LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 8

Địa thứ sáu: ĐỊA HIỆN TIỀN

* Luận nêu: Như trong Địa thứ năm3 phần sai biệt:

  1. Thù thắng do đối trị mạn.
  2. Thù thắng do hành đạo không trụ.
  3. Thù thắng của quả ấy.

Địa thứ sáu cũng giống như thế, nên biết là thắng ấy đã chuyển tăng.

1. Thế nào là thắng? Trong Địa thứ tư đã nói về ngã mạn của chúng sinh, lãnh hội pháp để đối trị mạn. Nơi Địa thứ năm đã nêu: Phân biệt thân thanh tịnh, đối trị mạn. Nay, Địa thứ sáu là nói về: Phân biệt chỗ dùng pháp nhiễm tịnh đối trị mạn, do mười pháp bình đẳng.

* Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã khéo hành trì đầy đủ đạo của Địa thứ năm, muốn đi vào Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát phải dùng mười pháp bình đẳng. Những gì là mười? Đó là:

  1. Tất cả pháp vô tướng bình đẳng.
  2. Tất cả pháp vô tưởng bình đẳng.
  3. Tất cả pháp vô sinh bình đẳng.
  4. Tất cả pháp không thành bình đẳng.
  5. Tất cả pháp tịch tĩnh bình đẳng.
  6. Tất cả pháp bản tịnh bình đẳng.
  7. Tất cả pháp không hý luận bình đẳng.
  8. Tất cả pháp không lấy bỏ bình đẳng.
  9. Tất cả pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, trăng trong nước, bóng nơi gương, dợn nắng đều bình đẳng.
  10. Tất cả pháp có, không, không hai bình đẳng.

Bồ-tát ấy, quán xét tướng của hết thảy các pháp như vậy, dứt trừ cấu nhiễm, tùy thuận, không phân biệt, nên được nhập nơi Địa Hiện Tiền, là Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát, đạt được Nhẫn thuận sáng tỏ thông suốt, chưa đạt được pháp Nhẫn vô sinh”.

* Luận nêu: Phân biệt chỗ dùng pháp nhiễm tịnh để đối trị mạn: Tức là mười pháp bình đẳng, trong đó, tất cả pháp vô tướng cho đến tất cả pháp có, không, không hai, đều bình đẳng, là mười hai nhập nơi tự tánh của tất cả pháp vô tướng, bình đẳng.

Lại nữa, phân biệt tướng đối trị có 9 thứ:

1. Tưởng của tự tướng nơi mười hai nhập. Như kinh nói: “Tất cả pháp vô tưởng bình đẳng”.

2. Hành tướng của thứ lớp niệm. Như kinh nói: “Tất cả pháp vô sinh bình đẳng”.

3. Hành tướng của thứ lớp sinh. Như kinh nói: “Tất cả pháp không thành bình đẳng”.

4. Tướng nhiễm. Như kinh nói: “Tất cả pháp tịch tĩnh bình đẳng”.(5) Tướng tịnh. Như kinh nói: “Tất cả pháp bản tịnh bình đẳng”.

5. Tướng phân biệt. Như kinh nói: “Tất cả pháp không hý luận bình đẳng”.

6. Tướng hiện, ẩn. Như kinh nói: “Tất cả pháp không lấy bỏ bình đẳng”.

7. Tướng ngã không phải có. Như kinh nói: “Tất cả pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, trăng trong nước, bóng nơi gương, dợn nắng, đều bình đẳng”.

8.Tướng thành hoại. Như kinh nói: “Tất cả pháp có, không, không hai, đều bình đẳng”.

Dứt trừ cấu nhiễm: Là xa lìa chứng đắc, cấu nhiễm.

Tùy thuận: Là thuận theo pháp chân như bình đẳng.

Không phân biệt: Tức không sinh tướng phân biệt.

Sáng tỏ thông suốt: Là đối trị các mạn vi tế. Nơi hai Địa trước thì đối trị mạn trong phần thô.

Đạt được Nhẫn thuận nơi sự mềm dịu: Là thuận theo pháp Nhẫn vô sinh.

Chưa đạt được pháp Nhẫn vô sinh: Nhẫn này thuận hợp với Nhẫn vô sinh, không phải là Nhẫn vô sinh.

Đó gọi là Phân biệt chỗ dùng pháp nhiễm tịnh đối trị mạn.

2. Thế nào là Thù thắng do hành đạo không trụ?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, quán xét về tướng của tất cả pháp như thế, tùy thuận để đạt đến, lại dùng tâm đại bi thù thắng làm đầu, tâm đại từ tăng thượng, khiến đại bi đầy đủ, quán xét sự sinh diệt của thế gian”.

– Luận nêu: Bồ-tát ấy, quán xét về tướng của tất cả pháp như thế, tùy thuận để đạt đến: Là đạt đến chỗ thù thắng do hành đạo không trụ.

Thù thắng do hành đạo không trụ: Là sự thù thắng do tâm đại bi gồm thâu, không bỏ tất cả chúng sinh nơi ba đời. Là trí thanh tịnh trong tất cả pháp của đối tượng nhận thức. Là quán về hết thảy thứ nhân duyên vi tế tích tập. Là không trụ nơi thế gian, Niết-bàn. Như kinh nói: “Lại dùng tâm đại bi thù thắng làm đầu, tâm đại từ tăng thượng, khiến đại bi đầy đủ, quán xét sự sinh diệt của thế gian”.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, quán xét về sự sinh diệt của thế gian rồi, liền khởi suy niệm: Những sự sai biệt về thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã. Nếu lìa chấp ngã tức không còn xứ sinh nơi thế gian.

Bồ-tát lại khởi suy niệm: Các phàm phu này, do ngu si làm mù lòa nên tham chấp nơi ngã, do không trí nên bị tối tăm, chướng ngại, luôn cầu tìm về có không, thường theo niệm tà, hành sai lạc nơi đạo tà, hợp khởi hành vọng, hành tội, hành phước, hành bất động. Do các hành đó, nên khởi chủng tử của tâm, khởi tưởng hữu lậu, hữu thủ, khởi thân sinh, bệnh, lão tử nơi vị lai, lại sinh thân mạng của đời sau, nghiệp là mảnh đất, vô minh che phủ, nước ái tưới nhuần nơi tâm của ngã càng tràn về. Vô số các thứ lưới kiến chấp khiến luôn tăng trưởng, sinh ra mầm danh sắc, sinh rồi thì lớn dần. Danh sắc tăng trưởng thành các căn. Các căn thành hình rồi thì lần lượt cùng đối nhau, sinh xúc. Xúc cùng đối nhau sinh thọ. Chỗ mong cầu về sau của thọ sinh ái. Do có ái nên sinh thủ. Thủ thêm lớn thì sinh hữu. Hữu thành rồi sinh thân năm ấm. Thân năm ấm tăng trưởng, nên ở trong năm đường dần dần suy biến, gọi là lão. Lão suy biến, diệt gọi là tử. Tử rồi, sinh các thứ nhiệt não, nhân đấy dấy khởi khối lớn của tất cả sầu, buồn khổ não là nhân duyên nơi tập. Không có người tích tập, tự nhiên mà tích tập. Không có người diệt, tự nhiên mà diệt.

