LUẬN CHỨNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 1: NĂM PHÁP

Hỏi: Năm pháp gì?

Đáp: Là sắc, tâm và tâm pháp, tâm bất tương hành, vô vi.

Hỏi: Sắc là gì?

Đáp: Là bốn đại và bốn đại tạo sắc.

Thế nào là bốn đại? Là địa, thủy, hỏa, phong giới.

Thế nào là tạo sắc? Là nhãn-nhĩ-tỷ-thiệt-thân căn, sắc-thanh- hương-vị-xúc, nhập phần ít và sắc vô tác, gọi là sắc pháp.

Hỏi: Tâm là gì?

Đáp: Là ý và sáu thức.

Thế nào là sáu thức? Là nhãn thức-nhĩ-tỷ-thiệt-thân-ý thức. Đó gọi là tâm pháp.

Hỏi: Tâm pháp là sao? Nghĩa là tâm tương ưng như pháp. Tức là thọ, tưởng, tư, xúc, ức, dục, giải thoát, niệm, định, tuệ, tín, tinh tiến, giác quán, phóng dật, bất phóng dật, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, hết thảy kiết, phược, sử, phiền não, thượng phiền não, triền, hoặc trí, hoặc kiến, hoặc vô gián v.v… Những thứ này và các tâm khác tương ưng nhau cùng khởi lên thì gọi là pháp của tâm pháp.

Hỏi: Tâm bất tương ưng hành là gì?

Đáp: Nghĩa là pháp không tương ưng với tâm, là những định vô tưởng, định diệt tận, Vô tưởng thiên, mạng căn, chủng loại, xứ đắc, sự đắc, nhập đắc, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, vị thân (danh từ, câu văn, ý nghĩa văn), những thứ đó và những loại khác không cùng tâm tương ưng, cùng khởi lên, gọi là tâm bất tương ưng hành pháp.

Hỏi: Vô vi là gì?

Đáp: Gồm ba thứ: Hư không, số diệt, phi số diệt, gọi là pháp vô vi.

Địa giới là gì? Là cứng chắc.

Thủy giới là gì? Là thấm ướt.

Hỏa giới là gì? Là ấm nóng.

Phong giới là gì? Là sự phiêu động.

Thế nào là nhãn căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho nhãn thức.

Thế nào là nhĩ căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho nhĩ thức.

Thế nào là tỷ căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho tỷ thức.

Thế nào là thiệt căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho thiệt thức.

Thế nào là thân căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho thân thức.

Thế nào là sắc? Là sắc có xấu có tốt, có trung gian, mà hai thức kia biết được, trước là cái biết của mắt (nhãn thức), sau là cái biết của ý (ý thức). Đó gọi là sắc.

Thế nào là thanh? Thanh có hai thứ: Là tiếng khởi lên nhờ bốn đại, và tiếng khởi lên không nhờ bốn đại, để cho hai thức kia nhận biết, trước là tai biết (nhĩ thức), sau là ý biết (ý thức). Đó gọi là thanh.

Thế nào là hương? Gọi là hương thì có mùi thơm, mùi thối, mùi trung gian, để hai thức kia nhận biết, trước là mũi biết (tỷ thức), sau là ý biết (ý thức). Đó gọi là hương.

Thế nào là vị? Vị có vừa ý, không vừa ý, có trung gian, để hai thức kia nhận biết, trước là lưỡi biết (thiệt thức), sau là ý biết (ý thức). Đó gọi là vị.

Thế nào là xúc nhập phần ít? Là nhám, trơn, nhẹ, nặng, lạnh nóng, đói khát mà hai thức kia nhận biết, trước là thân biết (thân thức), sau là ý biết (ý thức). Đó là xúc nhập phần ít.

Thế nào là sắc vô tác? Là sắc thuộc đối tượng nhập của pháp, chỉ có một thức nhận biết là ý thức, đó gọi là sắc vô tác.

Thế nào là nhãn thức? Là dựa vào nhãn căn để hoạt động đối với sắc.

Thế nào nhĩ thức? Là dựa vào nhĩ căn mà hoạt động đối với tiếng.

Thế nào là tỷ thức? Là dựa vào tỷ căn mà hoạt động đối với mùi.

Thế nào là thiệt thức? Là dựa vào thiệt căn mà hoạt động đối với vị.

Thế nào thân thức? Là dựa vào thân căn mà hoạt động đối với xúc chạm.

Thế nào là ý thức? Là dựa vào ý căn mà hoạt động đối với mọi pháp.

Thế nào là thọ? Có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ và bất khổ bất lạc thọ (cảm nhận không khổ không vui).

Thế nào là tưởng? Có ba tưởng: Tưởng ít, tưởng nhiều, tưởng vô lượng.

Thế nào là tư? Tâm sở tạo tác, có ba thứ nghiệp sinh là nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, nghiệp vô ký.

