LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 4

Địa thứ hai: ĐỊA LY CẤU

* Luận nêu: Như thế là Bồ-tát đã chứng đắc chánh vị, nương nơi đạo xuất thế gian, nhờ vào giới thanh tịnh để nói về Địa Ly Cấu, là Địa thứ hai của bậc Bồ-tát. Giới thanh tịnh này có 2 thứ thanh tịnh:

  1. Thanh tịnh phát khởi.
  2. Thanh tịnh tự thể.

I. Thế nào là Thanh tịnh phát khởi? Là nói về 10 thứ tâm chánh trực.

– Kinh nói:Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã thành tựu đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt được Địa thứ hai, thì nên phát khởi mười thứ tâm chánh trực. Những gì là mười? Đó là: (1) Tâm chánh trực. (2) Tâm mềm dịu. (3) Tâm thuận hợp. (4) Tâm thiện. (5) Tâm vắng lặng. (6) Tâm chân thật. (7) Tâm không xen tạp. (8) Tâm không mong cầu. (9) Tâm thù thắng. (10) Tâm lớn lao. Bồ-tát sinh khởi mười tâm ấy thì hội nhập nơi Địa Ly Cấu, là Địa thứ hai của bậc Bồ-tát”.

– Luận nêu: Mười thứ tâm chánh trực: Là dựa nơi giới thanh tịnh để thành tựu giới tánh của tâm chánh trực, tùy chỗ nên tạo tác mà hành hóa tự nhiên. Tâm chánh trực lại có 9 thứ:

1. Tâm chánh trực mềm dịu: Tức cùng với ý vui mừng thực hành trì giới.

2. Tâm chánh trực thuận hợp: Tức diệu lực tự tại nên tánh khéo trì giới, phiền não không xen lẫn.

3. Tâm chánh trực thiện: Tức giữ gìn các căn, không để lầm lạc phạm giới, cũng như ngựa hay, tánh đã được điều phục.

4. Tâm chánh trực vắng lặng: Tức tâm đã được chế ngự, trở nên hòa dịu, không cao ngạo.

5. Tâm chánh trực chân thật: Tức có thể nhẫn chịu những thứ não hại. Như vàng ròng v.v…

6. Tâm chánh trực không xen tạp: Tức đối với các thứ công đức đã đạt được không sinh chán đủ, dựa nơi giới thanh tịnh để lại cầu đạt giới thù thắng, ưa thích tịch tĩnh.

7. Tâm chánh trực không mong cầu: Tức tâm không mong đạt những thế lực tự tại nơi các cõi.

8. Tâm chánh trực thù thắng: Tức vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên không dứt bỏ các nguyện hữu lậu.

9. Tâm chánh trực lớn lao: Tức tâm tùy thuận nơi quả của các cõi mà không đắm nhiễm.

II. Thế nào là Thanh tịnh tự thể? 3 thứ giới:

  1. Giới thanh tịnh do xa lìa.
  2. Giới thanh tịnh do thâu giữ pháp thiện.
  3. Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh.

Giới thanh tịnh do xa lìa: Tức là mười đạo nghiệp thiện. Từ lìa bỏ sát sinh cho đến chánh kiến, cũng gọi là thọ trì giới thanh tịnh.

Giới thanh tịnh do thâu giữ pháp thiện: Tức đối với Giới thanh tịnh do xa lìa trở lên, từ câu: “Bồ-tát suy nghĩ: Hết thảy chúng sinh bị đọa nơi các đường ác đều do nhân duyên tập khởi là mười đạo nghiệp bất thiện”, cho đến câu: “Vì thế Ta nên hành trì mười đạo nghiệp thiện với tất cả thứ thanh tịnh”.

Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh: Tức đối với Giới thanh tịnh do thâu giữ pháp thiện trở lên, từ câu: “Bồ-tát lại suy nghĩ: Ta phải xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện, ưa thích hành pháp hành”, cho đến câu: “Sinh tâm tôn kính v.v…”.