Bồ-tát ấy, tùy thuận quán xét như thế về sự tích tập của nhân duyên”.

– Luận nêu: Những sự sai biệt về thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian: Tức nơi năm đường, các thứ sai biệt về sinh tử hiện có, gọi là sự sai biệt hiện có của thế gian.

Nhân duyên tích tập này có 3 thứ môn quán, nên biết:

  1. Sai biệt của tướng thành đáp.
  2. Sai biệt của Đệ nhất nghĩa đế.
  3. Sai biệt của Thế đế.

a. Thế nào là Sai biệt của tướng thành đáp? Thế nào là sai biệt của Thành? Đầu tiên là nêu rõ về nhân duyên tập để giải thích về nghĩa vô ngã, xác nhận tất cả sự thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian, đều do tham chấp nơi ngã. Nếu lìa chấp ngã tức không có xứ sinh của thế gian, là thành nghĩa vô ngã. Nếu trong Đệ nhất nghĩa thật có tướng ngã, thì tâm chấp ngã tức là trí của Đệ nhất nghĩa, không nên ở nơi thế gian thọ thân, sinh tại xứ sinh. Lại nữa, nếu trong đệ nhất nghĩa thật có tướng ngã, thì nếu lìa chấp ngã tức nên thường sinh nơi thế gian. Hiển bày về nghĩa này, như kinh nói: “Những sự sai biệt về thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã. Nếu lìa chấp ngã tức không còn xứ sinh nơi thế gian”.

Thế nào là sai biệt của Đáp? Nếu thật sự vô ngã thì vì sao lại chấp ngã? Ở đây, nên có vấn nạn ấy. Tức tự đáp lại: Do ngu si làm mù lòa nên tham chấp nơi ngã. Đó là chỉ rõ, như kinh nói: “Bồ-tát lại khởi suy niệm: Các phàm phu này, do ngu si làm mù lòa nên tham chấp nơi ngã”. Như vậy thật sự không có ngã, do đâu thứ lớp lại tham chấp nơi ngã, có được xứ sinh, thọ thân, thời gian sống? Nên ở đây chỉ rõ, như kinh nói: “Do không trí nên bị tối tăm, chướng ngại, luôn cầu tìm về có, không”. Như thế là đáp lại vấn nạn về sai biệt.

Không trí v.v… có, không: Là mong cầu về thường, đoạn. Ở đây chỉ rõ vô minh, hữu ái là hai hữu chi căn bản, nên thường theo niệm tà, hành sai lạc nơi đạo tà, hợp khởi hành vọng, hành tội, hành phước v.v…

Thường theo niệm tà: Tức chỉ rõ về nhân của vô minh.

Hành sai lạc nơi đạo tà: Tức chỉ rõ về hành không chân chánh đối với nơi chốn giải thoát.

Hợp khởi hành vọng: Tức chỉ rõ về nghĩa thù thắng của Bồ-tát. Bồ-tát tuy hành nơi hữu, nhưng không gọi là hành vọng. Do hành này nên khởi chúng tử của tâm, khởi tưởng hữu lậu, hữu thủ, cho đến tùy thuận quán xét về nhân duyên tập.

Khởi chủng tử của tâm: Tức chỉ rõ về thể tánh của lão tử.

Lại sinh thân mạng của đời sau: Là tùy thuận thâu giữ để tạo thành các hành tội, phước, nghiệp là mảnh đất. Trước nói do không trí, bị tối tăm, chướng ngại, vô minh che phủ, nên luôn cầu tìm về có không, nước ái tưới nhuần. Như thế mà trụ, mà sinh tâm ngã là ngã sở, ngã tướng là mạn, ngã sinh không sinh, vô số các thứ lưới kiến chấp như vậy.

Tự nhiên mà diệt: Là tánh tự diệt, không phải là duyên của trí diệt.

Như vậy là đáp vấn nạn về nhân duyên tập, giải thích về nghĩa vô ngã xong.

Thế nào là tướng sai biệt? Nếu nhân duyên là vô ngã thì do tướng gì để trụ nơi hành nhân duyên tập?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy khởi suy niệm: Không nhận biết đúng như thật về đệ nhất nghĩa của các đế nên gọi là Vô minh. Vô minh tạo ra nghiệp quả thì đó gọi là Hành. Dựa nơi Hành có tâm thức ban đầu và Thức cùng sinh có bốn thọ ấm gọi là Danh sắc. Danh sắc tăng trưởng nên có sáu Nhập. Căn, trần, thức, ba thứ hòa hợp sinh ra Xúc hữu lậu. Xúc cùng sinh nên có Thọ. Thọ nhiễm chấp nên gọi là Ái. Ái tăng trưởng nên gọi là Thủ. Từ Thủ dấy khởi nghiệp hữu lậu, gọi là Hữu. Nghiệp Hữu có quả báo gọi là Sinh. Sinh ấm tăng trưởng, suy kém, biến đổi gọi là Lão. Lão rồi nên ấm hoại gọi là Tử. Lúc Tử biệt ly, người ngu tâm tham chấp cháy bùng lên gọi là Ưu, phát ra tiếng gào khóc gọi là Bi. Năm căn cùng đối nhau gọi là Khổ. Ý căn cùng đối gọi là Ưu. Ưu khổ càng nhiều gọi là Não. Như thế, chỉ có cây khổ tăng trưởng, không có người tạo. Bồ-tát khởi niệm: Nếu có người tạo tác tức có sự việc được tạo ra. Nếu không có người tạo tác thì không có sự việc được tạo ra. Trong đệ nhất nghĩa, không có người tạo tác, nên không có sự việc được tạo ra”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Vô minh tạo ra nghiệp quả: Tức là Danh sắc. Trong ấy, Thức nương dựa vào Danh sắc. Danh sắc và Thức cùng sinh. Thức, Danh sắc lần lượt cùng dựa vào nhau.

Nếu không có người tạo tác: Ở đây phân biệt về sự việc được tạo tác cũng không. Đây là nói về phần hợp có của nhân duyên.

Tự thể không có sự việc được tạo tác, đó gọi là phần Hữu, nên biết quán về thứ lớp nơi nhân duyên tích tập.

b. Thế nào là Sai biệt của Đệ nhất nghĩa đế? Như thế là chứng đắc về Đệ nhất nghĩa đế tức được giải thoát khỏi quán xét kia.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy khởi suy niệm: Ba cõi đều hư vọng, chỉ là một tâm tạo, cho đến già hoại gọi là chết”.

