điện trí đặt bốn người to lớn mặc áo giáp vàng. Như trời Tứ Thiên vương có tả hữu cầm binh khí bảo vệ hai bên; điều đó cho thấy rằng đức vua của tôi oai đức vòi vọi, ý chí trùm khắp, không để tâm nghe thấy những chuyện vụn vặt của bá tánh mà chỉ luôn suy nghĩ đến hạnh thuận. Như biển nuốt sông, như núi che báu vật. Khi âm nhạc dứt, trong ngoài đều nhất tâm. Cùng lúc ấy, đức vua của tôi, quán sát khắp thuộc hạ, thấy họ có đầy đủ các oai nghi và trang sức đồ tốt đẹp, nhưng biết chúng đều là huyễn hóa, tâm vua kiên định và dùng lời từ hòa nói kệ rằng:

Hội hợp khoảnh khắc tan
Giàu sang đều vô thường
Mạng người như ánh chớp
Cường lực đều cũng chết
Ma chết luôn rình rập
Vô thường phá núi báu
Thắng pháp luôn kiên cố
Nên tu, đừng buông lung.

Đức vua nói kệ rồi, truyền lệnh cho quần thần đều trở về vị trí của mình. Vua cai trị triều chính làm lợi ích chúng sinh tâm không biết nhàm chán hoặc phế bỏ.

Nhân giả nên biết! Nội đức của vua tôi là như thế.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Thế nào gọi là đức giáo hóa bên ngoài của vua?

Đáp:

–Thưa Nhân giả! Tất cả chúng sinh và khí thế gian, được an lập duy trì là đều nhờ vào nghiệp quả của tự thân họ và sức phước đức của các vị vua. Khi kiếp mới thành, thì khí thế gian và con người đều hóa sinh, cơ thể viên mãn, hình tướng đầy đặn, sắc thân sáng ngời không nhờ đến sự ăn mặc, không có ngày đêm. Nhờ phước báo thù thắng đời trước nên vị của đất theo đó mà sinh, cho đến khi lúa thơm tự nhiên xuất hiện. Sau lập lên điền chủ, khắp nơi xa gần đều hướng về, để cầu sự che chở, quan tâm, bình đẳng. Đó là dòng Sát-đế-lợi. Từ đó đến nay vua truyền thừa giáo hóa không dứt. Con người có tâm tham, không có chủ thì làm loạn. Nước có vua làm chủ thì tất cả đều được bình yên, nên nói vua có khả năng bảo hộ cho chúng sinh. Nhân giả nên biết loài người có bốn tộc họ:

  1. Dòng Bà-la-môn, dòng này đa số sống bằng khẩu nghiệp.
  2. Dòng Sát-đế-lợi, đa số sống bằng đôi tay.
  3. Dòng Phệ-xá, đa số sống bằng nghề ruộng.
  4. Dòng Tuất-đạt-la, sống bằng nghề chăn nuôi.

Ngoài ra là những loại Chiên-đà-la xen tạp khác, phần nhiều họ đều sinh sống bằng luật nghi xấu ác. Nhưng bốn chủng tộc này và những chủng tộc tạp nhạp khác, tập nghiệp không đồng, chỗ ở cũng khác. Từ trẻ đến già, tuy việc làm của họ có khác nhau nhưng đều coi trọng bốn việc. Bốn việc ấy là những gì?

  1. Là rèn luyện nghề nghiệp.
  2. Kinh doanh của cải.
  3. Cùng thọ hưởng dục lạc.
  4. Đều cầu giải thoát.

Nói rèn luyện nghề nghiệp nghĩa là từ bé đến lớn, họ đều luân phiên nhau, học tập những việc của họ. Như nghiệp của Bà-la-môn là tu trí tuệ, nghiên cứu sách vở, ghi chép, toán số âm dương, thân tướng lành dữ, kinh sách Vệ-đà. Dòng Sát-đế-lợi, nỗ lực luyện tập bắn cung, cỡi ngựa, lo việc triều chính, nuôi dạy người, cấm đoán kẻ bạo ngược, ca hát để vui lòng chúng và chinh phạt không dừng. Dòng Phệ-xá là làm ruộng, cày, gieo giống, làm cỏ, thâu hoạch cất chứa vào kho. Đất nước là gốc của nhân thiên. Dòng Tuất-đạt-la có người buôn bán hoặc người không buôn bán, qua lại buôn bán để đạt được nhiều lợi nhuận.

Giảng nói kinh doanh nghĩa là đã thành đạt sự nghiệp; nói chung tất cả đều tự gầy dựng sự nghiệp cho mình và đều ở vào đoàn nhóm, xây dựng đời sống riêng. Nói người hưởng thú vui là: Đã sung mãn về tài lợi, xác định chỗ ở, cưới hỏi tiệc tùng, hưởng thụ niềm vui thanh sắc. Nói người giải thoát thì có hai loại cần được nói:

  1. Dòng Bà-la-môn và dòng Sát-đế-lợi, khi qua tuổi năm mươi tóc đã điểm bạc, tướng biến sắc suy, nhàm chán cuộc đời, dứt bỏ tình thâm, ra đi cầu đạo, đều gọi là chân tu. Nhưng sự tu tập của họ khác nhau, bản thân vị thầy truyền thừa cũng không giống. Chín mươi sáu phái, đều thực hiện theo tông phái riêng của mình, hoặc tính đến giải thoát, hoặc cầu sinh Thiên.
  2. Những người dòng họ Thích, đệ tử của Đức Như Lai, là người học ba thừa, uống vị cam lộ, tu tập từ bi, làm lợi ích cho chúng sinh. Tất cả những tông chánh, tông tà, tại gia và xuất gia chuyên tâm học đạo như thế, đều nương vào nước này mà được tồn tại và đều nhờ đức vua của tôi diễn thuyết, truyền bá và hóa độ. Những học giả như sợi dây quay bánh xe. Người làm những nghề nghiệp như cục đất sét. Đức vua cai trị nước như người thợ nặn đất, khéo léo làm lợi ích cho mình và người, như tạo thành các vật dụng. Nếu không có năng lực của vua thì công hạnh không thành, pháp luật cũng không còn huống gì là ban bố ích lợi. Vả lại, sự tu các công đức của họ một phần sáu luôn thuộc của vua. Phước của vua như núi cao tôn quý, vững chãi khó hoại. Ngoài ra các nước khác, vì không tuân theo luật pháp chân chánh, nên người trong nước, người tự ý tích ác, làm cho người tu thiện không được chút tạm yên. Những tội chướng làm trở ngại sự tu tập và tạo nghiệp bất thiện như thế, một phần sáu thuộc về tội của các vua nước ấy, nó như núi cao vòi vọi, vững chắc khó hủy hoại. Thế nên đức vua của tôi là người phước tuệ thù thắng.

Lúc ấy, vị Bà-la-môn lại hỏi Đồng tử Thiện Tài:

–Nhân giả không nghe Địa thần nói sao? Địa thần thường nói: Tôi vác đại địa và tất cả những vật trên ấy kể cả núi Tu-di, tôi cũng không cho là nặng và cũng không nhàm chán. Nhưng tôi luôn luôn nhàm chán đối với ba hạng người và không muốn giữ họ. Ba hạng ấy là:

  1. Mang tâm phản nghịch mưu hại vua.
  2. Vong ân người thân, bất hiếu với cha mẹ.
  3. Không tin nhân quả, hủy báng Tam bảo, phá pháp luân tăng, ngăn người tu thiện.

Ba hạng người như thế tôi rất sợ, cho đến một niệm cũng không muốn lưu giữ.

Lại nữa, đức vua của tôi, ban trải giáo hóa chánh pháp, được chư Phật hộ niệm, huống gì long thần. Nhờ chánh tâm ấy, nên có khả năng ngăn các điều ác, như giữ khóa luật pháp, pháp tà không sinh, có thể cảm hóa điều phục cả người làm những điều vô bổ ở đời, giúp họ chánh kiến tu hành; cũng như trâu chúa, khi nó đi thì cả đàn đều đi theo. Đức vua cũng thế, giáo hóa khắp nơi, tất cả hữu tình đều tùy thuận. Như cái móc sắt có khả năng ngăn voi điên. Vua trị nước bằng chánh pháp, có khả năng chinh phục người ác, cuối cùng làm cho họ đồng hướng đến giải thoát.

Lại nữa, đức vua của tôi dựng nước, luôn căn cứ vào ba việc:

  1. Nhớ trừ năm việc sợ hãi.
  2. Tuyển chọn ba quan cận thần.
  3. Sửa đổi việc ăn uống của nhà vua.

Vì sao? Vì việc phò tá vua và nuôi dạy người trước hết là dứt trừ nỗi sợ hãi. Quan có đầy đủ oai đức, sống hài hòa, được dâng những thức ăn ngon, quý thân và vật, biết dạy người trung hiếu, thân cận, tôn kính, bậc trưởng thượng.

Thiện Tài thưa:

–Năm nỗi sợ là những gì mà ở nước này không có?

Đáp:

–Thưa Nhân giả!

  1. Là vua có đức giản dị, cần kiệm, thâu thuế mức quân bình, thì không có nỗi sợ bị vua tham lam cướp đoạt.
  2. Thân tộc của vua thanh bạch, hiền lương, không tham vật báu làm của riêng, cho nên không sợ cận thần chiếm đoạt.
  3. Quan tể tướng thi hành chức vụ, đầy tâm bao dung, nên không có nỗi sợ tàn ác do người giết hại.
  4. Mọi người đều có nghĩa khí nhường nhịn, trong nước không có

việc lừa dối, oan uổng; nên không có nỗi sợ đạo tặc cướp bóc.

  1. Nước láng giềng hòa hiếu, khuyến hóa dễ dàng, nên không có nỗi sợ nạn ngoại bang xâm chiếm.

Ngoài ra, những nước có năm nỗi sợ này thì dân chúng nhất định không yên ổn. Thế nên sự trị vì của đức vua tôi không ngoài lẽ đó.

Thiện Tài thưa:

–Vì sao vua tuyển chọn ba vị cận thần?

