LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 10

Địa thứ tám: ĐỊA BẤT ĐỘNG

* Luận nêu: Trong Địa thứ tám7 thứ tướng sai biệt:

  1. Nêu rõ chung về phương tiện tạo hợp Địa.
  2. Đạt được tịnh nhẫn.
  3. Đạt được hành thù thắng.
  4. Làm thanh tịnh cõi Phật.
  5. Đạt được tự tại.
  6. Đạt được thù thắng lớn.
  7. Giải thích tên gọi.

1. Thế nào là Nêu rõ chung về phương tiện tạo hợp Địa?

– Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát ở trong bảy Địa, khéo tích tập tuệ phương tiện, khéo làm thanh tịnh các hành, khéo tập hợp pháp trợ đạo, khéo phát khởi đại nguyện lực, khéo làm tăng thêm sự gia hộ từ diệu lực của Như Lai, từ lực dụng của căn thiện đạt được diệu lực, thường nhớ nghĩ, tùy thuận nơi mười tám pháp bất cộng, mười lực, bốn vô úy của Như Lai, khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa, nhận biết, thành tựu phước đức, trí lực, đại từ bi nên không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh, thông đạt vô lượng trí đạo”.

– Luận nêu: Nêu rõ chung về phương tiện tạo hợp địa: Do chung cho bảy Địa nên có đồng tướng và biệt tướng.

Thế nào là Đồng tướng? Đồng tướng có 3 thứ:

1. Hai thứ vô ngã, chứng đắc, chứng đắc tối thượng.

2. Đạo không trụ thanh tịnh.

3. Trí phương tiện nơi hành gồm thâu đầy đủ các pháp phần trợ Bồ-đề. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát ở trong bảy Địa, khéo tích tập tuệ phương tiện, khéo làm thanh tịnh các hành, khéo tập hợp pháp trợ đạo”.

Thế nào là Biệt tướng? Tức khéo phát khởi đại nguyện lực, giống với các Địa, như nơi Địa thứ nhất. Như kinh nói: “Khéo phát khởi đại nguyện lực”.

Trong Địa thứ hai: Do đó, Ta nên cùng hành mười đạo nghiệp thiện, tu tập nhất thiết chủng, khiến đạt được thanh tịnh, đầy đủ diệu lực của Như Lai nơi xứ kia. Như kinh nói: “Khéo làm tăng thêm sự gia hộ từ diệu lực của Như Lai”.

Nơi Địa thứ ba: Nhàm chán, đạt được thiền định không thoái chuyển, từ lực dụng của căn thiện nên có thể thông đạt. Như kinh nói: “Từ lực dụng của căn thiện đạt được diệu lực”.

Trong Địa thứ tư: Pháp được thuyết giảng khiến các chướng ngại nơi trí giáo hóa, trí phân biệt đều được thanh tịnh, suy niệm hơn hẳn, thông đạt pháp Phật. Như kinh nói: “Thường nhớ nghĩ, tùy thuận nơi mười tám pháp bất cộng, mười lực, bốn vô úy của Như Lai”.

Nơi Địa thứ năm: Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng, khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa. Như kinh nói: “Khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa, nhận biết”.

Trong Địa thứ sáu: Đại bi tự tại đứng đầu, tăng thượng, quán nhân duyên hợp tập, thành tựu phước đức, trí lực. Như kinh nói: “Thành tựu phước đức, trí lực”.

Nơi Địa thứ bảy: Trí tuệ phương tiện phát khởi đạo thù thắng, không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh. Như kinh nói: “Đại từ bi nên không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh”. Do vô lượng cảnh giới chúng sinh, nên hội nhập nơi vô lượng trí đạo. Như kinh nói: “Thông đạt vô lượng trí đạo”.

Như vậy là Địa thứ tám đã Nêu rõ chung về phương tiện tập hợp địa.

2. Thế nào là Đạt được tịnh nhẫn? Tức đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Nên biết Bồ-tát ấy đạt thanh tịnh, tự nhiên hành không dụng công.

– Kinh nói:Hội nhập nơi tất cả các pháp xưa nay là không sinh, không thành, không tướng, không xuất, không mất, vô tận, không hành, không phải là có tánh có, đầu giữa sau đều bình đẳng, chân như không phân biệt, hội nhập nơi trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy xa lìa hết thảy sự nhớ tưởng phân biệt của tâm ý thức, không chốn tham chấp, bình đẳng như hư không, hội nhập nơi tất cả pháp, tánh như hư không. Đó gọi là đạt được pháp Nhẫn vô sinh”.

– Luận nêu: Lại nữa, nhẫn ấy ở trong 4 thứ vô sinh, nên biết. Bốn thứ vô sinh là:

  1. Sự vô sinh.
  2. Tự tánh vô sinh.
  3. Số lượng sai biệt vô sinh.
  4. Tạo nghiệp sai biệt vô sinh.

Sự vô sinh: Cho là thật có 7 thứ sự:

1. Trong phần tịnh nơi pháp vốn có thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Hội nhập nơi tất cả các pháp xưa nay là không sinh”.

2. Mỗi lượt mới sinh là có thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không thành”.

3. Tướng là thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không tướng”.

4. Biên vực sau là thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không xuất”.

5. Biên vực trước là thật: Là chướng phiền não trong phần nhiễm. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không mất”.

6. Cùng tận là thật, như các chúng sinh. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là vô tận”.

7. Tạp nhiễm là thật, như trong phần tịnh. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không hành”.

Tự tánh vô sinh: Là pháp này vô ngã, pháp kia vô ngã. Tự thể là vô tánh. Như kinh nói: “Không phải là có tánh có”. Bồ-tát quán xét về sự, ở đây là pháp Nhẫn vô sinh nên không thể cho là quán không thật có, vì pháp vô ngã và không có hai tướng.

Số lượng sai biệt vô sinh: Tức ở trong ba thời, pháp nhiễm tịnh không tăng giảm. Như kinh nói: “Đầu giữa sau đều bình đẳng”.

Tạo nghiệp sai biệt vô sinh: Tức ở nơi chân như, trí Phật không phân biệt, thanh tịnh. Như kinh nói: “Chân như không phân biệt, hội nhập nơi trí Nhất thiết trí”.

Như vậy là chỉ rõ về quán pháp Nhẫn vô sinh.

Tiếp theo là chỉ rõ về hành xa lìa báo, tưởng nơi cảnh giới phân biệt, tưởng nơi tánh thâu nhận phân biệt. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy xa lìa hết thảy sự nhớ tưởng phân biệt của tâm ý thức”.

Tưởng là xa lìa tưởng chướng ngại pháp, không phải là tưởng nơi pháp không đối trị. Bồ-tát đối trị tưởng ở trong Địa tiếp sau có 3 thứ sự thù thắng:

1. Hành tự nhiên, không dụng công. Như kinh nói: “Không chốn tham chấp”.

2. Hiện bày khắp nơi tướng của tất cả pháp. Như kinh nói: “Bình đẳng như hư không”.

3. Hành tự nhiên, hội nhập nơi chân như bất động. Như kinh nói: “Hội nhập nơi tất cả pháp, tánh như hư không” Đó gọi là đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

3. Thế nào là Đạt được hành thù thắng?

– Kinh nói:Lại nữa, này Phật tử! Thành tựu pháp Nhẫn như vậy, Bồ-tát tức thì được vào Địa Bất Động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, được gọi là Bồ-tát hành trì sâu xa khó có thể nhận biết, không thể phân biệt, vì lìa tất cả tướng, lìa hết thảy tưởng, lìa hết thảy tham chấp, vô lượng vô biên, tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại, tịch tĩnh, tất cả đều tịch tĩnh và luôn hiện tiền.

Này Phật tử! Ví như Tỳ-kheo chứng đắc đầy đủ thần thông, tâm được tự tại, thứ lớp nhập định diệt tận. Tất cả các thứ nhớ tưởng phân biệt của tâm động thảy đều dứt sạch. Phật tử! Bồ-tát cũng như thế. An trụ nơi Địa Bất Động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, tức lìa hết thảy hành có dụng công cùng các thứ nhớ nghĩ, đạt được pháp không dụng công, lìa sự việc tạo tác nơi thân khẩu ý, an trụ nơi hành báo thành tựu.