Thế nào là xúc? Là ba việc hòa hợp phát sinh ba thứ xúc: Xúc khổ, xúc vui, xúc không khổ không vui.

Thế nào là ức? Là tâm phát ra tỏ ngộ, có ba thứ: Học, vô học, không phải học không phải vô học.

Thế nào là dục? Là tâm muốn làm.

Thế nào là giải thoát? Là tâm đã mở ra, hiện đang mở ra, sẽ mở ra.

Thế nào là niệm? Là tâm không quên.

Thế nào là định? Là nhất tâm.

Thế nào là tuệ? Là quyết đoán đối với mọi pháp.

Thế nào là tín? Là tâm trong sạch.

Thế nào là tinh tiến? Là tâm có thể tạo được dũng mãnh.

Thế nào là giác? Là tâm thô.

Thế nào là quán? Là tâm vi tế.

Thế nào là phóng dật? Là không tu pháp thiện.

Thế nào là không phóng dật? Là tu pháp thiện.

Thế nào là căn thiện? Có ba căn thiện: Không tham, không giận dữ, không ngu si.

Thế nào là căn bất thiện? Có ba căn bất thiện: Tham, sân, si.

Thế nào là căn vô ký? Có bốn căn vô ký: Vô ký về ái, vô ký về kiến, vô ký về mạn, vô ký về vô minh.

Thế nào là kiết? Có chín kiết (trói buộc) là kiết ái (sự trói buộc của ái), kiết sân (sự trói buộc của giận dữ), kiết mạn (sự trói buộc của kiêu mạn), kiết vô minh, kiết kiến (sự trói buộc của kiến chấp), kiết tha thủ (sự trói buộc do chấp theo kẻ khác), kiết nghi, kiết tật (ganh ghét), kiết xan (bỏn sẻn).

Kiết ái là gì? Là tham nơi ba cõi.

Kiết sân là gì? Là đi ngược lại với chúng sinh.

Kiết mạn là gì? Có bảy thứ mạn là: Mạn, tăng mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, bất như mạn, tà mạn.

Thế nào là mạn? Là đối với kẻ thua cho mình là hơn. Đối với kẻ hơn mình thì cho là bằng, từ đó khởi tâm coi thường, cho mình là cao hơn, giỏi hơn. Đó gọi là mạn.

Thế nào là tăng mạn? Đối với chỗ ngang hàng thì cho mình cao hơn, đối với bậc cao hơn thì cho mình ngang bằng, do đó dấy tâm khinh người, cho mình cao hơn giỏi hơn. Đó gọi là tăng mạn.

Thế nào là mạn mạn? Là đối với kẻ cao hơn cho mình cao hơn nữa, từ đó khởi tâm khinh thường cho mình cao hơn giỏi hơn. Đó gọi là mạn mạn.

Thế nào là ngã mạn? Đối với thân năm ấm này, chấp rằng có ta, có cái của ta (ngã sở), từ đó khởi tâm khinh kẻ khác, cho mình tài giỏi. Đó gọi là ngã mạn.

Thế nào là tăng thượng mạn? Pháp thù thắng chưa được cho là mình đã được, chưa tới cho là đã tới, chưa tiếp xúc cho là đã tiếp xúc, chưa chứng cho là đã chứng, từ đó sinh tâm khinh thường, cho mình là cao, giỏi. Đó gọi là tăng thượng mạn.

Thế nào là bất như mạn? Đối với người cao tột kia, cho là tầm thường không bằng mình, từ đó khởi tâm xem thường, tự cho mình là cao, giỏi. Đó gọi là bất như mạn.

Thế nào là tà mạn? Không có đức hạnh cho là có đức hạnh, từ đó khinh chê kẻ khác, cho mình là cao, giỏi. Đó gọi là tà mạn.

Bảy thứ mạn như thế gọi là sự trói buộc của mạn (kiết mạn).

Kiết vô minh là gì? Là không hiểu biết về ba cõi.

Kiết kiến là gì? Có ba thứ kiến chấp là: Thân kiến, biên kiến và tà kiến. Thế nào là thân kiến? Là đối với thân năm ấm này, thấy có ta, cái của ta, từ đó khởi lên dục, khởi lên nhận lấy, kiến chấp. Thế nào là biên kiến? Là nơi thân năm thọ ấm, hoặc là chấp thường, hoặc chấp đoạn, từ đó khởi lên ham muốn, nhận lấy và chấp giữ. Thế nào là tà kiến? Là hủy báng nhân quả, từ đó khởi lên ham muốn, nhận lấy, chấp giữ. Ba thứ kiến chấp như thế gọi là kiết kiến (sự trói buộc của kiến chấp).

