LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 7

Địa thứ năm: ĐỊA NAN THẮNG

* Luận nêu: Trong Địa thứ năm này phân biệt có 3 phần:

  1. Thù thắng do đối trị mạn.
  2. Thù thắng do hành đạo không trụ.
  3. Thù thắng của quả ấy.

1. Thế nào là Thù thắng do đối trị mạn?

* Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được Địa thứ tư của bậc Bồ-tát, khéo thực hiện đủ các hành rồi, muốn bước vào Địa thứ năm nên dùng 10 thứ tâm thanh tịnh, sâu xa, bình đẳng để hội nhập nơi Địa ấy. Những gì là mười? Đó là:

1. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi pháp Phật quá khứ.

2. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi pháp Phật vị lai.

3. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi pháp Phật hiện tại.

4. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi giới tịnh.

5. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi tâm tịnh.

6. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi việc dứt trừ kiến, nghi, hối đạt thanh tịnh.

7. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi trí đạo phi đạo thanh tịnh.

8. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi trí hành đoạn thanh tịnh.

9. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi việc lượng xét về tất cả pháp phần Bồ-đề thanh tịnh tối thượng.

10. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi việc hóa độ tất cả chúng sinh đạt thanh tịnh.

Này các Phật tử! Bồ-tát dùng mười thứ tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng ấy nên có thể đi vào Địa thứ năm của bậc Bồ-tát”.

* Luận nêu: Đối trị mạn, thắng: Tức là 10 thứ tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng, cùng niệm về tâm không thoái chuyển. Trước đã nói về việc đối trị mạn nơi lãnh hội pháp. Nay, trong Địa này nói về đối trị mạn nơi phân biệt thanh tịnh. Trong đó:

Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng: Là ở trong sự bình đẳng, tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa ấy phân biệt có mười thứ.

Mười thứ tâm thanh tịnh sâu xa: Là pháp của chư Phật cùng sự tùy thuận nơi pháp của chư Phật. Sự phân biệt ấy, nên biết.

Thế nào là pháp của chư Phật? Tức là diệu lực v.v… của ba đời. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi pháp Phật quá khứ, vị lai, hiện tại”. Như vậy, diệu lực của pháp Phật nơi ba đời đã nêu bày.

Sự tùy thuận nơi pháp của chư Phật: Nghĩa là pháp của chư Phật kia do đâu mà được thành? Tức nhân nơi giới, định, trí cùng việc hóa độ chúng sinh, trong ấy: Dựa nơi giới thanh tịnh, như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi giới tịnh”. Dựa nơi định thanh tịnh, như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi tâm tịnh”. Dựa nơi trí thanh tịnh, như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi việc dứt trừ kiến, nghi, hối đạt thanh tịnh”.

Ở đây: Trí hành đoạn: Là lượng xét về tất cả pháp phần Bồ-đề chuyển tăng thù thắng tối thượng, dựa vào sự giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng nơi việc hóa độ tất cả chúng sinh đạt thanh tịnh”.

– Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa thứ năm của bậc Bồ-tát rồi, khéo tu hành pháp phần Bồ-đề, khéo thành tựu tâm thanh tịnh sâu xa, chuyên cầu đạt hành thượng thắng, tùy thuận hành như đạo, đạt được nguyện lực lớn, do tâm từ bi nên không xả bỏ tất cả chúng sinh, tu tập hành công đức trí tuệ, các hành không ngừng nghỉ, dấy khởi phương tiện thiện xảo, soi chiếu thấy rõ địa tối thượng, chính thức thọ nhận sự gia hộ của Như Lai, đạt được trí lực niệm ý khứ, thành tựu tâm không thoái chuyển”.

– Luận nêu: Trong đoạn này: “Khéo tu hành pháp phần Bồđề”, cho đến: “Tùy thuận hành như đạo”: Đều là chính thức tu tập các hành.

Khéo tu hành pháp phần Bồ-đề: Là trong Địa thứ tư của bậc Bồ-tát tu tập pháp phần Bồ-đề, khéo đạt tâm sâu xa thanh tịnh. Còn tâm thanh tịnh sâu xa kia thì cùng cầu đạt hạnh thù thắng. Như thế là hành đạo không trụ, là hơn hết để phá trừ các mạn.

Tùy thuận hành như đạo: Là tâm thanh tịnh sâu xa, tâm không thoái chuyển, trong sự bình đẳng kia, hiện bày thành tựu, tùy nơi sự bình đẳng ấy, trụ nơi pháp thanh tịnh. Như vậy, tâm sâu xa của Bồtát an trụ gọi là tùy thuận hành như đạo. Tùy thuận hành như đạo có 8 thứ:

1. Tu tập tâm Bồ-đề. Như kinh nói: “Đạt được nguyện lực lớn”.

2. Không mệt mỏi. Như kinh nói: “Do tâm từ bi nên không xả bỏ tất cả chúng sinh”.

3. Đạt được diệu lực của căn thiện. Như kinh nói: “Tu tập hành công đức, trí tuệ”.

4. Không bỏ các hành. Như kinh nói: “Các hành không ngừng nghỉ”.

5. Tu hành chân chánh. Như kinh nói: “Dấy khởi phương tiện thiện xảo”.

6. Không chán đủ. Như kinh nói: “Soi chiếu thấy rõ địa tối thượng”.

7. Đạt được lực thù thắng của người khác. Như kinh nói: “Chính thức thọ nhận sự gia hộ của Như Lai”.

8. Tự thân đạt được diệu lực thù thắng, niệm thù thắng nơi ba tuệ. Như kinh nói: “Đạt được trí lực niệm ý khứ, thành tựu tâm không thoái chuyển”. Khứ là quán tu tuệ không bị chướng ngại.

