LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 11

Địa thứ chín: ĐỊA THIỆN TUỆ

* Luận nêu: Trong Địa thứ chín4 phần sai biệt:

  1. Thành tựu phương tiện của Pháp sư.
  2. Thành tựu về trí.
  3. Thành tựu về nhập hành.
  4. Thành tựu về thuyết giảng.

Nơi Địa thứ tám chỉ làm thanh tịnh cõi Phật. Còn ở Địa thứ chín này, do diệu lực của biện tài nên có thể giáo hóa chúng sinh, thành tựu tất cả tướng, tức vượt hơn Địa trước.

1. Thế nào là Thành tựu phương tiện của Pháp sư?

– Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Bồ-tát do trí vô lượng, trí khéo lượng xét như thế, lại cầu chuyển tăng, đạt sự giải thoát tịch diệt, sâu xa, thù thắng. Lại chuyển cầu đạt trí tuệ rốt ráo của Như Lai, nhập trong pháp sâu kín của Như Lai, tư duy, chọn lựa đại trí tuệ không thể nghĩ bàn, chọn lựa các pháp Đàla-ni, Tam-muội, cùng trí đều khiến được thanh tịnh, hiện bày các hành rộng lớn của thần thông, thông đạt nẻo hành sai biệt của thế giới, tu tập các lực, vô úy của Như Lai, các pháp bất cộng của Phật không chướng ngại, luôn thuận hợp, thấu tỏ sự việc chuyển pháp luân trang nghiêm của Như Lai, không lìa bỏ đại nguyện lực của đại bi, nên được nhập vào Địa thứ chín của bậc Bồ-tát”.

– Luận nêu: Ở đây:

Thành tựu phương tiện của Pháp sư: Tức dựa nơi tự lợi và lợi tha, mỗi mỗi đoạn gồm năm câu, ba câu đã chỉ rõ.

Dựa nơi vô sắc đạt được tướng giải thoát có thể hóa độ chúng sinh tạo lợi ích: Như kinh nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Bồ-tát do trí vô lượng, trí khéo lượng xét như thế, lại cầu chuyển tăng, đạt sự giải thoát tịch diệt, sâu xa, thù thắng”.

Dựa nơi chỗ chưa đạt được trí rốt ráo của Phật đem lại lợi ích cho chính mình: Như kinh nói: “Lại chuyển cầu đạt trí tuệ rốt ráo của Như Lai”.

Dựa nơi căn đã thành thục của Bồ-tát. Dựa nơi chúng sinh hành theo tà niệm đáng nên giáo hóa. Dựa nơi chúng sinh chưa hiểu biết pháp, nên chuyển pháp luân khiến họ được hiểu biết. Dựa nơi chúng sinh quy y theo nẻo tà. Dựa nơi chúng sinh tin sinh lên cõi trời: Thứ lớp năm câu như vậy chỉ rõ hành lợi tha. Như kinh nói: “Nhập trong pháp sâu kín của Như Lai, tư duy, chọn lựa đại trí tuệ không thể nghĩ bàn, chọn lựa các pháp Đà-la-ni, Tam-muội, cùng trí đều khiến được thanh tịnh, hiện bày các hành rộng lớn của thần thông, thông đạt nẻo hành sai biệt của thế giới”: Là chỉ rõ về quốc độ thanh tịnh, chuyển chúng sinh tin sinh lên cõi trời khiến nhập nơi pháp Phật.

Dựa nơi chánh giác, dựa nơi chuyển pháp luân, dựa nơi Niếtbàn: Thứ lớp ba câu như vậy chỉ rõ về hành tự lợi. Như kinh nói: “Tu tập các lực, vô úy của Như Lai, các pháp bất cộng của Phật không chướng ngại, luôn thuận hợp, thấu tỏ sự việc chuyển pháp luân trang nghiêm của Như Lai, không lìa bỏ đại nguyện lực của đại bi, nên được nhập vào Địa thứ chín của bậc Bồ-tát”.

Không xả bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh: Là chỉ rõ về Đại Niết-bàn, do đạt được việc không lìa bỏ đại nguyện lực của đại bi.

2. Thế nào là Thành tựu về trí?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồtát, nhận biết đúng như thật về pháp hành thiện, bất thiện, vô ký; về pháp hành hữu lậu, vô lậu; về pháp hành thế gian, xuất thế gian; về pháp hành nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn; về pháp hành định, không định; về pháp hành của hàng Nhị thừa; về pháp hành của hạnh Bồtát; về pháp hành của địa Như Lai; về pháp hành của pháp hữu vi, vô vi”.

– Luận nêu: Thành tựu về trí: Là dựa vào những pháp nào đấy để thuyết giảng. Nên biết pháp tịnh, nhiễm kia là không hai. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát, nhận biết đúng như thật về pháp hành thiện, bất thiện, vô ký”.

Nơi pháp tịnh có hữu lậu, vô lậu. Như kinh nói: “Pháp hành hữu lậu, vô lậu”.

Lại, trong pháp vô lậu có pháp hành thế gian, xuất thế gian. Như kinh nói: “Pháp hành thế gian, xuất thế gian”.

Lại, nơi pháp ấy có nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn. Như kinh nói: “Pháp hành nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn”.

Nơi pháp nghĩ bàn lại có định, không định. Như kinh nói: “Pháp hành định, không định”.

Pháp kia lại ở trong ba Thừa. Như kinh nói: “Pháp hành của hàng Nhị thừa. Pháp hành của hạnh Bồ-tát. Pháp hành của địa Như Lai”.

Lại, trong pháp của ba Thừa, chỉ rõ về hữu vi, vô vi, dựa nẻo hành thuận hợp. Như kinh nói: “Pháp hành hữu vi, pháp hành vô vi, đều nhận biết đúng như thật”.

3. Thế nào là Thành tựu về nhập hành?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, tùy thuận trí tuệ như vậy, nhận biết đúng như thật về vùng rừng rậm nơi: Tâm hành của chúng sinh. Nẻo hành của phiền não. Nẻo hành của nghiệp. Nẻo hành của căn. Nẻo hành của tín. Nẻo hành của tánh. Nẻo hành của tâm sâu xa. Nẻo hành của sử. Nẻo hành của sinh. Nẻo hành của tập khí. Nẻo hành sai biệt của ba tụ. Tất cả thảy đều nhận biết đúng như thật”.

– Luận nêu: Thành tựu về nhập hành: Là nương vào chỗ dựa chung nơi nghiệp phiền não sinh khởi và cấu nhiễm, phiền não nhiễm, tịnh v.v… Dựa vào lúc định, không định v.v… Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, tùy thuận trí tuệ như vậy v.v… cho đến: Nẻo hành sai biệt của ba tụ. Tất cả đều nhận biết đúng như thật”.

Sự tùy thuận kia lại có lúc định, không định nơi căn v.v… Thứ lớp nơi căn v.v… Tương tợ nơi tín v.v… Như kinh nói: “Rừng rậm nơi nẻo hành của căn. Rừng rậm nơi nẻo hành của tín. Rừng rậm nơi nẻo hành của tánh. Rừng rậm nơi nẻo hành của tâm sâu xa. Rừng rậm nơi nẻo hành của sử. Rừng rậm nơi nẻo hành của sinh. Rừng rậm nơi nẻo hành của tập khí. Rừng rậm nơi nẻo hành sai biệt của ba tụ”.

Trù lâm (Rừng rậm): Nghĩa là rất nhiều. Nghĩa là khó nhận biết.

Hành: Ở đây là nghĩa không chánh tín.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của tâm hành?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về vô số thứ loại tướng nơi các tâm của chúng sinh: Tướng xen tạp. Tướng chuyển biến sinh chẳng sinh. Tướng vô hình. Tướng hiện bày nơi tất cả xứ, vô số, vô biên. Tướng thanh tịnh. Tướng nhiễm, không nhiễm. Tướng trói buộc, giải thoát. Tướng huyễn khởi. Tướng theo cõi sinh. Lược nói cho đến vô lượng trăm ngàn chủng loại tướng sai biệt của tâm, đều nhận biết đúng như thật”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của tâm hành: Tức vô số thứ loại sai biệt, dị biệt của tâm. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về vô số thứ loại tướng nơi các tâm của chúng sinh”. Vô số các loại tướng của tâm có 8 thứ:

1. Tướng sai biệt: Tức như sáu thứ sai biệt của tâm ý thức. Như kinh nói: “Tướng xen tạp của tâm”.

2. Tướng hành: Là các hành trụ dị sinh diệt. Như kinh nói: “Tướng chuyển biến sinh chẳng sinh của tâm”.

3. Tướng đệ nhất nghĩa: Quán xét tâm ấy, lìa tâm thì nơi thân không thể thủ đắc. Như kinh nói: “Tướng vô hình của tâm”.

4. Tự tướng: Hành thuận nơi vô lượng cảnh giới để chọn lấy. Như kinh nói: “Tướng hiện bày nơi tất cả xứ, vô số, vô biên của tâm”.