– Luận nêu: Chỉ là một tâm tạo: Tức tất cả ba cõi chỉ là tâm chuyển biến.

c. Thế nào là Sai biệt của Thế đế? Tùy thuận quán về Thế đế tức hội nhập nơi Đệ nhất nghĩa đế. Quán này có 6 thứ:

  1. Quán thế nào là nhiễm? Là chỗ nương dựa của nhiễm.
  2. Quán về nhân.
  3. Quán về chỗ gồm thâu lỗi lầm.
  4. Quán về chỗ ngăn chận lỗi lầm.
  5. Quán về chỗ nhàm chán không nhàm chán.
  6. Quán phần sâu xa.

Thế nào là Quán về chỗ nương dựa của nhiễm? Là phần Hữu của nhân duyên dựa nơi một tâm.

– Kinh nói:Như Lai thuyết giảng về phần mười hai nhân duyên đều dựa nơi một tâm. Vì sao? Vì tùy nơi tham dục cùng tâm sinh, tức là Thức, là Hành. Hành lừa dối tâm nên gọi là Vô minh. Vô minh cùng tâm sinh gọi là Danh sắc. Danh sắc tăng trưởng gọi là sáu Nhập. Sáu Nhập từng phần gọi là Xúc. Xúc cùng sinh gọi là Thọ. Thọ rồi không biết chán đủ gọi là Ái. Ái thâu tóm không bỏ gọi là Thủ. Ở đây có phần hòa hợp sinh Hữu. Hữu dấy khởi gọi là Sinh. Sinh biến đổi, chín muồi gọi là Lão. Lão hủy hoại gọi là Tử”.

– Luận nêu: Đây là sự sai biệt của hai đế. Một tâm tạp nhiễm, hòa hợp nơi nhân duyên tích tập, nên quán về điều ấy.

Quán về nhân có hai thứ:

  1. Quán về nhân nơi kẻ khác.
  2. Quán về nhân nơi chính mình.

Thế nào là Quán về nhân nơi kẻ khác?

* Kinh nói: “Trong ấy, Vô minh có hai thứ tạo tác: (1) Si trong duyên khiến chúng sinh mê lầm. (2) Tạo nhân cho Hành.

Hành cũng có hai thứ tạo tác: (1) Sinh quả báo của đời vị lai. (2) Tạo nhân cho Thức.

Thức cũng có hai thứ tạo tác: (1) Có thể khiến có sự tương tục. (2) Tạo nhân cho Danh sắc.

Danh sắc cũng có hai thứ tạo tác: (1) Hỗ tương để giúp thành. (2) Tạo nhân cho sáu Nhập.

Sáu Nhập cũng có hai thứ tạo tác: (1) Chủ thể duyên nơi sáu trần. (2) Tạo nhân cho Xúc.

Xúc cũng có hai thứ tạo tác: (1) Chủ thể xúc chạm nơi đối tượng được duyên. (2) Tạo nhân cho Thọ.

Thọ cũng có hai thứ tạo tác: (1) Nhận biết về các việc yêu ghét. (2) Tạo nhân cho Ái.

Ái cũng có hai thứ tạo tác: (1) Ở trong chỗ có thể nhiễm sinh tâm tham. (2) Tạo nhân cho Thủ.

Thủ cũng có hai thứ tạo tác: (1) Làm tăng trưởng phiền não cấu nhiễm, trói buộc. (2) Tạo nhân cho Hữu.

Hữu cũng có hai thứ tạo tác: (1) Có thể ở trong các cõi khác sinh. (2) Tạo nhân cho Sinh.

Sinh cũng có hai thứ tạo tác: (1) Làm tăng trưởng năm ấm. (2) Tạo nhân cho Lão.

Lão cũng có hai thứ tạo tác: (1) Khiến các căn chín muồi. (2) Tạo nhân cho Tử.

Tử cũng có hai thứ tạo tác: (1) Thân năm ấm hoại. (2) Do không thấy biết nên khiến sự tương tục không dứt”.

– Luận nêu: Ở đây, thân năm ấm hoại, do không thấy biết nên khiến sự tương tục không dứt: Năm ấm hoại có thể tạo nhân cho đời sau. Do không thấy biết nên có thể tạo nhân cho đời sau. Đó gọi là Quán về nhân nơi kẻ khác.

Thế nào là Quán về nhân nơi chính mình? Vô minh v.v… là từ nhân sinh nhân, nên quán về sự việc của duyên. Thế nào là nhân của Vô minh v.v… duyên Hành không gián đoạn, hỗ trợ thành?

– Kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành: Là nhân của Vô minh duyên, khiến Hành không đoạn, hỗ trợ để thành Hành.

Hành duyên Thức: Là nhân của Hành duyên, khiến Thức không đoạn, hỗ trợ thành Thức.

Thức duyên Danh sắc: Là nhân của Thức duyên, khiến Danh sắc không đoạn, hỗ trợ thành Danh sắc.

Danh sắc duyên sáu Nhập: Là nhân của Danh sắc duyên, khiến sáu Nhập không đoạn, hỗ trợ thành sáu Nhập.

Sáu Nhập duyên Xúc v.v… cho đến Sinh duyên Lão tử: Là nhân của Sinh duyên, khiến Lão tử không đoạn, hỗ trợ thành Lão tử.

Vô minh diệt tức Hành diệt: Là nhân duyên của Vô minh đã không, nên Hành diệt, không hỗ trợ thành v.v… cho đến Sinh diệt tức Lão tử diệt: Là nhân duyên của Sinh đã không, nên Lão tử diệt, không hỗ trợ thành”.

* Luận nêu: Vô minh duyên Hành: Là nhân của Vô minh duyên khiến Hành không đoạn, hỗ trợ thành Hành. Vô minh có 2 thứ: (a) Lúc là chủng tử. (b) Lúc là quả. Ở đây, lúc là chủng tủ: Là khiến hành không đoạn, có hai thứ nghĩa, nên chỉ rõ về việc duyên. Như vậy, các nhân duyên khác, từng phần tự sinh nhân, có hai thứ nghĩa về việc duyên, nên biết.

Quán về nhân nơi chính mình: Là quán không cùng lìa bỏ. Quán nếu lìa chi trước thì không có chi sau. Quán không lìa Vô minh tức thành Hành. Nếu không lìa Vô minh mà có Hành thì không nên nói là Vô minh duyên Hành. Nếu lìa Vô minh mà có Hành, tức khác, nên không thành. Vì thế kệ nói:

Pháp do các duyên sinh

Đó là chẳng tức nhân

Cũng lại chẳng khác nhân

Không đoạn cũng không thường.