Đáp:

–Thưa Nhân giả! Vua ví như mặt trời ở trên điện cao, cách đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, người trong bốn đại châu không thấy được hình sắc, chỉ nhờ ánh sáng chiếu đến, chiêm ngưỡng vừng mặt trời và đều biết chỗ của vị ấy đang ở. Thánh đức của vua tôi như vừng nhật ấy, ánh sáng lớn ngự trị khắp hoàn vũ, xua tan bóng tối; phát triển vạn vật thành mùa màng, phân biệt rõ bóng tối. Với mười ngàn quan đại thần và một ức tướng mạnh đều thừa lệnh của nhà vua. Để làm sáng đất nước, nên ngài tuyển chọn ba đại thần trông coi hàng trăm việc quan trọng. Những vị ấy là:

  1. Phụ thần.
  2. Tướng soái.
  3. Sứ thần.

Bậc phụ thần thì giúp vua trong sự dạy dỗ, thay vua trông coi việc triều chính, trên trợ đức cho vua, dưới giúp cho thuộc hạ của vua, tiến cử hiền thần có khả năng đảm nhiệm, thanh lọc tâm mình để giữ chức vụ. Như mặt trời chiếu sáng, soi rõ vạn vật. Bậc tướng soái là đại thần làm chủ quân lính, tất nhiên phải thật trung hậu, rất nhân từ, sống đúng lẽ phải, hoàn hảo cả đức lẫn hạnh, trí dũng trọn vẹn. Và vì bảo hộ chúng sinh, vị ấy lấy việc trừ ác làm chính. Như ánh sáng của mặt trời, xua tan bóng tối. Từ tháng bảy đến hết tháng mười, nổi trống luyện binh, thuận với sự uy nghiêm của trời, loại bỏ những việc đáng bỏ, tuân hành những điều lợi lạc, làm an lạc trù phú khắp cả cõi. Bậc chủ tướng như thế, đem mạng sống ra trận, tiến thủ đúng lúc, đánh thì phải thắng. Ngài còn phải biết trong nước tôi có năm thành. Đó là:

  1. Thành núi; chiếm chỗ cao ráo, hiểm yếu, có bờ đá bao bọc.
  2. Thành thủy; giao thông hào bằng những con sông, nước chảy quanh bốn mặt.
  3. Thành cát, sa mạc; xa thẳm mênh mông, bên ngoài không có cỏ nước.
  4. Thành đất; thành lũy cao chắc, bên trong dự bị rất nhiều quân lính.
  5. Thành người, vua Thánh tôi hiền, mưu lược sâu xa.

Năm thành ấy, đứng về công năng đối địch, thì thành người là hơn hết. Nước tôi tôn quý, cho nên đức vua của tôi trụ thần thông giáo hóa bất tư nghì.

Bậc sứ thần là: Người mang lệnh đi ngoại giao, rồi trở về nhận lệnh vua như mặt trời tỏa sáng, làm cho dòng ánh sáng chiếu khắp hang cùng, ngõ hẻm, tối tăm, ẩm thấp, không sót chỗ nào. Vì sao? Vì vua ở nơi thâm cung, đức của ngài lại tinh tế, nên người ở muôn phương không được thấy, bốn biển không hay biết, chỉ nhờ sứ thần đi ban bố ân sủng, các phương thuần nhất, tám hướng tuân hành, người chưa yên được yên, yên rồi không còn thoái chuyển. Vì thế nên đức vua của tôi cùng các đại thần tể phụ kỳ cựu, tuyển chọn người hiền tài và chọn việc làm cho họ.

Tóm lại, người đi sứ cho vua, phải có đủ mười đức, thì mới đảm nhiệm được.

  1. Một lòng phụng mệnh và trung tín.
  2. Quý kính, thân cận vua.
  3. Học rộng nhớ tốt.
  4. Kiến thức rộng rãi.
  5. Biện tài ngang dọc.
  6. Thông suốt trong ngoài.
  7. Kính trên nhường dưới.
  8. Kỷ cương, không phóng túng.
  9. Mô phạm xuất chúng.
  10. Hiểu được thâm ý của vua.

Đủ mười đức ấy, mới được nhận lệnh đi truyền đạt; những nơi mình đi qua thân phải trong sạch, liêm khiết không tham sắc; không ngủ nơi mọi người ở, sợ khi say trong giấc ngủ làm bại lộ những điều bí mật; phụng mệnh đi ngoại giao nơi nước láng giềng, thì nhất định phải đạt được như lời của vua. Không vì lợi mà đổi dạ, không vì uy lực mà thay lòng, đi đứng qua lại đều hợp phong tục tập quán, nhận các vật là để giáo hóa và đối với các quyền biến của vua đều phải thông đạt, không có nghi ngờ, phải có đức độ để giải quyết những việc có liên quan đến phong tục tập quán khác nhau. Do đó, mà ba vị thần phải là người thành tựu đức hóa của vua, sửa điều ác nêu điều thiện, oai lực trùm khắp muôn phương. Như nguồn ánh sáng của mặt trời soi chiếu vạn vật, trừ tối tăm, tỏa sáng khắp xa gần. Người trong nước tôi, tiếp nhận nhiều điều thiện do vua giáo hóa, nên động tịnh đều hợp pháp. Dù có đi đến đâu, cũng không bị người khác khinh thường, như là kẻ: sạch không nhân quả, phản bội vua, ít tâm Từ bi, ưa nhìn lỗi người khác, sống buông thả, xấu xa hèn hạ, không sợ tội lỗi, nhiều sân và dục, không biết hổ thẹn, tâm tánh đần độn khiếp nhược, ganh ghét người có khả năng và người hơn mình. Những người như thế, không nên thân cận, không giao nhiệm vụ, cũng không cho theo; không nuôi luyện những loài voi ngựa dữ, cũng không nuôi dưỡng loài cầm thú vô ích, cũng không đi qua núi sâu đầm lớn, không quy tụ nơi nghĩa trang, đồng vắng, núi hiểm, chỗ ở của phi nhân và ác thú; cũng không đến quán rượu, nhà đồ tể và nơi dâm phòng ô uế. Nếu được gặp việc may mắn, thì xoay qua phía phải làm lễ để cầu phước, không giẫm đạp lên hình ảnh của Phật, Pháp, chúng Tăng, Sư trưởng, đại nhân, cha mẹ và dấu chân của các vị ấy. Đối với những chỗ tôn thờ người có đức thì phải cung kính lễ bái, tâm không khinh mạn; ví như gặp tháp của chư Phật, miếu linh, phòng tăng, chỗ ở của tiên thánh, trụ xứ của người thù thắng, thì tự khuyên mình, khuyên người, nên tôn kính, tu sửa làm cho những nơi ấy nghiêm túc. Thế nên thiên long đều hoan hỷ, mưa thuận gió hòa, năm thứ lúa trĩu hạt, muôn dân được an lạc, quần thân của vua đều trung lương, những kẻ dua nịnh hung tàn không thể gần gũi được. Như rừng chiên-đàn thì toàn hương chiên-đàn bao quanh, không có loài y lan lẫn lộn. Như ao Vô nhiệt, chỉ chứa toàn nước thơm công đức, không có xen lẫn những vị mặn. Vua xa người ác cũng thế, không giống như trái ngọt thú dữ cất giấu trái ngọt.

Thiện Tài lại hỏi:

–Những người nào phụ trách việc ăn uống của vua?

Đáp:

–Thưa Nhân giả! Người đảm nhiệm việc ấy phải có đủ mười đức. Những người có mười đức ấy là:

  1. Chủng tộc thanh tịnh.
  2. Ba nghiệp điều hòa.
  3. Đầy đủ trung hiếu.
  4. Khiêm nhượng, hiền hòa đáng tin cậy.
  5. Biết tính vua thích ăn món gì.
  6. Biết những món ăn nhẹ và món ăn kiêng.
  7. Giỏi chế biến hương vị.
  8. Biết giờ ăn của vua.
  9. Biết món ăn ngon hay độc và biết cách giải chúng.
  10. Biết món đó nên ăn ngày hoặc đêm trong tháng.

Người đủ mười đức này thì có khả năng đảm nhiệm việc nhà trù cho vua và sẽ được chọn làm. Nơi chế biến thức ăn cần phải sạch sẽ thanh khiết và bảo vệ cẩn thận.

Bà-la-môn nói:

–Nhân giả còn phải biết! Tôi thường nghĩ: Khắp chư Thiên và loài người, ai được nghe hoặc thấy tất cả các công đức, những điều thù thắng, cứ quán sát đức vua của tôi, vì ngài có đủ tất cả. Vì sao? Nhân giả nên biết, sư tử là vua của các loài thú, chúng có một đức tánh đặc biệt là không có hai tâm. Như khi nó giết một con voi lớn thì nó dùng hết sức mình, lúc bắt con mồi nhỏ cũng thế. Đức vua của tôi cũng vậy, ngài không sợ việc lớn, không xem thường việc nhỏ; đều dùng hết năng lực bi và trí một cách trọn vẹn, không bỏ sót.

Nhân giả nên biết! Vua của loài chim nước luôn có đầy đủ hai đức tánh:

  1. Quán sát kỹ tâm của mình. Như khi bắt cá chúng bơi vào nước và ngẩng đầu lên, chuyên chú quán sát, sừng sững bất động.
  2. Lặng lẽ quán sát dòng nước, để theo mà thực hiện ý muốn. Đức vua của tôi cũng thế, ở trên nhìn xuống, đức bủa khắp muôn phương, nghiễm nhiên không động, cảm thông tất cả, lời nói đúng thời, mọi việc đều thành tựu tự nhiên.

Bà-la-môn nói:

–Nhân giả còn phải biết! Đức vua của tôi có ba đức giáo hóa khắp nhân gian. Như ngựa giỏi của vua Kim Luân cũng có ba đức tánh. Đó là:

  1. Tâm tánh nhu hòa và có đủ khả năng lực đi đến các miền xa.
  2. Không sợ nóng lạnh, đi qua đường hiểm đều an ổn.
  3. Chuyển đổi các việc dễ dàng, không đòi hỏi.

Đức vua của tôi cũng thế:

  1. Nói lời nhu hòa chân thật, đem chánh pháp làm lợi người giáo hóa chúng sinh đều được thành tựu.
  2. Chuyên cần sắp đặt dân chúng và thường xả những của cải để phân phát cho tất cả, tâm không thay đổi.
  3. Có trí lớn và sức mạnh hòa giải oán địch, thâu thuế vừa phải, luôn luôn biết tri túc.