5. Tướng tự tánh không nhiễm: Như kinh nói: “Tướng thanh tịnh của tâm”.

6. Tướng đồng với phiền não không đồng với phiền não: Như kinh nói: “Tướng nhiễm, không nhiễm của tâm”.

7. Tướng đồng với sử, không đồng với sử: Như kinh nói: “Tướng trói buộc, giải thoát của tâm”.

8. Tướng nhân: Các Bồ-tát, do nguyện lực nên thọ sinh. Còn các chúng sinh thì do nghiệp lực của chính mình, nên sinh. Như kinh nói: “Tướng huyễn khởi của tâm. Tướng theo cõi sinh của tâm. Lược nói cho đến vô lượng trăm ngàn đủ loại tướng sai biệt của tâm đều nhận biết đúng như thật”. Do tự tánh của tâm là thanh tịnh.

Câu thứ sáu, câu thứ bảy: Tâm nhiễm, không nhiễm. Tâm trói buộc, giải thoát: Hai câu này chỉ rõ về phiền não nhiễm.

Câu thứ tám: Tâm theo cõi sinh: Là chỉ rõ về sinh nhiễm.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành phiền não?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng thâm nhập của các phiền não: Tướng hành vô biên. Tướng cùng sinh chẳng lìa. Tướng phiền não, sử là một nghĩa. Tướng tương ưng không tương ưng nơi tâm. Tướng tùy theo xứ đạo sinh nhận lấy báo. Tướng sai biệt trong ba cõi. Tướng gây tạo lỗi lầm lớn như các thứ tên độc kiến ái, kiến vô minh. Tướng không đoạn nhân của ba thứ nghiệp. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của hành phiền não”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành phiền não: Là chỉ rõ nơi 3 thứ sự:

1. Nhập từ xa, cho đến cõi Hữu đảnh. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng thâm nhập của các phiền não”.

2. Khó nhận biết về vô lượng căn thiện cùng hành tu tập. Như kinh nói: “Tướng hành vô biên”.

3. Tạo nhiễm nơi nghiệp phiền não, sinh nhiễm. Ở đây, tùy đối tượng trói buộc, dùng gì để trói buộc cùng sự việc bị trói buộc, thì sự việc này nêu bày, tức chỉ rõ việc cấu nhiễm của phiền não ô nhiễm. Như kinh nói: “Tướng cùng sinh chẳng lìa. Tướng phiền não, sử là một nghĩa. Tướng tương ưng không tương ưng nơi tâm”. Trong đó: Tùy đối tượng trói buộc: Tức lần lượt cùng đồng sự, lần lượt cùng dựa vào nhau, cùng sinh, không lìa. Dùng gì để trói buộc: Tức là sử. Do có sử nên không được giải thoát, vì phiền não sử là một nghĩa. Sự việc bị trói buộc: Tức là tâm. Tâm tương ưng, không tương ưng. Không tương ưng: Tức chỉ rõ có thể được giải thoát.

Thân hành sự sinh nhân của cảnh giới, đạo: Là chỉ rõ về việc sinh phiền não nhiễm. Như kinh nói: “Tướng tùy theo xứ đạo sinh nhận lấy báo. Tướng sai biệt trong ba cõi”.

Ở trong ba phần, thì nhân của nghiệp tạo chướng ngại cho giải thoát, nên nghiệp thân khẩu ý thuận theo thế gian, không đoạn trừ việc dấy khởi nhân: Là chỉ rõ về vọng tưởng của nghiệp, phiền não tạo nhiễm. Như kinh nói: “Tướng gây tạo lỗi lầm lớn như các thứ tên độc kiến ái, kiến vô minh. Tướng không đoạn nhân của ba thứ nghiệp. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của hành phiền não”.

Ba phần: Tức: Một là chúng sinh ưa thích hành dục. Hai là chúng sinh không giới. Ba là chúng sinh theo ngoại đạo.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành nghiệp?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng của các nghiệp thiện, bất thiện, vô ký: Tướng có tạo tác, chưa tạo tác. Tướng tâm cùng sinh, không lìa. Tướng nhân nơi tự tánh đến tận cùng tập quả không mất thứ lớp. Tướng có báo, không báo. Tướng sai biệt trong việc chính thức thọ nhận các nghiệp: đen, trắng, đen trắng, chẳng đen chẳng trắng. Tướng vô lượng nhân của nghiệp. Tướng sai biệt về thế gian, Thánh nhân. Tướng hiện báo, sinh báo, hậu báo. Tướng thừa không phải thừa, định không định. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các nghiệp”.

– Luận nêu: Sai biệt nơi rừng rậm của hành nghiệp: Là chỉ rõ về nhân sai biệt của các cõi. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng của các nghiệp thiện, bất thiện, vô ký v.v…”.

1. Tự tánh sai biệt. Như kinh nói: “Tướng có tạo tác, chưa tạo tác”.

2. Phương tiện sai biệt. Như kinh nói: “Tướng tâm cùng sinh, không lìa”.

3. Tận cùng tập quả sai biệt. Như kinh nói: “Tướng nhân nơi tự tánh đến tận cùng tập quả không mất thứ lớp”.

4. Sai biệt về chỗ đã thọ nhận quả, chưa thọ nhận quả. Như kinh nói: “Tướng có báo, không báo”.

5. Đối sai biệt. Như kinh nói: “Tướng sai biệt trong việc chính thức thọ nhận các nghiệp: Đen, trắng, đen trắng, chẳng đen chẳng trắng”.

6. Nhân duyên sai biệt. Như kinh nói: “Tướng vô lượng nhân của nghiệp”.

7. Sai biệt do chưa tích tập đã tích tập. Như kinh nói: “Tướng sai biệt về thế gian, Thánh nhân”.

8. Sai biệt về định, chẳng định. Như kinh nói: “Tướng hiện báo, sinh báo, hậu báo. Tướng thừa không phải thừa, định không định. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các nghiệp”.

Ở đây:

Tự tánh sai biệt:2 thứ nghiệp: (a) Thời gian trù lượng. (b) Thời gian tạo nghiệp.

Phương tiện sai biệt: Tâm cùng sinh, huân tập tâm sinh quả không khác.

Tận cùng tập quả sai biệt: Tức từ thời vô thỉ, nghiệp tự nhiên gây tạo, niệm niệm diệt hoại, tích tập không mất, nên các pháp hữu vi tạo nhân của nghiệp được tích tập trọn vẹn.

Sai biệt về chỗ đã thọ nhận quả, chưa thọ nhận quả: Là chỗ thọ nhận không thọ nhận về sinh báo, hậu báo.

Đối sai biệt: Tức nghiệp đen đối nghiệp trắng. Nghiệp trắng đối nghiệp đen. Nghiệp chẳng đen chẳng trắng đối hai nghiệp. Hai nghiệp đối nghiệp chẳng đen chẳng trắng. Nghiệp tích tập tạo thành sự sai biệt, nên biết.

Sai biệt về định, chẳng định: Tức ba thứ thời gian định, chẳng định, ba thứ thừa định, chẳng định.

Chẳng phải thừa: Là thế gian định, chẳng định.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành căn?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi các căn thuộc hạ, trung, thượng: Tướng dị biệt không dị biệt của biên vực trước sau. Tướng thượng, trung, hạ. Tướng phiền não cùng sinh không lìa. Tướng thừa, chẳng phải thừa, định chẳng định. Tướng định thuần thục. Tướng tùy theo lưới căn chuyển biến, hủy hoại, chấp giữ tướng. Tướng căn tăng thượng không hoại. Tướng sai biệt nơi căn chuyển không chuyển. Tướng thâm nhập cùng sinh khởi vô số sai biệt. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các căn.

Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng tin tưởng hạ, trung, thượng của chúng sinh. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tín.

Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng hạ, trung, thượng của các tánh. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các tánh.

Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng hạ, trung, thượng của tâm. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tâm”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành căn:9 thứ:

1. Sai biệt về các năng lực. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi các căn thuộc hạ, trung, thượng”.

2. Sai biệt về căn chuyển biến. Như kinh nói: “Tướng dị biệt không dị biệt của biên vực trước sau”.

3. Sai biệt về tánh. Như kinh nói: “Tướng thượng, trung, hạ”.

4. Sai biệt về phiền não cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tướng phiền não cùng sinh không lìa”.

6. Sai biệt về định không định. Như kinh nói: “Tướng thừa chẳng phải thừa, định chẳng phải định. Tướng định thuần thục”.

7. Sai biệt về thuận hành. Như kinh nói: “Tướng tùy theo lưới căn chuyển biến, hoại diệt, chấp giữ tướng”.

8. Sai biệt về Thanh văn thanh tịnh. Như kinh nói: “Tướng căn tăng thượng không hoại”.

9. Sai biệt về Bồ-tát thanh tịnh. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của căn chuyển không chuyển”.

10. Sai biệt về việc chỉ rõ chỗ thâu tóm của tất cả các căn. Như kinh nói: “Tướng thâm nhập cùng sinh khởi vô số sai biệt. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các căn”.

Ở đây:

Sai biệt về căn chuyển biến: Tức căn trước, sau. Căn trước thấp tăng lên bằng.

Sai biệt về tánh: Tức là tánh sai biệt ở trong ba Thừa.

Sai biệt về phiền não cấu nhiễm: Các căn như hỷ, lạc v.v… tùy tập theo phiền não sai khiến nên nhiễm.

Sai biệt về định không định: Ở trong ba Thừa, nơi thế gian, định chẳng định, thuần thục chẳng thuần thục. Trong đó, chúng sinh căn bất định, theo Tiểu thừa, Bồ-tát khiến chuyển hướng về Đại thừa. Còn căn định, Bồ-tát khiến vượt qua hai Thừa, đạt đầy đủ sự giải thoát.

Sai biệt về thuận hành:3 thứ thuận hành:

1. Thuận hành theo chỗ dựa của thân: Tức lần lượt thứ lớp cùng bị ràng buộc nơi sáu nhập.

2. Thuận hành theo sinh diệt: Tức tính chất trôi nổi, hoại diệt.

3. Quán các hành, chấp giữ nơi tướng.

Sai biệt về Thanh văn thanh tịnh: Là nghĩa có thể thành tựu hành tăng thượng, chướng ngại được diệt trừ.

Sai biệt về Bồ-tát thanh tịnh: Là sự sai biệt của địa chuyển không chuyển.

Sai biệt về việc chỉ rõ chỗ thâu tóm của tất cả các căn: Là sự sai biệt về báo giữa phương tiện mới thực hành và căn đã thành thục.

Vô lượng tướng sai biệt về tín, tánh, tâm theo hạ, trung, thượng v.v… đều nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng tin tưởng hạ, trung, thượng của chúng sinh. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tín. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng hạ, trung, thượng của các tánh. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các tánh. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng hạ, trung, thượng của tâm. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tâm”. Như thế là tánh nhập, nên biết.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành sử?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng kết hợp sâu xa để sinh tâm cùng sinh của các sử: Tướng không lìa tâm tương ưng, không tương ưng. Tướng nhập từ xa. Tướng từ vô thỉ đến nay không sợ hãi. Tướng tương phản với việc tu tập chân chánh về tất cả thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề giải thoát, thần thông. Tướng tạo sự trói buộc kiên cố nơi ba cõi. Tướng tạo sự tích tập nối tiếp nơi tâm từ vô thỉ đến nay. Tướng tích tập mở bày các nẻo nhập. Tướng có thể đối trị sự thật. Tướng tùy thuận không tùy thuận nơi nhập của địa. Tướng không khác với Thánh đạo diệt bỏ nẻo động. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của vô số các thứ sử”.

– Luận nêu: Ở đây:

Sử: Tức là nghĩa theo đuổi, trói buộc.

Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành sử này: Tức nơi chốn nào để theo đuổi? Dùng những gì để theo đuổi? Chỗ sai biệt ấy được chỉ rõ.

Nơi chốn nào để theo đuổi? Tức tâm có báo hay không báo. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng kết hợp sâu xa để sinh tâm cùng sinh của các sử”.

Tâm không lìa sự việc hiện có. Nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, có sự sai biệt về thượng, trung, hạ. Như kinh nói: “Tướng không lìa tâm tương ưng, không tương ưng”.

Tùy thuận cho đến cõi Hữu Đảnh. Như kinh nói: “Tướng nhập từ xa”. Vô biên thế giới, chỉ có trí sợ hãi, xem như giặc oán, chưa từng có trí văn tư tu, do đó không mất. Như kinh nói: “Tướng từ vô thỉ đến nay không sợ hãi”.

Thiền định v.v… của thế gian không thể diệt trừ, tâm hành thuận theo. Như kinh nói: “Tướng tương phản với việc tu tập chân chánh về tất cả thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề giải thoát, thần thông”.

Dùng những gì để theo đuổi?6 thứ theo đuổi: Sáu thứ theo đuổi là sáu câu được nêu ra:

1. Theo đuổi vì không đoạn Hữu. Do tướng không đoạn Hữu nên giống như sử tạo sự trói buộc. Như kinh nói: “Tướng tạo sự trói buộc kiên cố nơi ba cõi”.

2. Theo đuổi từ thời xa. Như kinh nói: “Tướng tạo sự tích tập nối tiếp nơi tâm từ vô thỉ đến nay”.

3. Theo đuổi nơi thân một đời. Các nẻo nhập như mắt v.v… sáu thứ thức sinh, tập cùng tạo sự theo đuổi, cho đến sự huân tập của A-lê-da nên theo đuổi. Như kinh nói: “Tướng tích tập mở bày các nẻo nhập”.

4. Theo đuổi không thật: Tức là nghĩa đối trị nơi thật. Như kinh nói: “Tướng có thể đối trị sự thật”.

5. Theo đuổi vi tế: Ở trong chín Địa, phiền não của sáu nhập xứ theo đuổi nơi thân. Như kinh nói: “Tướng tùy thuận không tùy thuận nơi nhập của địa”.

6. Theo đuổi về lìa khổ: Chỉ có hành xuất thế gian, các hành khác không thể lìa bỏ. Như kinh nói: “Tướng không khác với Thánh đạo diệt bỏ nẻo động”.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành sinh?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các sinh (Các loài sinh khởi): Tướng theo nghiệp sinh. Tướng sai biệt của các chúng sinh nơi sáu đường. Tướng sai biệt của các loài có sắc, không sắc. Tướng sai biệt của chúng sinh có tưởng, không tưởng. Tướng nhận biết: Nghiệp là ruộng đất, Ái là nước, Vô minh là tối tăm, Thức là hạt giống, Thân sau là mầm sinh. Tướng danh sắc cùng sinh nhưng không lìa. Tướng có si cầu ái nối tiếp nhau. Tướng dục ái dục sinh, ưa thích chúng sinh nối tiếp không bờ bến. Tướng tham đắm nơi ba cõi cùng hiện bày. Tất cả thảy đều nhận biết đúng như thật”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành sinh:8 thứ:

1. Thân đủ thứ, loại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các sinh (Các loài sinh khởi)”.

2. Nghiệp đủ thứ, loại. Như kinh nói: “Tướng theo nghiệp sinh”.

3. Trụ xứ đủ thứ, loại. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của các chúng sinh nơi sáu đường”.

4. Vô số thứ loại sắc tướng bậc cao. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của các loài có sắc, không sắc. Tướng sai biệt của chúng sinh có tưởng, không tưởng”.

5. Vô số thứ loại về nhân của ngoại sắc giống nhau. Như kinh nói: “Tướng nhận biết: Nghiệp là ruộng đất, Ái là nước, Vô minh là tối tăm, Thức là hạt giống, Thân sau là mầm sinh”.