Này Phật tử! Ví như có người, trong mộng thấy thân bị rớt xuống dòng sông lớn. Người ấy bấy giờ phát khởi sự dũng mãnh lớn, hiện bày đại phương tiện nhằm ra khỏi sông sâu. Lúc phát khởi sự dũng mãnh, hốt nhiên thức giấc. Thức giấc rồi, người ấy liền lìa sự việc nơi phương tiện dũng mãnh đã dựa vào. Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy. Từ lúc mới phát tâm trở đi, thấy các chúng sinh rơi chìm nơi bốn sông lớn, nên phát khởi sức tinh tấn lớn, rộng tu hành đạo, đến Địa Bất Động, liền lìa tất cả tưởng nơi hành có dụng công. Bồtát ấy, tất cả đều không hành hai tâm, các nẻo nhớ tưởng không còn hiện tiền nữa.

Này Phật tử! Ví như sinh nơi cõi Phạm thiên, tất cả phiền não nơi cõi Dục đều không hiện hành. Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy. An trụ nơi Địa Bất Động ấy, hết thảy tâm ý thức đều không hiện hành. Tất cả tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Bồ-tát, tâm Niết-bàn đều không hiện hành, huống chi là hành tâm thế gian”.

– Luận nêu: Ở đây:

Đạt được hành thù thắng: Tức đạt được hành sâu xa. Hành sâu xa có 7 thứ:

1. Sâu xa do khó hội nhập. Như kinh nói: “Lại nữa, này Phật tử! Thành tựu pháp Nhẫn như vậy, Bồ-tát tức thì được vào Địa Bất Động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, được gọi là Bồ-tát hành trì sâu xa khó có thể nhận biết”.

2. Sâu xa do đồng hành: Tức nơi các Địa thanh tịnh, Bồ-tát đồng hành. Như kinh nói: “Không thể phân biệt”.

3. Sâu xa của cảnh giới: Là chủ thể chọn lấy, đối tượng được chọn lấy đều không hiện tiền. Như kinh nói: “Vì lìa tất cả tướng, lìa hết thảy tưởng, lìa hết thảy tham chấp”. Ngăn chận tất cả tưởng về chướng, nên gọi là lìa hết thảy tham chấp.

4. Sâu xa của sự tu hành: Là hành tự lợi, lợi tha. Như kinh nói: “Vô lượng vô biên”.

5. Sâu xa do không thoái chuyển. Như kinh nói: “Tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại”.

6. Sâu xa do lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Tịch tĩnh”.

7. Sâu xa do đối trị, hiện tiền. Như kinh nói: “Tất cả đều tịch tĩnh và luôn hiện tiền”. Là chân như nên hết thảy tịch tĩnh.

Dụ về định diệt tận: Là chỉ rõ về hành tịch diệt kia. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như Tỳ-kheo chứng đắc đầy đủ thần thông v.v… cho đến: Lìa sự việc tạo tác nơi thân khẩu ý, an trụ nơi hành báo thành tựu”.

Tất cả các thứ nhớ tưởng phân biệt của tâm động thảy đều dứt sạch: Tức không còn nơi chốn nương dựa.

Lìa hết thảy hành có dụng công: Tức vượt quá cảnh giới của hành dụng công.

Đạt được pháp không dụng công: Tức đạt pháp đối trị nơi hành kia. Do đạt được pháp không dụng công, nên hành trì tự nhiên. An trụ nơi hành báo, chỉ rõ chỗ đạt được pháp trái với hành có dụng công.

An trụ nơi hành báo thành tựu: Tức khéo trụ nơi thức A-lê-da trong pháp chân như.

Dụ về nằm mộng, thức giấc: Là chỉ rõ trong hành này có sự ngăn chận tưởng lỗi lầm, vì có tưởng chánh trí, vì hành ấy là tịch diệt. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như có người, trong mộng thấy thân bị rớt xuống dòng sông lớn v.v…”. Ở đây, dựa nơi Niết-bàn, thế gian thanh tịnh nên hai tâm không hiện hành. Dựa nơi cảnh giới thọ dụng nên niệm, tưởng không hiện hành.

Dụ về sinh nơi cõi Phạm thiên: Là đối với Địa dưới, tâm hoàn toàn không hiện hành để đạt được phần báo nơi Địa. Ở đây là nói về chỗ thù thắng do xa lìa. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như sinh nơi cõi Phạm thiên v.v… cho đến: Huống chi là hành tâm thế gian”.

Ở đây, hành thuận, hành không thuận, hai phần: Tâm v.v…, Phật v.v… không hiện hành. Đại thừa, Tiểu thừa có sai biệt. Trong Đại thừa, Tiểu thừa, chúng sinh và pháp có sai biệt, nên hữu học, vô học có sai biệt. Phật cùng Niết-bàn có sai biệt. Những sự nêu bày như thế, nên biết. Trong ấy:

Hành thuận: Là trong phần hành thuận, tâm v.v… không hiện hành. Như kinh nói: “Hết thảy tâm ý thức đều không hiện hành”.

Hành không thuận: Là trong phần hành không thuận, Phật v.v…

không hiện hành. Như kinh nói: “Tất cả tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Bồ-tát, tâm Niết-bàn đều không hiện hành”.

Đại thừa, Tiểu thừa có sai biệt. Trong Đại thừa có sai biệt: Là Phật, Bồ-tát, Niết-bàn có sai biệt. Trong Tiểu thừa có sai biệt: Là Thanh văn, Niết-bàn, A-la-hán có sai biệt.

Trong Đại thừa, chúng sinh và pháp có sai biệt: Là Phật, Bồ-tát có sai biệt. Pháp có sai biệt: Là Bồ-đề, Niết-bàn có sai biệt.

Trong Tiểu thừa, hữu học, vô học, chúng sinh có sai biệt. Ở đây, pháp có sai biệt: Là Niết-bàn có sai biệt. Vô học có sai biệt: Là A-lahán có sai biệt. Hữu học có sai biệt: Là A-na-hàm có sai biệt.

Các hành như vậy thảy đều không hành.

– Kinh nói:Này Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được Địa Bất Động này rồi, an trụ nơi diệu lực của bản nguyện. Bấy giờ, chư Phật, trong dòng chảy của nẻo pháp, đã ban cho trí tuệ của Như Lai, lại nói: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ông đã đạt được pháp Nhẫn rốt ráo ấy, thuận nơi pháp của tất cả chư Phật. Này thiện nam! Chúng ta đã thành tựu mười tám pháp bất cộng của Phật, bốn vô sở úy, mười lực hiện có. Ông nay chưa đạt được, vậy phải nên thành tựu pháp của chư Phật, siêng năng, tinh tấn cầu đạt, cũng chớ xả bỏ môn Nhẫn này”.

– Luận nêu: Ở đây, ban cho trí tuệ của Như Lai là chuyển tăng nơi hành sâu xa kia ưa thích tâm đầy đủ, là tán thán chỗ đạt pháp tối thượng, nên không thủ đắc nơi sự tu hành, dẫn dạy, trao truyền. Nếu không xả bỏ pháp Nhẫn này, hành không thủ đắc, thì mới thành tựu tất cả pháp Phật, vì dựa vào pháp Nhẫn ấy mới có năng lực để có thể tạo tác. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được Địa Bất Động này rồi, an trụ nơi diệu lực của bản nguyện v.v… cho đến: Cũng chớ xả bỏ môn Nhẫn này”.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Ông tuy đạt được pháp giải thoát vắng lặng ấy, nhưng các chúng sinh phàm phu ở đây là không thiện, không vắng lặng, luôn ở trong vô số các thứ phiền não được tích tập, bị đủ các loại giác quán (Tầm tứ) của dị niệm làm hại. Ông phải thương xót, nhớ nghĩ đến các chúng sinh như thế”.

– Luận nêu: Dựa vào các chúng sinh như thế, họ không có được lợi ích lớn, do hiện khởi phiền não, kiết sử cả nơi phần tại gia, xuất gia, tham chấp sâu nơi phiền não. Các chúng sinh ấy cần được xoay chuyển. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông tuy đạt được pháp giải thoát vắng lặng ấy v.v…”.

Không thiện: Là hiện khởi phiền não cấu nhiễm.

Không vắng lặng: Là không xa lìa các thứ kiết sử kia.

Luôn ở trong vô số các thứ phiền não được tích tập: Là ở trong phần tại gia.