2. Thế nào là Thù thắng do hành đạo không trụ? Thù thắng do hành đạo không trụ có 2 thứ quán:

1. Thù thắng nơi trí thanh tịnh trong pháp của đối tượng  được nhận biết.

2  Thù thắng nơi phương tiện siêng năng tạo lợi ích cho chúng sinh.

Do hai pháp ấy nên không trụ nơi thế gian, không trụ nơi Niết-bàn.

a. Thế nào là sự thù thắng nơi trí thanh tịnh trong pháp của đối tượng được nhận biết?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về: Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế. Nhận biết đúng như thật về Đạo thánh đế diệt trừ hết khổ.

Bồ-tát ấy khéo nhận biết về Thế đế, khéo nhận biết về Đệ nhất nghĩa đế, khéo nhận biết về: (1) Đế tướng. (2) Đế sai biệt. (3) Đế thuyết hành. (4) Đế sự. (5) Đế sinh. (6) Đế trí tận, vô sinh. (7) Đế khiến nhập nơi đạo trí. (8) Đế thứ lớp thành tựu nơi tất cả địa của bậc Bồ-tát. (9) Đế tập trí Như Lai.

Bồ-tát ấy thuận theo tâm ý của chúng sinh khiến họ hoan hỷ. Khéo nhận biết về Thế đế, nên thông đạt về một tướng của tất cả pháp. Khéo nhận biết về Đệ nhất nghĩa đế, nên biết rõ tự tướng, đồng tướng của pháp. Khéo nhận biết về đế tướng, nên biết rõ chỗ sai biệt của các pháp. Khéo nhận biết về đế sai biệt, nên phân biệt về ấm, giới, nhập. Khéo nhận biết về đế thuyết hành, nên biết rõ về thân tâm khổ não. Khéo nhận biết về đế sự, nên biết rõ về các nẻo sinh tương tục. Khéo nhận biết về đế sinh, nên diệt trừ hoàn toàn các thứ nhiệt não. Khéo nhận biết về đế trí tận, vô sinh, nên phát khởi hành bất nhị. Khéo nhận biết về đế khiến nhập nơi đạo trí, nên biết đúng đắn về tướng của tất cả các pháp. Khéo nhận biết về đế thứ lớp thành tựu nơi hết thảy địa của bậc Bồ-tát, cùng khéo nhận biết về đế tập trí Như Lai, do diệu lực tin hiểu, nên biết rõ chỗ nhận thức của trí phi đắc nhất thiết cứu cánh”.

– Luận nêu: Sự thù thắng nơi trí thanh tịnh trong pháp của đối tượng được nhận biết có 2 thứ:

1. Phân biệt pháp thật, nhận biết đúng như thật về bốn đế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về khổ thánh đế, khổ tập đế, khổ diệt đế. Nhận biết đúng như thật về đạo thánh đế diệt trừ hết khổ”.

2. Chỗ sai biệt của phương tiện hóa độ chúng sinh, nơi trí phương tiện sai biệt của mười đế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, khéo nhận biết về Thế đế, cho đến: Cùng khéo nhận biết về đế tập trí Như Lai”.

Trong ấy:

Phân biệt pháp thật: Tức có Phật hay không có Phật, thì hai đế khổ, tập với quả nhân sai biệt, thể của chúng là vọng tưởng cấu nhiễm. Hai đế diệt, đạo với quả nhân sai biệt, thể của chúng là pháp thanh tịnh.

Chỗ sai biệt của phương tiện hóa độ chúng sinh: Tức sự sai biệt của chúng sinh nơi đối tượng được hóa độ. Phương tiện sai biệt nên nhận biết. Chúng sinh nơi đối tượng được hóa độ có 7 thứ. Hàng Tiểu thừa có thể hóa độ gồm 6 thứ.

1. Vì chúng sinh căn cơ chưa thuần thục, nên biết rõ về phương tiện của Thế đế.

2. Vì chúng sinh căn cơ chưa thuần thục, nên biết rõ phương tiện của Đệ nhất nghĩa đế.

3. Vì các chúng sinh nghi hoặc nơi pháp thâm diệu, nên biết rõ phương tiện của đế tướng.

4. Vì các chúng sinh hiểu sai lạc, mê lầm nơi pháp thâm diệu, nên biết rõ về phương tiện của đế sai biệt.

5. Vì các chúng sinh lìa chánh niệm, nên biết rõ về phương tiện của đế thuyết hành.

6. Vì các chúng sinh có chánh kiến, nên biết rõ về phương tiện của đế sự, biết rõ về phương tiện của đế sinh, đế trí tận, vô sinh, đế khiến nhập nơi đạo trí. Bốn đế như đế sự v.v… là thuộc về khổ đế v.v…

7. Là hàng Đại thừa có thể hóa độ chúng sinh, nên khéo nhận biết về phương tiện của đế thứ lớp thành tựu nơi tất cả địa của bậc Bồ-tát, cùng khéo nhận biết về phương tiện của đế tập trí Như Lai. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy thuận theo tâm ý của chúng sinh khiến họ hoan hỷ. Khéo nhận biết về Thế đế, nên thông đạt về một tướng của tất cả pháp v.v…”.

Trong đoạn này: Thứ lớp của địa Bồ-tát: Là khoảng giữa của từng địa, như từ địa của mình thứ lớp hội nhập. Nên biết tất cả sinh xứ, thân tâm thọ nhận khổ não. Khổ: Tức sự thọ nhận hiện có đều là sự khổ. Phát khởi hành bất nhị: Tức là một hành. Nhận biết đúng đắn về tất cả các tướng: Là xứ luận của năm minh đều khéo léo nhận biết. Là lực dụng của tin hiểu. Nhận biết: Là trí lực của quán xét hình tượng nơi gương, trí lực của quán xét không thành tựu.