6. Vô số thứ loại về tự tướng. Như kinh nói: “Tướng danh sắc cùng sinh nhưng không lìa”.

7. Vô số thứ loại về nhân vốn thuận sinh. Như kinh nói: “Tướng có si cầu ái nối tiếp nhau”.

8. Chỉ rõ về vô số thứ sai biệt của tập khổ đế. Như kinh nói: “Tướng dục ái dục sinh, ưa thích chúng sinh nối tiếp không bờ bến. Tướng tham đắm nơi ba cõi cùng hiện bày. Tất cả thảy đều nhận biết đúng như thật”. Ở đây: Dục ái: Là ưa thích tham lam cùng nắm giữ, chốn chốn cầu tìm. Dục sinh: Lại có chúng sinh ưa thích các cõi, yêu mến thân mình, thân kẻ khác, tâm vướng mắc nơi tướng, qua lại nơi các cõi trên dưới, càng chấp giữ, tham đắm, vô lượng lớn nhỏ, không tưởng cùng hiện bày là chỉ rõ sự sai biệt về sự xoay vòng lần lượt của các cõi nơi khổ đế.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành tập khí?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi nẻo hành, không hành của tập khí: Tập khí do thuận theo chốn sinh của cõi huân tập mà có. Tập khí do thuận cùng hành với chúng sinh mà có. Tập khí do thuận theo phiền não, nghiệp mà có. Tập khí do thuận theo các pháp thiện, bất thiện, vô ký mà có. Tập khí do thân sau mà có. Tập khí do thứ lớp theo đuổi mà có. Tập khí do vào sâu, không đoạn trừ phiền não lôi kéo mà có. Tập khí do tiếp cận với thật, không thật mà có. Tập khí của hàng Nhị thừa, Bồ-tát, Như Lai, do thấy, nghe, gần gũi, huân tập mà có. Tất cả thảy đều nhận biết đúng như thật”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành tập khí:10 thứ:

1. Sai biệt về chỗ cho quả hiện tại, không hiện tại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi nẻo hành, không hành của tập khí”.

2. Sai biệt do cõi huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo chốn sinh của cõi huân tập mà có”.

3. Sai biệt do gần gũi với chúng sinh huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận cùng hành với chúng sinh mà có”.

4. Sai biệt do sức huân tập của phiền não, nghiệp. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo phiền não, nghiệp mà có”.

5. Sai biệt do nghiệp thiện v.v… huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo các pháp thiện, bất thiện, vô ký mà có”.

6. Sai biệt do trung ấm huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thân sau mà có”.

7. Sai biệt do cùng với thứ lớp của quả huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thứ lớp theo đuổi mà có”.

8. Sai biệt do nhân của thiền lìa thế gian huân tập: Huân tập do nhập từ xa, không đoạn trừ phiền não cùng sự lôi kéo của chúng. Như kinh nói: “Tập khí do vào sâu, không đoạn trừ phiền não lôi kéo mà có”.

9. Sai biệt do sự huân tập từ nẻo hành giải thoát của đồng pháp, dị ngoại đạo. Như kinh nói: “Tập khí do tiếp cận với thật, không thật mà có”.

10. Sai biệt do sự huân tập của thừa. Như kinh nói: “Tập khí của các hàng Nhị thừa, Bồ-tát, Như Lai, do thấy, nghe, gần gũi, huân tập mà có. Tất cả thảy đều nhận biết đúng như thật”.

Thế nào là sự sai biệt nơi rừng rậm của hành ba Tụ?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về ba Tụ của chúng sinh với các tướng: Tướng chánh định – Tướng tà định. Tướng bất định lìa cả hai. Tướng chánh kiến chánh định. Tướng tà kiến tà định. Tướng bất định lìa cả hai. Tướng năm nghịch tà định. Tướng năm căn chánh định. Tướng bất định lìa cả hai thứ. Tướng tà định của tám tà. Tướng chánh định chánh vị. Tướng bất định lại không tạo tác nên lìa cả hai. Tướng tà định theo hành ác keo kiệt, ganh ghét không chuyển. Tướng chánh định với sự tu tập Thánh đạo vô thượng. Tướng bất định lìa cả hai, Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật. Này Phật tử! Bồ-tát tùy thuận nơi trí như vậy gọi là an trụ nơi Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát”.

– Luận nêu: Sự sai biệt nơi rừng rậm của hành ba Tụ:5 thứ:

1. Sai biệt về pháp có Niết-bàn, pháp không Niết-bàn trong ba Thừa với hoàn toàn định rõ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về ba Tụ của chúng sinh với các tướng: Tướng chánh định – Tướng tà định. Tướng bất định lìa cả hai”.

2. Sai biệt do nhân của hành thiện, ác. Như kinh nói: “Tướng chánh kiến chánh định. Tướng tà kiến tà định. Tướng bất định lìa cả hai”.

3. Sai biệt do nhân của đường thiện, đường ác. Như kinh nói: “Tướng năm nghịch tà định. Tướng năm căn chánh định. Tướng bất định lìa cả hai”.

4. Sai biệt do nhân của hàng Nhị thừa, ngoại đạo. Như kinh nói: “Tướng tà định của tám tà. Tướng chánh định chánh vị. Tướng bất định lại không tạo tác nên lìa cả hai”.

5. Sai biệt do sự thị hiện của Bồ-tát. Như kinh nói: “Tướng tà định theo hành ác keo kiệt, ganh ghét không chuyển. Tướng chánh định với sự tu tập Thánh đạo vô thượng. Tướng bất định lìa cả hai”. Xả bỏ các chúng sinh có thể giáo hóa, gọi là ganh ghét, đố kỵ. Không vui thích bố thí của cải cho kẻ khác, gọi là keo kiệt. Có thể gây tạo khổ cho kẻ khác là hành ác không chuyển.

Các pháp Ba-la-mật của Bồ-tát trái với tà định. Bồ-tát đạt được như thế gọi là thành tựu phương tiện của Pháp sư, thành tựu về trí, thành tựu về nhập hành. Thành tựu ba sự việc ấy, là khéo an trụ trong Địa này. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát tùy thuận nơi trí như vậy gọi là an trụ nơi Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát”.

4. Thế nào là Thành tựu về thuyết giảng, ban cho chúng sinh phương tiện giải thoát?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ nơi Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát này rồi, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi các hành của chúng sinh như vậy, tùy theo sự giải thoát mà trao cho họ nhân duyên.

Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về các pháp: Giáo hóa chúng sinh. Cứu độ chúng sinh. Thuyết giảng cho thừa Thanh văn. Thuyết giảng cho thừa Phật-bích-chi. Thuyết giảng cho thừa Bồ-tát. Thuyết giảng về địa của Như Lai.

Bồ-tát ấy, nhận biết như thế rồi, lại đúng như thật vì chúng sinh nêu giảng chánh pháp, khiến họ được giải thoát. Tùy theo sự sai biệt của tâm, của sử, của căn, của tín, của cảnh giới, vô số hành nơi tập khí, tùy thuận nơi trí của hết thảy cảnh giới, thuận theo vô số hành tánh, tùy nơi tập khí của phiền não nghiệp sinh khởi, chuyển biến, tùy theo sự sai biệt của các Tụ, tùy sự tin tưởng nơi Thừa khiến được giải thoát, theo đấy để nêu giảng giáo pháp”.

– Luận nêu: Thành tựu về thuyết giảng: Là tùy vào sự giải thoát để ban cho họ nhân duyên. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trụ nơi Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát này rồi, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt nơi các hành của chúng sinh như vậy, tùy theo sự giải thoát mà trao cho họ nhân duyên”.

Thành tựu về thuyết giảng ấy lại có ba thứ tướng chỉ rõ:

  1. Thành tựu về trí.
  2. Thành tựu về khẩu nghiệp.
  3. Thành tựu về Pháp sư.

a. Thế nào là Thành tựu về trí? Tùy theo đối tượng được nhận

biết, đối tượng được nương dựa, theo đấy để thuyết giảng, nên biết.

Thế nào là tùy theo đối tượng được nhận biết để thuyết giảng? Tức khả năng giải thoát đã được thành thục. Thể giải thoát đúng lúc được hóa độ. Sai biệt của sự giải thoát là do sự sai khác của ba Thừa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về các pháp: Giáo hóa chúng sinh. Cứu độ chúng sinh. Thuyết giảng cho thừa Thanh văn. Thuyết giảng cho thừa Phật-bích-chi. Thuyết giảng cho thừa Bồ-tát. Thuyết giảng về địa của Như Lai”.

Thế nào là tùy theo đối tượng được nương dựa để nêu giảng? Tức pháp được thuyết giảng luôn đối hợp với khả năng thọ nhận của căn cơ, theo chỗ đáng được hóa độ, để trao cho pháp đối trị. Nghĩa này được nói đến nơi hai câu. Thành tựu khả năng thọ nhận pháp được nêu giảng, tùy theo căn trí, tùy theo sự tin tưởng, vì họ thuyết giảng pháp. Nghĩa này cũng có hai câu được nêu. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết như thế rồi, lại đúng như thật vì chúng sinh nêu giảng chánh pháp, khiến họ được giải thoát. Tùy theo sự sai biệt của tâm, của sử, của căn, của tín v.v…”.

Tùy theo thí dụ để hiểu về khả năng thọ nhận giáo pháp. Như kinh nói: “Tùy theo sự sai biệt của cảnh giới, vô số hành nơi tập khí”.

Tùy theo vô số hành khác nơi khả năng thọ nhận. Như kinh nói: “Tùy thuận nơi trí của hết thảy cảnh giới”.