Bị đủ các loại giác quán của dị niệm làm hại: Là chỉ nơi phần xuất gia.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Ông nên nhớ nghĩ về sở nguyện từ xưa là nhằm tạo lợi ích lớn cho chúng sinh, là nhằm đạt được môn trí tuệ không thể nghĩ bàn”.-

– Luận nêu: Dựa nơi bản nguyện là nhằm giáo hóa chúng sinh, trí hành hóa rộng khắp, nên có thể xoay chuyển. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nên nhớ nghĩ về sở nguyện từ xưa v.v…”.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Pháp tánh trong tất cả pháp ấy, dù có Phật, không Phật thì pháp giới vẫn thường trụ. Chư Như Lai do không thủ đắc pháp ấy, nên gọi là Phật. Hàng Nhị thừa cũng đạt được pháp không phân biệt này”.-

– Luận nêu: Dựa nơi nghĩa bất cộng. Cần xoay chuyển chỗ cấu nhiễm do công hạnh đã mệt mỏi nơi hàng Nhị thừa.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Ông nên quán xét nơi chúng ta có vô lượng thân thanh tịnh, vô lượng trí tuệ, vô lượng cõi nước Phật, vô lượng hào quang, vô lượng trí phát khởi, vô lượng âm thanh thanh tịnh. Ông nay nên phát khởi các sự việc như vậy”.

– Luận nêu: Vô lượng thân thanh tịnh v.v…: Là chỉ rõ sự thành tựu diệu lực hiện có nơi pháp Phật, dựa vào việc tạo lợi ích cho chúng sinh. Công việc tạo lợi ích cho chúng sinh này, là thân nên dùng sự việc gì? Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nên quán xét nơi chúng ta có vô lượng thân thanh tịnh”.

Dùng những trí gì? Là trí của Thế đế, trí của Đệ nhất nghĩa đế. Như kinh nói: “Vô lượng trí tuệ”.

Do những cõi nước thanh tịnh nào? Như kinh nói: “Vô lượng cõi nước Phật”.

Dùng những gì để thâu phục? Như kinh nói: “Vô lượng hào quang”.

Tùy chỗ chúng sinh nên độ mà trí tuệ hành hóa. Như kinh nói: “Vô lượng trí phát khởi”.

Theo chỗ ngôn thuyết thuận hợp. Như kinh nói: “Vô lượng âm thanh thanh tịnh”.

Tất cả là chỉ rõ: “Ông nay nên phát khởi các sự việc như vậy”.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Ông nay vừa đạt được một pháp minh ấy, đó là pháp minh tất cả các pháp vắng lặng, không phân biệt. Như vậy, này thiện nam! Pháp minh của Như Lai với vô lượng hội nhập, vô lượng tạo tác, vô lượng chuyển biến. Ông vì đã đạt được pháp minh kia, phải nên phát khởi pháp này”.

– Luận nêu: Lại chỉ rõ về vô lượng hành thù thắng của chư Phật. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nay vừa đạt được một pháp minh ấy v.v…”.

Vô lượng hội nhập: Là các pháp môn sai biệt.

Vô lượng tạo tác: Là tạo sự việc sai biệt.

Vô lượng chuyển biến: Là sự sai biệt về việc dựa vào nẻo vô thượng tăng thượng không gián đoạn.

– Kinh nói:Lại nữa, này thiện nam! Ông quán xét về vô lượng cõi nước, vô lượng chúng sinh, vô lượng pháp sai biệt nơi mười phương. Ông nên thông đạt tận cùng các sự việc như thế. Này Phật tử! Như vậy là chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí tuệ hiện khởi như thế. Do vô lượng môn trí tuệ đó, nên Bồ-tát này có thể phát khởi vô lượng nghiệp sai biệt, thảy đều thành tựu”.

– Luận nêu: Hiện tại sự tạo tác của Bồ-tát còn ít. Theo chỗ nhận thấy về sự sai biệt nơi vô lượng thế giới, chúng sinh, các pháp, chỉ nên cần quán một phần ít, tức có thể thành tựu sự xoay chuyển. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông quán xét về vô lượng cõi nước, vô lượng chúng sinh v.v…”.

– Kinh nói:Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: Này Phật tử! Nếu chư Phật không ban cho Bồ-tát này môn trí hiện khởi như thế, thì bấy giờ, Bồ-tát ấy, tức nhập Niết-bàn, từ bỏ việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí hiện khởi, nên ở trong một niệm đã dấy khởi nghiệp trí, so với Bồ-tát từ lúc mới phát tâm trở đi, cho đến hết Địa thứ bảy, thì toàn bộ nghiệp trí có được ấy, trăm phần không bằng một, ngàn phần, trăm ngàn phần, trăm ngàn na-do-tha phần, ức phần, trăm ức phần, ngàn ức phần, trăm ngàn ức phần, trăm ngàn ức na-do-tha phần, không bằng một. Cho đến vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phần, cũng không bằng một. Cho đến không thể dùng toán số, thí dụ để đạt được. Vì sao? Này Phật tử! Vì trước kia chỉ một thân phát khởi hành khởi. Nay, trong Địa thứ tám của bậc Bồ-tát này, đã đạt được vô lượng thân sai biệt của bậc Bồ-tát, tập hợp vô lượng hành lực, vô lượng âm thanh hiện khởi, vô lượng trí tuệ hiện khởi, vô lượng đời hiện khởi, vô lượng cõi nước thanh tịnh, giáo hóa vô lượng chúng sinh, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, tùy thuận nhận biết vô lượng pháp, đạt được vô lượng lực thần thông hiện khởi, vô lượng chúng hội sai biệt, vô lượng nghiệp thân khẩu ý tích tập hành lực của tất cả Bồ-tát, do pháp bất động.

Này Phật tử! Ví như đi thuyền muốn vào biển cả, thời gian chưa đến nơi thì dùng nhiều công sức. Nếu đã tới biển cả thì không còn dùng sức nữa, chỉ nhờ vào sức gió đưa thuyền đi. Như vậy, một ngày đi được nơi biển lớn vào lúc này, so với công sức chèo chống trước thì cả đến trăm năm cũng không thể bằng. Như thế, này Phật tử! Bồtát khéo tập hợp các căn thiện làm hành trang, đi trên thuyền Đại thừa, đến chốn hành hóa của Bồ-tát, là biển lớn trí tuệ, trong khoảng một niệm, trí không dụng công có thể hội nhập nơi cảnh giới của trí Nhất thiết trí, thì đối với hành công đức vốn có, hoặc một kiếp, hoặc trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể bằng được”.

– Luận nêu: Ở đây:

Tức nhập Niết-bàn: Là chỉ rõ việc ban cho trí tuệ. Như kinh nói: “Do chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí hiện khởi v.v… cho đến: Do pháp bất động”.

Do chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí hiện khởi: Tức trong sự hành hóa của Bồ-tát đã gồm thâu nhân công đức thù thắng, cùng tạo sự giáo hóa nêu giảng trao truyền. Cho đến toán số v.v… thứ lớp đã giải thích, nên biết.

Số phần: Tức là tính toán, như một cộng một bằng hai v.v… Các dụ như thế cũng không bằng một, tức sự việc ấy không thể dùng dụ để so sánh.

Vô lượng thân sai biệt: Là tất cả thân của Bồ-tát, tin hiểu như tự thân. Vô lượng âm thanh hiện khởi như vậy v.v… cũng là vô lượng, nên biết. Mười câu này, dựa nơi sự giáo hóa chúng sinh, dựa nơi sự tập hợp hành trợ đạo, dựa nơi chướng ngại đã được thanh tịnh, nên biết. Tùy nơi thân trụ, tùy chỗ nêu giảng, tùy việc dựa nơi trí, tùy chỗ chọn lấy đời sống, tùy nơi cõi nước nào có thể giáo hóa chúng sinh, tùy sự tập hợp công đức trợ đạo, tập hợp trí tuệ trợ đạo, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, tùy thuận nhận biết vô lượng pháp, tùy nơi chướng ngại của thần thông, chướng ngại của chánh giác đã được thanh tịnh. Tất cả nơi chốn này, tùy thuận nơi vô lượng nghiệp thân khẩu ý, nên biết.

Do pháp bất động: Tức sự tích tập không gián đoạn.

Ví như đi thuyền v.v… cho đến: Hoặc trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể bằng được: Thuyền là dụ cho sự đi lại mau chóng của Bồtát, chỉ rõ sự nhận biết nhân thù thắng.

Khéo tập hợp các căn thiện làm hành trang: Là ở trong bảy Địa tu tập hạnh Bồ-tát.

Đi trên thuyền Đại thừa, đến chốn hành hóa của Bồ-tát, là biển lớn trí tuệ: Là biển trí tuệ của tám Địa, nên biết.

