LUẬN CHỨNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 4: PHÂN BIỆT BẢY SỰ

Mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm, năm thạnh ấm, sáu giới, mười pháp đại địa, mười pháp phiền não đại địa, mười pháp tiểu phiền não đại địa, năm phiền não, năm xúc, năm kiến, năm căn, năm pháp, sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân, sáu ái thân…

Mười tám giới là gì? Là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Thân giới, xúc giới, thân thức giới. Ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Thế nào là mười hai nhập? Là: Nhãn nhập, sắc nhập. Nhĩ nhập, thanh nhập. Tỷ nhập, hương nhập. Thiệt nhập, vị nhập. Thân nhập, xúc nhập. Ý nhập, pháp nhập.

Thế nào là năm ấm? Là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm.

Thế nào là năm thạnh ấm? Là sắc thạnh ấm, thọ thạnh ấm, tưởng thạnh ấm, hành thạnh ấm, thức thạnh ấm.

Thế nào là sáu giới? Là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, thức giới.

Mười pháp đại địa là gì? Là thọ, tưởng, tư, xúc, ức, dục, thắng giải, niệm, định, tuệ.

Mười pháp phiền não đại địa là gì? Là bất tín, giải đãi, vọng niệm, loạn, vô minh, tà tuệ, tà ức, tà giải thoát, trạo, phóng dật.

Mười pháp tiểu phiền não đại địa là gì? Là phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, kiêu, hại.

Năm phiền não là gì? Là dục tham, sắc tham, vô sắc tham, sân khuể, si.

Năm xúc là gì? Là đối xúc, tăng thượng ngữ xúc, minh xúc, vô minh xúc, phi minh phi vô minh xúc.

Năm kiến là gì? Là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ.

Năm căn là gì? Là lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.

Năm pháp là gì? Là giác, quán, thức, vô tàm, vô quý.

Sáu thức thân là gì? Là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Sáu xúc thân là gì? Là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc.

Sáu thọ thân là gì? Là thọ phát sinh do nhãn xúc. Thọ phát sinh do nhĩ xúc. Thọ phát sinh do tỷ xúc. Thọ phát sinh do thiệt xúc. Thọ phát sinh do thân xúc. Thọ phát sinh do ý xúc.

Sáu tưởng thân là gì? Là tưởng do nhãn xúc sinh. Tưởng do nhĩ xúc sinh. Tưởng do tỷ xúc sinh, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc sinh.

Sáu tư thân là gì? Là tư phát sinh do nhãn xúc, tư phát sinh do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Sáu ái thân là gì? Là ái phát sinh do nhãn xúc, ái phát sinh do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Nhãn giới là gì? Là như mắt đối với sắc, đã thấy, đang thấy, sẽ thấy. Tùy nơi sắc mà mỗi mỗi đều có phần. Sắc giới là gì? Là như sắc đối với mắt đã thấy, đang thấy, sẽ thấy. Mỗi thứ theo nhau đều có phần. Nhãn thức giới là gì? Là như mắt thấy sắc khởi lên sự hiểu biết của mắt (Nhãn thức). Mắt là yếu tố tăng thượng thấy sắc. Như nhãn thức đối với sắc, hoặc thức phân biệt biết sắc. Đó gọi là Nhãn thức giới.

Nhĩ giới là gì? Như tai đối với tiếng, đã nghe, đang nghe, sẽ nghe. Tùy theo âm thanh mà mỗi mỗi đều có phần. Thanh giới là gì? Như tiếng đối với tai, đã nghe, đang nghe, sẽ nghe. Tùy theo âm thanh mà có phần. Nhĩ thức giới là gì? Như tai nghe tiếng khởi lên cái biết của tai (Nhĩ thức). Tai là yếu tố tăng thượng để nghe tiếng. Hoặc nhĩ thức đối với tiếng, hoặc thức phân biệt biết tiếng. Đó gọi là Nhĩ thức giới.