Quán nhân duyên tự sinh: Như trước đã nói.

Vô minh có 2 thứ: (a) Lúc là chủng tử. (b) Lúc là quả. Hành cho đến Lão tử cũng như vậy. Trong chỗ diệt của biên vực trước, biên vực sau, thì biên vực cũng không, thế nên không nói.

Thế nào là Quán về chỗ gồm thâu lỗi lầm? Đó là ba nẻo gồm thâu nhân khổ quả khổ.

– Kinh nói:Ở đây, ba phần Vô minh, Ái, Thủ không đoạn là nẻo phiền não. Hai phần Hành, Hữu không đoạn là nẻo nghiệp. Các phần Nhân duyên còn lại, không đoạn là nẻo khổ. Biên vực trước, sau tương tục không đoạn, nên ba nẻo ấy không đoạn. Như vậy, ba nẻo ấy lìa ngã, ngã sở, chỉ có sinh diệt, nên giống như bó trúc”.

– Luận nêu: Thế nào là Quán về chỗ ngăn chận lỗi lầm? Nếu nói nhân duyên sinh thì phân biệt có 3 thứ lỗi lầm:

1. Lỗi về tất cả thân cùng một lúc sinh. Vì sao? Vì không có nhân khác.

2. Lỗi về tự nghiệp không thọ báo. Vì sao? Vì không có người tạo.

3. Lỗi do mất nghiệp. Vì sao? Vì chưa thọ nhận quả, nghiệp đã diệt.

Ba thứ lỗi này dùng sự nhận thức về nhân khác của đời quá khứ để đáp, nên quả báo của sự thọ sinh có sai biệt.

– Kinh nói:Trong đó, Vô minh duyên Hành là thấy rõ sự việc nơi đời quá khứ. Thức, Danh sắc, sáu Nhập, Xúc, Thọ là thấy rõ sự việc nơi đời hiện tại. Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử là thấy rõ sự việc nơi đời vị lai. Đối với việc thấy đó có sự chuyển biến của ba đời. Vô minh diệt nên các Hành diệt, gọi là nói về sự tương tục của nhân duyên được đoạn”.

– Luận nêu: Vô minh duyên Hành là thấy sự việc nơi đời quá khứ: Tức sinh của hiện tại là sự tạo tác từ quá khứ. Quả của hiện tại tức là sinh của vị lai, là nghĩa thấy nhân của đời quá khứ.

Thức, Danh sắc, sáu Nhập, Xúc, Thọ là thấy sự việc nơi đời hiện tại: Tức trong đời quá khứ, theo nghiệp hiện có, nghiệp ấy nhận lấy quả báo của Thức v.v… nơi hiện tại. Lại có thể nhận lấy quả báo của vị lai.

Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử là thấy sự việc nơi đời vị lai: Tức lại có sinh, toàn bộ được định rõ.

Đối với việc thấy đó có sự chuyển biến của ba đời: Tức lại có chuyển sinh của đời sau.

Nói như thế có nghĩa gì? Có ba thứ nghĩa. Nghiệp quá khứ chưa thọ báo, hoặc có trường hợp chưa tạo, hoặc đã tạo, chưa thọ báo, hoặc được đối trị đoạn trừ. Trong ấy, Vô minh duyên Hành là chỉ rõ về sự tạo tác. Hành duyên Thức cho đến Xúc, Thọ, tức chỉ rõ sự tạo tác ấy đã thọ nhận báo. Ái, Thủ, Hữu không đoạn, ở đây là chỉ rõ về việc không được đối trị. Nếu đoạn Ái, Thủ, tuy có tạo nghiệp, thì Vô minh duyên Hành không thể sinh Hữu. Vì thế các nghiệp, có trường hợp đã tạo, chưa tạo, có trường hợp thọ nhận quả, chưa thọ nhận quả, có trường hợp đã đoạn, chưa đoạn. Nếu như vậy tức không có lỗi về tất cả thân cùng sinh một lúc. Như thế, không phải là hết thảy các nghiệp tức thọ nhận quả đương lai, cũng không phải là không thọ, cũng không phải là một lúc. Nếu tự tạo nghiệp thì quả báo không mất, không phải là thân người khác thọ. Như thế thì không có lỗi về tự nghiệp không thọ nhận báo, vì người khác không tạo. Nên lìa ba sự nơi nghiệp nhất định thọ nhận quả, không mất. Nếu như vậy tức không có lỗi do mất nghiệp. Đó gọi là chỉ rõ về chỗ ngăn chận ba thứ lỗi.

Thế nào là Quán về chỗ nhàm chán, không nhàm chán? Tức phân biệt nhàm chán về vô số thứ khổ vi tế. Hết thảy sự thọ nhận hiện có đều là khổ, nên cùng nhàm chán vô số thứ khổ thô trọng.

– Kinh nói:Mười hai phần Nhân duyên gọi là ba khổ. Trong đó, Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, sáu Nhập gọi là hành khổ. Xúc, Thọ gọi là khổ khổ. Các phần Nhân duyên còn lại gọi là hoại khổ. Vô minh diệt nên Hành diệt, cho đến Sinh diệt nên Lão tử diệt, gọi là nói về việc đoạn trừ ba khổ tương tục”.

– Luận nêu: Thế nào là Quán phần sâu xa?

– Kinh nói:Nhân của Vô minh duyên Hành sinh nhân duyên có thể sinh hành. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt, Hành không còn. Phần còn lại cũng như vậy. Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt, là nói về diệt bỏ trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận Hữu để quán. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt, là nói về tùy thuận quán tận cùng nơi vô sở hữu. Phần còn lại cũng như vậy”.

– Luận nêu: Quán sâu xa có 4 thứ:

1. Phần Hữu, không phải kẻ khác tạo, từ nhân sinh.

2. Chẳng phải là tự tạo tác, duyên sinh. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành sinh nhân duyên có thể sinh hành. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt, Hành không còn. Phần còn lại cũng như vậy”.

3. Chẳng phải cả hai tạo tác, chỉ tùy thuận sinh. Do không nhận biết nên khi tạo tác chẳng trụ. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt là nói về diệt bỏ trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy”.

4. Chẳng phải là không nhân tạo tác, tùy thuận nên có. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận Hữu để quán. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt là nói về tùy thuận quán tận cùng nơi vô sở hữu. Phần còn lại cũng như vậy”.