4. Thế nào là Làm thanh tịnh cõi Phật? Việc làm thanh tịnh cõi Phật này có 3 thứ hành tự tại:

  1. Hành tự tại nơi khí thế gian.
  2. Hành tự tại nơi thế gian của chúng sinh.
  3. Hành tự tại của trí chánh giác.

a. Thế nào là Hành tự tại nơi khí thế gian?

– Kinh nói:Này Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, từ tuệ phương tiện lớn, khởi tâm không dụng công, ở nơi đạo Bồ-tát quán xét diệu lực của trí Nhất thiết trí. Đó là quán thế gian thành, quán thế gian hoại. Bồ-tát này, theo chỗ thế gian thành đều nhận biết đúng như thật, theo chỗ thế gian hoại đều nhận biết đúng như thật. Theo nhân duyên của nghiệp tích tập, nên thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo nhân duyên của nghiệp hết, nên thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian hoại, Bồtát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian thành trụ, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian hoại trụ, Bồ-tát cũng nhận biết.

Bồ-tát ấy nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của địa giới. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của thủy giới, hỏa giới, phong giới. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng vi tế, tướng thô, tướng vô lượng, tướng sai biệt của vi trần. Tùy trong thế giới nào những vi trần hợp tan hiện có, vi trần sai biệt, thảy đều có thể nhận biết. Tùy trong thế giới nào, bao nhiêu vi trần hiện có nơi địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, thảy đều có thể nhận biết. Bao nhiêu vi trần hiện có nơi thân chúng sinh, nơi thân cõi nước, thảy đều có thể nhận biết. Bồ-tát ấy nhận biết về sự sai biệt nơi thân thô, thân vi tế của các chúng sinh với từng ấy vi trần để thành tựu. Nhận biết về thân địa ngục, thân súc sinh, thân ngạ quỷ, dựa nơi từng ấy vi trần để thành tựu. Nhận biết về thân A-tu-la, thân trời, thân người, dựa nơi từng ấy vi trần để thành tựu.

Bồ-tát ấy dùng trí để thông đạt, hội nhập phân biệt về vi trần như vậy rồi, nhận biết về sự thành hoại của ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, hội nhập trong trí lượng xét về ba cõi như thế. Bồ-tát ấy lại khéo dấy khởi trí sáng, khéo nhận biết về thân chúng sinh sai biệt, khéo nhận biết, phân biệt về thân chúng sinh, khéo quán xét về nơi chốn nên sinh. Bồ-tát ấy tùy nơi chốn sinh của chúng sinh, tùy chỗ tập hợp nghiệp nơi thân chúng sinh, để vì họ mà thọ thân, nhằm giáo hóa, dẫn dắt. Bồ-tát này hiện thân đủ khắp nơi ba ngàn đại thiên thế giới, thuận theo thân chúng sinh, mỗi mỗi đều sai biệt, như thế là tùy thuận nơi sinh, khởi ánh sáng hiện tiền, hoặc nơi hai, ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ba, bốn, năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc một trăm ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ngàn, hoặc vạn, hoặc trăm vạn, hoặc ngàn vạn, hoặc trăm ngàn vạn, hoặc ức vạn, hoặc trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến vô lượng vô biên không thể nêu, không thể nói hết nơi ba ngàn đại thiên thế giới, hiện thân đủ khắp trong ấy, thuận nơi tự thân của chúng sinh, với sự tin tưởng sai biệt, nơi chốn sinh như thế, khởi trí ánh sáng hiện tiền, tùy thuận. Bồ-tát ấy thành tựu trí tuệ như vậy, ở nơi một cõi Phật, thân không dao động, cho đến ở nơi vô lượng không thể nói hết cõi nước của chư Phật, nơi các chúng hội đều khởi ánh sáng hiện tiền”.

– Luận nêu: Hành tự tại nơi khí thế gian:5 thứ tự tại:

  1. Tùy chỗ mong muốn của tâm, Bồ-tát có thể hiện cùng không hiện.
  2. Tùy sự mong muốn nào đó, Bồ-tát có thể hiện.
  3. Tùy bao nhiêu thời gian mong muốn, Bồ-tát tức thời hiện.
  4. Tùy chỗ mong muốn rộng hẹp, Bồ-tát có thể hiện.
  5. Tùy tâm có bao nhiêu mong muốn, Bồ-tát có thể hiện.

Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, từ tuệ phương tiện lớn, khởi tâm không dụng công, ở nơi đạo Bồ-tát quán xét diệu lực của trí Nhất thiết trí. Đó là quán thế gian thành, quán thế gian hoại. Bồ-tát này, theo chỗ thế gian thành đều nhận biết đúng như thật, theo chỗ thế gian hoại đều nhận biết đúng như thật”.

Sự thành hoại v.v… của thế giới này: Thứ nhất, trong hành tự tại nơi khí thế gian, tùy chỗ mong muốn của tâm, Bồ-tát có thể hiện cùng không hiện. Theo nhân duyên của nghiệp tích tập, nên thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo nhân duyên của nghiệp hết, nên thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết: Là tận trí của nghiệp tập.

Thứ hai, tùy sự mong muốn nào đó, Bồ-tát có thể hiện. Theo thời gian của thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian thành trụ, Bồ-tát cũng nhận biết. Theo thời gian của thế gian hoại trụ, Bồ-tát cũng nhận biết: Là trí tùy theo thời gian của thế gian thành v.v…

Thứ ba, tùy bao nhiêu thời gian mong muốn, Bồ-tát tức thời hiện. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của địa giới v.v… cho đến: Nhận biết về thân A-tu-la, thân trời, thân người, dựa nơi từng ấy vi trần để thành tựu: Là trí nhận biết tướng sai biệt của địa giới v.v…

Thứ tư, tùy chỗ mong muốn rộng hẹp, Bồ-tát có thể hiện. Bồ-tát ấy hội nhập nơi trí phân biệt về vi trần như vậy rồi, cho đến: Khởi ánh sáng hiện tiền: Là trí nhận biết về thành hoại. Cho đến ở nơi một cõi Phật, thân không dao động.

Thứ năm, tùy tâm có bao nhiêu mong muốn, Bồ-tát có thể hiện. Trong đó, thứ lớp của địa giới v.v… là trí cảnh giới, trí tướng.

Thế nào là trí cảnh giới? Cảnh giới của thức, không phải là báo của địa định, đó gọi là tướng nhỏ. Cảnh giới của thức nơi địa định, đó gọi là tướng lớn. Cảnh giới của Như Lai gọi là tướng vô lượng.

Thế nào là trí tướng? Tự tướng, đồng tướng, gọi là tướng sai biệt.

Thân thô, thân tế: Là các chúng sinh nơi cõi Sắc, Vô sắc.

Thứ lớp như thế về cõi Dục v.v… là trí cảnh giới, trí tướng. Nơi cõi Dục: Cảnh giới của loài người là tướng nhỏ. Cảnh giới của chư thiên là tướng lớn. Nơi cõi Sắc: Cảnh giới giác quán là tướng nhỏ. Cảnh giới không giác không quán là tướng lớn. Nơi cõi Vô sắc: Cảnh giới của phàm phu trong pháp Phật là tướng nhỏ. Cảnh giới của hàng Thanh văn, Bồ-tát là tướng lớn. Cảnh giới của tất cả Như Lai là tướng vô lượng.

Khéo nhận biết về thân chúng sinh sai biệt. Khéo nhận biết, phân biệt về thân chúng sinh: Tức khéo nhận biết về phương tiện không đồng nơi thân, về đồng sinh, dị sinh sai biệt.

Cõi nước của chư Phật, nơi các chúng hội, khởi ánh sáng hiện tiền: Là chỉ rõ thể của Pháp thân nơi xứ xứ kia. Như thế là cõi nước của Phật thanh tịnh.

b. Thế nào là Hành tự tại nơi thế gian của chúng sinh?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, tùy nơi thân chúng sinh với sự tin tưởng sai biệt, tùy nơi quyết định tin sai biệt, nơi cõi nước của các Đức Phật kia, nơi chúng hội của các Đức Phật kia, như vậy như vậy, tự thân thị hiện.