Người đầy đủ ba đức này như dùng quạt tạo nên không khí hòa thuận, các nước bạn sợ oai, người nước mình được mang ân huệ.

Bà-la-môn nói:

–Nhân còn nên biết! Đức vua của tôi, có bốn đức giáo hóa khắp nơi, như bốn đức tánh của vua gà trống Diệu Âm nước Ma-dà. Bốn đức ấy là:

  1. Chính xác đáng tin cậy.
  2. Giữ lẽ phải trong phân chia lương thực.
  3. Đối mặt với địch không biết sợ hãi.
  4. Không nghe theo gà mái. Đức vua của tôi cũng thế:
  5. Thưởng phạt đúng thời.
  6. Giúp đỡ khắp muôn phương.
  7. Đem việc nghĩa chế ngự quân địch.
  8. Không nghe lời sàm tấu.

Vua tôi có đầy đủ bốn đức này, nên việc giáo hóa sẽ vô cùng.

Bà-la-môn nói:

–Nhân giả còn phải biết! Đức vua của tôi có năm đức giáo hóa khắp nơi, như ngỗng chúa Thiện thời trên cõi trời Dục giới có năm công đức. Đó là:

  1. Giao hợp đúng lúc.
  2. Kêu to không sợ.
  3. Xét tìm thức ăn đúng lúc.
  4. Tâm không phóng buông thả.
  5. Không nghe lời nịnh hót của những loài chim khác. Đức vua của tôi cũng thế:
  6. Tâm trong sạch, ít ham muốn, trong nội cung không sống phóng túng.
  7. Lời nói có suy xét kỹ, nên người ngoài không trái lệnh. 3 Cho, nhận đúng lúc, chủ yếu là sung vào ăn mặc.
  8. Điều tâm hợp với đạo, chuyên cần tránh xa lầm lỗi.
  9. Thành tựu chánh tâm, không gần gũi người dua nịnh. Vua tôi có đầy đủ năm đức này nên ban ân huệ đến khắp tám cõi xa xôi.

Bà-la-môn nói:

–Nhân giả còn phải biết! Đức vua của tôi có sáu đức giáo hóa khắp nơi. Như Thắng Đức đại vương nước Ma-dà có sáu đức tánh:

  1. Có chi ăn nấy.
  2. Biết đủ, không đòi hỏi.
  3. Ngủ đâu cũng được.
  4. Cây cỏ động cũng làm thức giấc.
  5. Nghèo giàu đều một lòng.
  6. Mạnh mẽ đề phòng giặc cướp.

Đức vua của tôi cũng thế:

  1. Muôn phương đều cống hiến, nhận lãnh đất đai hợp pháp.
  2. Lúc nguy hiểm ít người tuân phụng thì luôn ôm lòng hổ thẹn.
  3. Làm việc an lành, ngủ nghỉ dễ dàng.
  4. Luôn giữ chánh kiến, khi động niệm là biết ngay.
  5. Quý trọng bậc đức cao, thương tưởng đến người nghèo thiếu.
  6. Luôn luôn quan tâm và bảo hộ dân chúng, oai thế tự tại, không có các nạn giặc thù.

Đủ sáu đức này, thì ức triệu người đồng một lòng. Nhờ tư duy như vậy, nên thành tựu công đức cho muôn loài và vì lẽ đó nên họ đều hướng về đức vua của tôi ca ngợi, danh tiếng ngài vang khắp nơi, chuyên cần, khéo nhiếp hóa các chúng sinh, không biết mỏi mệt. Cứ như thế, lên đến hai mươi mốt loại công đức thù thắng. Đức vua của tôi có khả năng làm cho tất cả oán địch tự nhiên tiêu tán. Những kẻ ngoại xâm không thể vào đất nước mình.

Nhân giả còn phải biết! Nếu hai mươi mốt đức này thiếu, mà chỉ có ba đức sau đây, thì cũng có thể trị dân một cách hoàn hảo.

  1. Đem của cải quý giá ban phát cho tất cả.
  2. Thà bỏ thân mạng không nói lời hư dối.
  3. Đầy đủ đại dũng mãnh có khả năng hàng phục giặc thù.

Giả sử không có ba đức này, mà chỉ có một đức thôi, thì cũng có khả năng chuyển hóa, nghĩa là phải có đại phước đức. Bậc vua mà nhân từ là cao tột hơn cả. Ví như tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng đều quy về thắng nghĩa. Đức vua cũng thế, đủ cả mưu lược nhưng đều hướng về phước đức. Nếu vua có phước, thì đất nước của vua thái bình an lạc, bình yên vô sự. Chúng sinh ở khắp muôn phương, đều giàu sang vui sướng, trước mắt được lợi ích thân tâm, xa hơn thì được yên ổn giải thoát, nhờ tâm Từ bi phước đức và ban ân huệ của vua mà thành tựu. Nếu nói về diệu hạnh đức vua của tôi thì không bao giờ hết.

Sau khi khen ngợi công đức trong và ngoài của Đại vương Cam Lộ với Thiện Tài, làm cho ông ấy hoan hỷ quý kính rồi, Bà-la-môn muốn gom lại những nghĩa trên, bèn nói kệ ca ngợi:

Thế giới của chúng sinh
Bị gió ba độc thổi
Kéo rơi vào nẻo ác
Chỉ vua mới ngăn được
Đắm say trong năm dục
Do đó sinh tham ác
Vua hành theo chánh pháp
Giúp đến đạo chân thường
Nghiêng đổ vì tài sắc
Do không trì vương pháp
Ví như cá đầm sông
Lớn nhỏ ăn lẫn nhau
Pháp vua giữ mình, người
Nay, mai thường an lạc
Chánh giáo hóa khắp nơi
Đều là nhân giải thoát
Người lấy vua làm mạng
Vua dùng pháp làm thân
Đạo đời đã hòa bình
Phật pháp mới có ích.
Trị kẻ ác làm loạn
Hiếp đáp người bất hạnh
Ân, oai luôn có mãi
Vạn nước thường thái bình
Phụng thờ nhiều đời Phật
Phước đức thắng là vua
Bi sâu ân huệ sâu
Ức triệu đều an lạc
Vua tôi dòng tôn quý
Sáng oai như mặt trời
Quên mình giúp chúng sinh
Khắp nước không nghèo thiếu
Biết thân này không sạch
Bị vô thường chiếm đoạt
Đại trượng phu điều tâm
Chỉ giữ các việc chánh
Mọi người như cỏ khô
Ân huệ như mây dầu
Tâm Từ ban âm đức
Thấm nhuần các hàm thức
Bậc vua thuận tâm người
Thương giúp kẻ nghèo khổ
Ra oai kẻ tham bạo
Thưởng phạt rất công bằng.
Người đẹp lời nói hay
Ngậm độc không ai thương
Hoặc được đại thông tuệ
Mà bị dục che tâm
Vua tôi rất đoan nghiêm
Ngừa giận ngăn các dục
Tâm như đài gương sáng
Soi hết tất cả vật
Gương sáng chỉ chiếu hình
Không soi thấu tâm tưởng
Tâm vua như gương sáng
Thấy thấu suốt nguồn tâm
Thuộc hạ không nịnh tà
Tai mắt thuần lương thiện
Tàn ác và dua nịnh
Không thể nào thân cận
Hoặc người tâm tà vạy
Muốn hại người của vua
Tâm vua vừa soi đến
Liền trở thành trung chánh
Rừng sâu che thú dữ
Biển mặn hai nước trong
Mọt chánh trị hại dân
Hung tà hại đức vua
Sông hương tuôn nước đức
Trái ngọt quằn rừng ngọt
Tám hướng đồng an vui
Thần Hiền nhờ chủ Thánh
Vua giữ gìn giới cấm
Ban cho nguồn tinh khiết
Giàu, thọ, lợi chúng sinh
Ra khỏi biển tham sân
Từ bi đã sâu rộng
Chánh pháp cũng truyền khắp
Trẻ già và cô độc
Nuôi dưỡng giúp an vui
Trọng hiền quý tài đức
Trọng già kính người thân
Thân thích cùng phi tần
Ngoài trong đều hòa thuận
Lời ấm vỗ muôn dân
Trọng thầy phụng sự thầy
Thờ kính không mệt mỏi
Phước truyền ngàn vạn đời
Thuở xưa không đạo chủ
Hoang phí khinh thân tộc
Tự phạt không lo người
Lời ác luôn truyền khắp
Vua tôi biết cảnh huyễn
Làm lợi ích quên mình
Có đạo giúp chúng sinh
Đủ tiếng khen tốt đẹp
Tham sân và keo kiệt
Đều là những nhân khổ
Hạng ngu si không biết
Thọ báo như bóng hình
Vua lấy dân làm gốc
Ức người như một thân
Sai khiến như tay chân
Làm nghỉ đều vừa phải
Gương vua tôi đời trước
Ban luật, làm tiền tệ
Việc làm thuận tâm người
Bỏ ác hướng về thiện
Yêu người như yêu thân
Khắc kỷ để tùy người
Chín tộc đã theo lệnh
Trăm chính pháp vua ban
Tám phương nương thánh hóa
Ngồi yên được thái bình
Bồi công để sửa tâm
Tâm lặng thì vô sự
Trung thần hộ vua tôi
Cần thuận như tay chân
Vạn nước đều biết đến
Bốn biển khen vua đức
Kế thừa giáo pháp Phật
Để khai ngộ chúng sinh
Làm cho tỏ tự tâm
Trời mọc hoa sen nở
Dân chúng hộ vua tôi
Như vua hộ mọi người
Như rừng che thú chúa
Thú bảo vệ núi rừng
Nước khác năm nỗi sợ
Vua tham và nịnh thần
Quan ác che giấu tội
Quan, đạo tặc cướp đoạt
Trong nước bốn nỗi sợ
Giặc giã sẽ xâm lăng
Vua tôi sạch trong ngoài
Dân không năm nỗi sợ
Ở đời có bốn nghiệp
Một trí, hai của quý
Ba hưởng năm dục lạc
Bốn là cầu giải thoát
Các vua khác đều thiếu
Đến chết chẳng ai khen
Như gió giữa lò rèn
Gió dừng mạng dừng theo
Vua tôi đủ bốn pháp
Thân trí đức sáng suốt
Giàu sang của cải quý
Ban bố cho kẻ nghèo
Năm dục không thiếu gì
Như hoa sen không nhiễm
Luôn dìu dắt chúng sinh
Về sau nhập trí Phật
Trú giải thoát như huyễn
Thị hiện nơi tham sân
Giáo hóa những người ác
Đều hướng về Phật đạo
Rồi đây tất sẽ thấy
Đủ các môn phương tiện
Lợi chúng sinh tuyệt đối
Vì thế tiếng vang xa
Gió chính là diệu tuệ
Tuổi thọ không cùng tận
Xin mau đến chiêm ngưỡng
Đừng mỏi mệt xem thường
Một lần gặp người trí
Hơn sống trăm ngàn năm.
Dẫu sống được ngàn tuổi
Mà ăn thừa đồ người
Không biết việc ba đời
Nên nghèo tài sản pháp.
Bụng lớn chỉ chứa dục
Dáng người khác chi thú
Ít học tâm cao ngạo
Nước chân bò dễ đầy
Như tay chuộc nắm vật
Tự khoe mình đa năng!
Biển trí rộng khó lường
Không sợ người hủy báng
Bò uống nước thành sữa
Rắn uống nước thành độc
Trí học thành Bồ-đề
Ngu học vì sinh tử
Không hiểu biết như thế
Chính vì lỗi thiếu học
Thế nên người nước tôi
Học rộng không nhàm chán
Vua tôi nhiều phụ tá
Thành trì cũng kiên cố
Giàu người tài, ngựa, của
Láng giềng đều giao hảo
Đủ bảy chi như thế
Trí dũng thường nương tựa
Cõi người và cõi trời
Đủ công đức thù thắng
Lợi ích các chúng sinh
Như phần trước đã nói
Người trí nghe một nghĩa
Thông hiểu vô bờ bến
Nói tóm pháp của vua
Tu thân an muôn dân
Thế gian luôn vinh hiển
Xuất thế khó suy lường
Như biển chứa các sông
Bao dung sâu rộng khắp.