Tỷ giới là gì? Như mũi đối với mùi hương đã biết, đang biết, sẽ biết. Tùy theo hương mà mỗi mỗi đều có phần. Hương giới là gì? Như hương đối với mũi đã biết, đang biết, sẽ biết, tùy theo hương mà có phần. Tỷ thức giới là gì? Như mũi biết mùi hương khởi lên cái biết của mũi (Tỷ thức). Mũi là yếu tố tăng thượng biết hương. Như tỷ thức đối với hương, hoặc thức phân biệt biết hương. Đó gọi là Tỷ thức giới.

Thiệt giới là gì? Như lưỡi đối với vị, đã nếm, đang nếm, sẽ nếm. Tùy theo vị mà mỗi mỗi đều có phần. Vị giới là gì? Như vị đối với lưỡi đã nếm, đang nếm, sẽ nếm, tùy theo vị mà đều có phần. Thiệt thức giới là gì? Như lưỡi nếm vị khởi lên cái biết của lưỡi (Thiệt thức). Lưỡi là yếu tố tăng thượng để nếm vị. Như thiệt thức đối với vị, hoặc thức phân biệt để biết vị. Đó gọi là Thiệt thức giới.

Thân giới là gì? Như thân đối với xúc chạm, đã xúc chạm, đang xúc chạm, sẽ xúc chạm. Tùy theo xúc chạm mà mỗi mỗi đều có phần. Xúc giới là gì? Như xúc đối với thân, đã cảm giác, đang cảm giác, sẽ cảm giác, tùy theo xúc chạm mà có phần. Thân thức giới là gì? Như thân xúc chạm khởi lên cái biết của thân (Thân thức). Thân là yếu tố tăng thượng để biết xúc. Như thân thức đối với xúc, hoặc thức phân biệt để nhận biết xúc. Đó gọi là Thân thức giới.

Ý giới là gì? Như ý đối với pháp, đã biết, đang biết, sẽ biết. Tùy theo pháp mà mỗi mỗi đều có phần. Pháp giới là gì? Như pháp đối với ý, đã biết, đang biết, sẽ biết, tùy theo pháp mà có phần. Ý thức giới là gì? Như ý duyên nơi pháp khởi lên cái biết của ý (Ý thức). Ý là tăng thượng duyên nơi pháp. Hoặc ý thức đối với pháp, hoặc thức phân biệt nhận biết pháp. Đó gọi là Ý thức giới.

Nhãn nhập cho đến pháp nhập, nói rộng cũng như vậy.

Sắc ấm là gì? Là mười thứ sắc nhập và sắc được thâu nhiếp do pháp nhập.

Thế nào là thọ ấm? Là sáu thọ thân. Sáu thứ là những gì? Là thọ phát sinh do nhãn xúc, cho đến thọ phát sinh do ý xúc.

Tưởng ấm là gì? Là sáu tưởng thân. Sáu thứ là gì? Là tưởng phát sinh do nhãn xúc, cho đến tưởng phát sinh do ý xúc.

Hành ấm là gì? Hành ấm có hai loại là tâm tương ưng, tâm không tương ưng.

Thế nào là tâm tương ưng hành ấm? Là những tâm pháp: Tư, xúc, ức, dục, giải thoát, niệm, định, tuệ, tín, tinh tiến, giác, quán, phóng dật, bất phóng dật, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, hết thảy kiết phược, sử, phiền não, thượng phiền não, triền, hết thảy trí, hết thảy kiến, hết thảy vô gián v.v…, nên những tâm pháp này đối chiếu tương ưng với pháp. Đó gọi là tâm tương ưng hành ấm.

Thế nào là tâm không tương ưng hành ấm? Là những: Các sự đắc, chánh thọ vô tưởng, chánh thọ diệt tận, vô tưởng thiên, mạng căn, thân chủng loại xứ đắc, sự đắc, nhập đắc, sinh, trụ, dị, diệt, danh thân, cú thân, vị thân, những tâm pháp như thế không tương ưng với pháp, gọi là tâm không tương ưng hành ấm.