1. Thế nào là Giới thanh tịnh do xa lìa? Nghĩa là mười đạo nghiệp thiện, tức từ xa lìa sát sinh cho đến chánh kiến.

– Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi Địa Ly Cấu của Bồ-tát tự tánh thành tựu mười đạo nghiệp thiện, xa lìa hết thảy việc sát sinh, dứt bỏ đao gậy, không có tâm sân hận, có hổ có thẹn, đầy đủ tâm thương xót. Đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm từ. Bồ-tát ấy hãy còn không có tâm xấu ác gây não hại các chúng sinh, huống chi là đối với các chúng sinh khác, khởi tưởng về chúng sinh, khởi tâm thô nặng thân hành gây thêm não hại”.

– Luận nêu: Nói: Mười đạo nghiệp thiện, xa lìa hết thảy việc sát sinh: Là thị hiện chỗ hơn hết nơi lợi ích thù thắng của sự xa lìa.

Dựa nơi việc xa lìa sát sinh: Gồm có 3 thứ lìa:

1. Lìa nơi nhân. Như kinh nói: “Dứt bỏ đao gậy, không có tâm sân hận, có hổ có thẹn, đầy đủ tâm thương xót”.

2. Lìa bằng cách đối trị. Như kinh nói: “Đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm từ”.

3. Lìa do hành quả. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy hãy còn không có tâm xấu ác gây não hại các chúng sinh, huống chi là đối với các chúng sinh khác, khởi tưởng về chúng sinh, khởi tâm thô nặng thân hành gây thêm não hại”.

Lìa nơi nhân:2 thứ: (a) Nhân chứa nhóm: Có hai thứ là đao, gậy. Đao là tạo việc chém chặt. Gậy là tạo việc đánh đập. Như kinh nói: “Dứt bỏ đao gậy”, cho đến chú thuật, các thứ thuốc, những vật dụng có thể giết hại, thảy đều xa lìa. (b) Nhân phát khởi: Có hai thứ là tham, sân. Vì tài sản, lợi dưỡng nên tạo các nghiệp ác, cho đến mất mạng, tâm không xấu hổ, hối hận. Đối trị những điều ấy, như kinh nói: “Có hổ có thẹn”. Vì tham, bị chúng sinh bắt bớ, nuôi dưỡng, cột nhốt nơi lồng, khiến sinh khổ não. Đối trị những điều ấy, như kinh nói: “Đầy đủ tâm thương xót”. Lìa hai thứ đó nên gọi là lìa nơi nhân.

Lìa bằng cách đối trị:2 thứ: (a) Tâm an ổn: Tức đối với hết thảy chúng sinh luôn tạo lợi ích, dùng pháp thiện giáo hóa khiến họ trụ nơi nẻo thiện, là nhân của Niết-bàn. (b) Tâm từ: Tức khiến cho các chúng sinh kia đạt được phước báo của hàng trời, người, dẫn đến quả an lạc của Niết-bàn. Như kinh nói: “Đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm từ”. Như vậy, ở trong nhân quả không cầu tìm điên đảo. Lìa tâm ngu si cho sát sinh là để cúng tế v.v… Đối trị các điều ấy tức gọi là lìa, nên gọi là lìa bằng cách đối trị. Bồ-tát là chủ thể lìa. Nói chúng sinh là chỉ rõ các chúng sinh không phải thường, không phải đoạn, tùy theo nhân duyên của mạng căn, cho đến có được thọ mạng, trụ ở đời. Chết tức dựa nơi lực của nghiệp, phiền não, sinh trở lại vào đời vị lai.

Lìa do hành quả:2 thứ: (a) Vi tế: Như tâm niệm, não hại. (b) Thô trọng: Như thân hành não hại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy hãy còn không có tâm xấu ác gây não hại các chúng sinh, huống chi là đối với các chúng sinh khác, khởi tưởng về chúng sinh, khởi tâm thô nặng thân hành gây thêm não hại”. Ở đây, hành thô trọng có năm thứ: Một là Thân, như kinh nói: “Khác”. Hai là Sự, như kinh nói: “Chúng sinh”. Ba là Tưởng, như kinh nói: “Khởi tưởng về chúng sinh”. Bốn là Hành, như kinh nói: “Khởi tâm thô nặng”. Năm là Thể, như kinh nói: “Thân hành gây thêm não hại”.