Bồ-tát ấy, hoặc ở trong chúng Sa-môn, thị hiện hình tướng Samôn, trong các chúng Bà-la-môn, chúng Sát-đế-lợi, chúng Tỳ-xá, chúng Thủ-đà, chúng Cư sĩ, chúng Trường giả, thị hiện các hình tướng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà, Cư sĩ, Trường giả. Nơi các chúng Tứ Thiên vương, chúng Đế thích, thị các hình tướng Tứ Thiên vương, Đế thích. Như vậy, nơi các chúng Diệm-ma, chúng Đâu-suất, chúng Hóa-lạc, chúng Tha-hóa-tự-tại, chúng Ma, chúng Phạm thiên, thị hiện hình sắc Phạm thiên, cho đến trong chúng nơi cõi trời A-ca-nị-trá, thị hiện hình sắc trời A-ca-nị-trá.

Bồ-tát ấy, đối với các trường hợp nên dùng thân Thanh văn để hóa độ, thì thị hiện hình sắc Thanh văn. Nên dùng thân Phật-bích-chi để hóa độ, thì thị hiện hình sắc Phật-bích-chi. Nên dùng thân Bồ-tát để hóa độ, thì thị hiện hình sắc Bồ-tát. Nên dùng thân Phật để hóa độ, thì thị hiện hình sắc thân Phật.

Này Phật tử! Như vậy, trong cõi nước của chư Phật hiện có nhiều không thể nói hết, tùy nơi sự tin ưa sai biệt của thân chúng sinh nơi cõi nước của các Đức Phật kia, như vậy là tự thân Bồ-tát thị hiện sự sai biệt”.

– Luận nêu: Hành tự tại nơi thế gian của chúng sinh là Bồ-tát tự tại điều phục, chỉ rõ Bồ-tát hành hóa nơi thân chúng sinh, tâm tự đồng sự với phần thân tâm của chính mình. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, tùy nơi thân chúng sinh với sự tin tưởng sai biệt v.v… cho đến: Nơi cõi nước của các Đức Phật kia v.v…”.

c. Thế nào là Hành tự tại của trí chánh giác? Là trí của Thế đế, trí của Đệ nhất nghĩa đế.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy xa lìa tất cả sự phân biệt về thân tướng, đạt được thân bình đẳng. Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, nhận biết về thân Thanh văn, thân Phật-bích-chi, thân Bồ-tát, thân Như Lai, nhận biết về thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như thế, hoặc dùng thân chúng sinh làm tự thân, như vậy cũng dùng thân cõi nước v.v… cho đến dùng thân hư không làm tự thân. Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như thế, hoặc dùng tự thân làm thân chúng sinh, như vậy cũng dùng thân cõi nước v.v… cho đến dùng thân hư không làm thân chúng sinh. Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như thế, thì trong những thân nào, nơi những thân nào có thể tạo tác tự tại. Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh, thân tập nghiệp, thân báo, thân phiền não, thân sắc, thân vô sắc. Bồ-tát ấy nhận biết về thân cõi nước với tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng cấu, tướng tịnh, tướng rộng, tướng loạn trụ, tướng đảo trụ, tướng bình đẳng. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng mạng lưới nơi chốn sai biệt. Bồ-tát ấy nhận biết về sự giả danh sai biệt của thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Phật-bích-chi, thân Phật, thân Bồ-tát. Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai, thân Bồ-đề, thân nguyện, thân hóa, thân thọ thần lực, thân tướng hảo trang nghiêm, thân quang minh, thân ý sinh, thân công đức, thân pháp, thân trí. Bồ-tát ấy nhận biết về thân trí với tướng khéo lượng xét, tướng khéo quán như thật, tướng quả hành gồm thâu, tướng thế gian xuất thế gian sai biệt, tướng ba Thừa sai biệt, tướng cộng bất cộng, tướng thừa không thừa, tướng hữu học vô học. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng pháp thân bình đẳng, nhận biết về tướng không hoại, nhận biết về tướng chuyển thời giả danh sai biệt, tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp sai biệt, nhận biết về tướng pháp Phật pháp Thánh tăng sai biệt. Bồ-tát ấy nhận biết về thân hư không với tướng vô lượng, tướng biến hiện khắp, tướng vô hình, tướng không khác, tướng vô biên. Nhận biết về thân hiển sắc với tướng dị biệt”.

– Luận nêu: Trí của Đệ nhất nghĩa đế: Tức xa lìa tất cả sự phân biệt về thân tướng, chỉ rõ chỗ đạt được thân bình đẳng, không phân biệt tự thân, tha thân. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy xa lìa tất cả sự phân biệt về thân tướng, đạt được thân bình đẳng”. Đây là chỗ không đồng với hàng Nhị thừa.

Trí của Đệ nhất nghĩa đế chỉ rõ về trí của Thế đế: Tức khéo nhận biết về thân chúng sinh với phần nhiễm, phần tịnh, phần không hai, đều khéo phân biệt nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, nhận biết về thân Thanh văn, thân Phật-bích-chi, thân Bồ-tát, thân Như Lai, nhận biết về thân trí, thân pháp, thân hư không”. Trong đó, thế gian của chúng sinh, khí thế gian, hai thứ ấy là sinh nghiệp thân, phiền não là phần nhiễm, ba Thừa là phần tịnh. Ba Thừa này tùy nơi trí nào, tùy nơi pháp nào. Phần tịnh kia hiển bày hư không là phần không hai.

“Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như thế, hoặc dùng thân chúng sinh làm tự thân, như vậy cũng dùng thân cõi nước v.v… cho đến dùng thân hư không làm tự thân. Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như thế, hoặc dùng tự thân làm thân chúng sinh, như vậy cũng dùng thân cõi nước v.v.. cho đến dùng thân hư không làm thân chúng sinh”. Ở đây: Dùng thân chúng sinh làm tự thân: Là chỉ rõ các thứ tạo tác, thâu giữ, hành hóa vô số của Bồ-tát trong sự tự tại. Thân chúng sinh: Là nghiệp sinh phiền não, vọng tưởng cấu nhiễm sai biệt.

Sự sai biệt nơi Sắc giới, Vô sắc giới đều nhận biết đúng như thật: Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh, thân tập nghiệp, thân báo, thân phiền não, thân sắc, thân vô sắc”.

Thân cõi nước: Là sự sai biệt của hàng ngàn v.v… thế giới, nên biết. Sự sai biệt của thế giới tịnh, bất tịnh đều khéo phân biệt, nhận biết. Sự sai biệt của thế giới rộng v.v… đều khéo phân biệt, nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân cõi nước với tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng cấu, tướng tịnh, tướng rộng, tướng loạn trụ, tướng đảo trụ, tướng bình đẳng. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng mạng lưới nơi chốn sai biệt”.

Các câu nói về tướng rộng v.v…: Nghĩa như đã nêu ở Địa thứ nhất.

Sự sai biệt về giả danh nơi thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Phật-bích-chi, thân Bồ-tát: Là tự tướng, đồng tướng giả danh sai biệt, phân biệt là không ngã, nhân. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về sự giả danh sai biệt của thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Phật-bích-chi, thân Phật, thân Bồ-tát”.

Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai: Là chỉ rõ về sự thành tựu chánh giác là Bồ-đề. Là nguyện sinh nơi cõi trời Đâu-suất. Là hành ứng hóa của Phật hiện có. Là trụ trì, Xá-lợi của tự thân. Là thân thật báo hiện có. Là ánh sáng hiện có để thâu phục chúng sinh. Là tâm đồng không đồng với thế gian xuất thế gian hiện có, đạt được giải thoát tự tại. Là pháp bất cộng hiện có, có thể tạo nhân của lợi ích rộng lớn. Là cảnh giới vô lậu của Như Lai hiện có. Là trí không chướng ngại hiện có. Vì thế, trí ấy có thể tạo tác tất cả sự việc và các sự việc sai biệt kia thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai, thân Bồ-đề, thân nguyện, thân hóa, thân thọ thần lực, thân tướng hảo trang nghiêm, thân quang minh, thân ý sinh, thân công đức, thân pháp, thân trí”.

Bồ-tát ấy nhận biết về thân trí: Tức các thứ sai biệt nơi các trí văn tư, trí tu, trí hành quả, trí thế gian xuất thế gian, đều nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân trí với tướng khéo lượng xét, tướng khéo quán như thật, tướng quả hành gồm thâu, tướng thế gian xuất thế gian sai biệt, tướng ba Thừa sai biệt, tướng cộng bất cộng, tướng thừa không thừa, tướng hữu học vô học”.