Hai pháp kia gọi chung là Hành ấm số.

Thế nào là thức ấm? Là sáu thức thân. Sáu thứ là những gì? Là nhãn thức thân cho đến ý thức thân.

Thế nào là sắc thạnh ấm? Như sắc hữu lậu được thọ nhận nhiều, sắc ấy nếu đối với quá khứ – hiện tại – vị lai dấy khởi ham muốn, đã khởi – đang khởi, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si, mỗi mỗi tâm số phiền não đó, đã khởi, đang khởi thì gọi là sắc thạnh ấm.

Thọ, tưởng, hành thạnh ấm cũng như vậy.

Thế nào là thức thạnh ấm? Như thức hữu lậu được thọ nhận nhiều, thức ấy nếu đối với quá khứ – hiện tại – vị lai dấy khởi ham muốn, đã khởi- đang khởi, hoặc tham- sân- si, mỗi mỗi tâm số phiền não đã khởi- đang khởi, thì gọi là thức thạnh ấm.

Thế nào là địa giới? Là tướng cứng chắc, cho đến phong giới, như trong phẩm Năm Pháp đã nói.

Thế nào là hư không giới? Là không biên sắc.

Thế nào là thức giới? Là năm thức thân và ý thức thân hữu lậu.

Thế nào là thọ? Là thọ nhận biết khổ, cùng khổ vui đều đủ, không phải sự chuyển biến của ba cảnh giới.

Thế nào là tưởng? Là tưởng, cùng tưởng, tưởng tăng thượng, đối với tướng mạo mà chuyển biến nên.

Thế nào là tư? Là tư duy cùng tư duy, tư duy tăng thượng khởi tâm hành nơi nghiệp.

Thế nào là xúc? Là xúc chạm cùng xúc chạm, xúc tăng thượng, dựa vào tâm duyên hòa hợp mà chuyển biến.

Thế nào là ức? Là tâm phát khởi tỏ ngộ, là nhớ nghĩ, suy xét về cảnh giới của tâm hành.

Thế nào là dục? Là ham muốn nơi duyên, giữ chắc, tham chấp sâu xa để tạo ra dục lạc.

Thế nào là giải thoát? Là tâm giải thoát, ý cởi bỏ mọi duyên.

Niệm là gì? Là nhớ nghĩ, thuận theo sự nhớ nghĩ không buông rời. Đối với duyên không lãng quên bỏ dở, rối loạn.

Định là gì? Là tâm cùng trụ, không động trước cảnh thay đổi, không phân tán, không rối loạn, mà thâu nhiếp vào một mối.

Tuệ là gì? Là tâm đối với pháp, dấy khởi sự lựa chọn, quyết định, biết rõ, quan sát soi sáng.

Bất tín là gì? Là tâm không tin nhận, không chánh tư duy, không tu gốc đức, không trồng hạnh thiện, không tạo nghiệp tốt, ý không thanh tịnh.

Giải đãi là gì? Là tâm thấp kém, không siêng năng dũng mãnh, ý không nhanh nhẹn.

Vọng niệm là gì? Là nhớ nghĩ hư vọng, hương bên ngoài, ghi nhớ chuyện tà vạy.

Loạn là gì? Là tâm tán loạn, chuyển động dong ruổi mãi, duyên không ngừng nghỉ.

Vô minh là gì? Là ngu si nơi ba cõi, tối tăm không hiểu biết.

Tà tuệ là gì? Là không thuận theo chánh niệm, hiểu sai, quyết đoán không đúng.

Tà ức là gì? Là ý hoạt động cấu uế, quanh co duyên nơi cảnh, không chánh tư duy.

Tà giải thoát là gì? Là ý hoạt động cấu uế, mà mong cởi bỏ mọi duyên.

Trạo là gì? Là tâm vội vã xốc nổi, không dựa vào lặng yên.