– Kinh nói:Lìa bỏ việc trộm cướp các vật dụng, của cải cần cho đời sống, thường tự cho là đầy đủ. Không hủy hoại tài sản của người khác. Nếu vật thuộc về người khác thì người khác được sử dụng, có ý tưởng giữ gìn, mình không sinh tâm trộm cắp. Bồ-tát ấy, cho đến cộng cỏ, chiếc lá, không cho thì không lấy, huống chi là đối với các vật dụng, của cải khác”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ trộm cướp: Gồm có 3 thứ lìa:

  1. Lìa nơi nhân.
  2. Lìa bằng cách đối trị.
  3. Lìa do hành quả.

Lìa nơi nhân: Là của cải nơi chính mình không đủ. Đối trị điều ấy, như kinh nói: “Các vật dụng, của cải cần cho đời sống, thường tự cho là đầy đủ”.

Lìa bằng cách đối trị: Đó là bố thí. Đối với của cải nơi chính mình có, xả bỏ không vướng mắc, do không tham lam, không hủy hoại của cải nơi vị lai, như kinh nói: “Không hủy hoại tài sản của người khác”.

Lìa do hành quả:2 thứ: (a) Vi tế: Vật vi tế không cho, không lấy. (b) Thô trọng: Vật thô trọng không cho, không lấy. Ở đây, chỉ rõ có 5 thứ: Một là Thân, như kinh nói: “Nếu vật thuộc về người khác”. Hai là Sự, như kinh nói: “Sự việc của kẻ khác thọ dụng”. Ba là Tưởng, như kinh nói: “Người khác có ý tưởng giữ gìn”. Bốn là Hành: Tức tâm trộm cắp, như kinh nói: “Mình không sinh tâm trộm cắp”. Năm là Thể: Tức tính chất vi tế, thô trọng, như kinh nói: “Cho đến cộng cỏ, chiếc lá, không cho thì không lấy, huống chi là đối với các vật dụng, của cải khác”.-

– Kinh nói:Lìa bỏ tà dâm, tự cho là đủ đối với nhan sắc của vợ mình, không cầu tìm vợ kẻ khác, cầu tìm người khác giữ gìn người nữ cùng vợ của kẻ khác. Thân thuộc tộc họ nêu rõ việc giữ gìn, hoặc giới pháp che chở. Bồ-tát ấy, cho đến không sinh tâm nhớ nghĩ để tham cầu, huống chi là cùng với người nữ làm việc tà dâm, hoặc lại hành sự không đúng chỗ”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ tà dâm: Gồm có 3 thứ lìa:

  1. Lìa nơi nhân.
  2. Lìa bằng cách đối trị.
  3. Lìa do hành quả.

Lìa nơi nhân: Như đối với vợ mình chưa đủ. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tự cho là đủ đối với nhan sắc của vợ mình”.

Lìa bằng cách đối trị: Phạm hạnh hiện tại thanh tịnh, không cầu nhan sắc của vợ nơi vị lai. Như kinh nói: “Không cầu tìm vợ kẻ khác”.

Lìa do hành quả:2 thứ: (a) Vi tế: Tức là trong tâm. (b) Thô trọng: Tức là thân tướng. Thân tướng ở đây có 3 thứ: Một là Không chính đáng. Hai là Trái thời. Ba là Không đúng chỗ.

Không chính đáng (Bất chánh): Tức như người nữ do kẻ khác giữ gìn, ở chung hoặc không ở chung. Ở chung: Là do người khác giữ gìn. Không ở chung: Là vợ của kẻ khác. Như kinh nói: “Người khác giữ gìn người nữ cùng vợ của kẻ khác”.