Bồ-tát ấy nhận biết về tướng Pháp thân bình đẳng: Là vô lượng pháp môn sáng tỏ cùng với một Pháp thân. Như lãnh hội, chọn lấy. Là tùy chỗ giáo hóa chúng sinh, căn tánh tương ưng, khi nêu giảng sai biệt. Tướng sai biệt về có căn, không căn, tướng đệ nhất sai biệt, Bồ-tát thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về tướng pháp thân bình đẳng, nhận biết về tướng không hoại, nhận biết về tướng chuyển thời giả danh sai biệt, tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp sai biệt, nhận biết về tướng pháp Phật pháp Thánh tăng sai biệt”.

Bồ-tát ấy nhận biết về thân hư không: Là nhận biết về tướng vô tận, tướng hiện bày khắp, tướng không thể thấy, tướng không chướng ngại, tướng vô vi. Có thể thông tỏ sự thọ nhận sắc tướng, nhân nơi sắc để phân biệt, Bồ-tát thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân hư không với tướng vô lượng, tướng biến hiện khắp, tướng vô hình, tướng không khác, tướng vô biên. Nhận biết về thân hiển sắc với tướng dị biệt”.

5. Thế nào là Đạt được tự tại?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy khéo nhận biết việc hiện khởi các thân như vậy, tức đạt được Mạng tự tại, thân mạng trụ trì trong số lượng kiếp không thể nêu, không thể nói. Đạt được Tâm tự tại, vô lượng A-tăng-kỳ Tam-muội hội nhập nơi trí. Đạt được Vật tự tại, thị hiện sự trụ trì nơi tất cả thế giới với vô lượng sự trang nghiêm đẹp đẽ. Đạt được Nghiệp tự tại, thì hiện sự trụ trì của nghiệp báo như nơi hiện đời, thời sau. Đạt được Sinh tự tại, thị hiện việc sinh nơi tất cả thế giới. Đạt được Nguyện tự tại, theo chỗ mong muốn của tâm, chỉ rõ khi thành tựu ba Bồ-đề nơi cõi Phật. Đạt được Tín giải tự tại, thị hiện Phật đầy khắp trong hết thảy thế giới. Đạt được Như ý tự tại, thị hiện việc tạo tác biến hóa như ý trong cõi nước của tất cả chư Phật. Đạt được Pháp tự tại, thị hiện vô biên, vô tận các pháp môn sáng tỏ. Đạt được Trí tự tại, thị hiện về lực, vô úy, pháp bất cộng, tướng hảo trang nghiêm, ba Bồ-đề của Như Lai”.

– Luận nêu: Ở đây:

Đạt được tự tại: Tức Bồ-tát ấy, tu hành như vậy, nơi khí thế gian, thế gian của chúng sinh, thế gian của trí chánh giác, ba thứ ấy đều hành hóa tự tại, nên đạt được mười tự tại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy khéo nhận biết việc hiện khởi các thân như vậy v.v…”. Mười thứ tự tại này đối trị mười thứ sợ hãi, thứ lớp như thế nên biết.

Những gì là mười thứ sợ hãi?

  1. Sợ hãi về chết.
  2. Sợ hãi về phiền não cấu uế.
  3. Sợ hãi về bần cùng.
  4. Sợ hãi về nghiệp ác.
  5. Sợ hãi về đường ác.
  6. Sợ hãi do cầu không đạt.
  7. Sợ hãi về nghiệp tội hủy báng pháp.
  8. Sợ hãi về lúc theo đuổi cầu tìm bị trói buộc không thể sống.
  9. Sợ hãi về vì sao nghi ngờ.
  10. Sợ hãi về uy đức của đại chúng.

6. Thế nào là Đạt được thù thắng lớn?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy đạt được mười tự tại của bậc Bồ-tát này rồi, tức thì được gọi là bậc trí không thể nghĩ bàn, là bậc trí vô lượng, là bậc trí rộng khắp, là bậc trí không thể hủy hoại.

Bồ-tát ấy đạt được đầy đủ như vậy, thành tựu trí như vậy, thường hợp khởi ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, trí tuệ làm đầu nên trí tùy thuận chuyển tăng, Bát-nhã Ba-la-mật tăng thượng, đại bi làm đầu, dùng phương tiện thiện xảo nên có thể phân biệt, khéo phát khởi nguyện lực, khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật. Thường không xả bỏ hành tạo lợi ích cho chúng sinh, nhận biết khắp sự việc sai biệt trong vô biên thế giới. Này Phật tử! Lược nói về Bồtát đạt được Địa Bất Động của bậc Bồ-tát, hết thảy sự tạo tác nơi ba nghiệp thân khẩu ý đều có thể hợp khởi tất cả pháp Phật.

Bồ-tát ấy đạt được Địa Bất Động của bậc Bồ-tát, khéo an trụ trong diệu lực của tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả phiền não tích tập. Khéo an trụ trong diệu lực của tâm sâu xa, luôn không lìa bỏ đạo. Khéo an trụ nơi diệu lực của đại bi, không xả bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh. Khéo an trụ trong diệu lực của đại từ, cứu độ tất cả thế gian. Khéo an trụ trong lực dụng của Đà-la-ni, không quên các pháp. Khéo an trụ trong lực dụng của biện bài, trí tuệ khéo léo phân biệt về hết thảy pháp Phật. Khéo an trụ nơi lực dụng của thần thông, hành hóa khắp vô biên thế giới sai biệt. Khéo an trụ nơi nguyện lực, không lìa tất cả nẻo hành trì của bậc Bồ-tát. Khéo an trụ nơi lực dụng của Ba-la-mật, tu tập hết thảy pháp Phật. Khéo an trụ nơi diệu lực gia hộ của Như Lai, trí Nhất thiết trí, trí Nhất thiết chủng luôn hiện tiền. Bồ-tát ấy đạt được trí lực như vậy, chỉ rõ trong tất cả tạo tác hành hóa đều không có lỗi lầm”.

– Luận nêu: Đạt được thù thắng lớn:3 thứ lớn:

  1. Trí lớn.
  2. Nghiệp lớn.
  3. Hai thứ kia an trụ nơi công đức lớn.

a. Thế nào là Trí lớn? Là trí không thể nghĩ bàn, không trụ chốn thế gian, không trụ nơi Niết-bàn. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đạt được mười tự tại của bậc Bồ-tát này rồi, tức thì được gọi là bậc Trí không thể nghĩ bàn”. Tính chất không thể nghĩ bàn ấy có 3 thứ nên biết:

  1. Không thể nghĩ bàn do tu hành trọn vẹn tận cùng.
  2. Không thể nghĩ bàn do đối tượng được nhận biết.
  3. Không thể nghĩ bàn do trí được dứt trừ chướng ngại.

Như kinh nói: “Là bậc trí vô lượng, là bậc trí rộng khắp, là bậc trí không thể hủy hoại”. Đó gọi là Trí lớn.

b. Thế nào là Nghiệp lớn?Bồ-tát ấy đạt được đầy đủ như vậy v.v… cho đến: Hợp khởi tất cả pháp Phật”. Ở đây:

Bồ-tát ấy đạt được đầy đủ như vậy: Như trên đã nói.

Thành tựu trí như vậy: Cũng như trên đã nêu.

Thường hợp khởi ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh: Đây là nghiệp lớn. Nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát có 4 thứ tướng:

1. Tạo tác phát khởi đồng thời. Như kinh nói: “Trí tuệ làm đầu nên trí tùy thuận chuyển tăng”.

2. Trí thâu tóm không nhiễm, hành tạo lợi ích cho chúng sinh. Như kinh nói: “Bát-nhã Ba-la-mật tăng thượng, đại bi làm đầu, dùng phương tiện thiện xảo nên có thể phân biệt”.

3. Nhân thâu tóm nhân của tự hành, tha hành. Như kinh nói: “Khéo phát khởi nguyện lực, khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật”.

4. Tạo nghiệp, phát khởi lợi ích cho chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu tất cả pháp Phật. Như kinh nói: “Thường không xả bỏ hành tạo lợi ích cho chúng sinh, nhận biết khắp sự việc sai biệt trong vô biên thế giới. Này Phật tử! Lược nói về Bồ-tát đạt được Địa Bất Động của bậc Bồ-tát, hết thảy sự tạo tác nơi ba nghiệp thân khẩu ý đều có thể hợp khởi tất cả pháp Phật”. Đó gọi là Nghiệp lớn.

c. Hai thứ kia an trụ nơi công đức lớn: Là khéo an trụ nơi diệu lực của tâm thanh tịnh, chỉ rõ dựa vào 7 thứ công đức:

1. Công đức do khéo an trụ nơi đạo. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy đạt được Địa Bất Động của bậc Bồ-tát, khéo an trụ trong diệu lực của tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả phiền não tích tập. Khéo an trụ trong diệu lực của tâm sâu xa, luôn không lìa bỏ đạo. Khéo an trụ nơi diệu lực của đại bi, không xả bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh. Khéo an trụ trong diệu lực của đại từ, cứu độ tất cả thế gian”. Lại, công đức do khéo an trụ nơi đạo: Hai câu đầu là xa lìa chướng, đối trị là sự kiên cố. Hai câu tiếp theo là không xả bỏ chúng sinh.

