LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 5

Địa thứ ba: ĐỊA MINH

* Luận nêu: Dựa vào chỗ sai biệt của Địa thứ baMinh, có thể phân làm 4 phần:

  1. Khởi hành nhàm chán.
  2. Nêu hành nhàm chán.
  3. Nêu sự nhàm chán.
  4. Nêu quả của nhàm chán.

Khởi hành nhàm chán: Là do mười thứ tâm niệm sâu xa. Nêu hành nhàm chán: Là quán xét tất cả hành là vô thường, cho đến chưa nhập thiền. Nêu sự nhàm chán: Là bốn thiền, bốn Tam-ma-bạt-đề. Nêu quả của nhàm chán: Là bốn vô lượng cùng với tâm sâu xa thanh tịnh, nên biết.

1. Khởi hành nhàm chán:

* Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát khéo làm thanh tịnh tâm, hành trì Địa thứ hai xong, muốn đạt được Địa thứ ba của Bồ-tát phải dấy khởi 10 thứ tâm niệm sâu xa. Những gì là mười? Đó là:

  1. Tâm thanh tịnh.
  2. Tâm không động.
  3. Tâm nhàm chán.
  4. Tâm lìa dục.
  5. Tâm không thoái chuyển.
  6. Tâm kiên cố.
  7. Tâm sáng tỏ.
  8. Tâm thuần hậu.
  9. Tâm hứng thú.
  10. Tâm lớn lao.

Bồ-tát dùng mười thứ tâm niệm sâu xa này để đi vào Địa thứ ba”.

* Luận nêu: Mười thứ tâm niệm sâu xa ở đây:

1. Dựa nơi sự thành tựu của Địa thứ hai để khởi tâm niệm sâu xa thanh tịnh. Như kinh nói: “Khởi tâm thanh tịnh”.

2. Dựa vào chỗ không xả bỏ Thừa của mình. Như kinh nói: “Khởi tâm không động”.

3. Ý chí cầu đạt pháp thù thắng, dấy khởi phương tiện thiện xảo, do đấy có thể chán bỏ tham dục nơi vị lai.

4. Dựa vào sự không tham cầu nơi dục hiện tại. Như kinh nói: “Khởi tâm nhàm chán. Khởi tâm lìa dục”.

5. Dựa vào chỗ không bỏ nẻo tăng tiến nơi Thừa của mình. Như kinh nói: “Khởi tâm không thoái chuyển”.

6. Dựa vào nơi địa của mình, phiền não không thể hủy hoại. Như kinh nói: “Khởi tâm kiên cố”.

7. Dựa vào tính chất tự tại của Tam-ma-bạt-đề (Định). Như kinh nói: “Khởi tâm sáng tỏ”.

8. Dựa nơi lực dụng tự tại của thiền định, tuy sinh vào cõi dưới nhưng không thoái thất. Như kinh nói: “Khởi tâm thuần hậu”.

9. Dựa vào chỗ phiền não phát sinh kia không thể làm cho nhiễm ô. Như kinh nói: “Khởi tâm hứng thú”.

10. Dựa vào việc tạo lợi ích cho chúng sinh, không dứt bỏ các cõi. Như kinh nói: “Khởi tâm lớn lao”.

2. Nêu hành nhàm chán: Hành nhàm chán có 3 thứ:

1. Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi phiền não (Chán lìa hữu vi).

2. Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa (Chán lìa tâm  nhỏ hẹp).

3. Hành tu tập dùng phương tiện gồm thâu.

a. Thế nào là Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi phiền não? Là quán xét hết thảy các hành vô thường, không có người cứu độ. Hai mươi câu này chỉ rõ: Thế nào là quán tất cả hành vô thường?

– Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa Bồtát thứ ba rồi, quán xét đúng đắn về pháp hữu vi, với tất cả hành vô thường, khổ, bất tịnh, không thường còn, tan hoại, không trụ lâu, niệm niệm sinh diệt, không từ đời trước lại, không đi đến đời sau, hiện tại thì không dừng. Quán xét đúng đắn về tất cả các hành như vậy”.

– Luận nêu: Ở đây, nẻo hành của thọ mạng không dừng là nêu rõ chung về quán vô thường. Như kinh nói: “Quán xét đúng đắn về pháp hữu vi v.v…”.

Thế nào là vô thường? Do đâu gọi là vô thường? Quán xét đúng đắn như vậy.

Thế nào là vô thường? Dựa vào thời gian chuyển biến của thân sức sinh ra ba thứ khổ. Như kinh nói: “Là khổ”. Dựa nơi sức ăn uống, hình sắc có tăng, giảm v.v…. Như kinh nói: “Là bất tịnh”. Dựa nơi sức không thể giữ ngăn các điều ác, tạo nên thọ mạng ngắn ngủi. Như kinh nói: “Là không thường còn”. Dựa vào sức của thế giới thành trụ, diệt hoại. Như kinh nói: “Là tan hoại”. Đời sống dựa nơi chủ không có lực cố định, không dừng ở một nơi. Như kinh nói: “Không trụ lâu”.

Do đâu gọi là vô thường? Vô thường có 2 thứ:

1. Thời gian tạm bợ ít ỏi. Như kinh nói: “Niệm niệm sinh diệt”.

2. Tự tánh không thành: Tức thật sự trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai là không sinh, không chuyển, không trụ. Như kinh nói: “Không từ đời trước lại, không đi đến đời sau, hiện tại thì không dừng”.

Quán xét đúng đắn về tất cả các hành như vậy: Nên quán xét hết thảy pháp hữu vi, trong hành vô thường, không có người cứu độ.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy quán xét chân thật như vậy, thấy rõ tất cả các hành không có người cứu độ, không nơi chốn nương dựa, cùng lo, cùng buồn, cùng bị bức bách, bị yêu ghét trói buộc, sầu não càng tăng nhiều, không thể dừng lâu, luôn bị lửa tham sân si thiêu đốt, thấy rõ thân có vô lượng bệnh khổ tăng trưởng”.

– Luận nêu: Bồ-tát ấy quán xét chân thật như vậy, thấy rõ tất cả hành không có người cứu độ: Mười câu đợt hai này, nói về sự Không cứu độ9 thứ:

1. Ở nơi vô thường chưa đến: Không có chỗ nương, báo cho biết. Như kinh nói: “Không nơi chốn nương dựa”.

2. Vô thường đã đến: Không ai có thể cứu độ. Do vô thường đến nên phần nhiều cùng lo, khổ. Như kinh nói: “Cùng lo”.

3. Khoảng giữa cùng buồn. Như kinh nói: “Cùng buồn”.

4. Trong sự việc cùng khổ não thì lo, buồn luôn đeo đuổi. Do sức lực yếu kém nên chuyển tăng bực bội, bức bách. Như kinh nói:

“Cùng bị bức bách”.

5. Lúc theo đuổi, cầu tìm vật dụng cho đời sống: Sự việc ham muốn thì yêu thích, không ham muốn thì không yêu thích. Như vậy, luôn bị vọng tưởng về yêu ghét trói buộc. Như kinh nói: “Bị yêu ghét trói buộc”.

6. Trong khi thọ dụng, vui ít, khổ nhiều. Như kinh nói: “Sầu não càng tăng nhiều”.

7. Nơi lúc thân già yếu thì sắc lực tráng kiện của thời trẻ không thể tích tập trở lại. Như kinh nói: “Không thể dừng lâu”.

8. Khi còn trẻ, mạnh, có đủ ba thứ thọ nhận, thường bị tâm tham thiêu đốt. Như kinh nói: “Luôn bị lửa tham, sân, si thiêu đốt”.