Nếu không nhân sinh mà sinh thì chính là thường sinh, không phải là không sinh, do nhân không định, nên cũng có thể thường không sinh. Vì sao? Vì không nhân sinh. Đây không phải là chỗ ưa thích của pháp Phật. Như thế, tùy thuận có, quán có nhân, không phải là không nhân. Nếu không nhân thì không thể nói là tùy thuận có. Đó gọi là mười thứ quán về nhân duyên tích tập, quán về chỗ sai biệt của đế tướng đã nêu.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy đã quán mười thứ nghịch thuận về pháp nhân duyên tích tập như thế, đó là thứ lớp của phần nhân duyên, là chỗ gồm thâu của nhất tâm, là tự nghiệp thành tựu, là chẳng cùng lìa bỏ, là ba nẻo không đoạn, là quán về biên vực trước sau, là ba khổ hợp tập, là nhân duyên sinh, là nhân duyên sinh dứt trừ trói buộc, là tùy thuận quán tận cùng về Hữu”.

– Luận nêu: Lại có 2 thứ quán khác:

  1. Quán đại bi tùy thuận.
  2. Quán phân biệt về trí Nhất thiết tướng.

Quán đại bi tùy thuận có bốn thứ:

  1. Ngu si, điên đảo.
  2. Ở xứ khác cầu giải thoát.
  3. Dị đạo cầu giải thoát.
  4. Cầu giải thoát khác.

Thế nào là ngu si, điên đảo? Tức tùy theo nơi chốn chấp trước, quán xét các sự việc ngu si, điên đảo, do chấp trước nơi ngã, nên tất cả xứ thọ sinh xa lìa thì không có sinh.

Thế nào là ngu si? Là vô minh tăm tối. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, quán xét về sự sinh diệt của thế gian rồi, liền khởi suy niệm: Những sự sai biệt về thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã v.v…”. Ngu si làm mù lòa nên tham chấp nơi ngã. Như thế, điên đảo cùng với điên đảo nghi hoặc trong chi tướng Hữu. Như kinh nói: “Bồ-tát lại khởi suy niệm: Các phàm phu này, do ngu si làm mù lòa nên tham chấp nơi ngã v.v…”.

Thế nào là ở xứ khác cầu giải thoát? Tức các phàm phu ấy, do ngu si điên đảo như vậy, nên thường ở trong thức A-lê-da, thức A-đàna cầu giải thoát, chính là ở trong ngã, ngã sở của xứ khác cầu giải thoát. Đối trị điều này, như kinh nói: “Bồ-tát khởi suy niệm: Ba cõi đều hư vọng, chỉ là một tâm tạo, cho đến già hoại gọi là chết”.

Thế nào là dị đạo cầu giải thoát? Tức ở trong nhân điên đảo cầu giải thoát. Nhân điên đảo có ba thứ: Một là Nhân của tánh. Hai là Nhân của cõi Tự Tại Thiên. Ba là Nhân của khổ hạnh và không nhân. Không nên cầu như thế. Vì sao? Vì chi Hữu của nhân duyên có hai thứ nghiệp có thể dấy khởi các nhân duyên. Như kinh nói: “Trong ấy, Vô minh có hai thứ tạo tác: Một là si trong duyên khiến chúng sinh mê lầm. Hai là tạo nhân cho Hành v.v…”. Như vậy v.v… là nhân tự sinh. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nhân của Vô minh duyên khiến Hành không đoạn, hỗ trợ để thành Hành v.v…”. Như vậy v.v… là nhân của nghiệp, phiền não vọng tưởng, chẳng phải là nhân an lạc. Như kinh nói: “Ở đây, ba phần Vô minh, Ái, Thủ không đoạn là nẻo phiền não v.v…”. Như vậy v.v… là nhân của biên vực trước, giữa, và nhân của biên vực giữa, sau, biên vực giữa nơi hai biên vực trước sau. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là thấy rõ sự việc nơi đời quá khứ”. Như vậy v.v… nếu không có các sự việc như thế thì vô số chúng sinh cũng không.

Thế nào là cầu giải thoát khác? Giải thoát chân chánh có 4 thứ tướng:

  1. Tướng lìa tất cả khổ.
  2. Tướng vô vi.
  3. Tướng xa lìa cấu nhiễm.
  4. Tướng xuất thế gian.

Giải thoát khác kia vẫn còn bị các hành khổ theo đuổi, cho đến cõi Vô sắc cũng còn bị trói buộc. Như kinh nói: “Mười hai phần Nhân duyên gọi là ba khổ. Trong đó, Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, sáu Nhập gọi là Hành khổ”. Như vậy v.v… Nhân duyên sinh như thế v.v… Như kinh nói: “Trong đó, nhân của Vô minh duyên Hành sinh nhân duyên có thể sinh hành. Phần còn lại cũng như vậy”. Như thế, lại nhiễm sinh trói buộc. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy”. Như thế, tùy thuận Hữu, cầu giải thoát nơi hữu vô sắc. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận Hữu để quán.

Phần còn lại cũng như vậy”.

Quán phân biệt về trí Nhất thiết tướng có 9 thứ:

1. Quán phân biệt về nhiễm, tịnh: Tức các thứ nhiễm, tịnh như chấp ngã mạn, lìa ngã mạn. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, quán xét về sự sinh diệt của thế gian rồi, liền khởi suy niệm: Những sự sai biệt về thọ thân, xứ sinh hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã v.v…”.

2. Quán về sự nương dựa: Tức quán nhân duyên tích tập ấy dựa vào những pháp gì. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy khởi suy niệm: Không nhận biết đúng như thật về đệ nhất nghĩa của các đế nên gọi là Vô minh v.v…”.

3. Quán về phương tiện: Tức quán về chi Hữu của nhân duyên có hai thứ nghiệp có thể khởi các nhân duyên. Như kinh nói: “Trong ấy, Vô minh có hai thứ tạo tác: (1) Si trong duyên khiến chúng sinh mê lầm. (2) Tạo nhân cho Hành v.v…”.

4. Quán về tướng nhân duyên: Tức như chi Hữu không tạo tác. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nhân của Vô minh duyên khiến Hành không đoạn, hỗ trợ để thành Hành v.v…”.

5. Quán về nhập đế: Tức như quán về tập đế của ba nẻo khổ (Nghiệp, phiền não, khổ). Như kinh nói: “Ở đây, ba phần Vô minh, Ái, Thủ không đoạn là nẻo phiền não v.v…”.

6. Quán về chỗ tin nhập nương dựa của có lực không lực: Là như quán chỗ thù thắng của sự hóa độ nơi biên vực trước giữa sau. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là thấy rõ sự việc nơi đời quá khứ v.v…”.

7. Quán về chỗ tin nhập của tăng thượng mạn, không tăng thượng mạn: Tức như quán do không nhận biết đúng như thật về khổ, ngã mạn, vi tế. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, sáu Nhập gọi là Hành khổ v.v…”.

8. Quán không có khởi đầu: Như biên vực giữa, nhân duyên sinh, biên vực sau sinh, tùy thuận nơi trói buộc. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành sinh nhân duyên có thể sinh hành. Phần còn lại cũng như vậy. Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy”.