Cho đến có thể thành tựu khả năng thọ nhận giáo pháp. Như kinh nói: “Thuận theo vô số hành tánh”.

Tùy chỗ biện giải về ngôn từ nơi khả năng thọ nhận, theo đấy phiền não nơi nghiệp sinh khởi cần được huân tập để cùng hành. Như kinh nói: “Tùy nơi tập khí của phiền não, nghiệp sinh khởi, chuyển biến”.

Theo chỗ căn định, bất định chuyển biến nơi khả năng thọ nhận. Như kinh nói: “Tùy theo sự sai biệt của các Tụ”.

Tùy nơi nhân của Thừa có thể hiện bày sự hành hóa nơi khả năng thọ nhận. Như kinh nói: “Tùy sự tin tưởng nơi Thừa khiến được giải thoát, theo đấy để nêu giảng giáo pháp”.

Thế nào là Thành tựu về trí nghiệp?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát lược nói việc làm đại Pháp sư, trụ nơi nghĩa thâm diệu của bậc Đại Pháp sư, giữ gìn pháp tạng của chư Phật”.

– Luận nêu: Ở đây, sự thuyết giảng, sự thọ trì, được chỉ rõ nơi hai câu: Trụ nơi nghĩa thâm diệu của bậc Đại Pháp sư:20 thứ có thể tạo sự việc của bậc Pháp sư: Một là thời. Hai là ý chân chánh. Ba là nhanh chóng. Bốn là tương tục. Năm là dần dần. Sáu là thứ lớp. Bảy là câu nghĩa theo đúng thứ lớp. Tám là chỉ rõ. Chín là vui mừng. Mười là khuyến khích. Mười một là gồm đủ các đức. Mười hai là không chê bai. Mười ba là không loạn động. Mười bốn là như pháp. Mười lăm là thuận nơi đại chúng. Mười sáu là tâm từ. Mười bảy là tâm an ổn. Mười tám là tâm thương xót. Mười chín là không vướng mắc nơi lợi dưỡng, tiếng tăm. Hai mươi là không tự tán dương mình, chê bai kẻ khác.

Thời: Là không có tám nạn. Như kệ nêu:

Như vua mang lo, buồn

Bệnh, giận đắm các đục

Ấm, xứ không hầu hạ

Sàm nịnh, không tôi trung.

Tám nạn thời như thế

Quan trí không nên nói

Tâm vương cũng như vậy

Phi thời không nên nói.

Ý chân chánh: Tức là oai nghi chính đáng an trụ, không phải là trụ không chính đáng. Nghĩa này như thế nào? Tự bước lên tòa ngồi của người khác thì không nên vì họ mà thuyết pháp. Các sự việc như vậy, trong Giới kinh đã nêu giảng rộng khắp. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát luôn kính trọng pháp. Do kính trọng pháp nên khiến cho người khác sinh tâm tôn trọng. Khi nghe pháp phải cung kính thâu giữ tâm để nghe.

Nhanh chóng (Đốn): Là ý chân chánh của Bồ-tát, vì tất cả chúng thuyết tất cả pháp, lìa bỏ cấu nhiễm do keo kiệt trong việc giảng pháp.

Tương tục: Thuyết giảng không ngừng nghỉ, xả bỏ tâm ý đố kỵ trong các pháp.

Dần dần: Tức theo như thứ lớp của câu chữ để nêu giảng.

Thứ lớp: Tức theo thứ lớp nơi nghĩa của câu chữ để thuyết giảng.

Câu nghĩa theo đúng thứ lớp: Là nêu giảng pháp đồng nghĩa, không nêu giảng pháp không đồng nghĩa.

Chỉ rõ: Tức chỉ rõ chỗ cần hiện bày.

Vui mừng: Tức vui mừng về chỗ nên vui mừng.

Khuyến khích: Nghĩa là đối với các chúng sinh khiếp nhược thì hỗ trợ khiến họ được dũng mãnh.

Gồm đủ các đức: Tức hiện trí, tỷ trí, sự chứng đắc về pháp vô tỷ đều nêu bày đầy đủ.

Không chê bai: Tức tùy thuận đạo thiện để thuyết giảng.

Không loạn động: Là không động, không lẫn lộn, chính thức hội nhập vào nơi chốn thuận hợp.

Như pháp: Là nêu giảng đầy đủ về bốn Thánh đế.

Thuận nơi đại chúng: Tức đối với bốn chúng, tám bộ, tùy chỗ có thể lãnh hội, theo đấy để thuyết giảng pháp.

Mười lăm thứ tướng như thế, Bồ-tát tùy thuận nhằm tạo lợi ích cho kẻ khác để thuyết giảng tất cả pháp.

Tâm từ: Là đối với các chúng sinh oán ghét, dấy khởi tâm từ thuyết giảng pháp.

Tâm an ổn: Là ở trong chỗ các chúng sinh hành ác, khởi tâm tạo lợi ích để nêu giảng pháp.

Tâm thương xót: Là đối nơi các chúng sinh thọ khổ, vui, dấy khởi tâm thương xót, tạo lợi lạc, vì họ thuyết giảng pháp.

Không tham vướng nơi lợi dưỡng, tiếng tăm: Tức tâm không mong cầu, luôn hành xa lìa.

Không tự tán dương mình, chê bai kẻ khác: Tức là lìa bỏ ngã mạn, các thứ tùy phiền não như ganh ghét, vì chúng sinh mà giảng nói pháp.

Năm thứ tướng như thế, Bồ-tát làm thanh tịnh nơi tự tâm.

Gồm đủ hai mươi sự việc ấy tức có thể làm Pháp sư. Đó gọi là an trụ trong nghĩa thâm diệu của bậc Đại Pháp sư.

b. Thế nào là Thành tựu về khẩu nghiệp?

– Kinh nói:Thông đạt về phương tiện của vô lượng trí, bốn Trí vô ngại, dấy khởi ngôn từ của Bồ-tát để giảng nói pháp. Bồ-tát ấy ngày đêm luôn phát huy bốn trí vô ngại. Những gì là bốn? Đó là Pháp vô ngại, Nghĩa vô ngại, Từ vô ngại và Lạc thuyết vô ngại”.

– Luận nêu: Thành tựu về khẩu nghiệp: Tức Bồ-tát dùng bốn thứ ngôn từ, âm thanh vô ngại để thuyết pháp. Như kinh nói: “Thông đạt về phương tiện của vô lượng trí v.v… cho đến: Lạc thuyết vô ngại”.

Không hoại (Phát huy): Tức là không động.

Cảnh giới của bốn vô ngại là:

  1. Thể của pháp.
  2. Thể nơi cảnh giới của pháp.
  3. Chính thức đạt được để ban cho chúng sinh.
  4. Chính thức cầu đạt cùng với vô lượng môn.

Thể của pháp: Tức xa lìa hai biên thuộc về sinh, pháp, như tướng ngăn ngại của sắc v.v…

Thể nơi cảnh giới của pháp: Tức Bồ-tát, trong việc lìa xa hai biên thuộc về sinh, pháp, trí nhận biết đúng như thật về cảnh giới. Bồ-tát ở trong cảnh giới của trí như vậy nhận biết chỗ thâu tóm của sinh, pháp, trụ như sắc. Thế nào là sắc? Là những phân biệt hư vọng của nhãn sắc v.v…

Chính thức đạt được để ban cho chúng sinh: Tức ở trong cảnh giới của trí như thật kia, tùy chỗ hoan hỷ về ngôn thuyết của kẻ khác mà nhận biết đúng đắn, nhận biết đúng đắn về chỗ tùy theo ngôn thuyết của kẻ khác mà ban cho họ.

Chính thức cầu đạt cùng với vô lượng môn: Là Bồ-tát, tùy chỗ vui thích về ngôn ngữ của kẻ khác, nhận biết đúng đắn về vô lượng thứ loại nghĩa ngữ, nhận biết để ban cho họ.

Bốn trí vô ngại này có 10 thứ sai biệt:

  1. Dựa nơi tự tướng.
  2. Dựa nơi đồng tướng.
  3. Tướng hành.
  4. Tướng thuyết giảng.
  5. Tướng trí.
  6. Tướng không ngã mạn.
  7. Tướng của Tiểu thừa, Đại thừa.
  8. Tướng của địa Bồ-tát.
  9. Tướng của địa Như Lai.
  10. Tướng tạo trụ trì.

Năm tướng sau là tướng tịnh.

Thế nào là tự tướng?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tự tướng của các pháp. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về tướng sai biệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về việc thuyết các pháp không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại để nhận biết về việc thuyết giảng thứ lớp các pháp không đoạn”.