9. Lúc già yếu, vô lượng bệnh khổ tăng trưởng. Như kinh nói: “Thấy rõ thân có vô lượng bệnh khổ tăng trưởng”.

Ba câu sau đều nêu rõ về các việc khổ hoạn nơi thân. Vì sao không nêu ở phần đầu? Vì nhằm chỉ rõ thân luôn luôn có sự lo lắng, hoạn nạn.

b. Thế nào là Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy thấy rõ như thế rồi, nên đối với hết thảy hành càng thêm chán lìa, hướng tới trí tuệ của Như Lai. Bồ-tát này thấy rõ trí tuệ của Như Lai là không thể nghĩ bàn, không gì bằng, vô lượng, khó chứng đắc, không xen tạp, không phiền não, không lo buồn, có thể dẫn đến thành lớn an ổn, không sợ hãi, không còn thoái chuyển trở lại, thấy rõ là có thể cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não”.

– Luận nêu: Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa: Tức đối với tất cả các hành hữu vi, sinh chán lìa rồi, thì dốc hướng tới trí tuệ Phật. Dựa nơi trí của Như Lai có 2 thứ lớn:

  1. Lớn do gồm thâu các công đức.
  2. Lớn do thanh tịnh.

Lớn do gồm thâu các công đức:5 thứ:

1. Lớn do gồm thâu các công đức từ thần lực. Như kinh nói: “Bồ-tát này thấy rõ trí tuệ của Như Lai là không thể nghĩ bàn”.

2. Lớn do gồm thâu các công đức không gì sánh: Tức không có người đối xứng. Như kinh nói: “Không gì bằng”.

3. Lớn do gồm thâu các công đức có ý nghĩa vĩ đại: Tức có thể tạo lợi ích rộng khắp cho vô lượng chúng sinh. Như kinh nói: “Vô lượng”.

4. Lớn do gồm thâu các công đức không bị chê trách: Là ít có, khó đạt được. Như kinh nói: “Khó chứng đắc”.

5. Lớn do gồm thâu các công đức khác thường: Tức các ngoại đạo không thể làm lẫn lộn. Như kinh nói: “Không xen tạp”.

Lớn do thanh tịnh: Là xa lìa phiền não sử, lìa khổ, đạt được Niết-bàn.

Xa lìa phiền não sử: Tức xa lìa phiền não nhân nơi vô minh, không bị xen tạp. Như kinh nói: “Không phiền não”.

Lìa khổ: Tức các khổ căn bản dứt hết, các thứ lo buồn tùy thuộc cũng hết. Như kinh nói: “Không lo buồn”.

Đạt được Niết-bàn: Như kinh nói: “Có thể dẫn đến thành lớn an ổn, không sợ hãi”. Bồ-tát đến thành Niết-bàn rồi, không còn thoái chuyển trở lại, mà có thể tạo lợi ích cho chúng sinh khiến họ đạt được các sự việc thù thắng của Niết-bàn thế gian và xuất thế gian. Như kinh nói: “Không còn thoái chuyển trở lại”.

Thấy rõ là có thể cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não: Là dựa nơi các chúng sinh không người cứu độ, phát khởi mười thứ tâm thù thắng.

* Kinh nói:Bồ-tát thấy rõ trí tuệ của Như Lai vô lượng như thế, thấy rõ hết thảy hành hữu vi có vô lượng khổ não, nên đối với tất cả chúng sinh chuyển sinh 10 thứ tâm thù thắng. Những gì là mười? Đó là Bồ-tát khởi tâm thù thắng đối với 10 thứ chúng sinh:

  1. Chúng sinh đáng thương xót vì cô độc, không người cứu độ.
  2. Luôn mãi bần cùng.
  3. Bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt.
  4. Bị giam nhốt tại lao ngục kiên cố nơi ba cõi.
  5. Thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ.
  6. Không có sức lực để quán xét đúng đắn.
  7. Xa lìa pháp thiện, tâm không vui thích.
  8. Làm mất pháp diệu của chư Phật.
  9. Thường bị cuốn theo dòng chảy của thế gian.
  10. Đánh mất phương tiện đạt tới Niết-bàn”.

* Luận nêu: Ở đây, không người cứu nên cô độc. Cô độc không người cứu có 9 thứ:

1. Cô độc không người cứu vì luôn mãi bần cùng.

2. Cô độc không người cứu vì bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt.3

3. Cô độc không người cứu vì bị giam nhốt tại lao ngục kiên cố nơi ba cõi.

4. Cô độc không người cứu vì thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ.

5. Cô độc không người cứu vì không có sức lực để quán xét đúng đắn.

6. Cô độc không người cứu vì xa lìa pháp thiện, tâm không vui thích.

7. Cô độc không người cứu vì làm mất pháp diệu của chư Phật.

8. Cô độc không người cứu vì thường bị cuốn theo dòng chảy của thế gian.

9. Cô độc không người cứu vì đánh mất phương tiện đạt tới Niết-bàn.

Dựa nơi chúng sinh cầu dục tâm không biết chán đủ, đối với tài sản riêng của kẻ khác luôn cầu có được không biết dừng nghỉ, hai thứ ấy nên biết. Như kinh nói: “Đối với chúng sinh luôn mãi bần cùng, khởi tâm thù thắng. Đối với chúng sinh bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt, khởi tâm thù thằng”.

Dựa nơi các chúng sinh cầu Hữu (Cõi) luân chuyển trong sáu đường nơi thế gian. Các chúng sinh kia do bị phiền não che lấp, thường sinh vào các chốn nạn. Ba câu như thế, theo thứ lớp nên biết. Như kinh nói: “Đối với các chúng sinh bị giam nhốt tại lao ngục kiên cố nơi ba cõi, khởi tâm thù thắng. Đối với các chúng sinh thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ, khởi tâm thù thắng. Đối với các chúng sinh không có sức lực để quán xét đúng đắn, khởi tâm thù thắng”.

Dựa nơi các chúng sinh cầu phạm hạnh không tạo được niệm thù thắng, mang tâm kiêu mạn tăng thượng, tâm không muốn vào Niết-bàn, vọng hành theo ngoại đạo. Bốn câu như thế, theo thứ lớp nên biết. Như kinh nói: “Đối với các chúng sinh: (1) Xa lìa pháp thiện, tâm không vui thích. (2) Làm mất pháp diệu của chư Phật. (3) Thường bị cuốn theo dòng chảy của thế gian. (4) Đánh mất phương tiện đạt đến Niết-bàn. Bồ-tát khởi tâm thù thắng”.

Tiếp theo: Nói về Bồ-tát hành tinh tấn phát mười thứ tâm ấy để cứu độ chúng sinh.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy thấy rõ cảnh giới của các chúng sinh thọ nhận đủ vô số các thứ khổ não như thế, đã phát khởi hạnh tinh tấn lớn: Các chúng sinh đó, ta nên cứu độ, nên giải thoát, nên khiến cho họ được thanh tịnh, nên khiến họ được thoát khỏi, nên dẫn dắt họ đi đến xứ thiện, nên khiến họ an trụ, nên khiến họ hoan hỷ, nên biết rõ chỗ thích nghi, nên khiến họ được vượt qua, nên khiến họ đạt đến Niết-bàn”.

– Luận nêu: Cứu độ những nơi chốn nào? Dùng những gì để cứu độ? Thế nào là cứu độ thành tựu? Phần này làm rõ chỗ sai biệt của việc cứu độ chúng sinh.

Cứu độ những nơi chốn nào? Ở trong vọng tưởng về nghiệp, vọng tưởng về phiền não, nên sống trong vọng tưởng. Như kinh nói: “Ta nên cứu độ, nên giải thoát, nên khiến cho họ được thanh tịnh, nên khiến họ được thoát khỏi”. Thứ lớp như thế, Ta nên cứu độ.

Dùng những gì để cứu độ? Trao cho ba học để thâu giữ. Khuyên ở yên nơi chốn trì giới. Khuyến khích trụ nơi chốn định, tuệ. Như kinh nói: “Nên dẫn dắt họ đi đến xứ thiện, nên khiến họ an trụ”. Thứ lớp về cảnh giới Tam-muội như thế là định, tuệ hợp nêu.