9. Quán về vô số thứ loại: Là tùy thuận Hữu quán nơi Ái của ba cõi. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận Hữu để quán. Phần còn lại cũng như vậy”.

3. Thù thắng của quả ấy:5 thứ tướng:

1. Thù thắng do đạt được hành đối trị cùng thù thắng do lìa chướng.

2. Thù thắng do tu hành chứng đắc.

3. Thù thắng do đạt được Tam-muội.

4. Thù thắng do đạt được tâm không hoại.

5. Thù thắng do đạt được diệu lực tự tại.

a. Thế nào là Thù thắng do đạt được hành đối trị? Tức là môn giải thoát.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, hành mười thứ quán về nhân duyên tích tập rồi, thấy rõ là không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, tự tánh là không, lìa mọi sự tạo tác, thọ nhận. Khi quán xét như vậy, thì môn giải thoát không sinh khởi hiện tiền.

Bồ-tát ấy, quán về chi Hữu kia, tự tánh diệt, nên giải thoát luôn hiện tiền, thấy rõ nơi chốn của nhân duyên không có tướng của một pháp nhỏ nào có thể sinh. Như thế, không thấy tướng của pháp nhỏ, nên môn giải thoát vô tướng sinh khởi hiện tiền.

Bồ-tát ấy, như thế là hội nhập nơi Không, nơi Vô tướng, không sinh nguyện ưa thích, chỉ dùng đại bi làm đầu để giáo hóa chúng sinh. Như vậy, môn giải thoát Vô nguyện sinh khởi, hiện tiền.

Bồ-tát này, tu hành ba môn giải thoát ấy, lìa bỏ tướng ta, người, lìa bỏ tướng tạo tác, thọ nhận, lìa bỏ tướng có, không”.

– Luận nêu: Môn giải thoát Không ở đây nói có 3 thứ tướng: (1) Thấy chúng sinh là vô ngã. (2) Thấy pháp là vô ngã. (3) Đối với hai thứ ấy (Chúng sinh, pháp) đều tạo vô kiến, vô tác. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hành mười thứ quán về nhân duyên tích tập rồi, thấy rõ là không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, tự tánh là không, lìa mọi sự tạo tác, thọ nhận. Khi quán xét như vậy, môn giải thoát Không sinh khởi hiện tiền”.

Thấy chúng sinh không có ngã: Là không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh. Câu này chỉ rõ về thấy pháp không có ngã.

Tự tánh là không: Câu này chỉ rõ: Đối với hai thứ kia đều tạo vô kiến, vô tác. Thấy chúng sinh cùng pháp không có sự tạo tác, do không người tạo tác, nên sự việc tạo tác cũng không.

Không thấy sự tạo tác, lìa tạo tác, thọ nhận: Câu này chỉ rõ về môn giải thoát Vô tướng, cũng có 3 thứ tướng: (1) Diệt trừ chướng. (2) Đạt được đối trị. (3) Niệm tướng không hành. Như kinh nói: “Bồtát ấy, quán về chi Hữu kia, tự tánh diệt, nên giải thoát luôn hiện tiền, thấy rõ nơi chốn của nhân duyên không có tướng của một pháp nhỏ nào có thể sinh. Như thế, không thấy tướng của pháp nhỏ, nên môn giải thoát Vô tướng sinh khởi hiện tiền”.

Diệt trừ chướng: Là quán về chi Hữu kia, tự tánh diệt. Câu này chỉ rõ về “Đạt được đối trị”. Nên giải thoát luôn hiện tiền: Câu này chỉ rõ về “Niệm tướng không hành”.

Thấy rõ nơi chốn của nhân duyên v.v…: Câu này chỉ rõ về môn giải thoát Vô nguyện, cũng nói có 3 thứ tướng: (1) Nương dựa. (2) Thể tánh. (3) Thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, như thế là hội nhập nơi Không, nơi Vô tướng, không sinh nguyện ưa thích, chỉ dùng đại bi làm đầu để giáo hóa chúng sinh. Như vậy, môn giải thoát Vô nguyện sinh khởi, hiện tiền”. Trong đó, hội nhập nơi Không, nơi Vô tướng gọi là nương dựa. Do nương dựa như vậy nên có thể thành tựu Vô nguyện, không sinh nguyện ưa thích. Không sinh nguyện ưa thích gọi là Thể của Vô nguyện. Đại bi làm đầu, giáo hóa chúng sinh, đó là sự thù thắng. Hàng Thanh văn cũng có “Không sinh nguyện ưa thích”, nhưng đối với Thể của Vô nguyện lại xa lìa đại bi, không ưa thích giáo hóa chúng sinh.

Thù thắng của diệt trừ chướng: Là lìa ba thứ tướng. Như kinh nói: “Bồ-tát này, tu hành ba môn giải thoát ấy, lìa bỏ tướng ta, người, lìa bỏ tướng tạo tác, thọ nhận, lìa bỏ tướng có, không”.

Thứ lớp như vậy, ở trong năm Địa, tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng xa lìa. Ở trong bốn Địa xa lìa tướng hiện, ẩn và trong sáu địa này là pháp bình đẳng xa lìa.

b. Thế nào là Thù thắng do tu hành chứng đắc?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, tâm đại bi chuyển tăng, do quý trọng đại bi, siêng năng hành trì tinh tấn, chưa viên mãn các pháp trợ Bồ-đề phần nhằm khiến đạt đầy đủ. Bồ-tát khởi suy niệm: Hữu vi hòa hợp. Hành lìa hòa hợp. Không hành với các duyên đầy đủ. Hành không đầy đủ nên không hành. Chỉ mỗi Ta nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm. Không nên hòa hợp đủ các nhân duyên, cũng không dứt bỏ hoàn toàn hữu vi, vì nhằm giáo hóa chúng sinh.

Này các Phật tử! Bồ-tát nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm như thế, lìa tự tánh, quán tự tánh không sinh không diệt.

Bồ-tát ấy hành quán như vậy rồi, khởi tâm đại bi, không xả bỏ tất cả chúng sinh, tức thì đạt được môn trí không chướng ngại, hiện tiền, gọi là hành Bát-nhã Ba-la-mật sáng tỏ, hiện tiền. Thành tựu hành đó, soi chiếu khắp rồi, vì nhằm làm viên mãn pháp trợ Bồ-đề phần, nhưng không cùng trụ với pháp hữu vi, quán tướng tịch diệt nơi tánh của pháp hữu vi, cũng không trụ trong đó, chỉ muốn hoàn thành pháp phần Bồ-đề vô thượng”.

– Luận nêu: Thù thắng do tu hành chứng đắc:2 thứ tu hành:

  1. Tu hành do phát khởi dũng mãnh.
  2. Tu hành do khởi chí trượng phu.

Thế nào là Tu hành do phát khởi dũng mãnh? Tức là nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm, xa lìa chỗ tạo nghiệp, phiền não cùng mọi sự trói buộc, tạo lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Như kinh nói:

“Bồ-tát ấy, tâm đại bi chuyển tăng”.