Thân thuộc, tộc họ nêu rõ việc giữ gìn: Tức là cha mẹ, người thân trong tộc họ giữ gìn, che chở. Trường hợp đã gả cho người khác thì họ có ý thức gìn giữ. Như kinh nói: “Thân thuộc tộc họ nêu rõ việc giữ gìn”.

Người nữ: Tức chỉ rõ việc xa lìa, không phải là tên gọi người nữ nơi số lượng của chúng sinh.

Trái thời: Tức chỉ không đúng thời, như thời gian tu phạm hạnh. Như kinh nói: “Hoặc giới pháp che chở”.

Không đúng chỗ (Phi xứ): Tức hành dâm không đúng chỗ, như kinh nói: “Hoặc lại hành sự không đúng chỗ”.

Vi tế, thô trọng: Tức là ý nghiệp, thân nghiệp, hai thứ này đều xa lìa. Như kinh nói: “Cho đến không sinh tâm nhớ nghĩ để tham cầu, huống chi là cùng với người nữ làm việc tà dâm”.

– Kinh nói:Lìa bỏ vọng ngữ, thường nói lời chân thật, chắc chắn, hợp thời đúng lúc. Bồ-tát ấy, cho đến trong giấc mộng cũng không khởi ý che giấu sợ người khác thấy (Phú kiến), nhẫn chịu để người khác thấy (Nhẫn kiến), không có tâm muốn tạo sự dối gạt đối với lời nói của kẻ khác, huống hồ là cố ý nói dối”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ vọng ngữ (Nói dối): Gồm có 2 thứ lìa:

  1. Lìa bằng cách đối trị.
  2. Lìa do hành quả.

Lìa bằng cách đối trị: Tức là lìa nơi nhân. Vì sao? Vì nơi thân nghiệp kia có hai thứ lìa. Còn trong nói dối thì không có sự việc bên ngoài, lại không có nhân khác. Như trong việc lìa sát sinh thì nơi nhân chứa nhóm có hai thứ là đao, gậy, là sự việc bên ngoài, như trong trường hợp đó đã nêu: Lìa bỏ cả đao, gậy. Trong việc lìa bỏ nói dối thì không có hai thứ sự việc bên ngoài của thân nghiệp kia.

Nhân không khác: Tức như nhân của sát sinh là tham, sân, si v.v… Nhân của nói dối: Là tâm dối gạt kẻ khác cần phải xa lìa, tức là nói lời chân thật, xác nhận lời nói chân thật như thế là đối trị tâm dối gạt kẻ khác, tức là lìa từ nhân. Dựa nơi kia để sinh đây, nên nói là nhân không khác. Như vậy, lìa bằng cách đối trị chính là lìa nơi nhân.

Lại, lìa bằng cách đối trị có 3 thứ: (a) Nói lời thuận nơi tưởng, như kinh nói: “Thường nói lời chân thật”. (b) Khéo suy xét: Tức là nói với đúng như sự việc, như kinh nói: “Nói lời chắc chắn”. (c) Nói lời biết thời: Tức không dấy khởi ý làm suy não thân mình, thân người khác, như kinh nói: “Nói lời hợp thời đúng lúc”.

Lìa do hành quả:2 thứ: (a) Vi tế. (b) Thô trọng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, cho đến trong giấc mộng v.v…”. Trong giấc mộng: Là vi tế. Tạo nên: Là thô trọng. Che giấu sợ kẻ khác thấy v.v… thì dễ hiểu. Trí kiến gọi là kiến.