Lại khiến ở yên nơi chốn trì giới có hai thứ: (1) Dứt trừ lưới nghi khiến tin tưởng nơi giới. Như kinh nói: “Nên khiến họ hoan hỷ”. (2) Người đã vào giới, khiến tâm vui thích, an trụ kiên cố, không động. Như kinh nói: “Nên biết rõ chỗ thích nghi”.

Lại khuyên trụ ở chốn định, tuệ, diệt trừ các thứ tùy phiền não sai khiến như trạo cử, hôn trầm. Như kinh nói: “Nên khiến được vượt qua”.

Thế nào là cứu độ thành tựu? Tức khiến đạt được hai thứ cảnh giới Niết-bàn. Như kinh nói: “Nên khiến họ đạt đến Niết-bàn”.

Đó gọi là Hành tu tập cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa.

c. Thế nào là Hành tu tập dùng phương tiện để gồm thâu?

– Kinh nói:Bồ-tát khéo chán lìa tất cả hành hữu vi như thế rồi, nhớ nghĩ sâu về hết thảy cảnh giới chúng sinh, hướng tới trí Nhất thiết trí, tạo vô lượng lợi ích, tức thời dựa nơi trí tuệ của Như Lai để cứu độ chúng sinh, tư duy: Các chúng sinh ấy bị rơi vào cõi khổ lớn do nghiệp, phiền não, nên dùng phương tiện hành hóa gì để cứu vớt, khiến họ an trụ nơi Niết-bàn luôn an lạc trọn vẹn?”.

– Luận nêu: Ở đây: Chán lìa, nhớ nghĩ sâu, tạo lợi ích: Là chỉ rõ về ba thứ nhân: Nhân xa lìa vọng tưởng: Tức khéo chán lìa tất cả hành hữu vi. Nhân không xả bỏ thế gian: Là nhớ nghĩ sâu về hết thảy cảnh giới chúng sinh. Nhân phát khởi tinh tấn: Là hướng tới trí Nhất thiết trí, tạo vô lượng lợi ích.

Hướng tới nơi chốn lợi ích: Là có thể tu hành chánh đạo.

Nhớ nghĩ sâu xa: Là có thể khéo hóa độ chúng sinh.

Dựa nơi trí tuệ của Như Lai để cứu độ chúng sinh: Câu này chỉ rõ về hành phát khởi phương tiện để gồm thâu. Như kinh nói: “Bồ-tát tư duy: Các chúng sinh ấy bị rơi vào v.v…”.

Rơi vào cõi khổ lớn do nghiệp, phiền não: Khổ là sinh vọng tưởng. Phiền não là vọng tưởng về phiền não. Nghiệp là vọng tưởng về nghiệp.

Niết-bàn luôn an lạc trọn vẹn: Là Niết-bàn vô thượng.

Trong ấy, phương tiện hành hóa để gồm thâu có 3 thứ:

  1. Chứng đắc rốt ráo tận cùng.
  2. Phát khởi sự chứng đắc rốt ráo tận cùng hơn hết.
  3. Phát khởi hành nương dựa.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy suy nghĩ: Không lìa bỏ nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại. Nhờ vào nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại kia nên không lìa sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp. Nhờ vào sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp kia nên không lìa trí tuệ hành vô sinh vô hành. Do ánh sáng của trí tuệ như vậy nên không lìa phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ. Nhờ vào phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ kia nên không lìa phương tiện của văn tuệ”.

– Luận nêu: Chứng đắc rốt ráo tận cùng: Là an trụ trong trí giải thoát không chướng ngại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy suy nghĩ: Không lìa bỏ nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại”.

Bồ-tát hoàn toàn dựa vào tất cả pháp do Như Lai nêu giảng, thuận theo đấy để phát khởi sự nhận biết đúng như thật. Do sự nhận biết đúng như thật đó nên sinh trí giải thoát không chướng ngại kia. Như kinh nói: “Nhờ vào nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại kia, nên không lìa sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp”.

Đây là hành tuệ không phân biệt tự tướng, đồng tướng. Như kinh nói: “Nhờ vào sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp kia, nên không lìa trí tuệ hành vô sinh vô hành. Do ánh sáng của trí tuệ như vậy nên không lìa phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ”.

Trí tuệ kia ở đây gọi là ánh sáng rạng rỡ. Dựa nơi ánh sáng đó nên gọi là Địa Minh (Địa thứ ba). Bồ-tát ấy ở trong thiền định, dùng phương tiện quyết định quán trí tuệ. Như kinh nói: “Nhờ vào phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ kia, nên không lìa phương tiện của văn tuệ”. Phương tiện của thiền kia: Là đạt được thiền thắng tấn. Quyết định: Tức quyết định đối với các việc khác. Quán trí tuệ: Là dùng trí tuệ của chính mình để quán xét. Đó gọi là Phát khởi sự chứng đắc rốt ráo tận cùng hơn hết.

Bồ-tát quán trí tuệ như thế là dựa nơi phương tiện của văn tuệ mà đạt được. Đây là Bồ-tát Phát khởi hành nương dựa. Phương tiện của văn tuệ là chỗ nương dựa của sự phát khởi. Vì thế, tu hành được gọi là Bồ-tát dấy khởi hành nương dựa, trong đó, hành giả ngày đêm cầu pháp, nghe pháp, thứ lớp dựa vào giáo, nghĩa như thế.

– Kinh nói:Bồ-tát quán xét đúng đắn như vậy, nhận biết rồi, lại càng thêm siêng năng tu tập, hành trì cầu đạt chánh pháp, ngày đêm luôn cầu nghe pháp, thích pháp, vui với pháp, dựa nơi pháp, thuận theo pháp, làm tăng trưởng pháp, tư duy về pháp, đạt tới chỗ rốt ráo nơi pháp, quy kính pháp, tùy thuận pháp để hành hóa”.

– Luận nêu: Ở đây: Hành trì cầu đạt chánh pháp: Là dựa nơi kinh giáo, dựa nơi diệu nghĩa, như trước đã nói.

Ngày đêm luôn cầu nghe pháp, thích pháp, vui với pháp: Là không có tâm kiêu mạn, không có tâm ganh ghét, không có tâm khuất phục người khác, để hỏi nghĩa.

Dựa nơi pháp: Là dựa nơi giáo pháp Đại thừa, tự thấy rõ là đúng để giữ lấy, không quên mất.

Thuận theo pháp, làm tăng trưởng pháp, tư duy về pháp: Là dựa vào sự đọc tụng, dựa vào việc vì người khác để nêu giảng, dựa vào nơi chốn tịch tĩnh để tư duy về ý nghĩa.

Đạt tới chỗ rốt ráo nơi pháp: Là dựa nơi định để tu hành.

Quy kính pháp: Là dựa nơi trí xuất thế gian.

Tùy thuận pháp để hành hóa: Là dựa nơi giải thoát, đối với pháp giải thoát của chư Phật thuận theo đấy để hành trì.

Trong đoạn này, hành trì cầu đạt chánh pháp, ngày đêm luôn cầu nghe pháp: Hai câu này chỉ rõ việc luôn siêng năng hành trì. Thích pháp v.v…: Gồm chín câu là chỉ rõ về sự tu hành chân chánh. Bồ-tát kia thường siêng năng hành trì, lấy gì làm nhân? Chỉ rõ là sự cung kính, tôn trọng pháp, hết mực đầy đủ, trọn vẹn. Bồ-tát kia được tài sản bậc nhất, ở trong chốn nhiều của cải, châu báu cùng ngôi vị vua chúa, hoặc sinh nơi cõi trời, sinh trong thế gian thanh tịnh, tự thân luôn tôn trọng chánh pháp.