– Luận nêu: Tự tướng có 4 thứ:

  1. Tự tướng của sinh pháp.
  2. Tự tướng sai biệt.
  3. Tự tướng kiên cố của tưởng.
  4. Tự tướng sai biệt của tưởng kia.

Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tự tướng của các pháp. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về tướng sai biệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về việc thuyết các pháp không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại để nhận biết về việc thuyết giảng thứ lớp các pháp không đoạn”.

Thuyết không hoại: Là tùy chỗ biết rõ về các tướng, tùy theo các chúng sinh kia để thuyết giảng vô số các thứ pháp.

Thuyết thứ lớp không đoạn: Tức thứ lớp không dứt, số lượng là hết sức nhiều, là vô lượng, với tên gọi khác là kiên cố theo nghĩa kia.

Thế nào là đồng tướng?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp không Thể tánh. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về tướng sinh diệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về các pháp là giả danh, nhưng không đoạn trừ việc giả danh thuyết pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, tùy chỗ giả danh không hoại vô biên pháp để nêu giảng”.

– Luận nêu: Đồng tướng có 4 thứ:

  1. Đồng tướng của tất cả pháp.
  2. Đồng tướng của tất cả pháp hữu vi.
  3. Đồng tướng của tất cả pháp giả danh.
  4. Đồng tướng nơi giả danh của giả danh.

Như kinh nói: “Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết các pháp không Thể tánh v.v… cho đến: Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, tùy chỗ giả danh không hoại vô biên pháp để nêu giảng”. Trong đó, môn vô thường nhập vào nghĩa vô ngã, nên đồng tướng thứ hai là thành tựu cảnh giới của trí thứ nhất.

Nhận biết về các pháp là giả danh nhưng không đoạn trừ việc giả danh thuyết pháp: Tức pháp giả danh thì dùng những pháp giả danh khác để nêu giảng.

Tùy chỗ giả danh không hoại vô biên pháp: Tức không hoại giả danh trước mà có thể nêu giảng về giả danh khác.

Thế nào là tướng hành?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về sự sai biệt nơi các pháp hiện tại. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về sự sai biệt nơi các pháp quá khứ vị lai. Dùng trí của Từ vô ngại nhằm nhận biết về các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, để thuyết pháp không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại nơi mỗi mỗi đời đạt được vô lượng pháp sáng, nên thuyết pháp”.

– Luận nêu: Tướng hành có 4 thứ:

  1. Tướng hành sinh.
  2. Tướng hành đã sinh, chưa sinh.
  3. Tướng hành của vật giả danh.
  4. Tướng hành nói về sự.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về sự sai biệt nơi các pháp hiện tại v.v…”. Mỗi mỗi đời nơi đời hiện tại, quá khứ, vị lai, tất cả đều do thế gian thâu nhận, nên biết. Thấy đời quá khứ, vị lai, từ chỗ nhận biết về đời hiện tại. Như vậy là Bồtát ấy đã thành tựu về cảnh giới của trí. Tướng của hành sự không ra ngoài ba đời, nên biết.

Vô lượng pháp sáng: Là pháp sáng có nhiều dị biệt.

Thế nào là tướng thuyết giảng?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp sai biệt. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về nghĩa sai biệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại, tùy theo các thứ ngôn từ, âm thanh, vì chúng sinh mà giảng nói pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, theo chỗ ưa thích hiểu biết vì họ mà giảng nói pháp”.

– Luận nêu: Tướng thuyết giảng có 4 thứ:

  1. Tướng thuyết giảng của kinh.
  2. Tướng thuyết giảng giải thích kinh.
  3. Tướng tùy thuận thuyết giảng.
  4. Tướng thuyết giảng tương tợ.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp sai biệt v.v…”.

Ở đây, tùy theo các thứ ngôn từ, âm thanh, vì chúng sinh mà giảng nói pháp: Tức tùy theo ngôn ngữ, âm thanh của các chúng sinh kia để nêu giảng.

Theo chỗ ưa thích hiểu biết vì họ mà giảng nói pháp: Là tùy nơi tâm niệm hiện có của các chúng sinh, cho đến tùy nơi vô số thí dụ hiện có để thuyết giảng.

Thế nào là tướng trí?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại, dùng pháp trí để nhận biết các pháp sai biệt không hủy hoại phương tiện. Dùng trí của Nghĩa vô ngại, dùng trí so sánh để nhận biết đúng như thật về các pháp sai biệt. Dùng trí của Từ vô ngại, dùng chánh kiến của trí thế gian để thuyết pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, dùng phương tiện của trí đệ nhất nghĩa nên thuyết pháp”.

– Luận nêu: Tướng trí có 4 thứ:

  1. Trí hiện thấy.
  2. Trí so sánh.
  3. Trí nhằm đạt được phương tiện.
  4. Trí đạt được.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại, dùng pháp trí để nhận biết các pháp sai biệt không hủy hoại phương tiện v.v…”.

Ở đây, pháp trí: Tức nhận biết về đế sai biệt, không khác với phương tiện. Pháp trí sai biệt không hủy hoại phương tiện.

Trí so sánh: Như sự phân biệt đúng như thật ở đây, thì các trường hợp khác cũng như vậy. Trí so sánh nhận biết đúng như thật về đế sai biệt.

Phương tiện của trí đệ nhất nghĩa: Tức không phải là dị thuyết điên đảo.

Thế nào là tướng không ngã mạn?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về một tướng không hoại của các pháp. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về phương tiện tích tập nhân duyên nơi ấm, giới, nhập, đế. Dùng trí của Từ vô ngại nhằm nhận biết về chỗ quy kính của tất cả thế gian nơi âm thanh, câu chữ thiện diệu, để thuyết pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, nhận biết về chỗ chuyển tăng thù thắng nơi vô lượng pháp sáng để thuyết pháp”.

– Luận nêu: Tướng không ngã mạn có 4 thứ:

  1. Tướng không ngã mạn của Đệ nhất nghĩa đế.
  2. Tướng không ngã mạn của Thế đế.
  3. Tướng không ngã mạn nói về sự tốt đẹp.
  4. Tướng không ngã mạn nói về vô thượng.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về một tướng không hoại của các pháp v.v…”.

Một tướng không hoại: Tức là vô ngã không hoại. Ngã nhận biết về vô ngã. Ngã chứng đắc về vô ngã. Như thế, nơi phương tiện hội nhập vô ngã, các ấm v.v… cùng hoại. Do đấy, Bồ-tát ấy đã thành tựu cảnh giới của trí.

  1. Tích tụ về chấp ngã.
  2. Chấp về nhân khác.
  3. Chấp nơi dục.
  4. Chấp nơi tạo tác.

Đối trị các điều này, thứ lớp như thế là phương tiện của ấm v.v…

nên biết.

Thế nào là tướng của Tiểu thừa, Đại thừa?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp không có sai biệt, thâu giữ nơi một Thừa. Dùng trí của Nghĩa vô ngại, nhận biết, phân biệt các môn sai biệt nơi các Thừa. Dùng trí của Từ vô ngại để có thể nêu giảng về các Thừa không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, nơi mỗi mỗi Thừa nêu bày về vô lượng pháp sáng”.

– Luận nêu: Tướng của Tiểu thừa, Đại thừa có 4 thứ:

  1. Tướng quán.
  2. Tướng tánh.
  3. Tướng giải thoát.
  4. Tướng niệm.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp không có sai biệt, thâu giữ nơi một Thừa v.v…”.

Nhận biết các pháp không có sai biệt, thâu giữ nơi một Thừa: Tức là nhất quán không khác, nên biết.

Có thể nêu giảng về các Thừa không hoại: Tức dựa vào chỗ đồng giải thoát, không sợ hãi.

Nêu bày về vô lượng pháp sáng: Tức vô số các thứ pháp sáng, phân biệt nêu giảng, theo trường hợp có thể hóa độ, dựa nơi vô số niệm hành thuận theo giải thoát.

Thế nào là tướng của Địa Bồ-tát?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về pháp hành, trí hành, theo trí hành nhập của tất cả Bồ-tát. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết, phân biệt nói về nẻo nhập sai biệt nơi nghĩa của mười Địa. Dùng trí của Từ vô ngại để nói về chỗ tùy thuận các nẻo địa không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại để nói về vô lượng tướng nơi mỗi mỗi địa”.

– Luận nêu: Tướng của Địa Bồ-tát có 4 thứ:

  1. Tướng trí.
  2. Tướng thuyết giảng.
  3. Tướng cùng với phương tiện.
  4. Tướng nhập vào vô lượng môn.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về pháp hành, trí hành, theo trí hành nhập của tất cả Bồ-tát v.v…”.