Dùng kệ khen vua rồi, Bà-la-môn nói với Đồng tử Thiện Tài:

–Nhân giả nên biết! Trên thân của mỗi chúng sinh, có đến ba ức lông và chỗ chân lông. Nay đức vua của tôi có đến ba ức công đức nội hạnh và ba ức công đức ngoại hạnh. Do đó, đức giáo hóa này ban bố, dạy bảo cho khắp chúng sinh. Vừa rồi tôi trình bày với nhân giả, mới chỉ nói công đức như một sợi lông của đức vua thôi. Nhưng sự thật thì đức của vua sâu rộng khó có thể nêu hết được. Trí của tôi thiển cận, không thể nhớ để thuật lại hết, huống nữa tôi còn có việc cần không tiện nói chuyện lâu. Hiện nay, đức vua của tôi đang giáo hóa nơi chánh điện, nhân giả nên đến đó nhất tâm chiêm ngưỡng.

Khi nghe vị Bà-la-môn nói như thế, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị ấy, rồi từ giã, để đến cung vua. Đến nơi, đồng tử trông thấy đức vua ấy đang ở nơi chánh điện, ngồi trên tòa sen lớn sư tử kim cương Na-la-diên xinh đẹp. Đài bằng vô số ma-ni báu, đế bằng vô số báu ánh sáng như mặt trời, trang trí bằng vô số hình tượng báu đẹp, bên trên phủ lưới bằng dây vàng, với vô số ma-ni báu ánh sáng tụ lại thật rực rỡ, trải vô số y quý báu xinh đẹp của cõi trời, dùng đủ các loại hương của cõi trời xông khắp, mặt đất nơi ấy được rải đủ các loại hoa báu, bốn mặt treo vô số cờ báu thẳng tắp, vô số phướng báu rũ xuống khắp nơi. Trướng làm bằng lông đuôi chim Khổng tước có nhiều ánh sáng màu sắc như ngọc ma-ni báu của cõi trời để treo bên trên.

Vua lúc ấy, tuổi xuân cường tráng, đủ các tướng tốt xinh đẹp, tôn quý đáng kính; đầu đội mão báu làm bằng châu ma-ni như ý; trán đội hình bán nguyệt làm bằng vàng Diêm-phù-đàn, tai đeo hoa tai bằng ngọc ma-ni đế thanh vô cấu thượng hạng; cổ đeo anh lạc vô giá làm bằng châu ma-ni như ý thượng hạng; tay đeo nhẫn bằng châu Ma-ni như ý thượng hạng chiếu ánh sáng thuần khiết của cõi trời, lộng bằng vàng Diêm-phù-đàn, đan nhau bằng những cây nan các báu xen tạp; rốn bằng Ma-ni quang vị, chuông vàng treo làm bằng trăm ngàn lưới tràng hoa đan chéo và trang sức bằng tạng báu thanh tịnh, thường phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói pháp vô tận; ngọc Ma-ni dạ quang phóng ra ánh sáng lớn, tròn đầy, rực rỡ khắp cả mười phương. Cây sào làm bằng ngọc báu Tỳ-lưu-ly, luôn luôn có người cầm che bên trên ngài. Vua Cam Lộ Hỏa vương đức tăng thượng, có uy lực lớn, oai thế chinh phục đến phương xa, các vua ở những nước lân cận đều khâm phục và phụng mệnh; ngài dùng lụa Ly cấu để buộc nơi đỉnh, có mười ngàn đại thần vây quanh, mười vạn người hầu đứng thẳng tắp hai bên, tướng mạo đáng sợ như sứ Diêm-la; nắm tay, đảo mắt, nghiến răng, giương mày, cầm gậy, ai thấy cũng đều kinh sợ. Dân chúng trong nước có người phạm pháp vua, hoặc đoạt mạng sống của người, hoặc trộm tài sản của người, hoặc chiếm vợ người, nói dối và ly gián, nói thô ác và vô nghĩa, tham sân tà kiến, tạo đủ các ác nghiệp như thế, toàn thân bị trói, đưa đến chỗ vua. Nhà vua xét theo tội mà trừng trị, hoặc hỏa thiêu, hoặc nấu nước nóng, hoặc ram nướng, hoặc bỏ vào dầu sôi, hoặc thiêu đốt đủ cách làm cho họ bị chín nhừ, hoặc đuổi lên núi cao rồi xô cho rơi xuống, hoặc chặt đầu, hoặc chém ngang hông, hoặc xẻo tai mũi, hoặc chặt tay chân, hoặc móc hai mắt, hoặc lột da, hoặc rọc xả thân thể, rời rạc từng phần, xương chất thành núi, máu chảy thành ao. Đồng tử lại thấy trong máu hài cốt tay chân và đầu người ngỗn ngang. Lại có vô số loại heo, chó hoang, chim cắt tranh nhau đến ao ăn thịt, uống máu kêu rống dữ tợn. Người nghe đều khiếp sợ. Tử thi ở trong ao có đủ các hình sắc, hoặc sình trướng xanh bầm, hoặc chảy mủ mùi hôi thối xông khắp, hư rã, ruột gan, phèo phổi đổ ra, lông tóc gân móng, rải rác khắp mặt ao. Hoặc có người tội nhẹ, thì bị roi vọt đánh đập khổ sở, cắt bỏ các chi, hình phạt đủ cách, kêu la rên rỉ, cất tiếng kinh hãi, hoặc kêu cha mẹ, hoặc gọi họ hàng, tiếng vang như sấm, tâm người chịu đựng với vô lượng khổ độc như thế, ví như chúng sinh trong đại địa ngục.

Trông thấy rồi, Thiện Tài suy nghĩ: “Vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, ta phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tu đạo Bồ-tát, cầu hạnh Bồtát, thỉnh vấn Thiện tri thức: Làm thế nào để tu tập thiện căn Bồ-đề? Làm thế nào để xa các bất thiện căn? Hôm nay ta lại gặp vị vua này bỏ pháp thiện căn, tạo nghiệp đại ác, bức hiếp chúng sinh, cho đến hại cả mạng sống của họ, không biết kinh sợ nghiệp khổ đường ác ở đời sau; trước mắt toàn điên đảo, đọa lạc vào dục; thì làm sao ở đây mà thưa hỏi, thỉnh cầu về hành hạnh Bồ-tát, học đạo Bồ-tát, để có khả năng sinh đại Bi rộng lớn trọn vẹn, cứu hộ chúng sinh!” Trong tâm, đủ các ý niệm như thế và khi suy nghĩ như vậy, chư Thiên ở trên hư không bảo:

–Thiện nam! Ông không nhớ lời dạy của Thiện tri thức trưởng giả Phổ Nhãn và vừa rồi các Bà-la-môn đã khen ngợi đủ các công đức và pháp vi diệu của vị vua ấy rồi sao?

Thiện Tài ngước nhìn, rồi thưa vị ấy:

–Tôi nhớ rất kỹ, không sót một lời nào cả.

Chư Thiên nói tiếp:

–Thiện nam! Nếu ông nhớ kỹ như vậy thì đừng nghi ngờ.

Thiện nam! Ông không nên nhàm chán, xa lánh lời nói của Thiện tri thức. Bậc Thiện tri thức luôn luôn đem chánh pháp hướng dẫn ông. Lẽ nào vị ấy làm cho ông rơi vào nơi hiểm ác!

Thiện nam! Bồ-tát khéo thực hiện trí phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, trí thâu nhận chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí hộ niệm chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí làm lợi lạc chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí trị phạt chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí làm thanh tịnh chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí làm thành thục chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí thâm nhập chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí độ thoát chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí biết thời của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí biết căn tánh của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, trí điều phục thương tưởng chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam! Ông hãy đến chỗ đức vua, hết tâm thỉnh cầu về việc học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát.

Khi nghe chư Thiên nói như thế, Thiện Tài đến trước chỗ vua, đảnh lễ sát chân vua, nhiễu quanh vô số vòng, rồi chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe Thánh giả, có khả năng khéo léo giảng dạy, cúi xin chỉ dạy cho con.