– Kinh nói:Bồ-tát dùng phương tiện như thế để cầu đạt pháp Phật, không có các thứ tiền của, kho đụn vật báu nào mà không thể xả bỏ. Đối với các vật ấy không sinh tưởng là khó có, chỉ đối với người thuyết giảng chánh pháp sinh tưởng là khó gặp. Bồ-tát này, vì cầu pháp Phật, nên không có các thứ tài sản bên ngoài được thọ dụng nào mà không thể xả bỏ, cũng không có các thứ tài sản bên trong nào mà không thể từ bỏ. Không có chỗ tạo ra các vật dụng để cung cấp, tôn kính nào mà không thể làm. Không có các thứ kiêu mạn, ngã mạn, đại mạn nào mà không thể trừ bỏ. Ngay thẳng, chân chất, dịu dàng, mềm mỏng, nên không có thân khổ nào không thể thọ nhận. Bồ-tát ấy thành tựu được “Tâm thắng tài”. Nếu nghe một câu pháp chưa từng nghe, thì cho là hơn việc có được châu báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ-tát này, nếu được nghe một bài kệ về chánh pháp, thì sinh tưởng cho là tài sản trên hết, hơn hẳn việc ngôi vị Chuyển luân Thánh vương. Lại nữa, đạt được “Tâm thắng tài”, nên nếu được pháp chưa từng nghe, có thể làm thanh tịnh hạnh Bồtát, thì cho là hơn hẳn việc sống vô lượng kiếp nơi chốn của Thíchđề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương. Bồ-tát này, nếu có người đến nói như vầy: Tôi sẽ trao cho ông một câu pháp do Phật thuyết giảng, có thể làm thanh tịnh hạnh Bồ-tát, nếu như nay ông có thể nhảy vào hầm lửa lớn đang cháy rực, chịu khổ não dữ dội, như thế là ông sẽ nhận được câu pháp kia. Bồ-tát ấy suy niệm: Ta để thọ nhận được một câu pháp do Phật thuyết giảng, có thể làm thanh tịnh hạnh Bồtát, thì đối với lửa dữ đầy khắp trong ba ngàn đại thiên thế giới, hãy còn từ cõi Phạm thiên nhảy xuống, huống chi là bước vào hầm lửa nhỏ này! Ta chờ đợi pháp, nên dù phải thọ nhận hết thảy các thứ khổ nơi địa ngục, vẫn làm được để cầu pháp, huống hồ là các khổ não nhỏ trong nẻo người! Bồ-tát phát khởi hạnh tinh tấn như vậy, tu tập chánh pháp, theo pháp đã được nghe, ở chốn tịch tĩnh, đều có thể quán xét đúng đắn”.

– Luận nêu: Thế nào gọi là đối với của cải đã thắng chúng? Bồ-tát kia vì quý trọng pháp nên có thể xả bỏ tất cả tài sản vật dụng. Như kinh nói: “Bồ-tát dùng phương tiện như thế để cầu đạt pháp Phật, không có các thứ tiền của, kho đụn vật báu nào mà không thể xả bỏ. Đối với các vật ấy không sinh tưởng là khó có, chỉ đối với người thuyết giảng chánh pháp sinh tưởng là khó gặp”.

Đối với các thứ tài sản bên ngoài, bên trong, Bồ-tát đều có thể xả bỏ để cầu đạt pháp Phật. Như kinh nói: “Bồ-tát này, vì cầu pháp Phật, nên không có các thứ tài sản bên ngoài được thọ dụng nào mà không thể xả bỏ, cũng không có các thứ tài sản bên trong nào mà không thể từ bỏ”.

Thân hành cung kính, phụng dâng v.v… Như kinh nói: “Không có chỗ tạo ra các vật dụng để cung cấp, tôn kính nào mà không thể làm”.

Các thứ tâm ý cao ngạo, tự đại cũng có thể dứt bỏ. Như kinh nói: “Không có các thứ kiêu mạn, ngã mạn, đại mạn nào mà không thể trừ bỏ v.v…”. Những nơi chốn cần giữ gìn, Bồ-tát cũng có thể xả bỏ.

Vô số các thứ khổ nơi thân đều có thể nhận chịu v.v… Đối với các thứ tài sản, châu báu quý giá, thù thắng có được nhưng Bồ-tát không yêu thích, vì đã thành tựu tâm quý trọng pháp. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy thành tựu được Tâm thắng tài. Nếu nghe một câu pháp chưa từng nghe, thì cho là hơn việc có được châu báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới”. Đó gọi là đối với của cải đã thắng chúng.

Thế nào gọi là thắng đối với ngôi vị vua v.v…? Bồ-tát ấy đạt được pháp, chuyển sinh tâm hoan hỷ và thành tựu tâm ấy, cho là hơn việc đạt được ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Phạm vương. Như kinh nói: “Bồ-tát này, nếu được nghe một bài kệ về chánh pháp, thì sinh tưởng cho là tài sản trên hết, hơn hẳn việc ngôi vị Chuyển luân Thánh vương v.v…”.

Vì để cầu pháp, nên Bồ-tát có thể buông thân nhảy vào lửa dữ cháy tràn khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cùng ở rất lâu nơi địa ngục nhận chịu bao thứ khổ não. Như kinh nói: “Bồ-tát này, nếu có người đến nói như vầy: v.v…”.

Ở đây, nghe một câu pháp: Tức nghe câu chữ về pháp.

Được nghe một bài kệ về pháp: Tức nghe kệ nói về chánh pháp.

Có thể làm thanh tịnh hạnh Bồ-tát: Tức là lãnh hội về ý nghĩa.

Sự tu hành chân chánh ấy dùng gì để làm nhân? Tức chỉ rõ dựa vào chốn tịch tĩnh để tư duy quán xét đúng đắn. Như kinh nói: “Bồtát phát khởi hạnh tinh tấn như vậy, tu tập chánh pháp, theo pháp đã được nghe, ở chốn tịch tĩnh, đều có thể quán xét đúng đắn”.

3. Nêu sự nhàm chán: Bồ-tát ấy lãnh hội các pháp rồi, nhận biết nên tu hành đúng theo lời giảng nói mới chứng đạt pháp Phật. Nhập thiền vô sắc với vô lượng thần thông, nhưng đấy không phải là chốn an lạc, nên ở trong đó quyết định không đắm nhiễm.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy nghe các pháp rồi, tự hàng phục tâm mình, ở nơi chốn thanh vắng, tâm suy niệm: Phải hành trì đúng như lời giảng nói mới chứng đắc pháp Phật, không thể chỉ dùng những ngôn thuyết từ nơi miệng mà đạt được thanh tịnh. Bồ-tát ấy, trụ nơi Địa Minh này, nhân nơi lời thuyết giảng để hành trì, tức lìa các pháp ác, bất thiện của dục nơi có giác có quán, hỷ lạc sinh do lìa, nhập vào nẻo hành của thiền thứ nhất. Bồ-tát ấy diệt bỏ giác, quán, bên trong tâm thanh tịnh, toàn xứ đều không giác không quán, hỷ lạc do định sinh, nhập vào nẻo hành của thiền thứ hai. Bồ-tát này lìa hỷ, hành xả, nhớ nghĩ về tuệ an ổn, thân thọ nhận lạc như các bậc Hiền Thánh đã có thể nêu bày, có thể xả bỏ, nhớ nghĩ về sự thọ nhận an lạc, nhập vào nẻo hành của thiền thứ ba. Bồ-tát ấy đoạn trừ khổ, lạc, trước hết là dứt bỏ ưu, hỷ, không khổ không vui, niệm xả thanh tịnh, nhập vào nẻo hành của thiền thứ tư. Bồ-tát này vượt quá hết thảy tưởng của sắc, dứt bỏ tất cả tưởng hữu đối, không nhớ nghĩ về tất cả tưởng dị biệt, nhận biết về Hư không vô biên, liền nhập vào nẻo hành của xứ Hư không vô biên. Bồ-tát này đã vượt qua tất cả tưởng của Hư không vô biên, nhận biết Thức vô biên, liền nhập vào nẻo hành của xứ Thức vô biên. Bồ-tát này lại vượt quá tất cả tưởng của Thức vô biên, nhận biết về Vô sở hữu, liền nhập vào nẻo hành của xứ Vô sở hữu. Bồ-tát ấy lại vượt quá tất cả xứ Vô sở hữu, nhận biết nơi an ổn của Phi hữu tưởng phi vô tưởng, liền nhập vào nẻo hành của xứ Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chỉ thuận theo pháp hành mà không ham thích, vướng chấp”.