Hành của tất cả Bồ-tát: Tức chỉ rõ về pháp hành, trí hành, trí quán.

Mười Địa sai biệt: Là tâm nêu bày, miệng nói, nên biết.

Nêu bày không hoại, cùng tùy thuận các nẻo Địa: Là sự chỉ dạy trao truyền không điên đảo.

Thế nào là tướng của Địa Như Lai?

– Kinh nói:Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tất cả Phật, trong khoảng một niệm, chứng đắc chánh giác. Dùng trí của Nghĩa vô ngại, nhận biết về chỗ sai biệt nơi sự tướng của vô số thời. Dùng trí của Từ vô ngại, theo chỗ sai biệt nơi chánh giác để nêu giảng. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, nơi mỗi mỗi câu pháp, thuyết giảng trong vô lượng kiếp mà không cùng tận”.

– Luận nêu: Tướng của Địa Như Lai có 4 thứ:

  1. Tướng Pháp thân.
  2. Tướng sắc thân.
  3. Tướng chánh giác.
  4. Tướng thuyết giảng.

Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tất cả Phật, trong khoảng một niệm, chứng đắc chánh giác v.v…”.

Thời: Tức tùy trong những kiếp nào, thành tựu những Phật sự gì, tùy chỗ dùng những cõi Phật nào, theo thân tướng của những vị Phật nào, theo danh hiệu được thọ ký, có thể thấy nghe.

Theo chánh giác: Tức dựa nơi mười loại Phật như chánh giác, nên biết.

Thế nào là tướng tạo trụ trì?

– Kinh nói:Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về ngôn ngữ, lực, vô úy, pháp bất cộng của Phật, đại bi, trí hành vô ngại, chuyển pháp luân của tất cả chư Phật tùy thuận nơi trí Nhất thiết trí. Dùng trí của Nghĩa vô ngại để nhận biết về chỗ tùy thuận nơi âm thanh của Như Lai hiện bày tám vạn bốn ngàn thứ loại, theo chỗ sai biệt về tâm, căn, sự tin tưởng của chúng sinh. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về nẻo hành của hết thảy chúng sinh, nêu bày về âm thanh không hoại của Như Lai. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, dùng trí của chư Phật hành thần thông viên mãn, tùy theo sự tin tưởng mà thuyết pháp”.

– Luận nêu: Tướng tạo trụ trì có 4 thứ:

  1. Tướng giác ngộ.
  2. Tướng sai biệt.
  3. Tướng thuyết giảng.
  4. Tướng vô lượng.

Như kinh nói: “Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về ngôn ngữ, lực, vô úy, pháp bất cộng của Phật v.v…”.

Ngôn ngữ của Phật: Tức khả năng thuyết pháp.

Lực: Tức khả năng phá trừ chúng sinh kiêu mạn.

Vô úy: Là khả năng hàng phục các ngoại đạo.

Pháp bất cộng của Phật: Tức chỗ không đồng với hàng Nhị thừa.

Đại bi: Tức luôn có thể thuyết pháp.

Trí hành vô ngại: Tức dựa nơi chúng sinh để thuyết pháp.

Chuyển pháp luân: Là tùy thuận thuyết pháp. Tất cả sự việc ấy, trí Nhất thiết trí đều nhận biết, thông tỏ.

Tùy tâm: Là tùy nơi tâm tánh.

Trí của chư Phật hành thần thông viên mãn: Tức pháp thân của chư Phật với các pháp ấy là vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên hành không thể hoại. Nói viên mãn là tùy nơi sự tin tưởng của chúng sinh, chỉ rõ sự lạc thuyết của Bồ-tát là vô tận.

c. Thế nào là Thành tựu sự tự tại của bậc Pháp sư? Hiện rõ nơi 4 việc:

  1. Thành tựu về tổng trì.
  2. Thành tựu về thuyết giảng.
  3. Thành tựu về hỏi, đáp.
  4. Thành tựu về thọ trì.

Thế nào là thành tựu về tổng trì?

– Kinh nói:Này Phật tử! Bồ-tát khéo nhận biết về trí vô ngại như thế, an trụ nơi Địa thứ chín của bậc Bồ-tát, gọi là đạt được tạng pháp của chư Phật, có thể làm Đại Pháp sư, chứng đắc các Đà-la-ni Nghĩa, các Đà-la-ni Pháp, khởi Đà-la-ni Trí, Đà-la-ni Quang minh, Đà-la-ni Thiện ý, Đà-la-ni Chúng tài, Đà-la-ni Uy đức, Đà-la-ni Môn không chướng ngại, Đà-la-ni Vô lượng, Đà-la-ni Đạt vô số nghĩa. Chứng đắc các môn Đà-la-ni, đầy đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn môn Đà-la-ni như vậy, đầy đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn phương tiện âm thanh như vậy, gồm đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn vô lượng môn tín, lạc, thuyết pháp sai biệt như vậy, Bồ-tát ấy chứng đắc mười A-tăngkỳ trăm ngàn vô lượng môn Đà-la-ni như thế, nên có thể ở tại trụ xứ của vô lượng chư Phật lãnh hội pháp, nghe rồi thì không quên, như chỗ pháp đã lãnh hội, có thể dùng vô lượng môn sai biệt, vì mọi người diễn nói”.

– Luận nêu: Thành tựu về tổng trì có 10 thứ Đà-la-ni:

1. Đà-la-ni nghĩa. Như kinh nói: “Chứng đắc các Đà-la-ni Nghĩa”.

2. Đà-la-ni văn. Như kinh nói: “Chứng đắc các Đà-la-ni Pháp”.

3. Đà-la-ni trí. Như kinh nói: “Khởi Đà-la-ni Trí”.

4. Đà-la-ni phóng quang. Như kinh nói: “Đà-la-ni Quang minh”.

5. Đà-la-ni hàng phục kẻ khác. Như kinh nói: “Đà-la-ni Thiện ý”.

6. Đà-la-ni cúng dường Như Lai, bố thí để thâu giữ dẫn dắt các chúng sinh bần cùng. Như kinh nói: “Đà-la-ni Chúng tài”.

7. Đà-la-ni ở nơi pháp Đại thừa, đối với các chúng sinh thấp kém, chỉ dạy, tạo lợi ích. Như kinh nói: “Đà-la-ni Uy đức”.

8. Đà-la-ni biện tài không đoạn. Như kinh nói: “Chứng đắc Đà-la-ni môn không chướng ngại”.

9. Đà-la-ni lạc thuyết vô tận. Như kinh nói: “Đà-la-ni Vô lượng”.

10. Đà-la-ni lạc thuyết vô số loại nghĩa. Như kinh nói: “Đà-lani Đạt vô số nghĩa v.v… cho đến: Như chỗ pháp đã lãnh hội, có thể dùng vô lượng môn sai biệt, vì mọi người diễn nói”.

Phần văn kinh còn lại đã nói về Thành tựu về thuyết giảng. Thành tựu về hỏi đáp. Thành tựu về thọ trì: Do dễ hiểu nên không giải thích. Các phần khác như trước đã nêu.

* Kinh nói:Bồ-tát ấy, nơi chỗ một Đức Phật, dùng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn môn Đà-la-ni để nghe nhận giáo pháp. Như từ một vị Phật, nhận nghe giáo pháp, thì nơi vô lượng vô biên chư Phật khác cũng lại như vậy.

Bồ-tát ấy, vào lúc lễ kính Phật, nơi môn Pháp minh đã được nghe, có thể thọ nhận, không phải như hàng Thanh văn học nhiều, do đạt được diệu lực của đại Đà-la-ni, nên ở trong mười vạn kiếp có thể thọ trì, hành hóa.

Bồ-tát ấy, đạt được diệu lực của Đà-la-ni, diệu lực của trí vô ngại lạc thuyết như thế để giảng nói giáo pháp. Khi thuyết pháp, ở nơi pháp tòa, hiện bày khắp hết thảy ba ngàn đại thiên thếgiới, theo chỗ sai biệt nơi tâm của chúng sinh để giảng nói.

Pháp tòa của Bồ-tát ấy, chỉ trừ chư Phật cũng Bồ-tát được thọ chức, còn đối với tất cả, là thù thắng tột bật, do đạt được vô lượng pháp sáng.