Thế nào là Tu hành do khởi chí trượng phu? Tức là quán đối chiếu sự nhàm chán. Quán chỗ thấy rõ nhiều lỗi lầm, nên diệt trừ đối. Quán tự tánh cùng tướng đều không. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm như thế, lìa tự tánh, quán tự tánh không sinh không diệt”.

Thù thắng do tu hành: Tức thù thắng do trí cùng tâm đại bi tùy thuận. Dựa nơi đạo không trụ, hành theo môn trí không chướng ngại luôn hiện tiền, hành Bát-nhã Ba-la-mật sáng tỏ hiện tiền, chứng biết pháp hữu vi và Niết-bàn bình đẳng, Bồ-tát không cùng trụ cả hai, vì đối với các pháp phần trợ đạo, Bồ-tát hành trì chưa đầy đủ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hành quán như vậy rồi, khởi tâm đại bi, không xả bỏ tất cả chúng sinh v.v…”.

Trí không chướng ngại: Tức là trí của Như Lai. Nhưng ở đây, do chưa thành tựu, nên gọi là Sáng tỏ, hiện tiền.

c. Thế nào là Thù thắng do đạt được Tam-muội?

* Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Hiện Tiền của bậc Bồtát, đạt được các Tam-muội:

  1. Tín không.
  2. Tánh không.
  3. Đệ nhất nghĩa không.
  4. Đệ nhất không.
  5. Đại không. (6) Hợp không.
  6. Khởi không.
  7. Như thật không phân biệt không.
  8. Bất xả không.
  9. Đắc lìa chẳng lìa không.

Bồ-tát ấy, đạt được mười môn Tam-muội Không hàng đầu như vậy, cùng với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Không luôn hiện tiền. Đạt được mười môn Tam-muội Vô tướng hàng đầu như vậy, cùng với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Vô tướng luôn hiện tiền. Đạt được mười môn Tam-muội Vô nguyện hàng đầu như vậy, cùng với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Vô nguyện luôn hiện tiền”.

* Luận nêu: Tam-muội Không này có 4 thứ sai biệt:

  1. Quán.
  2. Không phóng dật.
  3. Được tăng thượng.
  4. Làm nhân.

Có năm Tam-muội được gọi là Quán (Trừ Tam-muội thứ tư là Đệ nhất không):

  1. Quán chúng sinh vô ngã. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Tín không”.
  2. Quán pháp vô ngã. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Tánh không”.
  3. Quán chọn lấy không kia. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đệ nhất nghĩa không”.
  4. Quán dựa nơi Thức A-lê-da. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đại không”.

(đ) Quán thức chuyển. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Hợp không”.

Không phóng dật: Tam-muội thứ tư, phân biệt, khéo tu hành, tu hành không chán đủ. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đệ nhất không”.

Được tăng thượng: Tam-muội thứ bảy (Khởi không) đạt được công đức tăng thượng. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Khởi không”.

Làm nhân: Ba thứ Tam-muội còn lại là nhân làm thanh tịnh chướng ngại của trí, như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Như thật không phân biệt không”, là nhân của việc giáo hóa chúng sinh, như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Bất xả không”, là nhân của việc chọn lấy cõi, như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Đắc lìa chẳng lìa không”. Nguyện chọn lấy cõi như thế, xa lìa phiền não cấu uế mà tùy thuận nơi các cõi, nên gọi là “Lìa, chẳng lìa”.

d. Thế nào là Thù thắng do đạt được tâm không hoại?

* Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Hiện Tiền của bậc Bồtát, lại chuyển tăng, thành tựu đầy đủ các tâm:

  1. Không hoại.
  2. Quyết định.
  3. Chân thật.
  4. Sâu xa.
  5. Không thoái chuyển.
  6. Không ngừng nghỉ.
  7. Thanh tịnh.
  8. Vô biên.
  9. Cầu đạt trí.
  10. Đầy đủ phương tiện tu hành”.

* Luận nêu: Tâm không hoại: Là kiên cố, không thoái chuyển. Tâm không hoại này có 9 thứ:

1. Không hoại do tin quán. Như kinh nói: “Tâm quyết định”.

2. Không hoại do gắng sức thọ nhận, thuận hợp. Như kinh nói: “Tâm chân thật”.

3. Không hoại do ở nơi chốn sâu xa không kinh sợ. Như kinh nói: “Tâm sâu xa”.

4. Không hoại do ở nơi thừa của mình không động. Như kinh nói: “Tâm không thoái chuyển”.

5. Không hoại do phát khởi tinh tấn. Như kinh nói: “Tâm không ngừng nghỉ”.

6. Không hoại do lìa cấu nhiễm của tâm ý ganh ghét, phá giới. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh”.

7. Không hoại do tạo lợi ích rộng khắp cho chúng sinh. Như kinh nói: “Tâm vô biên”.

8. Không hoại do cầu đạt giải thoát thù thắng tối thượng. Như kinh nói: “Tâm cầu đạt trí”.

9. Không hoại do hành hóa cứu độ chúng sinh. Như kinh nói:

“Tâm đầy đủ phương tiện trí hành”.

đ. Thế nào là Thù thắng do đạt được diệu lực tự tại?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, như tâm của các bậc Bồ-tát, tùy thuận thành tựu, dốc hướng tới đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Tinh tấn không thoái chuyển, thành tựu việc khiến cho tất cả dị luận của ngoại đạo đều không thể khuynh động. Thành tựu việc tùy thuận hội nhập nơi cảnh giới các trí. Thành tựu việc xa lìa, làm xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa. Thành tựu quyết định toàn bộ hướng đến trí Phật. Thành tựu không thoái thất, khiến hết thảy các thứ ma, phiền não không thể phá hoại. Thành tựu sự an trụ vững chắc, khéo trụ nơi trí tuệ sáng tỏ bậc Bồ-tát. Thành tựu sự an trụ chính đáng, khéo tu tập hành trì các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện. Thành tựu sự hỗ trợ hành chân chánh nơi trí phương tiện quán xét. Thành tựu hành không xả bỏ tích tập các pháp trợ phần Bồ-đề. Bồ-tát ấy, trụ trong Địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát, hành Bát-nhã Ba-la-mật tăng thượng, thành tựu, đạt được thông suốt Nhẫn thứ ba là Thuận nhẫn, tùy thuận pháp như thật, không có chống trái”.