Lúc ấy, vua Cam Lộ Hỏa sắp xếp việc triều chính xong, cầm tay Thiện Tài dắt vào nội cung, cho phép đồng tử cùng ngồi một tòa, rồi bảo:

–Thiện nam! Ông hãy quán sát cung điện, chỗ ở của ta và các vật dụng.

Vâng lời vị ấy, Thiện Tài liền quán sát khắp, trông thấy cung điện của vị ấy rộng rãi không nơi nào sánh kịp, làm bằng các báu mani hợp lại; lầu các làm bằng cả trăm ngàn loại châu báu; trụ bằng báu trân châu đỏ, có đủ các loại màu sắc báu xen lẫn tỏa kín; bất tư nghì báu ma-ni có ánh sáng thù thắng chiếu khắp; tùy nơi, tùy chỗ mà đính các loại vật báu như báu Mâu-tát-la-nghiệt-ma đẹp để làm thảm trải trên đất ấy; tòa Sư tử trang hoàng bằng trăm ngàn loại châu báu với màu sắc; bức trướng che trên tòa ấy; được làm bằng báu ma-ni Tỳ-lôgiá-na thượng hạng; lưới báu như ý thượng hạng có đủ loại màu sắc che rũ xuống xung quanh; dựng cờ báu xinh đẹp khắp nơi bằng châu ma-ni quang vị Sư tử vương vi diệu; xung quanh còn có cái ao cong làm bằng các loại báu đẹp, nước ao trong sạch, đủ tám công đức, bờ có thềm bậc bằng ngọc báu mã não, lan can bằng báu với đủ loại màu sắc; khắp nơi trồng cây báu thẳng tắp, các bức tường báu bao bọc xung quanh; thể nữ, người hầu có đến mười ức, xinh đẹp, đoan nghiêm, làm cho mọi người đều thích ngắm, dung nhan diễm lệ cử chỉ đáng nhìn, làm việc gì cũng khéo léo, tâm ý nhu hòa, thừa hành mệnh lệnh thường khởi tâm Từ; thấy rồi, Thiện Tài cho là việc hy hữu. Lúc ấy, vua nói:

–Này thiện nam! Ông nghĩ thế nào? Với những điều ông vừa thấy, những thành quả đáng yêu như: Sắc tướng, quyến thuộc, sung sướng, giàu sang và sự tự tại như thế, có phải đều do nghiệp ác này chiêu cảm không?

Thưa:

–Không!

–Thiện nam! Ta được môn giải thoát như huyễn của Bồ-tát.

Thiện nam! Những chúng sinh ở trong nước của ta hôm nay là những người tạo nghiệp ác như chiên-đà-la. Với các chúng sinh ác, vì không tiếp nhận lời dạy thiện như thế! Ta đã tạo đủ vô lượng phương tiện khác nhau, làm cho họ xả bỏ nghiệp ác, quay về đường thiện. Này thiện nam! Vì điều phục cho những chúng sinh ấy thành thục, ta mở tâm Đại bi, đi trước dẫn đường, biến hóa làm người ác ở trước người ác, hiện làm các việc ác và biến hóa làm người nhẫn chịu để kẻ khác xâm hại, trách phạt, xúc não chịu đủ các sự trừng trị khổ sở, khiến cho chúng sinh làm ác trong nước này, thấy sự việc ấy rồi họ kinh hãi khiếp sợ, đối với các dục lạc họ nhàm chán, xa lìa, khiếp nhược, từ đó có thể dứt hẳn tất cả nghiệp ác, phát tâm Bồ-đề được không thoái chuyển. Thiện nam! Vì thế nên biết những cảnh chúng sinh tạo ác, kẻ thọ khổ và việc trừng trị chúng sinh bạo ác mà ông thấy vừa rồi, đều là biến hóa cả.

Thiện nam! Ta dùng mọi phương tiện như thế để khiến cho các chúng sinh, dứt trừ mọi việc làm về mười nghiệp bất thiện, an trụ tu tập đầy đủ mười thiện đạo, được lợi lạc tuyệt đối, an ổn tuyệt đối, viên mãn tuyệt đối, dứt hẳn các khổ, đứng trên đất Nhất thiết trí của Như Lai.

Thiện nam! Ta suy xét kỹ về thân, ngữ, ý của mình, chưa bao giờ làm làm hại một chúng sinh nào cả.

Thiện nam! Đúng theo tâm nguyện của ta, thà tận đời vị lai thọ khổ không dứt, chứ nhất định không để tâm sân bộc phát dù trong một niệm. Đối với một chúng sinh nhỏ như con muỗi, con kiến còn không manh tâm giết hại, huống gì tạo những nghiệp ác như thế.

Thiện nam! Ta tự nghĩ nhớ lại, thậm chí trong mộng cũng chưa từng có một niệm nào, sinh tâm buông lung, huống là lúc tỉnh thức mà giết hại người sao? Vì sao? Vì người là ruộng phước, có khả năng sinh ra tất cả các quả thiện. Ví như trong mười sáu nước lớn, cho đến tất cả chúng sinh ở trên mặt đất, đều nương vào đất mà sinh trưởng và tồn tại. Như thế, tất cả đạo quả của Thánh Hiền đều nương vào người mà có thể tu chứng.

Thiện nam! Ta chỉ đạt được pháp môn giải thoát biến hóa như huyễn này. Còn như các Đại Bồ-tát được vô sinh nhẫn, biết các nẻo hữu đều như huyễn, biết hạnh Bồ-tát đều như hóa, biết các thế gian đều như ảnh, biết tất cả pháp đều như mộng, nhập pháp môn không đắm trước tướng chân thật, tùy thuận pháp giới, tu các diệu hạnh. Ví như lưới trời Đế Thích, dùng trí không đắm đi vào cảnh giới ấy nên không bị chướng ngại, bình đẳng nhập khắp các pháp môn Tam-muội, đã được tự tại nơi môn Tổng trì, an trụ nơi cảnh giới Phật, như bóng theo hình. Nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết công đức, trí tuệ và các hạnh Bồ-tát của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này, có một thành tên Diệu quang, vua tên là Đại Quang. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân đức vua, đi nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhất tâm chánh niệm tùy thuận tư duy lại pháp môn huyễn trí của đức vua ấy đạt được, quán sát môn giải thoát như huyễn của đức vua ấy; tư duy pháp tánh như huyễn của đức vua ấy, phát nguyện như huyễn, làm thanh tịnh pháp như huyễn, liễu ngộ nghiệp như huyễn, tùy thuận pháp thành tựu như huyễn, phát sinh trí bất tư nghì như huyễn, làm thanh tịnh tánh và tướng trong ba đời như huyễn; dùng trí như huyễn phát sinh đủ các biến hóa như huyễn; tư duy như thế và tuần tự tiến bước. Đồng tử đi qua xóm làng thành ấp nhân gian; hoặc đến đồng hoang, hang sâu nơi núi cao, nơi nguy hiểm đầu nguồn cuối sông; tìm kiếm khắp nơi không biết mỏi mệt. Sau đó, ông mới đến được đại thành Diệu Quang, đứng bên cửa thành ấy, hỏi thăm mọi người:

–Đây gọi là thành gì? Vị vua nào trị vì?

Mọi người đều đáp:

–Đây là thành Diệu Quang, chính là trụ xứ của vua Đại Quang.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài hết sức vui mừng, thỏa mãn ý nguyện, hết tâm ngưỡng mộ, liền suy nghĩ: “Bậc Thiện tri thức của ta đang ở trong thành này; nhất định hôm nay ta sẽ được đích thân hầu cận, để được nghe các Bồ-tát thực hành các hạnh, được nghe môn xuất ly quan trọng của các Bồ-tát, được nghe pháp chứng ngộ của các Bồtát, được nghe công đức bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe sự tự tại bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe sự bình đẳng bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe sự dũng mãnh bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe cảnh giới bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe pháp tánh bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe Tam-muội bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe diệu dụng giải thoát bất tư nghì của các Bồ-tát, được nghe sự thanh tịnh rộng lớn bất tư nghì của các Bồ-tát”. Suy nghĩ như thế rồi, đồng tử bước vào thành Diệu quang; quán sát khắp nơi, thấy thành này trang sức bằng các báu. Bảy báu tạo thành là: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích châu, xa cừ, mã não. Có bảy lớp hào báu bao bọc xung quanh, trong chứa đầy nước tám công đức, dưới đáy hào trải cát vàng, ánh sáng tỏa chiếu, trên khắp mặt hào có các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Nước ấy trong suốt, ấm mát theo thời, bùn chiên-đàn trắng cặn lắng xuống bên dưới. Nước ấy lượn theo bùn nên có màu sắc như chiên-đàn, có bảy hàng cây Đa-la báu thẳng tấp, cành lá sum suê, xinh đẹp sầm uất, tường làm bằng bảy lớp Kim cương, đó là: Tường Kim cương Sư tử ánh sáng, tường Kim cương vô năng siêu thắng, tường Kim cương bất khả tự hoại, tường Kim cương tinh tấn nan phục, tường Kim cương kiên cố vô trước, tường Kim cương thiên y võng tạng, tường Kim cương vô cấu diệu sắc. Bảy lớp như vậy, từng lớp vây bọc lấy nhau và đều đính bằng vô số ma-ni báu đẹp xen lẫn. Thành thấp trên tường làm bằng vàng Diêm-phù-đàn và các loại báu, đính các báu như vàng, bạc lưu ly, xích châu, mã não, pha lê, hải tạng và trân châu… Thành ấy, hình bát giác chiều ngang rộng mười do-tuần. Mỗi mặt mở tám cửa, mỗi cửa đều trang trí bằng bảy loại báu, đất nơi ấy bằng lưu ly đế thanh, các báu và màu sắc hòa quyện thích hợp mọi nơi nhiều loại châu báu quý lạ rất đáng yêu thích; trong thành ấy có mười ức con đường thông nhau. Bên mỗi con đường, đều trang trí, trưng bày các báu xinh đẹp, sang trọng hơn cả con đường Thiên đế Thích đi qua. Trên mỗi đoạn đường đều có vô số vạn ức chúng sinh sinh sống an trụ trong đó; và vô số trăm ngàn cung điện rộng lớn. Mỗi cung điện đều bằng các báu hợp thành. Lại có vô số bất tư nghì lầu các bằng vàng Diêm-phù-đàn, bên trên giăng lưới báu ma-ni, lưu ly, đế thanh; lại có vô số bất tư nghì lầu các bằng bạch ngân bên trên giăng lưới báu bằng trân châu ma-ni bảo màu đỏ. Lại có vô số bất tư nghì lầu các bằng Tỳ-lưu-ly, bên trên có lưới rộng bằng Diệu tạng mani bảo, trùm khắp lên. Lai có vô số bất tư nghì lầu các bằng pha lê, bên trên giăng lưới báu bằng ma-ni vương nhật tạng; lại có vô số bất tư nghì lầu các bằng báu ma-ni ánh sáng chiếu thế gian, bên trên giăng lưới báu, ma-ni vương Cát tường quang tạng; lại có vô số bất tư nghì lầu các bằng ma-ni bảo vương đế thanh, bên trên giăng lưới mani vương diệu quang; có vô số bất tư nghì lầu các bằng ma-ni bảo vương chúng sinh hải tạng, bên trên giăng lưới báu ma-ni diễm ánh sáng tạng; có vô số bất tư nghì lầu các bằng Kim cương bảo vương, bên trên giăng lưới báu ma-ni vương vô năng thắng tràng; có vô số bất tư nghì lầu các bằng chiên-đàn hương vương, bên trên giăng lưới báu hoa trời Mạn-đà-la, hoa đại Mạn-đà-la, có vô số bất tư nghì lầu các bằng gỗ thơm thượng hạng không gì sánh bằng, bên trên giăng đủ các loại lưới hoa; có vô số bất tư nghì lầu các bằng đủ loại báu đẹp trang trí báu đẹp và đủ loại lưới báu giăng bên trên như thế. Mỗi lầu các báu đều có những lan can báu bọc khắp xung quanh. Hàng cây Đa-la báu tuần tự thẳng tắp đều dùng cây báu để làm ranh giới, mỗi dây báu đều có linh vàng, mỗi linh vàng đều có buộc các lọng báu giống như đuôi chim Khổng tước, màu sắc khác nhau xinh đẹp. Gió động, phát ra âm thanh nghe rất hay. Thành ấy còn có vô số a-tăng-kỳ lưới ma-ni báu, vô số lưới linh báu, vô số lưới hương trời, vô số lưới hoa trời, vô số lưới hình tượng báu. Thành này còn có vô số trướng Kim cương, vô số trướng y báu, vô số trướng bảo cái, vô số trướng bảo tràng, vô số trướng bảo sơn, vô số trướng tràng hoa báu và vô số trướng lầu các báu treo khắp, lọng cờ phướn báu trưng bày la liệt khắp nơi. Ao báu trong thành, nước đức tràn đầy, đáy trải cát vàng, sáng rực trong ngoài, các loại hoa đẹp của cõi trời, nở tròn trên mặt ao, các loại chim quý của cõi trời bay vui đùa trong ấy; phát ra âm thanh vi diệu rất vừa ý người; bậc thềm bờ ao trang bị bằng bảy báu. Ao báu của Đế Thích cũng không so sánh kịp. Lúc bấy giờ, trong thành này, có một lầu các tên là Diệu Pháp Tạng, trang nghiêm bằng vô số loại báu với nhiều màu sắc có hào quang chiếu sáng rực rỡ, vượt hơn tất cả, không gì sánh kịp, chúng sinh đều thích nhìn, không biết nhàm chán. Đức vua Đại Quang thường ngự trong ấy.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đứng trước đại thành ấy và trước tất

cả các loại vật báu đẹp trân bảo như lầu các báu, ao báu, hào báu, cây báu, tường báu, lọng báu, cờ báu, linh báu, lưới báu; tất cả những vật dụng cho đến nam nữ và cảnh giới lục trần đều không làm cho đắm nhiễm. Đồng tử chỉ đứng ở trong vườn Ngự uyển chánh pháp, hết tâm khát khao ngưỡng mộ để chỉ có pháp chánh tư duy tuyệt đối, chỉ hết tâm mong muốn gặp Thiện tri thức. Thiện Tài mới thong thả tiến bước về phía trước và quán sát khắp nơi. Cùng Lúc ấy, đồng tử trông thấy vua Đại Quang đang đi gần tới lầu các, đến ngồi tòa báu Sư tử Như ý ma-ni bảo liên hoa tạng, rộng lớn trang nghiêm. Đế tòa bằng ngọc lưu ly xanh; trướng bằng lụa vàng; lưới bằng các báu, trang sức bằng dây vàng Diêm-phù-đàn đan chéo nhau; thảm làm bằng vải thượng diệu của cõi trời, trải đều bốn góc; vô số hình tượng báu xinh đẹp, trang trí theo vị trí thích hợp. Đức vua ấy có thân xinh đẹp, đủ ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân. Như núi vàng ánh sáng và màu sắc rực rỡ. Như mặt trời trên không chiếu ánh sáng khắp nơi. Như vầng trăng tròn, mà người trông thấy thì tâm ý mát mẻ, không biết nhàm chán. Như trời Phạm vương ở giữa chúng trời, oai đức vượt hơn tất cả. Như biển cả chứa vô lượng, vô biên châu báu công đức. Như vừng mây lớn giăng pháp tánh khắp hư không nổi sấm pháp vang dội. Như hư không giới thanh tịnh, hiển hiện đủ các hìng tượng sao pháp môn. Như núi Tuyết chúa, tô điểm tướng tốt cho rừng cây. Như bốn sắc của núi Tu-di hiện khắp biển tâm của chúng sinh. Như đảo báu, bên trong chứa đầy các loại trí báu. Ở trước tòa của vua, còn có vô lượng vàng bạc, trân châu ma-ni, san hô, hổ phách, kha bối, ngọc bích; các châu báu này chất đống; lại có đủ loại y báu, tràng hoa, anh lạc cùng các thức ăn uống, tất cả nhiều vô số kể. Lại có trăm ngàn vạn ức xe báu tứ mã; trăm ngàn vạn ức các kỹ nhạc trời; trăm ngàn vạn ức loại hương thơm của cõi trời; trăm ngàn vạn ức phương thuốc để trị bệnh; vô số bò sữa sừng móng đều màu vàng; vô số trăm ức cô gái xinh đẹp, xoa thân bằng hương chiên-đàn, trang điểm bằng các loại anh lạc và mặc y phục của cõi trời, luyện tập thông hết sáu mươi bốn tài nghệ, mô phạm lễ nghi họ đều thông thạo, tùy theo nhu cầu của chúng sinh mà cung cấp. Bên ngã tư đường, xóm làng, thành ấp nối nhau dàn ra thẳng tắp; nhà phước nhà nghĩa đến hai mươi ức, bên trong trang trí đầy những vật trân bảo xinh đẹp và các thức ăn uống. Mỗi bên đường có hai mươi ức vị Đại Bồ-tát, đem các vật ấy ban phát cho chúng sinh để họ được đầy đủ; tất cả chỉ vì muốn thâu nhận các chúng sinh, muốn phát triển tâm kính mến của các chúng sinh, muốn phát triển tâm hoan hỷ của tất cả chúng sinh, muốn phát triển tâm phấn khởi của các chúng sinh, muốn làm thanh tịnh tâm chánh tín của các chúng sinh, muốn làm cho tâm của chúng sinh tươi mát, muốn làm cho chúng sinh dứt trừ lửa ái, muốn làm cho chúng sinh dứt phiền não, muốn giúp chúng sinh hiểu chân thật, muốn giúp chúng sinh thể nhập chủng trí, muốn giúp chúng sinh xả bỏ oán địch, muốn làm cho chúng sinh xa rời các điều ác, muốn làm cho chúng sinh nhổ bật tà kiến, muốn làm cho chúng sinh sạch các nghiệp.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân của vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho con.

Vua nói:

–Này thiện nam! Ta được môn giải thoát tịnh tu hạnh tràng đại Từ của Bồ-tát, thanh tịnh tuyệt đối.

Thiện nam! Ta ở nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức cho đến vô lượng vô lượng chỗ các Đức Phật; được gần gũi, lắng nghe, thỉnh vấn pháp này, rồi tùy thuận tư duy, quán sát kỹ, ngộ nhập thanh tịnh, tu tập trang nghiêm.

Thiện nam! Ta dùng pháp này để làm vua, dùng pháp này để truyền lệnh, dùng pháp này để tiếp nhận, dùng pháp này để theo sát thế gian, dùng pháp này để ban hành chánh hóa, dùng pháp này để điều phục chúng sinh, dùng pháp này để hướng dẫn chúng sinh, dùng pháp này để thương xót chúng sinh, dùng pháp này để an ủi chúng sinh, dùng pháp này để vận tải chúng sinh, dùng pháp này để làm cho chúng sinh ngộ nhập, dùng pháp này để giúp cho các chúng sinh tu hành, dùng pháp này để tạo phương tiện cho chúng sinh, dùng pháp này giúp cho các chúng sinh biết tư duy trọn vẹn về thật tánh của các pháp, dùng pháp này để giúp cho chúng sinh an trụ nơi đại Từ, lấy từ làm chủ, đầy đủ năng lực từ. Như thế-làm cho họ an trụ nơi tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm thương xót, tâm thâu nhận, tâm bảo hộ chúng sinh, tâm không xả ly, tâm nhổ bỏ nỗi khổ của chúng sinh không dừng nghỉ, tâm luôn thay thế sự thọ khổ cho các chúng sinh, tâm giúp chúng sinh trụ an lạc; giúp cho họ vứt bỏ mọi trói buộc trở ngại để được tự tại. Đối với chúng sinh được tự tại, làm cho họ được an lạc tuyệt đối, làm cho các chúng sinh dứt hẳn tâm sinh tử như cỏ mọc lan nhanh; làm cho chúng sinh cắt đứt tâm kết sử, như dòng sông nối nhau chảy mãi; làm cho chúng sinh cắt đứt tâm phiền não tập khí; làm cho chúng sinh an trụ nơi tâm vào pháp tánh tịch tĩnh; làm cho chúng sinh dứt hẳn tất cả pháp bất thiện; làm cho chúng sinh cắt đứt dòng sinh tử nhập vào dòng pháp; làm cho chúng sinh thâm nhập vào pháp giới tâm không thoái chuyển, dùng lửa trí tuệ thiêu củi phiền não; dứt hẳn đường sinh vào năm đường; đầy đủ hạnh Bồ-tát; tiến đến Nhất thiết trí, biển tâm thanh tịnh không bị vẩn đục; niềm tin kiên cố; tất cả chư Thiên, Ma vương, Phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn, người và phi nhân đều không thể nào làm lay động được.