Thế nào là kiết tha thủ? Có hai kiến chấp: Kiến thủ, giới thủ. Thế nào là kiến thủ? Là trong thân năm ấm này thấy hắng diệu bậc nhất, từ đó khởi lên ham muốn, nhận lấy, bám giữ. Thế nào là giới thủ? Là trong thân năm ấm này cho là thanh tịnh, giải thoát, xuất ly. Từ đó khởi lên ham muốn, nhận lấy, bám giữ.

Thế nào là kiết nghi? Là mê mờ về chân lý (đế).

Thế nào là kiết tật? Là tâm giận thêm lên, rộng ra.

Thế nào là kiết xan? Là tâm bám chắc, bủn xỉn.

Thế nào là phược? Là kiết tức là trói buộc. Lại có ba thứ phược (trói buộc) là trói buộc của tham dục, trói buộc của giận dữ, trói buộc của ngu si.

Thế nào là sử? Có bảy sử là tham dục sử (sự sai khiến của tham dục), sân nhuế sử, hữu ái sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử.

Thế nào là tham dục sử? Có năm thứ: Là tham thuộc cõi Dục, được đoạn trừ, do thấy khổ. Là tham thuộc cõi Dục, được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo, tu đạo. Năm thứ như thế gọi là tham dục sử.

Thế nào là sân nhuế sử? Có năm thứ: Giận dữ thuộc cõi Dục được đoạn trừ do thấy khổ. Giận dữ thuộc cõi Dục được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo, tu đạo. Năm thứ như thế gọi là sân nhuế sử.

Thế nào là hữu ái sử? Có mười thứ: Năm thứ thuộc cõi Sắc, năm thứ thuộc cõi Vô sắc. Năm thứ thuộc cõi Sắc là gì? Là ái thuộc cõi Sắc được đoạn trừ do thấy khổ. Là ái thuộc cõi Sắc được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo, tu đạo. Như năm thứ ở cõi Sắc, năm thứ thuộc cõi Vô sắc cũng vậy. Mười thứ như thế gọi là hữu ái sử.

Thế nào là mạn sử? Có mười lăm thứ: Cõi Dục có năm, cõi Sắc có năm, cõi Vô sắc có năm. Năm thứ thuộc cõi Dục là mạn được đoạn trừ do thấy khổ, thuộc cõi Dục. Mạn được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo, tu đạo, thuộc cõi Dục. Như năm thứ của cõi Dục, năm thứ ở cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng vậy.

Thế nào là vô minh sử? Có mười lăm thứ: Cõi Dục có năm, cõi Sắc có năm, cõi Vô sắc có năm. Năm thứ thuộc cõi Dục là gì? Là vô minh được đoạn trừ do thấy khổ thuộc cõi Dục. Là vô minh được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo, tu đạo thuộc cõi Dục. Hai cõi Sắc và cõi Vô sắc, năm thứ cũng như năm thứ ở cõi Dục.

Thế nào là kiến sử? Có ba mươi sáu thứ, cõi Dục có mười hai, cõi Sắc có mười hai, cõi Vô sắc có mười hai. Mười hai thứ thuộc cõi Dục là gì? Là những thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ được đoạn trừ do thấy khổ thuộc cõi Dục. Là tà kiến, kiến thủ được đoạn trừ do thấy tập thuộc cõi Dục. Là tà kiến, kiến thủ được đoạn trừ do thấy diệt thuộc cõi Dục. Là tà kiến, kiến thủ, giới thủ được đoạn trừ do thấy đạo thuộc cõi Dục. Như cõi Dục với mười hai thứ; cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.

Thế nào là nghi sử? Có mười hai thứ: cõi Dục có bốn, cõi Sắc có bốn, cõi Vô sắc có bốn. Bốn thứ thuộc cõi Dục là gì? Là nghi được đoạn trừ do thấy khổ thuộc cõi Dục, nghi được đoạn trừ do thấy tập, diệt, đạo thuộc cõi Dục. Bốn thứ của cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.

Thế nào là phiền não trên phiền não? Gọi phiền não tức là thượng phiền não, lại có thượng phiền não không phải là phiền não, tức là dứt trừ phiền não. Như mọi thứ cấu nhiễm khác nơi hành ấm.

Thế nào là triền? Có tám triền là ham ngủ, ngủ say, chao động, ăn năn, keo kiệt, ganh ghét, không hổ, không thẹn. (Mười triền thì thêm hai thứ nữa là giận dữ, che giấu).

Thế nào là trí? Có mười trí là: Pháp trí, tỷ trí, tri tha tâm trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sinh trí.

Thế nào là pháp trí? Là trí vô lậu biết hành khổ của cõi Dục. Là trí vô lậu biết nhân của hành thuộc cõi Dục. Là trí vô lậu biết chỗ diệt của hành thuộc cõi Dục. Là trí vô lậu biết cách đoạn trừ con đường của hành nơi cõi Dục. Lại nữa, pháp trí cũng duyên nơi trí vô lậu thuộc cảnh giới của pháp trí. Đó gọi là pháp trí.