– Luận nêu: Do ý nghĩa gì mà nhập thiền vô sắc với vô lượng thần thông? Là vì 5 loại chúng sinh:

1. Vì các chúng sinh kiêu mạn nơi thiền lạc nên nhập các thiền.

2. Vì nhằm giải thoát cho các chúng sinh kiêu mạn nơi vô sắc, nên nhập định vô sắc.

3. Vì các chúng sinh khổ não, khiến an trụ nơi xứ thiện, trao cho an lạc vĩnh viễn, cần giải cứu các thứ khổ kia, khiến họ không còn thọ nhận nữa, nên nhập vô lượng Từ, Bi.

4. Vì các chúng sinh được giải thoát, nên nhập vào vô lượng Hỷ, Xả.

5. Vì các chúng sinh quy y nơi nẻo tà, nên nhập lực thần thông thù thắng, khiến họ có được chánh tín nơi ý nghĩa.

Địa này đạt được thiền không thoái chuyển, nên gọi là Địa Tammuội. Địa trước không phải là không có Tam-muội, nhưng Địa này vượt hơn. Ở đây, sự sai biệt của thiền cõi Sắc có 4 thứ:

  1. Lìa chướng ngại.
  2. Tu hành đối trị.
  3. Tu hành tạo lợi ích.
  4. Hai thứ kia (2, 3) đều nương dựa nơi Tam-muội.

Trong thiền thứ nhất: Lìa các pháp ác, bất thiện của dục: Đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Tức lìa các pháp ác, bất thiện của dục”. Có giác có quán: Đó gọi là tu hành đối trị. Như kinh nói: “Nơi có giác có quán”. Hỷ lạc: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Như kinh nói: “Hỷ lạc sinh do lìa”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ nhất: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ nhất”.

Nơi thiền thứ hai: Diệt bỏ giác quán (Tầm tứ): Đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Diệt bỏ giác, quán”. Bên trong thanh tịnh: Đó gọi là tu hành đối trị, tức diệt bỏ chướng ngại là giác, quán. Như kinh nói: “Bên trong tâm thanh tịnh, toàn xứ đều không giác không quán”. Tâm một xứ: Là tu tập Tam-muội vô lậu không gián đoạn, hành một cảnh. Hỷ lạc do định sinh: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Như kinh nói: “Hỷ lạc do định sinh”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ hai: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ hai”.

Trong thiền thứ ba: Lìa hỷ: Đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Lìa hỷ”. Hành xả, nhớ nghĩ về tuệ an ổn: Đó gọi là tu hành đối trị. Như kinh nói: “Hành xả, nhớ nghĩ về tuệ an ổn”. Thân thọ nhận lạc: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Như kinh nói: “Thân thọ nhận lạc”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ ba: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ ba”.

Nơi thiền thứ tư: Đoạn trừ khổ, lạc, trước hết là dứt bỏ ưu, hỷ: Đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Đoạn trừ khổ, lạc v.v…”. Niệm xả thanh tịnh: Đó gọi là tu hành đối trị. Như kinh nói: “Niệm xả thanh tịnh”. Không khổ không lạc: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Như kinh nói: “Không khổ không vui”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ tư: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ tư”.

Tam-ma-bạt-đề (Định) vô sắc cũng có 4 thứ:

  1. Lìa chướng ngại.
  2. Tu hành đối trị.
  3. Tu hành tạo lợi ích.
  4. Hai thứ kia (2, 3) đều nương dựa nơi Tam-muội.

Vượt quá tất cả của sắc: Là vượt quá tưởng của nhãn thức. Diệt bỏ hết thảy tưởng của hữu đối: Tức là tưởng hòa hợp của nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, được diệt trừ. Không nhớ nghĩ về tất cả tưởng dị biệt: Là không nhớ nghĩ về tưởng hòa hợp của ý thức. Do ý thức phân biệt về tất cả pháp, nên gọi là tưởng dị biệt. Cả ba trường hợp trên gọi là lìa chướng ngại. Như thế, đối trị vượt quá tưởng của sắc cùng cảnh giới, không phân biệt sắc cùng cảnh giới, thấy rõ vô ngã. Đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Hư không vô biên: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Hư không vô biên: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội.

Vượt quá tất cả tưởng của Hư không vô biên: Đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như thế, vượt quá Hư không vô biên kia, thấy rõ niệm thô bên ngoài, phân biệt chỗ lỗi lầm trở ngại: Đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Thức vô biên: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Thức vô biên: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội.

Vượt quá tất cả tưởng của Thức vô biên: Đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như thế, vượt quá Thức vô biên kia, thấy rõ niệm về sự thô, phân biệt chỗ lỗi lầm, trở ngại: Đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Vô sở hữu: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Vô sở hữu: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội.

Vượt quá tất cả tưởng của Vô sở hữu: Đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như thế, vượt quá cảnh giới Vô sở hữu, thấy rõ niệm thô, phân biệt chỗ lỗi lầm, trở ngại: Đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết chỗ an ổn của Phi hữu tưởng phi vô tưởng: Đó gọi là tu hành tạo lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Phi hữu tưởng phi vô tưởng: Đó gọi là hai thứ kia đều nương dựa nơi Tam-muội.

4. Nêu quả của nhàm chán: Thế nào là Quả của sự nhàm chán? Đó là bốn vô lượng, năm thần thông.

a. Thế nào là bốn vô lượng?

– Kinh nói:Bồ-tát này với tâm Từ tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai. Tâm ấy không sân hận, không đối, không chướng, không não hại. Tâm ấy hiện bày khắp đến tất cả xứ của thế gian, pháp giới, hư không giới rốt ráo tột cùng của thế gian. Tâm ấy bao trùm khắp tất cả hành của thế gian. Như vậy, Bồ-tát với tâm Bi tùy thuận, tâm Hỷ tùy thuận, tâm Xả tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai. Ba tâm sau (Bi, Hỷ, Xả) cũng hiện bày khắp đến tất cả xứ của thế gian, pháp giới, hư không giới rốt ráo tột cùng của thế gian, bao trùm khắp tất cả hành của thế gian”.

– Luận nêu: Vô lượng có 3 thứ:

  1. Nhớ nghĩ về chúng sinh.
  2. Nhớ nghĩ về pháp.
  3. Vô niệm.

Nhớ nghĩ về chúng sinh:4 thứ tướng sai biệt:

  1. Ban cho an lạc.
  2. Đối trị chướng ngại.
  3. Thanh tịnh.
  4. Gồm thâu quả.

Thế nào là ban cho an lạc? Tức ban cho ba thứ an lạc. Một là: Ban cho an lạc nơi cõi Dục. Hai là: Ban cho đồng hỷ, lạc nơi cõi Sắc. Ba là: Ban cho hỷ lạc không đồng. Vì ở đây là lìa khổ, lìa hỷ. Không hai (Bất nhị): Cũng là rộng lớn vô lượng. Như kinh nói: “Bồ-tát này với tâm Từ tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai”. Thế nào là đối trị chướng ngại? Ban cho không tham ái là trao cho sự đối trị chướng ngại ở đây là ái. Như kinh nói: “Không sân hận, không đối”.