– Kinh nói:Lìa bỏ nói hai lưỡi là không có tâm phá hoại, không có tâm gây khủng bố, không có tâm não loạn. Nghe người này nói, không hướng tới kẻ kia nói lại để phá hoại người này. Nghe kẻ kia nói, không hướng tới người này nói lại để phá hoại kẻ kia. Không phá hoại sự đồng ý. Đã phá hoại thì không khiến tăng trưởng. Không có tâm hoan hỷ về sự ly biệt. Không có tâm vui thích về sự ly biệt. Không ưa thích nói lời ly biệt. Không tạo ra lời nói ly biệt, hoặc thật hoặc chẳng thật”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ nói hai lưỡi: Gồm có 2 thứ lìa:

  1. Lìa bằng cách đối trị.
  2. Lìa do hành quả.

Lìa bằng cách đối trị: Nghĩa là không hành động phá hoại. Gồm có 2 thứ: (a) Tâm. (b) Sự sai biệt. Tức theo chỗ nghe ở đây, đi đến nơi khác nói. Hai thứ ấy nêu rõ tâm thọ nhận sự nhớ nghĩ tạo ra khẩu nghiệp, thành lời nói nơi tâm phá hoại. Như kinh nói: “Nghe người này nói, không hướng tới kẻ kia nói lại để phá hoại người này. Nghe kẻ kia nói, không hướng tới người này nói lại để phá hoại kẻ kia”.

Sự sai biệt có ba thứ: Thứ nhất là Thân phá hoại. Thứ hai là Tâm phá hoại. Thứ ba là Nghiệp phá hoại.

Thân phá hoại có hai thứ: Một là chưa phá hoại. Hai là đã phá hoại. Đối trị việc này, như kinh nói: “Không phá hoại sự đồng ý. Đã phá hoại thì không khiến tăng trưởng”.

Tâm phá hoại cũng có hai thứ: Một là chưa phá hoại, tức muốn phá hoại. Hai là đã phá hoại thì tùy hỷ. Đối trị việc này, như kinh nói: “Không có tâm hoan hỷ về sự ly biệt. Không có tâm vui thích về sự ly biệt”.

Nghiệp phá hoại cũng có hai thứ: Một là vi tế. Hai là thô trọng. Cả về lời nói thật, không thật. Đối trị việc này, như kinh nói: “Không ưa thích nói lời ly biệt. Không tạo ra lời nói ly biệt, hoặc thật hoặc chẳng thật”.

Lìa do hành quả: Bản Hán không nói đến.

– Kinh nói:Lìa bỏ lời nói thô ác nơi mọi lời nói hiện có: Lời nói xâm hại. Lời nói thô bạo. Lời nói làm khổ kẻ khác. Lời nói khiến kẻ khác sân hận. Lời nói hiện tiền. Lời nói không hiện tiền. Lời nói bỉ ổi. Lời nói dài dòng. Lời nói khiến người khác không thích nghe. Lời nói khiến người nghe không vừa lòng. Lời nói gây giận dữ bực bội. Lời nói khiến lửa nơi tâm bốc cháy có thể thiêu đốt. Lời nói khiến tâm nóng bức. Lời nói không hòa ái. Lời nói không vui thích. Lời nói bất thiện, tự hoại thân mình cũng hủy hoại thân kẻ khác. Những lời nói như thế này thảy đều lìa bỏ. Nơi mọi lời nói hiện có phải là lời nói hay đẹp, vui tai. Đó là: Lời nói đằm thắm. Lời nói mềm mỏng. Lời nói vi diệu. Lời nói vui mừng khi nghe. Lời nói ưa thích nghe. Lời nói đi vào tâm can. Lời nói thuận lý. Lời nói được nhiều người yêu mến. Lời nói được nhiều người vui thích. Lời nói khiến tâm hòa ái, thích thú. Lời nói khiến tâm hoàn toàn hoan hỷ. Lời nói có thể làm cho tâm mình, tâm người khác đều hoan hỷ kính tin. Thường nói vô số những lời nói hay đẹp như vậy”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ lời nói thô ác: Gồm có 2 thứ lìa:

  1. Lìa do hành quả.
  2. Lìa bằng cách đối trị.

Lìa do hành quả: Tức những lời nói gây tổn hại cho kẻ khác, có thể khiến cho kẻ khác giận dữ. Như kinh nói: “Lời nói xâm hại. Lời nói thô bạo. Lời nói làm khổ kẻ khác. Lời nói khiến kẻ khác sân hận”. Cả đoạn này, theo thứ lớp, dùng phần sau giải thích phần trước. Những thứ ấy nghĩa là một nhưng tên gọi thì khác.