Thiện nam! Ta an trụ nơi môn giải thoát hạnh tràng đại Từ như thế, có khả năng dùng chánh pháp giáo hóa thế gian.

Thiện nam! Tất cả chúng sinh trong nước; khi ở bên cạnh ta, họ đều không có lo sợ. Thiện nam! Những chúng sinh nào nghèo khổ, đói khát, rách rưới, ốm gầy, đi đến chỗ ta xin những thức ăn uống hoặc y phục; cho đến xin hết tất cả các vật dụng cần thiết, thì ta mở kho chứa, chỉ cho họ thấy và biết rõ. Rồi nói: Từ xưa đến nay, vì của báu này mà các ngươi tạo mười điều bất thiện và đủ các nghiệp ác. Do nghiệp này mà các ngươi phải chịu nghèo khổ, thiếu thốn, ăn mặc rách rưới. Hôm nay ta cung cấp cho tất cả, các ngươi hãy nhận theo sở thích của mình, đầy đủ rồi thì tùy theo sức của mình mà tu hành, không được tạo các điều ác, không hại chúng sinh, không sinh các kiến và không chấp trước. Các người nghèo thiếu, ai cần vật gì hãy đến chỗ ta hoặc nhà nghĩa, nhà phước hai mươi ức nơi, hoặc ở bốn mặt đường; tất cả của cải có đầy đủ các loại, cứ tự tiện, lấy đừng có nghi ngờ.

Thiện nam! Những chúng sinh sinh sống trong thành Diệu Quang này, đều là Bồ-tát phát tâm Đại thừa, thực hành hạnh Đại thừa, khởi tâm đại Bi đối với các chúng sinh, làm thanh tịnh khắp; do tâm mà ý muốn và kiến giải không đồng, hoặc thấy thành này diện tích nhỏ hẹp, hoặc thấy thành này diện tích rộng lớn, hoặc thấy thành này nền bằng đất cát, hoặc thấy thành này bằng lưu ly và các ma-ni báu; hoặc thấy tường vách xây bằng đất, hoặc bằng kim cương vô năng thắng; hoặc thấy đất nơi ấy cao thấp không bằng phẳng, hoặc thấy đất nơi ấy bằng phẳng như bàn tay; hoặc thấy phòng ốc tạo bằng đất, cây gỗ; hoặc thấy nhà cửa, chánh điện, cho đến những lầu các, thềm hiên cửa sổ, cửa chính tất cả đều báu đẹp.

Thiện nam! Chỉ trừ chúng sinh nào, có tâm thanh tịnh, đã từng trồng thiện căn, cúng dường chư Phật, phát tâm hướng đến đạo Nhất thiết trí, lấy Nhất thiết trí làm nơi quy y và thuở xưa, khi tu hạnh Bồtát đã từng đem bốn Nhiếp sự để thâu nhận; thì mới thấy thành này đầy đủ các báu thanh tịnh xinh đẹp; ngoài ra họ đều thấy uế trược.

Thiện nam! Vào thời năm uế trược, tất cả chúng sinh trong nước ta, do nơi nghiệp cũ còn khiến họ vui vẻ tạo các điều ác; ta đem tâm thương xót thâu nhận tâm họ và muốn cứu hộ giúp họ thể nhập môn đại Tam-muội Bồ-tát tùy thuận thế gian lấy đại Từ làm đầu.

Thiện nam! Khi ta thể nhập môn Tam-muội này, thì tất cả những tâm lo sợ, tâm làm hại, tâm thù oán và tâm tranh luận của các chúng sinh ấy, đều tự tiêu diệt. Vì sao? Vì nhập môn Tam-muội Bồ-tát tùy thuận thế gian lấy Đại từ làm đầu thì bản tánh và công năng của pháp nó như thế.

Thiện nam! Hãy chờ giây lát, ông sẽ được chứng minh điều đó.

Bấy giờ, vua Đại Quang liền nhập vào định này. Ngay Lúc ấy, trong và ngoài thành đều chấn động sáu cách như đất báu, tường báu, nhà báu, điện báu, đền đài, lầu các, thềm cấp, cửa nẻo… đều chạm vào nhau, phát tiếng và hướng về nhà vua có vẻ như cúi mình đảnh lễ và đồng phát ra âm thanh vi diệu, để khen ngợi công đức của vua. Đồng thời, tất cả dân chúng trong và ngoài thành ấy, đều hết sức vui mừng, phấn khởi, rồi cùng nhau đến chỗ vua, thành kính đảnh lễ. Các loài chim thú thân thuộc, ở gần vua, đều đua nhau chiêm ngưỡng, cùng phát tâm Từ bi, đồng đến trước nhà vua, cung kính và đảnh lễ. Tất cả núi non suối nguồn và các loài cây cỏ, đều xoay chuyển và cùng hướng về vua, tỏ dáng cung kính lễ bái. Ao, hồ, suối, giếng, cho đến sông biển, đều dâng trào những gợn sóng nước đến trước vua. Mười ngàn Long vương, nổi vầng mây hương lớn, điện chớp, sấm gầm, làm mưa rưới đầy nước hương. Lại có mười ngàn vị vua nơi sáu cõi trời thuộc Dục, đó là: Tứ Đại Thiên vương, vua trời Đao-lợi, vua trời Dạ-ma, vua trời Đâu-suất, vua trời Diệu biến hóa, vua trời Tha hóa tự tại. Những vị trời ấy, đều là hàng thượng thủ, đứng trên hư không, trổi các loại kỹ nhạc, vô số Thiên nữ ca vịnh khen ngợi, vô số mây hoa báu của cõi trời, vô số mây hương báu của cõi trời, vô số mây cờ báu của cõi trời, vô số mây hương bột của cõi trời, vô số mây y báu của cõi trời, vô số mây lọng báu của cõi trời, vô số mây vòng báu của cõi trời, vô số mây phướng báu của cõi trời, trang bị khắp trong hư không, để cúng dường đức vua ấy. Lại có voi chúa Y-la-bátna dùng sức tự tại của mình; trải vô số hoa sen báu lớn; treo vô số tràng anh lạc báu của cõi trời, vô số vải lụa báu, vô số vật trang sức báu, vô số y phục báu, vô số vòng báu, vô số hoa báu, vô số hương báu, vô số hương đốt, vô số hương xoa, đủ các loại kỳ diệu để trang sức; có vô số Thiên nữ cất giọng ca hay ca vịnh khen ngợi. Trong cõi Diêm-phù-đề, còn có vô số trăm ngàn vạn ức vua La-sát, vua Dạ-xoa, vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-xà và các quỷ vương; hoặc ở trên đất liền, hoặc ở trên hư không, hoặc đứng trên núi, hoặc ở trong biển cả. Tất cả đều là loài uống máu, ăn thịt, giết hại chúng sinh mà giờ đây đều phát tâm Từ, nguyện làm lợi ích, thắp sáng cho đời sau, không tạo các điều ác, chắp tay cung kính, đảnh lễ đức vua, thân tâm tịch tĩnh, dứt hết sợ hãi, họ đều được vô lượng sự an lạc rộng lớn. Như cõi Diêm-phù-đề, ngồi ba thiên hạ khác cho đến tất cả những chúng sinh độc ác có trong tam thiên đại thiên thế giới đến trăm ngàn vạn ức nado-tha thế giới ở mười phương cũng vậy đều làm như vậy. Tất cả đều nhờ vào năng lực của pháp môn Tam-muội Bồ-tát tùy thuận thế gian lấy đại Từ làm đầu này.

Lúc ấy, vua Đại Quang xuất định, bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta chỉ được môn giải thoát Tam-muội tùy thuận

thế gian bằng tràng hạnh đại Từ của Bồ-tát này. Còn như các Đại Bồtát có tâm Từ như lọng báu trên cao che khắp các chúng sinh, cứu hộ bình đẳng tuyệt đối không phân biệt, tu hành theo tất cả các hạnh thượng trung hạ là đại địa có công năng dùng tâm Từ duy trì tất cả chúng sinh; là ánh sáng phước đức như vầng trăng trong xuất hiện bình đẳng khắp các thế gian; là vầng mặt trời trong, dùng ánh sáng trí chiếu khắp tất cả những cảnh giới đã biết, là ngọn đèn sáng thế gian, có công năng phá tan những tối tăm của chúng sinh; là châu thủy tịnh có công năng lọc sạch uế trược, nịnh hót, lừa dối của chúng sinh; là châu như ý có công năng làm thỏa mãn những nhu cầu của chúng sinh; là ngọn gió mạnh có công năng bảo trì chúng sinh; là cung điện Tammuội và thành trì đại pháp trí Nhất thiết trí. Nhưng ta làm sao có thể biết hạnh của các vị ấy, nói hết công đức của các vị ấy, đo lường núi lớn phước đức của các vị ấy, chiêm ngưỡng những vì sao công đức của các vị ấy, quán sát những đại nguyện như gió xoáy của các vị ấy, so sánh năng lực pháp bình đẳng của các vị ấy, làm bộc phát đại tâm tu hành của các vị ấy, biểu hiện biển đại trang nghiêm của các vị ấy, xiển dương môn hạnh Phổ hiền của các vị ấy, đi sâu vào các hang động Tam-muội của các vị ấy, khen ngợi mây đại Từ bi của các vị ấy, giăng mưa pháp cam lồ của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này có một kinh đô, tên là An trụ, có vị Ưu-ba-di, tên là Bất Động. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Đồng tử Thiện Tài nghe xong đảnh lễ sát chân đức vua, đi nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến rồi từ giã ra đi.