Thế nào là thanh tịnh? Thân tâm chánh đoạn, không cười đùa, không có các thứ Cái (che lấp) như thùy miên, trạo cử, hối v.v… Như kinh nói: “Không chướng”. Thế nào là gồm thâu quả? Trong cõi Dục, cõi Sắc thọ nhận Chánh quả. Tập quả, không có sự khổ. Như kinh nói: “Không não hại”.

Nhớ nghĩ về pháp: Là hiện bày khắp tất cả xứ, tất cả hàng phàm phu hiện có nơi ba cõi, các hàng chúng sinh hữu học, vô học cùng pháp và chúng sinh phân biệt tạo tác hiện có, đều có thể nhớ nghĩ, nhận biết. Như kinh nói: “Hiện bày khắp đến tất cả xứ của thế gian”.

Vô niệm:2 thứ: (a) Vô niệm tự tướng: Là quán pháp vô ngã tột cùng trong thế gian. Như kinh nói: “Pháp giới, tột cùng của thế gian”. (b) Quán xét khắp đến vô tận. Như kinh nói: “Hư không giới rốt ráo”.

Hết thảy thế gian: Là hành rộng lớn của tất cả thế giới. Như kinh nói: “Bao trùm khắp tất cả hành của thế gian”.

b. Thế nào là năm thần thông?

Các thần thông: Tức bốn thần thông gọi là Minh trí. Thần thông thứ năm gọi là Minh kiến.

  1. Một thần thông nơi thân nghiệp thanh tịnh.
  2. Thiên nhĩ, tha tâm trí, là hai thần thông nơi khẩu nghiệp thanh tịnh.
  3. Trí túc mạng, sinh tử, là hai thần thông nơi ý nghiệp thanh tịnh.

Một thần thông nơi thân là có thể đi đến khắp nơi chốn của chúng sinh. Hai thần thông thiên nhĩ, tha tâm có thể nhận biết ý nghĩa của âm thanh thuyết pháp. Do nhận biết về tâm người khác, tùy theo vô số các loại ngôn âm nên đều có thể nhận biết hết. Dựa nơi nghĩa này có đủ loại tên gọi khác được nêu bày, tùy theo nẻo dụng của chúng sinh. Hai thần thông khứ, lai nhận biết các chúng sinh quá khứ, vị lai, với chỗ cần thọ nhận sự hóa độ.

* Kinh nói:Bồ-tát này hiện bày vô lượng lực thần thông có thể làm chuyển động đại địa. Một thân hiện làm nhiều thân. Nhiều thân biến thành một thân. Hiện mất đi rồi có trở lại. Mọi thứ chướng ngại như tường đá, vách núi v.v… đều có thể xuyên qua, như đi nơi hư không. Ở trong hư không ngồi kiết già mà đi giống như chim bay. Vào ra nơi đất như ra vào nơi nước không khác. Đi trên nước như đi trên đất. Thân tuôn ra lửa khói như khối lửa lớn. Nơi thân tuôn ra nước giống như đám mây lớn. Mặt trời, mặt trăng có thần đức lớn, uy lực lớn, nhưng Bồ-tát có thể dùng tay sờ, chạm vào, xoa mạnh. Thân lực tự tại cho đến cõi Phạm Thế.

Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhĩ thanh tịnh hơn hẳn con người, thảy đều nghe được hai thứ âm thanh của hàng trời, người, hoặc gần hoặc xa cho đến âm thanh của các loài vật nhỏ như ruồi, muỗi, nhặng v.v… cũng đều nghe được.

Bồ-tát này dùng tha tâm trí nên nhận biết đúng như thật là có tâm tham. Lìa tâm tham, nhận biết đúng như thật là lìa tâm tham. Nhận biết đúng như thật về: Có tâm sân, lìa tâm sân, có tâm si, lìa tâm si. Nhận biết đúng như thật về: Có tâm nhiễm, lìa tâm nhiễm, tâm nhỏ, tâm rộng, tâm lớn, tâm vô lượng, tâm gồm thâu, tâm không gồm thâu, tâm trụ định, tâm không trụ định, tâm giải thoát, tâm không giải thoát, tâm mong cầu, tâm không mong cầu. Tâm hướng thượng nhận biết đúng như thật là tâm hướng thượng. Tâm không hướng thượng nhận biết đúng như thật là tâm không hướng thượng.

Bồ-tát này cũng nhớ biết đúng như thật về vô lượng thọ mạng nơi đời trước với các nơi chốn sinh ra đều có thể nhớ biết. Cũng có thể nhớ biết về một đời, hai, ba, bốn, năm cho đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi đời. Cũng có thể nhớ biết về một trăm đời, nhớ biết về vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời. Nhớ biết về kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại, vô lượng kiếp thành hoại. Cho đến nhớ biết về trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ức kiếp, ngàn ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp. Nhớ biết cả đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp v.v… Ta vốn ở tại xứ ấy, tên gọi, họ, đời sống, hình sắc, sự ăn uống, thọ mạng, đã trụ lâu như vậy, thọ nhận khổ vui như thế. Ta ở nơi kia chết đi, sinh ra tại nơi này. Ở nơi này chết đi, lại sinh ra ở nơi kia. Như vậy, về đời quá khứ với vô số các tướng mạo, tánh tướng v.v… được nêu bày đều có thể nhớ biết.

Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người, thấy rõ các chúng sinh hoặc sống, hoặc chết, hình sắc tốt xấu, hành thiện hành bất thiện, nghèo hèn, giàu sang, các chúng sinh đó tùy theo chỗ tạo nghiệp đều nhận biết đúng như thật. Các chúng sinh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân, nơi miệng, nơi ý, hủy báng các bậc Hiền Thánh, hành theo tà kiến và nhân duyên của nghiệp tà kiến, nên sau khi thân hoại mạng chung, tất bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Các chúng sinh đó thành tựu nghiệp thiện nơi thân, nơi miệng, nơi ý, không hủy báng Hiền Thánh, thành tựu chánh kiến, cùng nhân duyên của nghiệp thiện chánh kiến, nên sau khi thân hoại mạng chung, tất sinh nơi đường thiện và trong các cõi trời. Như vậy, Bồ-tát với cảnh giới thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người v.v… đều nhận biết đúng như thật về các chúng sinh theo nghiệp thọ báo.

Bồ-tát này, đối với Tam-ma-bạt-đề, Tam-muội, Thiền giải thoát đều có thể nhập, xuất, nhưng không lệ thuộc vào lực sinh của Thiền giải thoát. Theo sự nhận thức có thể thực hành đầy đủ các pháp phần Bồ-đề, do nguyện lực nên sinh trong ấy”.

* Luận nêu: Nơi đoạn này:

Thần thông nơi thân: Là đạt được tự tại thù thắng, nên biết. Tự tại có 3 thứ:

1. Tự tại đối với thế giới: Tức có thể làm chuyển động đại địa. Như kinh nói: “Bồ-tát này hiện bày vô lượng lực thần thông có thể làm chuyển động đại địa”.

2. Tự tại đối với thân: Bồ-tát có thể ẩn, hiện, tan hợp. Như kinh nói: “Một thân hiện làm nhiều thân. Nhiều thân biến thành một thân. Hiện mất đi rồi có trở lại”.

3. Tự tại nơi tạo nghiệp: Tạo nghiệp có 8 thứ:

1. Bàng hành vô ngại (Đi đứng dựa vào xung quanh không bị ngăn ngại). Như kinh nói: “Tường đá, vách núi v.v… đều có thể xuyên qua, như đi nơi hư không”.

2. Đi trên cao. Như kinh nói: “Ở trong hư không ngồi kiết già mà đi giống như chim bay”.

3. Đi trên, dưới. Như kinh nói: “Vào ra nơi đất như ra vào nơi nước không khác”.