Phóng dật là gì? Là buông rời mọi phương tiện, làm chuyện không nên làm, không siêng tu các pháp thiện.

Phẫn là gì? Là đối với các sự việc không đem lại lợi ích, tâm nổi giận nối tiếp giận mãi.

Hận là gì? Là nếu sự việc không thuận theo sự mong muốn thì nổi tâm giận dữ.

Phú là gì? Là che giấu tội mình tạo ra.

Não là gì? là tâm nóng bức, bực bội.

Tật là gì? Là đối với sự hiềm khích, không muốn kẻ khác có lợi, khởi tâm đố kỵ.

Xan là gì? Là thọ nhận của tâm luôn bám giữ kiên cố không buông bỏ.

Cuống là gì? Là lừa dối kẻ khác.

Siểm là gì? Là khởi tâm quanh co.

Kiêu là gì? Là tâm say mê sự cao ngạo.

Hại là gì? Là tâm bực bội gây bức bách cho mọi người.

Dục tham là gì? Là dục tham, tham muốn khắp, kết tụ thành nơi chốn tham muốn, bám chặt vào sự yêu thích.

Sắc tham là gì? Là sắc tham cùng khắp, kết tụ thành nơi chốn tham lam, bám chắc vào sự yêu thích.

Vô sắc tham là gì? Là vô sắc tham cùng khắp, kết tụ thành nơi chốn tham, bám chắc vào sự yêu thích.

Sân khuể là gì? Là khởi lên tâm làm tổn hại đối với chúng sinh, phỉ báng tột độ.

Nghi là gì? Là mê lầm không hiểu rõ chân lý.

Đối xúc là gì? Là năm thức thân tương ưng với xúc.

Tăng thượng ngữ xúc là gì? Là ý thức thân tương ưng với xúc.

Minh xúc là gì? Là xúc vô lậu.

Vô minh xúc là gì? Là xúc cấu uế.

Phi minh phi vô minh xúc là gì? Là xúc hữu lậu không cấu uế.

Thân kiến là gì? Là đối với năm thạnh ấm, khởi lên kiến chấp đó là ta, là cái của ta, đối với thân đó nhận lấy, yêu thích tham đắm.

Biên kiến là gì? Là đối với năm thạnh ấm, hoặc chấp đoạn, hoặc chấp thường. Đối với thân đó nhận lấy, yêu thích tham đắm.

Tà kiến là gì? Là phỉ báng nhân quả, hủy hoại điều nên làm. Đối với kiến chấp ấy luôn giữ lấy yêu thích vướng mắc.

Thủ kiến là gì? Là đối với năm thạnh ấm, chấp nó là bậc nhất, là tối thượng, hơn hết thảy. Đối với kiến chấp ấy luôn giữ lấy, yêu thích, vướng mắc.

Giới kiến là gì? Là đối với năm thạnh ấm khởi kiến chấp cho nó là thanh tịnh, cho là giải thoát xuất yếu, luôn giữ lấy, yêu thích, tham đắm.

Lạc căn là gì? Là những tiếp xúc cảm thấy vui vẻ thì khởi thân ý ham thích, khởi tưởng nhận biết.

Khổ căn là gì? Là những tiếp xúc gây khổ sở thì khởi thân cùng thọ khổ, khởi tưởng nhận biết.

Hỷ căn là gì? Là những tiếp xúc cảm thấy vui mừng, thì khởi lên tâm vui mừng, phát sinh tưởng nhận biết, lãnh thọ.

Ưu căn là gì? Là những tiếp xúc đưa đến lo buồn, tâm khởi lên khổ, phát sinh tưởng nhận biết, lãnh thọ.

Xả căn là gì? Là những tiếp xúc không gây khổ hay vui, khởi lên sự nhận biết nơi thân tâm không lãnh thọ, không phải không lãnh thọ.

Giác là gì? Là tâm nhận biết khắp, biết về sắc, biết sắc tăng thượng, biết về số giác v.v…, tâm thô tư duy chuyển động.