Như vậy là đã nói xong phần: Thù thắng nơi trí thanh tịnh trong pháp của đối tượng được nhận biết.

b. Thế nào là sự thù thắng nơi phương tiện siêng năng tạo lợi ích cho chúng sinh? Do nhận biết tướng hư vọng của tất cả pháp hữu vi, nên dấy khởi niệm thương xót chúng sinh.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, đã khéo phát khởi trí của các đế như thế rồi, thì nhận biết đúng như thật về tất cả hành hữu vi đều là hư vọng, dối trá, dối gạt, làm mê hoặc hàng phàm phu. Bồ-tát bấy giờ, lại ở nơi chúng sinh, tâm đại bi chuyển tăng trội bật, luôn hiện tiền, cùng phát khởi tâm đại từ sáng tỏ”.

– Luận nêu: “Bồ-tát ấy, đã khéo phát khởi trí của các đế như thế rồi”, cho đến: “Cùng phát khởi tâm đại từ sáng tỏ”: Trong đó:

Vọng tưởng về thường v.v…: Là do chẳng giống với không hoàn toàn (vô) nên là hư. Luôn tạo ra các sự việc kiêu mạn, tưởng chấp về ngã, nên là vọng. Pháp thế gian hoàn toàn hư hoại nên là dối. Pháp thế gian lôi kéo, trói buộc hàng phàm phu ngu si nên là trá v.v… Phàm phu: Là dựa nơi chỗ chấp giữ về thân, dấy khởi ngã mạn.

Đại bi, đại từ: Là thương xót chúng sinh.

Lợi ích thù thắng: Tức chỉ rõ chỗ hơn so với địa trước về bi, nên nói đại bi thù thắng hành đạo không trụ. Thành tựu trí phương tiện để cứu độ chúng sinh, nên gọi là tâm đại từ sáng tỏ.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy đạt được diệu lực của trí tuệ như vậy, nên không xả bỏ tất cả chúng sinh, luôn cầu đạt trí tuệ Phật. Quán xét đúng như thật về hết thảy hành hữu vi nơi biên vực trước, biên vực sau. Nhận biết các chúng sinh từ nơi biên vực trước với vô minh, hữu ái nên sinh, lưu chuyển trong thế gian, quy về ngôi nhà năm ấm. Không thể hành động tự tại nên khối khổ ấm càng tăng trưởng. Trong đó, không có ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, lìa ngã, ngã sở, Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật. Biên vực sau cũng như vậy. Ở đây, không thật có mà do tham chấp hư vọng về phần đoạn, tất cả đều ra khỏi có không. Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật”.

– Luận nêu: Bồ-tát ấy đạt được diệu lực của trí tuệ như vậy: Tức như trước đã nêu.

Không xả bỏ tất cả chúng sinh: Tức tâm đại bi, đại từ sáng tỏ cũng như trước đã nói.

Cầu đạt trí tuệ Phật: Là nghĩa cứu độ tất cả chúng sinh.

Quán xét đúng như thật về hết thảy hành hữu vi nơi biên vực trước, biên vực sau: Tức tùy nơi quán đại bi kia chỉ rõ 2 thứ tướng:

1. Quán như thật về nhân duyên của khổ là tập: Như kinh nói: “Nhận biết các chúng sinh từ nơi biên vực trước với vô minh, hữu ái nên sinh v.v…”. Ở đây, “Từ nơi biên vực trước với vô minh, hữu ái nên sinh”: Tức hiển bày phàm phu sinh, không phải là Bồ-tát sinh. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo để sinh. Vì sao không nói các phần nhân duyên khác? Vì vô minh, hữu ái là gốc rễ của phần Hữu. Phàm phu sinh: Tức nói có ba thứ chúng sinh: Chúng sinh cầu dục, chúng sinh cầu phạm hạnh không thật, chúng sinh cầu hữu. Cho đến dựa nơi cõi trời Hữu Đảnh thì khối khổ của năm ấm cũng là vô ngã, trong ấy, tự thân vô ngã và vô ngã của chúng sinh nơi đệ nhất nghĩa, nên là không. Nhưng vô ngã của chúng sinh là dựa nơi sức của mạng căn mà trụ, luôn luôn thọ sinh, thân tâm của chúng sinh tương tục, không phải thường, không phải đoạn, nên cho là có thọ mạng, có chúng sinh. Phá trừ ý chấp giữ, kiêu mạn kia, nên nói là không thọ mạng, không chúng sinh. Xa lìa ý ngã mạn của chủ thể chấp giữ, đối tượng được chấp giữ, nên gọi là lìa ngã, ngã sở.

Nơi biên vực trước, do nhân duyên gì tùy nơi chúng sinh hiện có, tùy nơi hành khổ hiện có? Bồ-tát quán xét đúng đắn rồi thì biên vực sau cũng như vậy. Tùy nơi nhân của khổ kia là vô minh, ái dứt hẳn, gọi là diệt, hơn hẳn diệt của thế gian. “Ra khỏi” là đạo. “Không” cũng nhận biết đúng như thật. “Có” cũng nhận biết đúng như thật. Đó gọi là một thứ đại bi quán đúng đắn về nhân duyên tập, nhớ nghĩ đúng như thật về khổ.