4. Lội qua nước không bị chìm. Như kinh nói: “Đi trên nước như đi trên đất”.

5. Nơi thân có lửa cháy bùng. Như kinh nói: “Thân tuôn ra lửa khói như khối lửa lớn”.

6. Thân có thể tuôn ra nước. Như kinh nói: “Nơi thân tuôn ra nước giống như đám mây lớn”.

7. Thân có thể sờ, chạm. Như kinh nói: “Mặt trời, mặt trăng có thần đức lớn, uy lực lớn, nhưng Bồ-tát có thể dùng tay sờ, chạm vào, xoa mạnh”.

8. Tự tại. Cho đến cõi Phạm Thế, cũng như đối với khí thế gian, tùy ý chuyển biến luôn được tự tại. Như kinh nói: “Thân lực tự tại cho đến cõi Phạm Thế”.

Thiên nhĩ thông: Tùy nơi chủ thể nghe, đối tượng được nghe đều chỉ rõ đúng như thật về sự lắng nghe thanh tịnh.

Hơn hẳn con người tức nghe xa nên vượt hơn con người. Âm thanh, thấp cho đến âm thanh nơi địa ngục A-tỳ v.v… đều có thể nghe được. Như kinh nói: “Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhĩ thanh tịnh hơn hẳn con người”.

Tùy chỗ tạo âm thanh của hàng trời, người, hiện đều nghe biết rõ ràng, cho đến âm thanh rất nhỏ của các loài ruồi, nhặng v.v… cũng có thể nghe rõ. Như kinh nói: “Thảy đều nghe được hai thứ âm thanh của hàng trời, người, hoặc gần hoặc xa cho đến âm thanh của các loài vật nhỏ như ruồi, muỗi, nhặng v.v… cũng đều nghe được”.

Tha tâm thông: Chỗ sai biệt nơi tâm người khác có 8 thứ:

  1. Tùy thuộc phiền não.
  2. Sử.
  3. Sinh.
  4. Học hành trì Tam-muội.
  5. Đạt Tam-muội.
  6. Đạt giải thoát.
  7. Hành vọng, hành chánh.
  8. Hàng phàm phu tăng thượng mạn khác.

Tùy thuộc phiền não: Tức kết hợp với tham, sân, si v.v… Như kinh nói: “Bồ-tát này dùng tha tâm trí nên nhận biết đúng như thật về tâm, tâm số pháp của chúng sinh khác v.v…”.

Sử: Tức có phiền não, lìa phiền não v.v… Như kinh nói: “Nhận biết đúng như thật về có tâm nhiễm, lìa tâm nhiễm”.

Sinh: Trong nẻo người: Nhỏ. Nơi các trời thuộc cõi Dục: Rộng. Nơi các trời thuộc cõi Sắc: Lớn. Nơi cõi trời thuộc cõi Vô sắc: Cả hai. Trong giải thoát: Vô lượng. Như kinh nói: “Tâm nhỏ, tâm rộng, tâm lớn, tâm vô lượng”.

Học hành trì Tam-muội: Tức tâm tán loạn, tâm không tán loạn. Như kinh nói: “Tâm gồm thâu, tâm không gồm thâu”.

Đạt Tam-muội: Tức khi nhập định, không nhập định, cùng lúc xuất định. Như kinh nói: “Tâm trụ định, tâm không trụ định”.

Đạt giải thoát: Tức có trói buộc, không trói buộc. Như kinh nói: “Tâm giải thoát, tâm không giải thoát”.

Hành vọng, hành chánh: Tức đối với tiếng tăm hiện khởi hy vọng, thuận hợp hoặc không thuận hợp. Như kinh nói: “Tâm mong cầu, tâm không mong cầu”.

Hàng phàm phu tăng thượng mạn khác: Tức tập hành thô, tế. Như kinh nói: “Tâm hướng thượng nhận biết đúng như thật là tâm hướng thượng. Tâm không hướng thượng nhận biết đúng như thật là tâm không hướng thượng”.

Túc mạng trí thông: Ai có thể nhớ nghĩ? Trí có thể nhớ nghĩ. Như kinh nói: “Bồ-tát này cũng nhớ biết đúng như thật về vô lượng thọ mạng nơi đời trước với các nơi chốn sinh ra đều có thể nhớ biết”.

Nhớ biết về những sự việc gì? Như kinh nói: “Cũng có thể nhớ biết về một đời cho đến v.v…”.

Thế nào là chỗ dựa vào của trí nhớ biết? Đó là: Sai biệt về danh tự. Như kinh nói: “Ta vốn ở tại xứ ấy, tên như vậy”. Sai biệt về gia đình. Như kinh nói: “Họ như vậy”. Sai biệt về sang hèn. Như kinh nói: “Đời sống như vậy”. Sai biệt về đẹp xấu. Như kinh nói: “Hình sắc như vậy”. Sai biệt về ăn uống. Như kinh nói: “Sự ăn uống như vậy”. Sai biệt về hành nghiệp. Như kinh nói: “Thọ mạng như vậy, đã trụ lâu như vậy”. Sai biệt chỗ hơn kém thành hoại. Như kinh nói: “Thọ nhận khổ vui. Ta ở nơi kia chết đi, sinh ra tại nơi này. Ở nơi này chết đi, lại sinh ra ở nơi kia”.

Trong đó: Sai biệt về gia đình: Tức sai biệt về cha, mẹ. Sai biệt về sang hèn: Tức sai biệt về Sát-lợi, Bà-la-môn v.v… Sai biệt về hành nghiệp: Là sai biệt về thọ mạng, chết đúng lúc, không đúng lúc.

Ở đây: Vô số tướng mạo: Là sai biệt về tất cả hình tướng. Như kinh nói: “Vô số các tướng mạo”. Nêu bày: Là danh xưng. Như kinh nói: “Được nêu bày”. Tánh tướng: Là họ của gia đình. Như kinh nói: “Tánh tướng v.v… đều có thể nhớ biết”.

Lại có nghĩa khác: Cũng có thể nhớ biết về một đời, hai đời, như thế v.v… gọi là tướng mạo. Nêu bày: Là tên gọi v.v… Tướng: Ta ở nơi kia chết đi, sinh ở nơi này. Như thế v.v… đều có thể nhớ biết.

Sinh tử trí thông: Ai có thể thấy được? Dùng thiên nhãn để thấy.

Thanh tịnh: Là thấy kỹ càng, đầy đủ.

Vượt hơn con người: Là thấy xa. Như kinh nói: “Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người”.

Thấy những sự việc gì? Tức các sự việc sống, chết của chúng sinh. Như kinh nói: “Thấy rõ các chúng sinh hoặc sống hoặc chết v.v…”.

Thấy như thế nào? Như kinh nói: “Các chúng sinh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân, nơi miệng, nơi ý v.v…”.

Phần khác: Như trong hai Địa trước đã nói.

Nghiệp báo thiện ác: Ở đây cũng như vậy, nên biết.

Trong đoạn này: Thiền: Là bốn thiền. Giải thoát: Là bốn định vô sắc. Tam-muội: Là bốn vô lượng. Tam-ma-bạt-đề: Là năm thần thông.

Có thể vào, có thể ra: Tức khi tâm sinh, thì tùy theo lực dụng của tâm nơi hiện tiền.

Nhưng không lệ thuộc vào lực sinh của thiền giải thoát: Tức là tâm niệm sâu xa thuần hậu kia, ở đây chỉ rõ sự thành tựu.

Theo chỗ thấy biết, có thể làm viên mãn nơi chốn của pháp phần Bồ-đề: Tức cùng với Đại Bồ-đề của chư Phật cùng sinh một xứ. Như kinh nói: “Bồ-tát này, đối với thiền giải thoát v.v…”.