Quán là gì? Hoạt động của tâm ít đi, theo chỗ nhỏ nhiệm mà hành, tâm chuyển theo nẽo tinh tế.

Thức là gì? Là sáu thức thân: Nhãn thức cho đến ý thức.

Vô tàm là gì? Là tâm không biết hổ, không ngán sợ tội lỗi, không hề chán lìa, không cung kính, không nhu hòa, không biết lo sợ chính mình, không tự thấy xấu hổ, tâm buông phóng mặc tình.

Vô quý là gì? Là không thẹn trước kẻ khác, không sợ tội lỗi, không chùn bươc nơi tội lỗi, không thấy tội lỗi. Mọi chuyện làm ác không thấy xấu hổ đối với kẻ khác.

Nhãn thức là gì? Mắt duyên nơi sắc phát sinh nhãn thức. Mắt là yếu tố tăng thượng duyên nơi sắc. Nhãn thức đối với sắc hoặc nhận biết, hoặc phân biệt về sắc. Đó gọi là nhãn thức. Cho đến ý thức cũng như vậy.

Nhãn xúc là gì? Là mắt duyên nơi sắc khởi lên cái hiểu biết của mắt (Nhãn thức). Ba thứ ấy (mắt, sắc, nhãn thức) hòa hợp sinh ra xúc. Nhãn là yếu tố tăng thượng duyên nơi sắc. Nhãn thức đối với sắc hoặc tiếp xúc, cùng tiếp xúc. Đó gọi là nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc cũng vậy.

Ý xúc là gì? Là ý duyên nơi pháp khởi lên cái hiểu biết của ý (Ý thức). Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc. Ý là tăng thượng duyên nơi pháp. Ý thức ở nơi pháp hoặc tiếp xúc, cùng tiếp xúc. Đó gọi là ý xúc.

Thế nào là nhãn xúc sinh ra thọ? Là mắt duyên nơi sắc khởi lên nhãn thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc. Xúc duyên nơi thọ. Mắt là tăng thượng duyên nơi sắc sinh ra nhãn xúc, là nhân nơi nhãn xúc, là tập khởi nơi nhãn xúc, sinh ra nhãn xúc, có nhãn xúc, ý tư duy tương ưng. Nhãn thức đối với sắc, nếu nhận biết lãnh thọ như nhau, gọi là nhãn xúc sinh ra thọ.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc cũng như vậy.

Thế nào là ý xúc sinh ra thọ? Là ý duyên nơi pháp khởi lên ý thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc. Xúc duyên nơi thọ. Ý là tăng thượng duyên nơi pháp sinh ra ý xúc, là nhân của ý xúc, là tập khởi nơi ý xúc, sinh ra ý xúc, có ý xúc, tư duy tương ưng. Ý thức đối với pháp, nếu nhận biết thọ lãnh như nhau thì gọi là ý xúc sinh ra thọ.

Thế nào là nhãn xúc sinh ra tưởng? Là mắt duyên sắc sinh ra nhãn thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc, xúc duyên nơi tưởng. Mắt là tăng thượng duyên nơi sắc sinh ra nhãn xúc, là nhân của nhãn xúc, là tập khởi nơi nhãn xúc, có nhãn xúc, sinh ra nhãn xúc, ý tư duy tương ưng. Nhãn thức đối với sắc, nếu sinh tưởng như nhau, tưởng tăng thượng, tưởng phân biệt, thì gọi là nhãn xúc sinh ra tưởng.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc cũng như vậy.

Thế nào là ý xúc sinh ra tưởng? Là ý duyên nơi pháp khởi lên ý thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc, xúc duyên tưởng. Ý là tăng thượng duyên nơi pháp sinh ra ý xúc, là nhân nơi ý xúc, là tập khởi nơi ý xúc, sinh ra ý xúc, có ý xúc, tư duy khế hợp. Ý thức đối với pháp có tưởng, cùng tưởng, tưởng tăng thượng, tưởng phân biệt thì gọi là ý xúc sinh ra tưởng.