2. Công đức do không quên. Như kinh nói: “Khéo an trụ trong lực dụng của Đà-la-ni, không quên các pháp”.

3. Công đức do thành tựu khẩu nghiệp. Như kinh nói: “Khéo an trụ trong lực dụng của biện tài, trí tuệ khéo léo phân biệt về hết thảy pháp Phật”.

4. Công đức do thành tựu tâm tự tại. Như kinh nói: “Khéo an trụ nơi lực dụng của thần thông, hành hóa khắp vô biên thế giới sai biệt”.

5. Công đức do nguyện lực thành tựu. Như kinh nói: “Khéo an trụ nơi nguyện lực, không lìa tất cả nẻo hành trì của bậc Bồ-tát”.

6. Công đức do tu hành thành tựu. Như kinh nói: “Khéo an trụ nơi lực dụng của Ba-la-mật, tu tập hết thảy pháp Phật”.

7. Công đức do được ban cho trí. Như kinh nói: “Khéo an trụ nơi diệu lực gia hộ của Như Lai, trí Nhất thiết trí, trí Nhất thiết chủng luôn hiện tiền”.

Bồ-tát ấy đạt được trí lực như vậy, chỉ rõ trong tất cả tạo tác: Là Bồ-tát tạo nghiệp bình đẳng, không yêu ghét, không phân biệt chúng sinh có phiền não, không phiền não.

Trong hết thảy các sự việc không có lỗi lầm: Tức do đạt được bảy thứ công đức ấy.

7. Thế nào là Giải thích tên gọi?

– Kinh nói:Này Phật tử! Trí Địa của bậc Bồ-tát này, gọi là Địa Bất Động, vì không thể hủy hoại. Gọi là Địa Bất chuyển, vì trí tuệ không thoái chuyển. Gọi là Địa Nan đắc, vì tất cả thế gian khó nhận biết. Gọi là Địa Vương tử, vì không có lỗi lầm của nơi chốn. Gọi là Địa Sinh, vì tùy ý tự tại. Gọi là Địa Thành, vì không còn tạo tác nữa. Gọi là Địa Cứu cánh, vì trí tuệ khéo phân biệt. Gọi là Địa Niết-bàn, vì khéo phát khởi nguyện lực lớn. Gọi là Địa Gia, vì kẻ khác không thể làm cho động. Gọi là Địa Không dụng công, vì khéo dấy khởi đạo trước tiên”.

– Luận nêu: Giải thích tên gọi có 2 thứ:

  1. Giải thích tên gọi của Địa.
  2. Giải thích tên gọi của Trí.

a. Thế nào là Giải thích tên gọi của Địa?6 thứ tướng:

1. Đối trị nhiễm. Nhiễm ấy có 2 thứ: (a) Hành có dụng công của Địa dưới theo nguyện của Tiểu thừa, các nghiệp ma. (b) Tập hành của phiền não. Đối trị, như kinh nói: “Này Phật tử! Trí Địa của bậc Bồ-tát này, gọi là Địa Bất Động, vì không thể hủy hoại. Gọi là Địa Bất chuyển, vì trí tuệ không thoái chuyển”.

2. Đạt được sự thâm diệu. Như kinh nói: “Gọi là Địa Nan đắc, vì tất cả thế gian khó nhận biết”.

3. Phát khởi hành thanh tịnh. Như kinh nói: “Gọi là Địa Vương tử, vì không có lỗi lầm của nơi chốn. Gọi là Địa Sinh, vì tùy ý tự tại”. Phát khởi thanh tịnh: Tức như Vương tử, hết thảy chỗ tạo tác đều không lỗi lầm. Hành thanh tịnh: Tức trụ nơi Địa Sinh, các thứ mong muốn đều thành tựu tự tại.

4. Những tạo tác nơi thế gian, xuất thế gian đều thanh tịnh, thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là Địa Thành, vì không còn tạo tác nữa. Gọi là Địa Cứu cánh, vì trí tuệ khéo phân biệt”. Sự tạo tác nơi xuất thế gian thanh tịnh thù thắng: Do trí tuệ khéo phân biệt, nên chướng ngại của trí đều thanh tịnh.

5. Hai thứ vô tác của Bồ-tát thanh tịnh, thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là Địa Niết-bàn, vì khéo phát khởi nguyện lực lớn”. Vô tác thanh tịnh thù thắng: Là do diệu lực của bản nguyện nên không bỏ hành tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

6.Địa Bồ-tát thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là Địa Gia, vì kẻ khác không thể làm cho động. Gọi là Địa Không dụng công, vì khéo dấy khởi đạo trước tiên”. Lại nữa, Địa Bồ-tát thù thắng: Là hơn hẳn sáu Địa, bảy Địa. Hơn hẳn sáu Địa: Sáu Địa phát khởi hành thù thắng, còn nhớ nghĩ về sự việc khác, là còn động. Hơn hẳn bảy Địa: Bảy Địa còn có dụng công. Trong tám Địa thì khéo phát khởi đạo trước tiên, hành tự nhiên, không dụng công.

b. Giải thích tên gọi của Trí: Do từ nghĩa nào, Bồ-tát gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động? Nay nói về việc này, nên biết.

– Kinh nói:Này Phật tử! Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, gọi là được hội nhập nơi Phật tánh, gọi là công đức của Phật tự tỏa sáng, gọi là thuận theo hành uy nghi của Phật, gọi là cảnh giới của Phật hiện tiền. Ngày đêm luôn khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật. Thường được Tứ Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương v.v… cung kính, nghênh tiếp. Luôn được thần Kim cang Mật Tích hầu cận, bảo vệ. Không lìa bỏ diệu lực của Tam-muội, luôn hiện bày vô lượng các thân sai biệt. Nơi hết thảy thân hành, uy lực đều thành tựu. Thành tựu quả báo lớn về thần thông. Ở trong vô biên Tam-muội luôn được tự tại, có thể thọ nhận vô lượng ký biệt, tùy thuận hóa độ thế gian, thị hiện thành chánh giác. Bồ-tát ấy như thế là thông đạt, hội nhập nơi các nẻo trí tuệ của Đại thừa, khéo lường xét về thông lực của pháp Đại thừa, ngày đêm luôn phóng ra ánh sáng rực rỡ của trí, nhập vào cõi Pháp giới không chướng ngại. Khéo nhận biết về sự sai biệt của các nẻo, cõi, có thể thị hiện tất cả tướng công đức, tùy ý tự tại. Khéo hiểu rõ về các biên vực trước sau, thông tỏ tất cả sự xoay chuyển theo trí nơi các cõi ma, nhập vào cảnh giới trí tuệ của Như Lai, nên có thể ở trong vô biên thế giới hành hóa đạo Bồ-tát, diệu lực không thoái chuyển. Do đó, Bồ-tát được gọi là đã chứng đắc bậc Bồ-tát bất động”.

– Luận nêu: Lại có 2 thứ nghĩa gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động:

  1. Bất động của toàn bộ.
  2. Bất động của một Thể.

Là tùy thuận nhân của Phật tánh: Như kinh nói: “Này Phật tử!

Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, gọi là được hội nhập nơi Phật tánh”.

Phật tánh: Là chỉ cho sự thù thắng của cảnh giới đầy đủ. Tùy thuận nhân: Tức chỉ rõ về 3 thứ tướng:

  1. Gồm thâu công đức.
  2. Hành.
  3. Thân cận.

Như kinh nói: “Gọi là công đức của Phật tự tỏa sáng, gọi là thuận theo hành uy nghi của Phật, gọi là cảnh giới của Phật hiện tiền”.

Tự tỏa sáng: Là nghĩa khéo làm thanh tịnh. Hành uy nghi: Gọi là chánh hành. Hiện tiền: Tiếp cận cảnh giới Phật.

Bất động của toàn bộ: Như kinh nói: “Ngày đêm luôn khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật”. Lại dựa vào 5 công đức:

1. Công đức của sự cúng dường. Như kinh nói: “Thường được Tứ Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương v.v… cung kính, nghênh tiếp”.