– Kinh nói:Bồ-tát này, an trụ nơi Địa Minh của Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật, do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, nên thấy nhiều trăm Phật, nhiều ngàn Phật, nhiều trăm ngàn Phật, trăm ngàn na-do-tha Phật, nhiều ức Phật, trăm ức, ngàn ức, trăm ngàn ức, trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, nên Bồ-tát này, khi thấy chư Phật, đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả vật dụng cung cấp đều dùng để phụng thí. Dùng các thứ vật dụng tạo an lạc thượng diệu của Bồ-tát để cúng dường chúng Tăng, đem những căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồđề Vô thượng. Tại trụ xứ của chư Phật khởi tâm cung kính tột bậc, chuyên tâm nghe pháp, nghe rồi thì thọ trì, theo đúng như lời dạy mà hành trì. Bồ-tát ấy quán xét tất cả pháp không sinh, không diệt, do nhân duyên mà có”.

– Luận nêu: Tất cả pháp không sinh, không diệt: Tức ở trong pháp thanh tịnh không thấy có tăng, ở trong vọng tưởng phiền não không thấy có giảm. Do nhân duyên làm nhân sinh, nên trong sự thanh tịnh kia, không một pháp nào có thể tăng. Nơi chỗ vọng tưởng phiền não kia, không một pháp nào có thể giảm. Nhưng dựa vào nhân duyên đối trị, lìa bỏ vọng tưởng, phiền não thì càng trở nên thanh tịnh thù thắng, trí tuệ hiện tiền. Như kinh nói: “Quán xét tất cả pháp không sinh, không diệt, do nhân duyên mà có”.

– Kinh nói:Bồ-tát này, tất cả sự trói buộc của dục đã chuyển biến, trở nên mỏng, ít. Tất cả sự trói buộc của Sắc, của Hữu, của Vô minh thảy đều trở nên mỏng, ít. Sự trói buộc của kiến, trước đã trừ diệt. Bồ-tát này, an trụ nơi Địa Minh của bậc Bồ-tát rồi, trong vô lượng trăm ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, không còn hiện trở lại sự tích tập để đoạn trừ vọng tham, vọng sân, vọng si. Bồ-tát này, chuyển tăng các căn thiện đã có khiến càng trở nên sáng sạch.

Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc được người thợ kim hoàn khéo léo tôi luyện ứng hợp với cân, lượng, càng trở nên sáng đẹp bội phần. Bồ-tát này cũng lại như vậy v.v… Bồ-tát ấy tâm nhẫn nhục an lạc chuyển tăng càng trở nên minh tịnh. Các thứ tâm: Tâm cùng hòa hợp, tâm mềm mỏng, tâm không sân, tâm không động, tâm không ô trược, tâm không cao thấp về ngã, tâm không mong cầu đối với những việc làm của chúng sinh, tâm đối với những việc đã hành tạo không mong cầu báo đáp, tâm không dua nịnh quanh co, tâm không rơi vào rừng rậm phiền não, thảy đều chuyển tăng trở nên thanh tịnh. Bồ-tát ấy, trong bốn Nhiếp pháp, lợi hành càng tăng thượng. Nơi mười Ba-la-mật thì Nhẫn nhục Ba-la-mật tăng thượng. Các Ba-la-mật còn lại không phải là không tu tập, nhưng tùy theo lực, theo phần.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về Địa Minh là Địa thứ ba của bậc Bồ-tát”.

– Luận nêu: Tất cả sự trói buộc của dục đã chuyển biến, trở nên mỏng, ít: Là do tu đạo đoạn trừ tất cả phiền não hiện có nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc và nhân của chúng, cùng tập khí vô minh thảy đều mỏng, ít, do xa lìa.

Sự trói buộc của các kiến: Ở trong Địa thứ nhất, khi đạt kiến đạo đã đoạn trừ. Như kinh nói: “Sự trói buộc của các kiến, trước đã trừ diệt”.

Không có hiện trở lại sự tích tập để đoạn trừ vọng tham v.v…: Tức đoạn trừ căn bất thiện, sử, hành của tập khí, không đoạn trừ phiền não thô trọng, vì các phiền não thô trọng ấy nơi Địa trước đã đoạn. Như kinh nói: “Bồ-tát này, an trụ nơi Địa Minh của bậc Bồ-tát rồi, trong vô lượng trăm ngàn kiếp, cho đến các căn thiện kia chuyển tăng sáng sạch”.

Dụ về vàng ròng: Là chỉ rõ sự an trụ xứng hợp không giảm. Bồtát trụ nơi Địa Minh, sự chán lìa thế gian hơn hẳn so với Địa trước, tự tại không mất. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc v.v…”.

Bồ-tát ấy, tâm nhẫn nhục an lạc chuyển tăng càng trở nên minh tịnh: Tức như kẻ khác gia tăng tâm xấu ác, Bồ-tát đều có thể nhẫn chịu. Lại khéo hộ trì tâm người khác. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy tâm nhẫn nhục an lạc chuyển tăng v.v…”.

Kẻ gia tăng ác không sửa đổi, lại khéo hộ trì tâm của họ, tức phân biệt chỉ rõ những việc làm ác và tâm hoài nghi nơi họ. Hiện bày cùng là bạn bè, dùng ái ngữ để khuyên dẫn. Như kinh nói: “Tâm cùng hòa hợp, tâm mềm mỏng, dịu dàng”.

Gia tăng điều ác nhưng Bồ-tát không giận dữ, nghe lời mắng nhiếc không đáp trả, không sinh lo buồn. Như kinh nói: “Tâm không sân, tâm không động, tâm không ô trược”.

Quá khứ không kiêu mạn, luôn tự hiện bày lời nói thiện. Như kinh nói: “Tâm không cao thấp về ngã”.

Tâm không mong cầu được người khác cung kính. Như kinh nói: “Tâm không mong cầu đối với những việc làm của chúng sinh”.

Nơi những việc đã làm, tâm không mong cầu báo đáp. Như kinh nói: “Tâm đối với những việc đã hành tạo không mong cầu báo đáp”.

Tâm không phải là không thật tạo, hành lợi ích, cùng tâm không thiên lệch v.v… khi tạo lợi ích. Như kinh nói: “Tâm không dua nịnh quanh co”.

Những thứ cấu uế vi tế, ẩn giấu nơi tâm thảy đều xa lìa. Như kinh nói: “Tâm không rơi vào rừng rậm phiền não, thảy đều chuyển tăng trở nên thanh tịnh”.

– Kinh nói:Bồ-tát trụ trong Địa này, nhiều lần làm vua cõi trời Đạo-lợi, được tự tại nơi pháp, có thể dứt trừ các thứ phiền não cấu uế như tham dục v.v… của chúng sinh. Dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo để cứu với các chúng sinh nơi vũng bùn lầy tham dục. Các nghiệp thiện đã tạo, như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, những thứ phước đức ấy đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hạnh của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm mười Địa, niệm lực không hoại, niệm vô úy, niệm pháp bất cộng nơi Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy thường khởi tâm này: Đối với tất cả chúng sinh, ta phải là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn lao, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là vị thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tấn. Do diệu lực của tinh tấn, nên ở trong khoảng một niệm đạt được trăm ngàn Tam-muội, được thấy trăm ngàn Phật, nhận biết trăm ngàn thần lực của Phật, làm chuyển động trăm ngàn thế giới Phật, có thể đi vào trăm ngàn thế giới Phật, có thể soi chiếu trăm ngàn thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn thế giới Phật, có thể trụ thọ trăm ngàn kiếp, có thể nhận biết sự việc trong ngàn kiếp nơi đời quá khứ, vị lai, có thể khéo hội nhập nơi trăm ngàn pháp môn, có thể biến hóa thân làm trăm ngàn thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Hoặc dùng nguyện lực thắng thượng tự tại, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số diệu lực thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc nẻo hành, hoặc sự trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thứ thần thông ấy, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.

– Luận nêu: Địa này thâu tóm quả báo nơi quả của Nguyện trí lực, như trong Địa thứ nhất đã giải thích.

HẾT – QUYỂN 5