Thế nào là nhãn xúc sinh ra tư? Là mắt duyên nơi sắc khởi lên nhãn thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc, xúc duyên tư. Mắt là tăng thượng duyên nơi sắc sinh ra nhãn xúc, là nhân nơi nhãn xúc, tập khởi nơi nhãn xúc, sinh ra nhãn xúc, có nhãn xúc, ý tư duy khế hợp. Nhãn thức đối với sắc, nếu tư duy như nhau, tư tăng thượng, tư chuyển tâm hành nơi nghiệp thì gọi là nhãn xúc sinh ra tư.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Thế nào là ý xúc sinh ra tư? Là ý duyên nơi pháp sinh ra ý thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh xúc, xúc duyên tư. Ý là tăng thượng duyên nơi pháp sinh ra ý xúc, là nhân nơi ý xúc, tập khởi nơi ý xúc, sinh ra ý xúc, có ý xúc, tư duy tương ưng. Ý thức đối với pháp, nếu tư như nhau, tư tăng thượng, tư chuyển tâm hành nơi nghiệp thì gọi là ý xúc sinh ra tư.

Thế nào là nhãn xúc sinh ra ái? Là mắt duyên nơi sắc khởi lên nhãn thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc, xúc duyên ái. Mắt là tăng thượng duyên nơi sắc. Nhãn thức đối với sắc nếu tham lam tích tụ tham, thành nơi chốn rồi bám chắc yêu thích, đó gọi là nhãn xúc sinh ra ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Thế nào là ý xúc sinh ra ái? Là ý duyên nơi pháp, khởi lên ý thức. Ba thứ ấy hòa hợp sinh ra xúc, do đó có thọ, có thọ nên có ái. Ý là tăng thượng duyên nơi pháp. Ý thức đối với pháp nếu tham lam tích tụ tham, thành nơi chốn rồi bám chắc vào đó, yêu thích, thì gọi là ý xúc sinh ra ái.

Hỏi: Nhãn giới thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Nhãn giới thâu nhiếp pháp, thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Nhãn giới không thâu nhiếp pháp, thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Nhãn giới thâu nhiếp, không thâu nhiếp pháp, thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Trừ nhãn giới thâu nhiếp pháp, pháp còn lại thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Trừ nhãn giới không thâu nhiếp pháp, pháp còn lại thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Trừ nhãn giới thâu nhiếp, không thâu nhiếp pháp, pháp còn lại thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Như nhãn giới, cho đến ý xúc sinh ra ái cũng như vậy.

Đáp: Nhãn giới thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười bảy giới, mười một nhập, năm ấm.

Như nhãn giới, nhãn giới thâu nhiếp pháp cũng như vậy.

Nhãn giới không thâu nhiếp pháp thâu nhiếp mười bảy giới, mười một nhập năm ấm; không thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm.

Nhãn giới thâu nhiếp, không thâu nhiếp pháp thâu nhiếp mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ nhãn giới thâu nhiếp pháp, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới, mười một nhập, năm ấm; không thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm.

Trừ nhãn giới không thâu nhiếp pháp, pháp còn lại thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười bảy giới, mười một nhập, năm ấm.

Trừ nhãn giới thâu nhiếp pháp, pháp còn lại như nhãn giới, không thâu nhiếp.

Trừ nhãn giới không thâu nhiếp pháp, pháp còn lại như nhãn giới, trừ nhãn giới thâu nhiếp, không thâu nhiếp pháp.

Nếu hỏi pháp khác: Hư không, không có việc gì, không bàn luận. Như nhãn giới, chín sắc giới, mười sắc nhập cũng như vậy.

Nhãn thức giới thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười bảy giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như nhãn thức giới, nhĩ – tỷ – thiệt – thân – ý thức giới, sáu thức thân cũng như vậy.

Ý giới thâu nhiếp bảy giới, một nhập, một ấm, không thâu nhiếp mười một giới, mười một nhập, bốn ấm.