2. Quán đúng đắn về các khổ sâu nặng mãi đeo đuổi nơi vô lượng đời cùng đủ các thứ các loại khổ.

– Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát suy niệm: Các kẻ phàm phu ấy thật hết sức kỳ dị. Ngu si, không trí nên thọ nhận vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt. Luôn diệt như vậy, nhưng không thể đối với thân sinh tưởng chán lìa, lại càng làm tăng trưởng những yếu tố chính nơi thân khổ, thường bị cuốn trôi nổi theo dòng chảy của thế gian, không thể lội ngược lại, chỉ quy về nơi ngôi nhà năm ấm, không làm sao lìa bỏ được, không sợ rắn độc bốn đại, không thể nhổ bỏ mũi tên kiến chấp, ngã mạn, không thể diệt trừ lửa tham sân si, không thể phá bỏ được vùng vô minh tối tăm, không thể làm khô cạn dòng sông lớn ái chấp. Không cầu đạt mười lực nơi bậc Đại Thánh, bậc Đạo sư, thường đi vào rừng rậm của ý ma, ở trong biển sinh tử luôn bị các thứ giác quán xấu ác xoay chuyển”.

– Luận nêu: Đại bi quán xét đúng đắn về các khổ sâu nặng: Là nơi vô lượng đời luôn bị cuốn theo đủ thứ loại khổ.

Có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thân diệt: Là bị cuốn theo trong vô lượng đời.

Thế nào là quán xét về vô số thứ loại khổ? Như quán về sinh khổ. Nhân của khổ ấy. Lìa nhân khổ kia là diệt, đạo. Cũng vậy, quán về già, bệnh, chết khổ, nhân của khổ kia, lìa nhân khổ là diệt, đạo.

Nơi đoạn này:

Thân ấy dựa nơi nhân duyên, có đủ yếu tố chính về thân khổ: Là chỉ rõ về sinh khổ.

Thường bị cuốn trôi nổi theo dòng chảy của thế gian, không thể lội ngược lại: Là chỉ rõ về ái của tập (nguyên nhân).

Chỉ quy về nơi ngôi nhà năm ấm, không làm sao lìa bỏ được: Là chỉ rõ về diệt, đạo, lìa nhân khổ.

Không sợ rắn độc bốn đại: Là bệnh khổ nơi nhân kia phát sinh tăng giảm.

Chúng sinh cầu phạm hạnh không thật, chúng sinh cầu dục, thọ nhận dục, hành hạnh ác, chúng sinh cầu hữu: Tức chỉ rõ không thể nhổ bỏ mũi tên kiến chấp, ngã mạn, không thể diệt trừ lửa tham sân si, không thể phá bỏ được vùng vô minh tối tăm, không thể làm khô cạn dòng sông lớn ái chấp. Thứ lớp như thế, chỉ rõ về nguyên nhân của khổ kia cầu hướng tới nơi chốn vô úy.

Không cầu đạt mười lực nơi bậc Đại Thánh, bậc Đạo sư: Là chỉ rõ việc xa lìa sự diệt khổ kia.

Thường đi vào rừng rậm của ý ma: Là chỉ rõ việc thuận theo đạo ác, xa lìa đạo diệt khổ kia.

Ở trong biển sinh tử luôn bị các thứ giác quán (Tầm tứ) xấu ác xoay chuyển: Tức tướng của tất cả tâm, tâm số pháp nơi ba cõi đều là phân biệt hư vọng, nên biết.

– Kinh nói:Ta (Bồ-tát) thấy rõ các chúng sinh kia thọ nhận khổ não như vậy, cô độc, không người cứu độ, không nơi nương dựa, không có nhà cửa, không có bến bãi, không nẻo cứu cánh, mù lòa không mắt, bị màng tối vô minh che chắn trói buộc, ngu si trùm phủ. Vì các chúng sinh ấy, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chỉ mỗi mình ta đơn độc, không bạn bè sánh cùng, tu tập công đức trí tuệ trợ đạo, dùng công đức trí tuệ trợ đạo ấy làm hành trang, khiến cho hết thảy chúng sinh được an trụ nơi chốn thanh tịnh trọn vẹn, cho đến khiến họ đạt được mười lực của Phật, trí hoàn toàn không chướng ngại”.

– Luận nêu: Trong đoạn này:

Các chúng sinh kia thọ nhận khổ não như vậy: Như trước đã nói.

Cô độc: Tức ở trong khổ não không ai cứu vớt. Lại nữa, cô độc là đối với việc đã thọ nhận khổ, chưa thọ nhận khổ.

Không người cứu độ, không nơi nương dựa: Là xa lìa thiện tri thức.

Không có nhà cửa: Tức là lìa việc được nghe chánh pháp.

Không có bến bãi: Là lìa bỏ tư duy tịch tĩnh.

Không nẻo cứu cánh: Là lìa bỏ chánh kiến.

Mù lòa không mắt: Tức chỉ cho chướng ngại nơi các phiền não vốn có cùng với phiền não của khách trần, luôn khởi tà niệm, không nghe chánh pháp.

Bị màng tối vô minh che chắn trói buộc, ngu si trùm phủ, chỉ mỗi mình ta đơn độc, không bạn bè sánh cùng: Là hiển bày sự việc dũng mãnh, thù thắng.

Tu tập công đức trí tuệ trợ đạo: Là làm sáng tỏ việc tu hành tăng trưởng, dựa vào đấy để giáo hóa chúng sinh, tạo nhân của hàng trời, người, cho đến nhân của Niết-bàn.

Thanh tịnh trọn vẹn: Là sự thanh tịnh hơn hẳn thế gian.

Đạt được mười lực của Phật: Là hàng phục các thứ ma oán.

Trí hoàn toàn không chướng ngại: Là trí thanh tịnh của Phật hơn hẳn hàng Nhị thừa.

– Kinh nói:Bồ-tát khéo quán xét như thế, khởi diệu lực của trí tuệ, phát nguyện vì nhằm cứu độ tất cả chúng sinh, vì nhằm tạo lợi ích cho hết thảy chúng sinh, vì nhằm đem lại an lạc cho tất cả chúng sinh, nên thương xót nhớ nghĩ đến muôn loài, vì nhằm khiến cho hết thảy chúng sinh không còn khổ não, vì khiến cho tất cả chúng sinh đạt được giải thoát, vì nhằm gồm thâu dẫn dắt hết thảy chúng sinh, vì nhằm khiến cho tâm của tất cả chúng sinh được thanh tịnh, vì nhằm điều phục hết thảy các chúng sinh, nên Bồ-tát phát nguyện hóa độ khiến tất cả chúng sinh hội nhập nơi Đại Niết-bàn”.