2. Công đức của sự hộ trì. Như kinh nói: “Luôn được thần Kim cang Mật Tích hầu cận, bảo vệ”.

3. Công đức do nương dựa. Như kinh nói: “Không lìa bỏ diệu lực của Tam-muội”.

4. Công đức của cõi nước thanh tịnh. Như kinh nói: “Luôn hiện bày vô lượng các thân sai biệt”.

5. Công đức của việc giáo hóa chúng sinh. Công đức thứ năm này có 5 thứ thị hiện:

1- Nguyện chọn lấy các cõi thọ sinh. Như kinh nói: “Nơi hết thảy thân hành, uy lực đều thành tựu”.

2- Tâm gốc điều khiển trí lực. Như kinh nói: “Thành tựu quả báo lớn về thân thông”.

3- Chuyển pháp luân với vô lượng pháp lực. Như kinh nói: “Ở trong vô biên Tam-muội luôn được tự tại”.

4- Thọ nhận diệu lực. Như kinh nói: “Có thể thọ nhận vô lượng ký biệt”.

5- Nêu bày về lực. Như kinh nói: “Tùy thuận hóa độ thế gian, thị hiện thành chánh giác”.

Bồ-tát ấy như vậy là thông đạt: Tức là bất động toàn bộ.

Bất động của một Thể: Là hội nhập nơi các nẻo trí tuệ của Đại thừa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy như thế là thông đạt, hội nhập nơi các nẻo trí tuệ của Đại thừa”.

Hội nhập nơi các nẻo trí tuệ của Đại thừa: Gọi là nghĩa không thể hủy hoại. Ở đây có 9 thứ:

1. Trí không bị hoại. Như kinh nói: “Khéo lượng xét về thông lực của Đại thừa”.

2. Thuyết giảng không bị hoại. Như kinh nói: “Ngày đêm luôn phóng ra ánh sáng rực rỡ của trí”.

3. Giải thoát không hoại. Như kinh nói: “Nhập vào cõi Pháp giới không chướng ngại”.

4. Cõi Phật thanh tịnh không hoại. Như kinh nói: “Khéo nhận biết về sự sai biệt của các nẻo, cõi”.

5. Vào nơi Đại thừa, không hoại. Như kinh nói: “Có thể thị hiện tất cả tướng công đức”.

6. Thần thông không hoại. Như kinh nói: “Tùy ý tự tại”.

7. Nghĩa có thể giải thích, không hoại. Như kinh nói: “Khéo hiểu rõ về các biên vực trước sau”.

8. Ngồi nơi đạo tràng, không hoại. Như kinh nói: “Thông tỏ tất cả sự xoay chuyển theo trí nơi các cõi ma”.

9. Chánh giác không hoại. Như kinh nói: “Nhập vào cảnh giới trí tuệ của Như Lai, nên có thể ở trong vô biên thế giới hành hóa đạo Bồ-tát”.

Diệu lực không thoái chuyển: Là hành không chướng ngại, không đoạn tuyệt. Do ý nghĩa hành không chướng ngại, không đoạn tuyệt, nên gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy đạt được Địa Bất Động của bậc Bồ-tát, thường không lìa việc được thấy vô lượng chư Phật, khéo hành trì lực dụng Tam-muội, phát đại nguyện lực. Lúc gặp chư Phật luôn hiện bày sự cung kính cúng dường. Bồ-tát ấy, ở trong mỗi mỗi kiếp, trong mỗi mỗi thế giới, được thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn na-do-tha Phật, vô lượng ức Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, nên khi gặp chư Phật, Bồ-tát đều dùng tâm hướng thượng, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men v.v… đối với các căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thân cận chư Phật, theo chư Phật thọ nhận các pháp minh nơi sự sai biệt của thế giới gốc. Bồ-tát ấy chuyển tăng, vào sâu nơi tạng pháp của Như Lai, thỉnh vấn về các sự việc sai biệt của thế giới, không ai có thể đạt tới tận cùng. Bồ-tát này, với các căn thiện của mình, trong vô lượng kiếp luôn chuyển tăng, càng trở nên sáng, sạch, thù thắng. Trong vô lượng trăm kiếp… vô lượng trăm ngàn na-do-tha, vô lượng ức kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, các căn thiện kia luôn chuyển tăng, càng trở nên sáng tỏ, thanh tịnh, thù thắng.

Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, được các thợ kim hoàn khéo tay tạo ra các vật dụng trang sức đẹp đẽ cho vương gia châu Diêm-phù-đề dùng đeo nơi cổ hoặc phía trước hoặc phía sau. Các thứ đồ trang sức bằng vật báu khác của người nơi châu Diêm-phù-đề đều không thể hơn được. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi Địa Bất Động ấy, với các căn thiện hiện có, thì tất cả hàng Nhị thừa, cho đến Bồ-tát nơi bảy Địa đều không thể hủy hoại. Bồ-tát chứng đạt Địa này thì trí lớn tỏa sáng, diệt trừ các thứ phiền não tối tăm, ngăn ngại của chúng sinh do khéo phân biệt về môn Trí.

Này Phật tử! Ví như Đại Phạm Thiên vương, chủ của ngàn thế giới, có thể trong một lúc ban phát tâm từ cho khắp ngàn thế giới, cũng có thể phóng ra ánh sáng tỏa chiếu khắp trong các cõi ấy. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trụ trong Địa Bất Động của bậc Bồ-tát ấy, có thể phóng ra ánh sáng nơi thân tỏa chiếu khắp mười ngàn vạn Tam thiên đại thiên thế giới, dần dần có thể diệt trừ các thứ lửa phiền não của chúng sinh nơi vô số vô lượng thế giới, khiến họ đều được mát mẻ. Bồ-tát này, trong mười Ba-la-mật thì Nguyện Ba-la-mật tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là theo sức tùy phần. Này Phật tử! Đó gọi là lược nêu bày về Bồ-tát chứng đạt Địa Bất Động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, nếu nói rộng thì trong vô lượng kiếp cũng không thể hết.

Bồ-tát trụ nơi Địa này, nhiều lần làm Đại Phạm Thiên vương, chủ ngàn thế giới, tự tại tột bậc, ban cho các chúng sinh, hàng Nhị thừa, đạo Ba-la-mật của bậc Bồ-tát không cùng tận, thuyết giảng về tánh của thế gian, trong sự sai biệt, không gì có thể hủy hoại. Những nghiệp thiện đã tạo nơi bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành, các thứ phước đức ấy đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm mười Địa, niệm diệu lực không hoại, niệm vô úy, niệm pháp bất cộng của Phật, cho đến không lìa niệm về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, thường khởi tâm như vầy: Ta phải, đối với tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tấn, do diệu lực của tinh tấn, nên trong khoảng một niệm, đạt được các pháp Tam-muội nhiều như số vi trần trong trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, được thấy chư Phật nhiều như số vi trần nơi trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, có thể nhận biết về thần lực của Phật, có thể làm chuyển động thế giới Phật, có thể nhập vào thế giới Phật, có thể soi chiếu nơi thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi thế giới Phật, có thể trụ thọ nơi số lượng kiếp, có thể nhận biết các sự việc nơi đời quá khứ vị lai, có thể khéo hội nhập nơi các pháp môn, hết thảy đều nhiều như số vi trần nơi trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới. Có thể biến hóa thân thành số thân nhiều như số vi trần nơi trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, nơi mỗi mỗi thân, có thể thị hiện cũng từng ấy số Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy, thị hiện nơi vô số các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh, hoặc nơi hành, hoặc nơi sự trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thần thông này, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.

– Luận nêu: Theo chư Phật thọ nhận các pháp minh nơi sự sai biệt của thế giới gốc v.v…: Là nói về tướng nhân của Bồ-tát.

Dụ về vàng ròng tạo ra các vật dụng trang sức đẹp đẽ cho vương gia châu Diêm-phù-đề: Là nói về việc đạt được thân tâm thù thắng nơi Địa thanh tịnh. Chỉ rõ về căn thiện sáng tỏ kia lại càng trở nên sáng sạch. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như Đại Phạm Thiên vương, chủ của ngàn thế giới, có thể trong một lúc ban phát tâm từ cho khắp ngàn thế giới, cũng có thể phóng ra ánh sáng tỏa chiếu khắp trong các cõi ấy v.v… cho đến: Khiến họ đều được mát mẻ”.

Các phần còn lại: Như trước đã giải thích.

HẾT – QUYỂN 10