Như ý giới, ý nhập – thức ấm – thức pháp cũng như vậy.

Pháp giới thâu nhiếp một giới, một nhập, bốn ấm; không thâu nhiếp mười bảy giới, mười một nhập, hai ấm.

Như pháp giới, pháp nhập cũng như vậy.

Sắc ấm thâu nhiếp mười một giới, mười một nhập, một ấm; không thâu nhiếp tám giới, hai nhập, bốn ấm.

Thọ ấm thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười tám giới, mười hai nhập, bốn ấm.

Như thọ ấm, tưởng ấm – hành ấm – thọ đại địa – tưởng đại địa cũng như vậy.

Sắc thạnh ấm thâu nhiếp mười một giới, mười một nhập, một ấm; không thâu nhiếp tám giới, hai nhập, năm ấm

Thọ thạnh ấm thâu nhiếp một giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như thọ thạnh ấm, tưởng thạnh ấm – hành thạnh ấm – năm sắc giới – tám pháp đại địa – mười pháp phiền não đại địa, mười pháp tiểu phiền não đại địa – năm phiền não – năm xúc – năm kiến – năm căn – bốn pháp năm, sáu cũng như vậy.

Thức thạnh ấm thâu nhiếp bảy giới, một nhập, một ấm; không thâu nhiếp mười ba giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như thức thạnh ấm, thức giới cũng như vậy.

Nhãn thức giới tương ưng với một giới, một nhập, ba ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như nhãn thức giới, nhĩ – tỷ – thiệt – thân – ý thức giới, thức thạnh ấm, thức giới, sáu thức thân cũng như vậy.

Ý giới tương ưng với một giới, một nhập, ba ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, ba ấm.

Như ý giới, ý nhập – thức ấm – thức pháp cũng như vậy.

Pháp giới tương ưng với tám giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười một giới, mười một nhập, hai ấm.

Như pháp giới, pháp nhập – hành ấm – tám pháp đại địa cũng như vậy.

Thọ ấm tương ưng với tám giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười một giới, mười một nhập, ba ấm.

Như thọ ấm, tưởng ấm – thọ đại địa – tưởng đại địa cũng như vậy.

Thọ thạnh ấm tương ưng với tám giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười ba giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như thọ thạnh ấm, tưởng thạnh ấm cũng như vậy.

Hành thạnh ấm tương ưng với tám giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười ba giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như hành thạnh ấm, pháp giác – quán cũng như vậy.

Bất tín tương ưng với tám giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng

với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như bất tín, các phiền não – pháp đại địa khác cũng như vậy.

Dục tham, sân giận, vô minh xúc, phi minh phi vô minh xúc, vô tàm, vô quý cũng như vậy.

Phẫn tương ưng với ba giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như phẫn, các pháp tiểu phiền não đại địa còn lại là tham cõi Vô sắc, nghi, minh xúc, năm kiến, sáu thọ thân cũng như vậy.

Sắc tham tương ưng với sáu giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Đối xúc tương ưng với bảy giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười ba giới, mười hai nhập, năm ấm.

Tăng thượng ngữ xúc tương ưng với ba giới, hai nhập, bốn ấm; không tương ưng với mười bảy giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như tăng thượng ngữ xúc, sáu xúc thân – sáu tư thân cũng như vậy.

Lạc căn tương ưng với tám giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như lạc căn, xả căn cũng như vậy.

Khổ căn tương ưng với bảy giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Hỷ căn tương ưng ba giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như hỷ căn, ưu căn cũng như vậy.

Nhãn xúc sinh ra thọ tương ưng với ba giới, hai nhập, ba ấm; không tương ưng với mười bảy giới, mười hai nhập, năm ấm.

Như nhãn xúc sinh ra thọ, nhĩ – tỷ – thiệt – thân – ý xúc sinh ra thọ, sáu tưởng thân cũng như vậy.