– Luận nêu: Trong đoạn này:

Khéo quán xét như thế, khởi diệu lực của trí tuệ: Là dùng trí quan sát đúng đắn để điều phục dẫn dắt chúng sinh.

Phát nguyện vì nhằm cứu độ tất cả chúng sinh: Tức nhổ sạch các thứ khổ não.

Cứu độ có 9 thứ:

1. Đối với chúng sinh trụ nơi nẻo bất thiện: Khiến họ trụ nơi pháp thiện. Như kinh nói: “Vì nhằm tạo lợi ích cho hết thảy chúng sinh”.

2. Chúng sinh trụ nơi pháp thiện: Khiến họ đạt được quả an lạc. Như kinh nói: “Vì nhằm đem lại an lạc cho tất cả chúng sinh”.

3. Chúng sinh sống cảnh bần cùng thiếu thốn: Thì ban cho họ tất cả vật dụng sinh sống. Như kinh nói: “Thương xót nhớ nghĩ đến muôn loài”.

4. Chúng sinh bị bệnh khổ cùng bị các ngoại duyên não hại: Đều khiến họ dứt trừ. Như kinh nói: “Vì nhằm khiến cho hết thảy chúng sinh không còn khổ não”.

5. Chúng sinh bị trói cột, giam nhốt nơi thế gian: Khiến họ đều được lìa khỏi. Như kinh nói: “Vì khiến cho tất cả chúng sinh đạt được giải thoát”. Ở đây có 4 thứ tướng:

6. Khiến các ngoại đạo tin hiểu chánh pháp. Như kinh nói: “Vì nhằm gồm thâu dẫn dắt hết thảy chúng sinh”.

7. Chúng sinh nghi hoặc thì khiến họ khéo quyết định dứt trừ nghi. Như kinh nói: “Vì nhằm khiến cho tâm của tất cả chúng sinh được thanh tịnh”.

8. Chúng sinh đã trụ nơi quyết định: Thì khuyến khích họ tu tập ba học. Như kinh nói: “Vì nhằm điều phục hết thảy các chúng sinh”.

9. Chúng sinh đã trụ nơi ba học: Thì khiến họ đạt được Niếtbàn. Như kinh nói: “Phát nguyện hóa độ khiến tất cả chúng sinh hội nhập nơi Đại Niết-bàn”.

Trong 9 thứ cứu khổ này, hai câu đầu: Là cứu độ đời vị lai. Các câu còn lại: Là cứu độ hiện tại, cũng cứu độ vị lai.

Đó gọi là Thù thắng do hành đạo không trụ.

3. Thế nào là Quả của sự tu hành ấy?4 thứ tướng:

  1. Thù thắng do gồm thâu công đức.
  2. Thù thắng do tu tập hành trì.
  3. Thù thắng do giáo hóa chúng sinh.
  4. Thù thắng do khởi trí tùy thuận thế gian.

a. Thế nào là Thù thắng do gồm thâu công đức? Là thù thắng do gồm thâu Văn, Giới, Trí.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa Nan Thắng, là Địa thứ năm của bậc Bồ-tát rồi, được gọi là Niệm, vì không quên các pháp. Gọi là Ý, vì trí tuệ khéo quyết định. Gọi là Khứ, vì nhận biết thứ lớp, ý nghĩa của kinh sách. Gọi là có Hổ Thẹn, vì tự giữ gìn và giữ gìn cho chúng sinh. Gọi là Tâm kiên cố, vì không bố thí hành trì giới. Gọi là Giác, vì khéo tư duy về xứ đúng – xứ không đúng. Gọi là Theo trí, vì không tùy thuộc vào kẻ khác. Gọi là Theo tuệ, vì khéo phân biệt về nghĩa đúng – nghĩa không đúng nơi chương câu của các pháp. Gọi là Đạt thần thông, vì khéo tu tập thiền định. Gọi là Phương tiện thiện xảo, vì thuận hành pháp thế gian”.

– Luận nêu: Thù thắng do gồm thâu Văn: Là thù thắng do gồm thâu ba tuệ: văn, tư, tu. Thế nào là thù thắng của tuệ? Như kinh nói: “Gọi là Niệm, vì không quên các pháp. Gọi là Ý, vì trí tuệ khéo quyết định. Gọi là Khứ, vì nhận biết thứ lớp, ý nghĩa của kinh sách”. Ở đây, niệm là thù thắng của văn tuệ. Ý là thù thắng của tư tuệ. Khứ là thù thắng của tu tuệ. Thứ lớp của các câu ấy lại có cách giải thích khác: Nghe, hành trì thù thắng nên gọi là niệm. Pháp trí thâm diệu thù thắng nên gọi là ý. Trí thâm diệu của ý thù thắng nên gọi là khứ. Đây là lược nêu về hai thứ thiện xảo: pháp thiện xảo và nghĩa thiện xảo thành tựu.

Thù thắng do gồm thâu Giới: Có hai thứ là nhẫn nhục, nhu hòa và thù thắng do giới không thiếu sót. Như kinh nói: “Gọi là có Hổ Thẹn, vì tự giữ gìn và giữ gìn cho chúng sinh. Gọi là Tâm kiên cố, vì không bố thí hành trì giới”.

Thù thắng do gồm thâu Trí:5 thứ:

1. Trí nhân duyên tập, không nhân nơi điên đảo, đối trị nhân nơi tà kiến. Như kinh nói: “Gọi là Giác, vì khéo tư duy về xứ đúng – xứ không đúng”.