Thế nào là tỷ trí? Là trí vô lậu biết hành khổ thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc. Trí vô lậu biết nhân của hành thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc. Trí vô lậu biết chỗ diệt của hành thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc. Trí vô lậu biết cách đoạn trừ con đường của hành thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc. Lại nữa, tỷ trí cũng duyên vào trí vô lậu thuộc cảnh giới của tỷ trí.

Thế nào là tri tha tâm trí (trí biết tâm kẻ khác)? Là như trí tu, quả tu đạt được không mất, tức là có khả năng biết được tâm và tâm pháp hiện tại của các chúng sinh khác trong cõi Dục, cõi Sắc, cũng biết tâm và tâm pháp vô lậu.

Thế nào là đẳng trí? Là tuệ hữu lậu.

Thế nào là khổ trí? Là trí vô lậu, suy nghiệm biết thân của năm ấm này là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Thế nào là tập trí? Là trí vô lậu, suy nghiệm biết nhân của hữu lậu, nhân nơi tập mà có duyên.

Thế nào là diệt trí? Là trí vô lậu, suy nghiệm biết sự diệt, ngưng dứt là một xa lìa vi diệu.

Thế nào là đạo trí? Là trí vô lậu, suy nghiệm biết về đạo như lần theo dấu vết xe.

Thế nào là tận trí? Nghĩa là ta đã biết khổ, ta đã đoạn trừ tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo. Đối với những sự việc đó, trí khởi lên sự thấy biết sáng tỏ với tuệ minh giác không gián đoạn.

Thế nào là vô sinh trí? Là ta đã biết khổ, không còn biết khổ nào nữa. Ta đã đoạn trừ tập, không còn gì phải đoạn trừ. Ta đã chứng diệt, không còn chứng cái gì khác. Ta đã tu đạo, không phải tu gì khác. Đối với các đề mục đó, khởi lên sự thấy biết sáng tỏ với tuệ minh giác không gián đoạn.

Lại nữa: Dục lậu của ta đã hết sạch, gọi là tận trí. Không còn sinh trở lại, gọi là vô sinh trí. Hữu lậu, vô minh lậu trong ta đã hết sạch, gọi là tận trí. Không còn sinh trở lại, gọi là vô sinh trí.

Thế nào là kiến? Nghĩa là trí tức là kiến. Hoặc có kiến không phải là trí. Đó là tám nhẫn vô gián là: khổ pháp nhẫn, khổ tỷ nhẫn, tập pháp nhẫn, tập tỷ nhẫn, diệt pháp nhẫn, diệt tỷ nhẫn, đạo pháp nhẫn, đạo tỷ nhẫn. Đó gọi là kiến. Hoặc trí hoặc kiến tức là vô gián v.v…

Thế nào là đắc? Là đắc pháp.

Thế nào là định vô tưởng? Là cõi Biến tịnh thiên lìa dục, nơi địa trên chưa lìa dục, tạo ra tưởng cốt yếu nhằm ra khỏi ba cõi, trước phải suy nghĩ về phương tiện, tâm và tâm pháp diệt. Đó gọi là định vô tưởng.

Thế nào là định diệt tận? Là Vô sở hữu xứ lìa dục, nơi địa trên chưa lìa dục, tạo ra tưởng ngừng dứt là phương tiện trước hết, tâm và tâm pháp vắng bặt. Đó gọi là định diệt tận.

Thế nào là Vô tưởng thiên? Là chúng sinh sinh lên cõi trời Vô tưởng, tâm và tâm pháp diệt. Đó gọi là Vô tưởng thiên (cõi trời Vô tưởng).

Thế nào là mạng căn? Là thọ mạng trong ba cõi.

Thế nào là chủng loại? Là chủng loại chúng sinh.

Thế nào là xứ đắc? Là được phương, xứ.

Thế nào là sự đắc? Là được thân này.

Thế nào là nhập đắc? Là được các nhập cả trong lẫn ngoài.

Thế nào là sinh? Là ấm chuyển đổi.

Thế nào là già? Là ấm thành thục.

Thế nào là trụ? Là hành khởi, chưa hoại.

Thế nào là vô thường? Là hành khởi đi vào hoại diệt.

Thế nào là danh thân? Là trở thành lời nói (tăng ngữ).

Thế nào là cú thân? Là đầy đủ văn tự.

Thế nào là vị thân? Là ý nghĩa nơi chữ khi nói.

Thế nào là hư không? Là trống không rỗng lặng không bao giờ đầy, dung nạp mọi sắc, tới lui không trở ngại.

Thế nào là số diệt? Là giải thoát.

Thế nào là phi số diệt? Là phi giải thoát.