Khi ra khỏi thành Diệu quang, đang đi trên đường, đồng tử bắt đầu chánh niệm, tư duy lại lời dạy của vua Đại Quang, nhớ lại hạnh tràng đại Từ của Bồ-tát, tư duy Tam-muội tùy thuận thế gian của Bồ-tát, thấy thân Bồ-tát thanh tịnh bất tư nghì của vị ấy khắp nơi, nhớ toàn bộ tòa Sư tử báu đẹp bất tư nghì của vị ấy, nhớ sự tăng trưởng năng lực tự tại từ phước đức đại nguyện bất tư nghì của vị ấy, nhớ sự kiên cố trí thành thục chúng sinh bất tư nghì của vị ấy, quán sát đại oai đức không cùng thọ dụng bất tư nghì của vị ấy, ghi nhớ tướng thần thông khác nhau bất tư nghì của vị ấy, tư duy về đại chúng hội thanh tịnh bất tư nghì của vị ấy, phân biệt sự tạo nghiệp của Bồ-tát bất tư nghì của vị ấy; ghi nhớ mạch lạc, tin hiểu tuần tự rồi phát sinh tâm hoan hỷ, tâm trừng tịnh, tâm lanh lợi, tâm khoan khoái, tâm vui mừng, tâm phấn khởi, tâm không loạn, tâm sáng tỏ, tâm kiên cố, tâm rộng rãi, tâm vô tận. Tư duy như vậy rồi, Thiện Tài ngậm ngùi rơi lệ. Ông lại nghĩ: Bậc Thiện tri thức thật là hy hữu, khó gặp, khó được nghe. Bậc Thiện tri thức chính là núi báu của ta, phát sinh ra tất cả các công đức báu, có công năng làm thanh tịnh khắp các hạnh Bồ-tát, viên mãn tất cả tịnh niệm của Bồ-tát, làm thanh tịnh sự xoay chuyển Đà-la-ni của Bồ-tát, làm bộc phát ánh sáng Tam-muội của Bồ-tát, tu tập để thấy cảnh giới Phật của Bồ-tát, làm mưa khắp tất cả bằng những trận mưa pháp của chư Phật, hiển hiện trí bất tư nghì của Như Lai, biểu hiện rõ tất cả môn nguyện của Bồtát, làm sinh trưởng tất cả mầm non của Bồ-tát. Đồng tử nghĩ tiếp: Bậc Thiện tri thức, có khả năng cứu hộ ta, giúp ta không bị đọa vào các nẻo ác. Bậc Thiện tri thức, có khả năng hướng dẫn ta, giúp ta được nhập vào Phật tuệ bình đẳng. Bậc Thiện tri thức, có khả năng chiếu sáng ta, giúp ta biết rõ những con đường nguy hiểm. Bậc Thiện tri thức, có khả năng khai thị ta, giúp ta hiểu rõ nghĩa sâu xa của Đại thừa. Bậc Thiện tri thức, có khả năng khuyến phát ta, giúp ta nhanh chóng nhập vào các hạnh của Phổ Hiền. Bậc Thiện tri thức, có khả năng làm cho ta tỏ ngộ giúp ta nhanh chóng đến thành Nhất thiết trí. Bậc Thiện tri thức, có khả năng dạy bảo ta, giúp ta thể nhập vào biển cả pháp giới. Bậc Thiện tri thức có khả năng khuyên nhủ ta, giúp ta thấy được biển pháp trong ba đời. Bậc Thiện tri thức có khả năng truyền dạy ta, giúp ta được cùng thánh chúng hội họp. Bậc Thiện tri thức có khả năng làm cho ta phát triển, giúp ta phát sinh tất cả pháp trắng; nghĩ đến Thiện tri thức là biết dùng khả năng làm lợi ích cho chúng sinh.

Đồng tử Thiện Tài suy nghĩ như vậy, nước mắt rưng rưng. Đức Như Lai sai vị thiên ở trên hư không. Vị này thường bảo hộ cho Bồ-tát giác ngộ, theo Bồ-tát như bóng với hình và nói với đồng tử:

–Này thiện nam! Người nào vâng theo lời dạy của Thiện tri thức thì các Đức Phật Thế Tôn đều hoan hỷ. Người nào vâng theo lời nói của Thiện tri thức, tức là được gần nơi quả vị Nhất thiết trí. Người nào đối với công hạnh của Thiện tri thức, mà tâm không nghi hoặc, thì thường được gặp tất cả thiện hữu. Người nào phát nguyện luôn luôn gần gũi bậc Thiện tri thức thì được đầy đủ tất cả các lợi ích của nghĩa tối thắng sâu xa.

Thiện nam! Ông đến kinh đô An trụ, thì sẽ được gặp đại Thiện tri thức Ưu-bà-di Bất Động và thỉnh vấn vị ấy về các hạnh của Bồtát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài xuất định ánh sáng trí, thong thả du hành đến thành An trụ hỏi thăm khắp nơi: Ưu-bà-di Bất Động hiện giờ ở đâu? Gặp mọi người, họ đều chỉ: Thiện nam, Ưu-bà-di Bất Động là một cô gái, ở nhà hầu cận cha mẹ, diễn thuyết diệu pháp cho quyến thuộc và vô lượng người ở chung quanh.

Thiện Tài nghe rồi, từ tâm hoan hỷ, đạt tâm vắng lặng, sinh tâm kính mến như được gặp cha mẹ. Hôm nay ta sẽ được toại nguyện, rồi ông liền đến chỗ Ưu-bà-di Bất Động. Đến cửa nhà vị ấy, đồng tử đứng quán sát, rồi bước vào bên trong, thấy mái hiên nhà cô ấy, trang sức bằng các báu sạch đẹp, ánh sáng màu hoàng kim tỏa khắp nơi. Khi ánh sáng ấy chạm đến thân Thiện Tài, ngài liền đạt được năm trăm môn Tam-muội vi diệu. Đó là: Môn Tam-muội tràng thể nhập tất cả sự an lạc tự tại; môn Tam-muội liễu đạt tất cả tướng tịch tĩnh; môn Tam-muội xa lìa tất cả thế gian; môn Tam-muội phổ nhãn xả đắc và môn Tam-muội Như Lai tạng. Đồng tử đạt được năm trăm môn Tam-muội như vậy; được môn Tam-muội như thế rồi, thân tâm nhẹ nhàng như bào thai bảy, ngày khinh an tuyệt diệu, ở đời không gì bằng; lại còn ngửi được mùi hương thơm mà chư Thiên, Rồng, Càn-thát-bà người và phi nhân không thể có được. Đồng tử liền tiến lên phía trước, chắp tay cung kính; nhiếp tâm quán sát, trông thấy hình sắc vị ấy đoan trang xinh đẹp, tất cả người nữ khắp thế giới nơi mười phương không thể sánh kịp; huống gì có người hơn, chỉ trừ Đức Như Lai và những vị Bồ-tát quán đỉnh. Thân vị ấy thù thắng, miệng thoảng hương thơm, cung điện tráng lệ, của cải tài sản, quyến thuộc vây quanh, ánh sáng rực rỡ, thanh tịnh không bị vẩn đục, tất cả đều không ai sánh bằng huống gì có người hơn. Tất cả chúng sinh khắp thế giới trong mười phương đều say đắm vị Ưu-bàdi này. Chúng sinh nào thoáng được chiêm ngưỡng vị ấy thì tất cả phiền não đều tự tiêu diệt. Ví như trăm vạn vua trời Đại Phạm quyết định không sinh phiền não ở cõi Dục. Người nào gặp vị Ưu-bà-di này cũng thế. Chúng sinh ở khắp mười phương, nhìn cô gái này, ai nấy đều vui vẻ kính mến tâm không thấy nhàm chán, ngoại trừ bậc có đầy đủ đại trí tuệ.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài chắp tay, cúi mình, chiêm ngưỡng, cung kính, quán sát bằng chánh niệm, thấy thân của cô gái ấy tự tại chẳng thể nghĩ bàn; dung nhan sắc tướng, thế gian không ai bằng; ánh sáng rực rỡ không gì làm chướng ngại, làm lợi ích lớn cho các chúng sinh trong pháp giới không cùng tận. Các lỗ chân lông trên thân vị ấy, thường tỏa hương thơm. Cung điện thượng hạng, quyến thuộc vô biên, công đức sâu rộng bất tư nghì không thể nào biết hết bến bờ của nó.

Thấy rồi, đồng tử hoan hỷ nói kệ khen ngợi:

Thánh giả thường hộ trì giới thanh tịnh

Tu trọn nhẫn vô cấu Bồ-tát Vững tiến bất động như kim cương Diệu quả tuyệt thế không gì sánh.

Nói kệ rồi, Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin đem lòng từ chỉ dạy cho con.

Bấy giờ, Ưu-bà-di Bất Động đem lời từ hòa, lời đáng yêu và lời từ bi của Bồ-tát an ủi Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Thiện nam! Ta được môn giải thoát tạng trí tuệ khó bẽ gãy của Bồ-tát, môn thọ trì hạnh nguyện kiên cố của Bồ-tát, môn Tổng trì địa, tất cả pháp bình đẳng của Bồ-tát, môn biện tài ánh sáng trí chiếu khắp tất cả pháp của Bồ-tát, môn Tam-muội trang nghiêm cầu tất cả pháp, tâm không mệt mỏi của Bồ-tát.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn giải thoát tạng trí tuệ khó

khuất phục của Bồ-tát cho môn Tam-muội trang nghiêm cầu pháp tâm không mỏi mệt ấy là thế nào?

Đáp:

–Thiện nam! Cảnh giới ấy sâu xa khó tin hiểu.

Thiện Tài thưa:

–Cúi xin Thánh giả, nương thần lực của Đức Phật, thuyết giảng cho con, con nhờ năng lực là Thiện tri thức của ngài mà có khả năng tin, có khả năng tiếp nhận, có khả năng hiểu, có khả năng biết, có khả năng thấu hiểu, có khả năng hành theo, quán sát rõ ràng, ghi nhớ và tu tập, bình đẳng tuyệt đối, dứt hẳn phân biệt.

 

Xin xem tiếp trang 4

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8