2. Trí chứng đắc, đối trị ma sự. Như kinh nói: “Gọi là Theo trí, vì không tùy thuộc vào kẻ khác”.

3. Trí nhận biết ngôn thuyết sai lại, đối trị dị thuyết. Khéo nhận biết về câu nghĩa đúng, câu nghĩa không đúng, câu nghĩa xen tạp. Như kinh nói: “Gọi là Theo tuệ, vì khéo phân biệt về nghĩa đúng – nghĩa không đúng nơi chương câu của các pháp”.

4. Trí thần lực, đối trị quy y tà vạy. Như kinh nói: “Gọi là Đạt thần thông, vì khéo tu tập thiền định”.

5. Trí hóa độ chúng sinh, dùng phương tiện để thâu giữ. Như kinh nói: “Gọi là Phương tiện thiện xảo, vì thuận hành pháp thế gian”.

Đó gọi là Thù thắng do gồm thâu công đức.

b. Thế nào là Thù thắng do tu tập hành trì?

– Kinh nói:Gọi là không chán đủ, vì khéo tích tập công đức, hành trợ đạo. Gọi là tinh tấn không ngừng nghỉ, vì thường cầu đạt trí tuệ, hành trợ đạo. Gọi là không mệt mỏi, vì tích tập đại từ bi, hành trợ đạo. Gọi là thường niệm pháp Phật, vì dốc cầu đạt mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật. Gọi là khéo nhớ nghĩ tu hành, vì khởi phát việc làm trang nghiêm cõi Phật. Gọi là tu hành đầy đủ các pháp thiện, vì tích tập ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Gọi là thường hành tinh tấn, vì dốc cầu thân, khẩu, ý Phật trang nghiêm. Gọi là ưa thích cung kính đại pháp, vì luôn thân cận cúng dường hết thảy chư Bồ-tát cùng Pháp sư. Gọi là khéo dấy khởi nguyện tự tại, vì có phương tiện lớn để khéo hội nhập nơi thế gian. Gọi là ngày đêm xa lìa tâm khác, vì thường ưa thích giáo hóa hết thảy chúng sinh”.

– Luận nêu: Sự thù thắng do tu tập hành trì có 10 thứ:

1. Hành tăng trưởng nhân. Như kinh nói: “Gọi là không chán đủ, vì khéo tích tập công đức, hành trợ đạo”.

2. Hành nương dựa nơi nhân. Như kinh nói: “Gọi là tinh tấn không ngừng nghỉ, vì thường cầu đạt trí tuệ, hành trợ đạo”.

3. Hành hóa độ chúng sinh không hề mệt mỏi. Như kinh nói: “Gọi là không mệt mỏi, vì tích tập đại từ bi, hành trợ đạo”.

4. Hành hưng khởi pháp Phật. Như kinh nói: “Gọi là thường niệm pháp Phật, vì dốc cầu đạt mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật”.

5. Hành phát khởi việc làm thanh tịnh cõi Phật. Như kinh nói: “Gọi là khéo nhớ nghĩ tu hành, vì phát khởi việc làm trang nghiêm cõi Phật”. Thế nào là trang nghiêm? Tức chúng sinh trụ nơi cõi đó không có phiền não để cấu uế, đạt trí tuệ kiên cố, cùng pháp Phật luôn trang nghiêm.

6. Hành dựa nơi Pháp thân Phật để phát khởi. Như kinh nói: “Gọi là tu hành đầy đủ các pháp thiện, vì tích tập ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp”.

7. Hành dựa nơi nẻo hành hóa của Phật để phát khởi. Như kinh nói: “Gọi là thường hành tinh tấn, vì dốc cầu thân, khẩu, ý Phật trang nghiêm”.

8. Hành kính trọng pháp. Như kinh nói: “Gọi là ưa thích cung kính đại pháp, vì luôn thân cận cúng dường hết thảy chư Bồ-tát cùng Pháp sư”.

9. Hành nguyện đạt được đầy đủ. Như kinh nói: “Gọi là khéo dấy khởi nguyện tự tại, vì có phương tiện lớn để khéo hội nhập nơi thế gian”.

10. Hành lìa bỏ tâm Tiểu thừa. Như kinh nói: “Gọi là ngày đêm xa lìa tâm khác, vì thường ưa thích giáo hóa hết thảy chúng sinh”.

Đó gọi là Thù thắng do tu tập hành trì.

c. Thế nào là Thù thắng do giáo hóa chúng sinh?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, khi thành tựu hành như thế, dùng bố thí để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng việc thị hiện sắc thân để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng việc thuyết pháp để giáo hóa chúng sinh. Lại thị hiện rộng khắp các thứ thần thông của hạnh Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh. Lại giảng nói về đại sự của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Lại thị hiện sự xấu ác, lỗi lầm của thế gian để giáo hóa chúng sinh. Lại giảng nói về lợi ích nơi trí tuệ của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Lại hiện bày tướng trang nghiêm của đại thần thông, cũng giảng nói về vô số hành để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát ấy, giáo hóa chúng sinh như vậy, thành tựu phương tiện, thân tâm luôn hướng trới trí Phật, nhưng các hành nơi căn thiện không hề thoái thất, luôn siêng năng tu tập chuyển tăng đạo thù thắng”.

– Luận nêu: Sự thù thắng do giáo hóa: Là dùng bốn Nhiếp pháp để giáo hóa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, khi thành tựu hành như thế, dùng bố thí để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giáo hóa chúng sinh”.