Bồ-tát ấy, tại nơi pháp tòa, hoặc dùng một âm thanh để giảng nói, khiến cho hết thảy đại chúng tất có thể hiểu rõ, liền được hiểu rõ. Hoặc dùng vô số loại âm thanh để thuyết giảng, khiến cho tất cả đại chúng đều có thể mở bày, thông tỏ, liền được mở bày, thông tỏ. Hoặc chỉ phóng ra ánh sáng để thuyết giảng, khiến cho hết thảy đại chúng đều có thể hiểu pháp liền được hiểu pháp. Hoặc dùng tất cả lỗ chân lông nơi thân đều phát ra pháp âm. Hoặc dùng các thứ sắc, vật hiện có nơi Tam thiên đại thiên thế giới cùng phát ra pháp âm. Hoặc dùng một âm thanh hiện bày đủ khắp hết thảy pháp giới đều khiến được hiểu. Hoặc dùng tất cả âm thanh làm pháp thanh trụ trì. Hoặc ở nơi hết thảy âm thanh của âm nhạc ca vịnh trong khắp các thế giới, đều phát ra pháp âm. Hoặc ở trong âm thanh của một chữ phát ra âm thanh của câu chữ nơi tất cả pháp, tất cả sự sai biệt đều nêu giảng. Hoặc ở nơi thế giới không thể nói hết, với vô lượng vi trần vi tế sai biệt tích tụ khắp bốn đại địa thủy hỏa phong, trong mỗi mỗi vi trần, có các pháp môn không thể nói hết, Bồ-tát thảy đều có thể nêu giảng.

Bồ-tát ấy, đối với vô số chúng sinh hiện có trong ba ngàn đại thiên thế giới, nơi một niệm, cùng lúc nêu vấn nạn, mỗi mỗi chúng sinh kia dùng vô lượng âm thanh sai biệt để nêu vấn nạn, như một người thưa hỏi, những người còn lại đều thưa hỏi khác.

Bồ-tát ấy, trong khoảng một niệm, tất thọ nhận các thứ vấn nạn như thế, chỉ dùng một âm thanh, đều khiến họ thông tỏ. Như vậy, hai ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ba, bốn, năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc một trăm ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc một ngàn ba ngàn đại thiên thế giới. Hoặc một vạn, mười vạn, một trăm vạn, hoặc một ức ba ngàn đại thiên thế giới. Hoặc mười ức, trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến vô lượng vô biên ba ngàn đại thiên thế giới không thể nói hết, không thể nêu bày hết, chúng sinh đầy ắp trong ấy, nơi một niệm, cùng lúc nêu bày vấn nạn, mỗi mỗi chúng sinh kia, dùng vô lượng âm thanh sai biệt để nêu vấn nạn, như một người thưa hỏi, những người còn lại đều thưa hỏi khác, Bồ-tát đó, nơi một niệm cùng thọ nhận các vấn nạn như thế, chỉ dùng một âm thanh để giải thích, đều khiến mở bày, hiểu rõ.

Bồ-tát ấy, ở nơi số lượng thế giới không thể nói, không thể nêu bày, luôn thị hiện đầy đủ trong đó, tùy theo tâm ý, tùy theo căn trí, tùy theo sự tin tưởng, vì các chúng sinh mà nêu giảng pháp, chứng đắc pháp sáng, cầu đạt mười lực của Như Lai, hoàn thành các Phật sự, cùng với hết thảy chúng sinh làm nơi nương dựa.

Bồ-tát ấy, càng thêm tinh tấn gấp bội, thâu giữ được trí sáng như thế, hoặc ở nơi mỗi mỗi đầu sợi lông nơi thân tướng, đều có đại hội của Như Lai nhiều như số vi trần nơi số lượng thế giới không thể nêu bày, không thể nói hết, Đức Phật ở nơi các đại hội ấy, vì chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp. Mỗi mỗi Đức Như Lai, vì số lượng chúng sinh nhiều như số vi trần nơi số lượng thế giới, không thể nói hết, không thể nêu bày hết, vì họ mà nói pháp. Trong tâm của mỗi mỗi chúng sinh ở đây, đều có Đức Như Lai từ tâm sinh, nhiều như số vi trần nơi số lượng thế giới không thể nói, không thể nêu bày, tùy theo tâm niệm của chúng sinh như vậy mà trao cho pháp môn. Như một Đức Phật, tất cả Phật nơi mỗi mỗi đầu sợi lông cũng lại như vậy. Như thế, nơi hết thảy pháp giới, trong đó, sinh khởi lực dụng lớn của sự nhớ nghĩ, nơi khoảng một niệm, từ trụ xứ của tất cả Phật, Bồ-tát thọ nhận hết thảy pháp sáng, không hề mất một câu, huống chi là việc thuyết giảng cho chúng sinh trong tất cả thế giới.

Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát, càng chuyển tăng, thù thắng, ngày đêm không còn có niệm nào khác ngoài niệm hội nhập cảnh giới Phật, luôn được gần gũi tất cả chư Phật, thông tỏ sự giải thoát thâm diệu của bậc Bồ-tát.

Bồ-tát ấy, tùy thuận nơi trí như thế, thường nhập Tam-muội, không lìa việc thân cận chư Phật. Ở trong mỗi mỗi kiếp, thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm Phật, vô lượng ngàn Phật, vô lượng trăm ngàn Phật, vô lượng trăm ngàn na-do-tha Phật, vô lượng ức Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Phật, dùng các vật cúng dường thượng diệu để cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán, gần gũi chư Phật, ở tại trụ xứ của chư Phật, thông đạt vô số vấn nạn, vô số Đà-la-ni thuyết pháp.

Bồ-tát ấy, nơi các căn thiện của mình càng chuyển tăng thanh tịnh, sáng tỏ. Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc tạo ra các vật dụng trang sức cho bậc Chuyển luân Thánh vương hoặc đeo nơi cổ trước, cổ sau, thì hết thảy vật dụng trang sức hiện có của các hàng tiểu vương nơi bốn châu thiên hạ đều không thể sánh kịp. Này Phật tử! Cũng vậy, Bồ-tát trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồ-tát này, các căn thiện hiện có đã chuyển tăng, càng thêm sáng, sạch, hàng Nhị thừa và các Bồ-tát nơi Địa dưới đều không thể hủy hoại.

Bồ-tát ấy, căn thiện càng chuyển tăng, có thể soi chiếu vùng rừng rậm nơi tâm phiền não của chúng sinh, soi chiếu rồi, trở lại thâu giữ, dẫn dắt. Ví như Đại Phạm Vương, trong hai ngàn thế giới, với tất cả những chốn sâu rộng, đông đúc, thảy đều có thể soi chiếu. Này Phật tử! Cũng vậy, Bồ-tát trụ trong Địa Thiện Tuệ của bậc Bồtát này, các căn thiện hiện có đều sáng tỏ, soi chiếu vùng rừng rậm nơi tâm phiền não của chúng sinh, soi chiếu rồi thì trở lại thâu giữ. Bồ-tát này, trong mười Ba-la-mật, thì Lực Ba-la-mật tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là theo sức, theo phần.

Này Phật tử! Đó là lược nói về Địa Thiện Tuệ, là Địa thứ chín của bậc Bồ-tát. Nếu nói rộng, thì ở trong vô lượng kiếp cũng không thể nói hết. Bồ-tát trụ trong Địa này, nhiều lần làm Đại Phạm Thiên vương, đạt uy lực lớn, làm chủ hai ngàn thế giới, nơi các thứ tự tại đều đạt được tự tại, hiểu biết chân chánh, đúng như thật là thù thắng bậc nhất, khéo có thể giảng nói rõ về hành Ba-la-mật của bậc Bồtát, hàng Nhị thừa, về vấn nạn của chúng sinh là không thể cùng tận. Các nghiệp thiện đã tạo nơi bố trí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành, những phước đức ấy đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát v.v… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, thường khởi tâm này: Ta nên đối với tất cả chúng sinh là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tấn. Do dũng lực của tinh tấn ở trong một niệm, chứng đắc các Tam-muội nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Thấy chư Phật nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Nhận biết thần lực của Phật nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể làm chuyển động các thế giới nhiều như số vi trần nơi mười A-tăngkỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể đi vào các thế giới nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có khả năng soi chiếu các thế giới nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể giáo hóa các chúng sinh nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể trụ thọ số lượng kiếp nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể nhận biết các sự việc trong các đời quá khứ vị lai, với số lượng kiếp mỗi đời nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể khéo hội nhập vào các pháp môn nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể biến hóa thân nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Mỗi mỗi thân có thể thị hiện các Bồ-tát nhiều như số vi trần nơi mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật, dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại, thù thắng, hơn hết, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số các thứ thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh, nơi sự hành hóa, sự trang nghiêm, sự gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thế tính biết hết”.

HẾT – QUYỂN 11