– Luận nêu: Bồ-tát ấy, như tâm của các bậc Bồ-tát, tùy thuận thành tựu, dốc hướng tới đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Tức đạt được diệu lực thù thắng của hành Bát-nhã Ba-la-mật, nên có thể hội nhập sâu xa. Trong đó, diệu lực thù thắng có 9 thứ:

1. Diệu lực có khả năng hàng phục kẻ khác. Như kinh nói: “Tinh tấn không thoái chuyển, thành tựu việc khiến cho tất cả dị luận của ngoại đạo đều không thể khuynh động”.

2. Diệu lực có thể đoạn trừ các nghi. Như kinh nói: “Thành tựu việc tùy thuận, hội nhập nơi cảnh giới các trí”.

3. Diệu lực của tự thừa không động. Như kinh nói: “Thành tựu việc xa lìa, làm xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa”.

4. Diệu lực ở nơi chốn sâu xa quyết định tin tưởng. Như kinh nói: “Thành tựu quyết định toàn bộ hướng đến trí Phật”.

5. Diệu lực không tan hoại. Như kinh nói: “Thành tựu không thoái thất, khiến hết thảy các thứ ma, phiền não không thể phá hoại”.

6. Diệu lực kiên cố, dựa nơi sự đối trị các chướng phiền não được thanh tịnh. Như kinh nói: “Thành tựu sự an trụ vững chắc, khéo trụ nơi trí tuệ sáng tỏ bậc Bồ-tát”.

7. Diệu lực do đối trị rộng khắp. Như kinh nói: “Thành tựu sự an trụ chính đáng, khéo tu tập hành trì các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện”.

8. Diệu lực do hóa độ chúng sinh. Như kinh nói: “Thành tựu sự hỗ trợ hành chân chánh nơi trí phương tiện quán xét”.

9. Diệu lực làm thanh tịnh mọi chướng ngại của trí. Như kinh nói: “Thành tựu hành không xả bỏ tích tập các pháp trợ phần Bồ-đề”.

Các pháp ấy, như trên đã nêu, đều thuộc về diệu lực thù thắng.

– Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện. Bồ-tát ấy được thấy nhiều trăm Phật v.v… cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, được thấy nhiều ức Phật v.v… cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, Bồ-tát ấy, khi gặp chư Phật đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men v.v… dùng căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ở nơi trụ xứ của chư Phật sinh tâm cung kính tột bậc, một lòng nghe pháp, lãnh hội rồi thì thọ trì, lãnh hội, thọ trì rồi thì đạt được Tam-muội Như thật, trí tuệ tỏa sáng, tùy thuận tu hành, hành trì rồi thì ghi nhớ, giữ gìn, trí tuệ càng trở nên thù thắng, lại đạt được tạng Pháp của chư Phật. Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát, ở nơi vô lượng trăm kiếp v.v… vô lượng ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn na-do-tha kiếp, vô lượng ức kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức nado-tha kiếp, các căn thiện kia luôn chuyển tăng, càng trở nên sáng sạch thù thắng.

Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, dùng lưu ly mài bóng thì ánh sáng, màu sắc càng trở nên sáng đẹp. Bồ-tát này cũng như vậy, trụ trong Địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát ấy, các căn thiện kia, trí phương tiện quán xét, càng trở nên thanh tịnh, sáng tỏ hơn hết, dần dần vắng lặng, thành tựu không hoại. Ví như vầng ánh sáng của mặt trăng tỏa chiếu nơi thân chúng sinh, khiến được mát mẻ, bốn thứ gió thổi cũng không thể hủy hoại. Này các Phật tử! Bồ-tát này cũng thế. Trụ nơi Địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát, các căn thiện kia có thể diệt trừ lửa phiền não của vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, bốn thứ đạo ma đều không thể phá hoại. Bồ-tát ấy, trong mười Ba-la-mật, thì Bát-nhã Ba-la-mật tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là tùy theo phần theo sức.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về Địa Hiện Tiền, là Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát. Nếu Bồ-tát trụ trong Địa này nhiều lần làm Thiên vương cõi trời Hóa-lạc, mọi sự tạo tác hành hóa đều tự tại, khéo léo diệt trừ tâm ngã mạn của chúng sinh, khéo dùng pháp để xoay chuyển tâm ngã mạn ấy, các nghiệp thiện đã tạo nơi bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật niệm Phật niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát v.v… cho đến không lìa niệm về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn khởi tâm này: Ta phải, đối với hết thảy chúng sinh, là người đứng đầu, là hơn, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô lượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm này, phát khởi hành tinh tấn, do diệu lực của tinh tấn, nên trong khoảng một niệm, đạt được trăm ngàn ức Tam-muội, thấy trăm ngàn ức Phật, nhận biết trăm ngàn ức thần lực của Phật, có thể làm chuyển động trăm ngàn ức thế giới Phật, có thế đi vào trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể soi chiếu trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể trụ thọ trăm ngàn ức kiếp, có thể nhận biết sự việc trong trăm ngàn ức kiếp nơi đời quá khứ, vị lai, có thể khéo hội nhập nơi trăm ngàn ức pháp môn, có thể biến hóa thân làm trăm ngàn ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng, tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vựơt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng v.v… cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Lãnh hội, thọ trì rồi thì đạt được Tam-muội Như thật, trí tuệ sáng tỏ tùy thuận tu hành: Là đạt được nghĩa Đà-la-ni. Câu này chỉ rõ, nhân nơi sự việc kia, nên nói, dựa nơi Tam-muội thù thắng, đạt được các pháp Chỉ, Quán sáng tỏ với nẻo hành trì hơn hẳn.

Hành trì rồi thì ghi nhớ, giữ gìn: Tức có thể giữ gìn hành ấy.

Bồ-tát này, trí tuệ càng trở nên thù thắng, cho đến các căn thiện kia càng được sáng sạch: Là nghĩa giải thoát khỏi chướng ngại, chứng đắc diệu nghĩa kia.

Dụ về dùng lưu ly mài bóng vàng ròng: Là chỉ rõ trong Địa này, trí xuất thế gian tăng thượng, ánh sáng của trí càng trở nên hơn hẳn. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, dùng lưu ly mài bóng thì ánh sáng, màu sắc càng trở nên sáng đẹp v.v…”. Do trí không chướng ngại hiện tiền, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật sáng tỏ hiện tiền. Vì vậy gọi là Địa Hiện Tiền.

Trí phương tiện quán xét: Là trí sáng tỏ do hành hóa đạo không trụ.

Dụ về vầng sáng của mặt trăng: Là chỉ rõ chỗ hơn so với trí của Địa trước: Vầng nhỏ nhưng ánh sáng lớn. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vầng ánh sáng của mặt trăng v.v… cho đến bốn thứ đạo ma đều không thể phá hoại”.

Đạo ma: Là thuận theo sự việc của ma, hành của ma.

Các phần khác: Như trước đã nêu.

HẾT – QUYỂN 8