Vì đồng sự là tùy thuận chúng sinh, nên Bồ-tát ứng hóa tự tại: Như kinh nói: “Lại dùng việc thị hiện sắc thân để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh nghi hoặc, nên có thể thuyết pháp thành tựu: Như kinh nói: “Lại dùng việc thuyết pháp để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh không có phương tiện đối với Bồ-đề: Như kinh nói: “Lại thị hiện rộng khắp các thứ thần thông của hạnh Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh đối với pháp Đại thừa tỏ ra mỏi mệt: Như kinh nói: “Lại giảng nói về đại sự của chư Phật để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh ham thích nơi thế gian: Như kinh nói: “Lại thị hiện sự xấu ác, lỗi lầm của thế gian để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh không tin pháp Đại thừa: Như kinh nói: “Lại giảng nói về lợi ích nơi trí tuệ của chư Phật để giáo hóa chúng sinh”.

Vì các chúng sinh không trí tuệ: Bồ-tát hiện bày thần thông trang nghiêm, thị hiện vô số các hành, dùng một thân thị hiện vô lượng thân. Các sự việc như thế nhằm khiến chúng sinh quyết định tin tưởng. Như kinh nói: “Lại hiện bày tướng trang nghiêm của đại thần thông, cũng giảng nói về vô số hành để giáo hóa chúng sinh”.

“Bồ-tát ấy, giáo hóa chúng sinh như vậy, thành tựu phương tiện”: Như trước đã nói.

“Thân tâm luôn hướng tới trí Phật”: Là cầu đạt diệu lực thù thắng để giáo hóa chúng sinh.

“Nhưng các hành nơi căn thiện không hề thoái thất”: Tức theo chỗ công đức, trí tuệ đạt được đều không thoái thất.

“Luôn siêng năng tu tập chuyển tăng đạo thù thắng”: Tức chỗ tu tập các hành đều nhằm khiến tăng trưởng, vượt hơn.

Đó gọi là Thù thắng do giáo hóa chúng sinh.

d. Thế nào là thù thắng do khởi trí tùy thuận thế gian, đối trị các thứ chướng, nhiễm?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, vì nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh, nên khéo nhận biết về các thứ hiện có nơi thế gian: Sách vở, luận thuyết, in ấn, toán số, các luận như Thạch tánh v.v…, những phương thức chữa trị các bệnh, các thứ làm tổn hại chúng sinh. Bồ-tát thảy đều có thể chữa trị, tạo luận, kinh sách, các loại nhạc hay, các sự việc đem lại vui thích. Khéo nhận biết về đất nước, thành ấp, xóm làng, nhà cửa, sông suối, ao hồ, vườn hoa, lầu gác, thảo dược, rừng núi v.v…, các loại vật báu như vàng, bạc, lưu ly, ngọc báu Ma ni, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não v.v… với những tính chất của chúng. Khéo nhận biết về mặt trời, mặt trăng, tinh tú, động đất, mộng tưởng lành dữ, các thứ tướng trạng ảnh hưởng tới thân mạng. Bồ-tát trì giới, hành xử thiền định, thần thông, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, phàm những sự việc không gây não hại chúng sinh, có thể đem lại lợi ích an lạc cho chúng sinh, vì thương xót chúng sinh nên hiện bày xuất hiện, dần dần khiến họ tin nhập nơi pháp Phật vô thượng”.

– Luận nêu: Trí tùy thuận thế gian: Là đối trị các thứ chướng, nhiễm. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, vì nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh, nên khéo nhận biết về các thứ hiện có nơi thế gian: Sách vở, luận thuyết, in ấn, toán số”.

Trong đó, về sách vở v.v…4 thứ chướng ngại cần đối trị:

1. Chướng ngại do quên đối với việc sử dụng: Chọn lấy, trao cho, nhờ vào, giao phó, nghe pháp, nghĩ bàn, làm việc, không làm việc, việc đã làm, chưa làm, việc nên làm, không nên làm. Đối trị điều này nên viết sách.

2. Chướng ngại do trí yếu kém đối với tà kiến: Như dùng Nhân luận, Thanh luận. Đối trị hai thứ ấy nên tạo luận.

3. Chướng ngại do dùng vật không thể giữ gìn: Đối trị điều này nên có in ấn.

4. Chướng ngại do lấy, trao sinh nghi: Đối trị điều này nên có toán số. Số như các phép cộng, trừ v.v… Toán như một dọc mười ngang.

Các Luận như Thạch tánh v.v…: Là đối trị chướng ngại do bần cùng.

Những phương thức chữa trị chúng bệnh: Là đối trị chướng ngại do các bệnh bốn đại không điều hòa, chúng sinh bị tướng độc v.v…

Mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v…: Trong đó chỉ có tướng của mặt trời, mặt trăng v.v… là thấy được, vì mặt trời, mặt trăng v.v… là thuộc về ánh sáng.

Nhập: Là nhập vào tám thứ quả nghiệp.

Các thứ tướng trạng ảnh hưởng tới thân mạng: Là hành của quả yêu thích không yêu thích.

Trì giới, hành xử thiền định, thần thông, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc: Thứ lớp như thế là nhằm đối trị các thứ cấu nhiễm do: (1) Phá giới. (2) Tham dục. (3) Quy y theo nẻo tà. (4) Hành sai lầm về công đức. (5) Tu tập sai lạc về giải thoát.

Như kinh đã nêu:

Tạo luận, kinh sách, các loại nhạc hay, các sự việc đem lại vui thích: Là đối trị chướng ngại do buồn sầu, khổ não.

Đất nước, thành ấp, xóm làng, nhà cửa, sông suối, ao hồ, vườn hoa, lầu gác, thảo dược, rừng núi v.v…: Là đối trị chướng ngại do không vui thích.

Các loại vật báu như vàng bạc, lưu ly, ngọc báu Ma ni, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não v.v…: Là đối trị chướng ngại do bị trói buộc, giam giữ.

Mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v…: Là đối trị chướng ngại do chỗ thọ nhận quả báo vì gây lỗi lầm, tạo nhân ác.

Trì giới, hành xử thiền định, thần thông, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc: Là đối trị năm thứ cấu nhiễm. Đó là cấu nhiễm do phá giới, cho đến cấu nhiễm do tu tập sai lạc về giải thoát.

Khởi trí tùy thuận thế gian ấy có đủ 4 thứ tướng:

1. Không có chướng ngại trong chướng khác. Như kinh nói: “Phàm những sự việc không gây não hại chúng sinh”.

2. Ban sự an lạc không lỗi lầm. Như kinh nói: “Có thể đem lại lợi ích an lạc cho chúng sinh”.

3. Phát khởi thanh tịnh. Như kinh nói: “Vì thương xót chúng sinh nên hiện bày, xuất hiện”.

4. Chỗ thọ dụng thanh tịnh. Như kinh nói: “Dần dần khiến họ tin nhập nơi pháp Phật vô thượng”.

Đó gọi là Thù thắng do khởi trí tùy thuận thế gian.

* Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa Nan Thắng của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, nên được thấy nhiều trăm Phật cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, nhiều ức Phật, cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, Bồ-tát ấy khi gặp chư Phật, đều dùng tâm sâu xa, tối thượng để cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, các thứ vật dụng cúng dường thảy đều phụng thí, dùng các vật dụng tạo an lạc thượng diệu của bậc Bồ-tát để cúng dường chúng Tăng, đem các căn thiện này, đều nguyện hồi hướng về đạo quả Bồ-đề Vô thượng, nơi trụ xứ của chư Phật luôn khởi tâm cung kính tột bậc, hết lòng nghe pháp, nghe rồi thì thọ trì, tùy sức tu hành, ở trong pháp Phật xuất gia, xuất gia rồi thì luôn có mặt nơi trụ xứ của Phật, nghe nhận kinh pháp, làm vị Pháp sư, thuyết pháp tạo lợi ích, tăng chuyển được pháp Đà-la-ni đa văn, thành tựu bậc pháp sư. Bấy giờ, Bồ-tát ấy trụ trong Địa Nan Thắng của bậc Bồ-tát, trải qua vô lượng trăm kiếp, các thứ căn thiện kia càng trở nên thanh tịnh, sáng tỏ, thù thắng. Trải qua vô lượng ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, các căn thiện kia càng chuyển tăng, sáng sạch, thù diệu. Bồ-tát ấy đã thành tựu pháp giáo hóa chúng sinh như vậy.

Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, dùng xa cừ để mài bóng thì màu sắc ánh sáng càng trở nên sáng đẹp hơn hết. Này các Phật tử! Bồ-tát ấy trụ nơi Địa Nan Thắng của bậc Bồ-tát, những căn thiện kia, do diệu lực của trí phương tiện suy xét, nên càng chuyển tăng, trở nên sáng sạch hơn hết. Căn thiện được trí tuệ kia suy xét đã thành tựu, không thoái chuyển, nên càng thù thắng, căn thiện của Địa dưới không thể sánh kịp.

Này các Phật tử! Ví như vầng sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cung điện của chư thiên, ánh sáng ấy đều thành tựu viên mãn, không bị hủy hoại, gió không thể lay động. Cũng vậy, Bồ-tát ấy an trụ trong Địa Nan Thắng của bậc Bồ-tát, các căn thiện kia, do diệu lực của trí phương tiện suy xét, nên thành tựu không thoái chuyển, hết thảy căn thiện của thế gian, của hàng Nhị thừa đều không thể sánh kịp.

Bồ-tát ấy, trong mười Ba-la-mật thì thiền Ba-la-mật tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là theo sức, tùy phần. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về Địa Nan Thắng, là Địa thứ năm của bậc Bồ-tát.

Bồ-tát an trụ trong Địa này, nhiều lần làm Thiên vương nơi cõi trời Đâu-suất-đà, nẻo hành hóa đều tự tại, hàng phục các thứ tà kiến của hết thảy ngoại đạo, có thể khiến cho chúng sinh trụ trong Thật đế, các nghiệp thiện đã tạo như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, các thứ phước đức ấy đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát v.v… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, thường khởi tâm này: Ta phải ở trong tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là bậc trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ nơi suy niệm này, phát khởi hành tinh tấn, do diệu lực của tinh tấn, nên trong khoảng một niệm, đạt được ngàn ức Tam-muội, được thấy ngàn ức Phật v.v… có thể khéo hội nhập ngàn ức pháp môn, có thể biến hóa thân thành ngàn ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện ngàn ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu do nguyện lực tự tại thù thắng, tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện đủ các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông nơi mắt, nơi cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành hóa, hoặc trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo nghiệp. Các thần thông hóa, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết”.

* Luận nêu: Đạt được Đà-la-ni đa văn càng trở nên thù thắng, thành tựu bậc Pháp sư: Không phải là đạt được nghĩa nơi Đà-la-ni, do tâm thanh tịnh bình đẳng là hết sức khó đạt. Lại, ưa thích trí xuất thế gian, hiện bày trí thế gian là vô cùng khó. Do đạt được Đà-la-ni văn, trì, nên ánh sáng của Trí – Địa này là chỉ rõ về Sự chân như. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc v.v… cho đến: Căn thiện của Địa dưới không thể sánh kịp”.

Vầng sáng của mặt trời, mặt trăng: Là dựa nơi pháp thù thắng làm tăng trưởng ánh sáng của trí tuệ, hơn hẳn trí nơi Địa trước. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vầng sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v… cho đến: Hết thảy căn thiện của thế gian, của hàng Nhị thừa đều không thể sánh kịp.”.

HẾT – QUYỂN 7