Lại có: Lời nói đối mặt nhau, lời nói không đối mặt nhau, lời nói thô ác thường hành. Như kinh nói: “Lời nói hiện tiền. Lời nói không hiện tiền. Lời nói bỉ ổi. Lời nói dài dòng”.

Ở đây: Lời nói hiện tiền: Thô mà không dứt. Lời nói không hiện tiền: Vi tế có gián đoạn. Nói như thế: Tức cùng với giới là trái nhau, có thể gây đau khổ cho kẻ khác, khiến kẻ khác sân hận. Như kinh nói: “Lời nói khiến người khác không thích nghe. Lời nói khiến người nghe không vừa lòng”.

Tạo ra lời nói không lợi ích là nhân nơi tâm sân hận, ganh ghét dấy khởi, khiến mâu thuẫn với giới của kẻ khác. Như kinh nói: “Lời nói gây giận dữ bực bội”.

Khiến kẻ khác giận dữ, bực bội, có hai thứ sự việc không lợi ích: (a) Chưa dấy khởi giận dữ thì có thể khiến sinh tâm hận. Khi nghe, khi nhớ lại đều không yêu mến, không vui thích, tâm ý bế tắc. Như kinh nói: “Lời nói khiến lửa nơi tâm bốc cháy có thể thiêu đốt. Lời nói khiến tâm nóng bức. Lời nói không hòa ái. Lời nói không vui thích”. (b) Đã có sự đồng ý vui thích nơi tự thân bị mất hẳn, khiến kẻ khác cũng mất hẳn. Như kinh nói: “Lời nói bất thiện, tự hoại thân mình cũng hủy hoại thân kẻ khác”.

Lìa bỏ các lời nói thô ác như thế nên gọi là Lìa do hành quả.

Lìa bằng cách đối trị: Tức là lời nói đằm thắm. Ở đây có 2 thứ: (a) Lời nói không thô, không vội. (b) Lời nói đáng vui thích. Như kinh nói: “Lời nói mềm mỏng. Lời nói vi diệu”. Trong đó, không thô, không vội: Tức thuộc về giới phần, thọ hành không dứt. Vui mừng:

Tức đáng vui thích.

Đáng vui thích có hai thứ: Một là vui vẻ nên đáng vui thích. Hai là an ổn nên đáng vui thích. Vui vẻ (Lạc): Là thuận theo hàng trời, người. An ổn: Là thuận theo thành Niết-bàn. Như kinh nói: “Lời nói vui mừng khi nghe. Lời nói ưa thích nghe. Lời nói đi vào tâm can. Lời nói thuận lý”.

Lại nữa, người trong chỗ oán, thân, khi nghe, khi nhớ lại có thể sinh hoan hỷ. Như kinh nói: “Lời nói được nhiều người yêu mến. Lời nói được nhiều người vui thích”. Những lời nói như thế có thể tạo ra 2 thứ lợi ích: Một là người khác chưa sinh sân hận, khiến họ không sinh, mà sinh hoan hỷ. Lại có thể sinh khởi Tam-muội. Hai là chưa sinh bạn thân thì khiến phát sinh. Tự thân hiện làm khiến người khác cũng hiện làm. Như kinh nói: “Lời nói khiến tâm hòa ái, thích thú. Lời nói khiến tâm hoàn toàn hoan hỷ. Lời nói có thể làm cho tâm mình, tâm người khác đều hoan hỷ kính tin. Thường nói vô số những lời nói hay đẹp như vậy”.

– Kinh nói:Lìa bỏ lời nói thêu dệt, thường dùng lời nói khéo tư duy. Lời nói đúng lúc. Lời nói chân thật. Lời nói có ý nghĩa. Lời nói đúng pháp. Lời nói thuận đạo. Lời nói đúng giới luật. Lời nói trù tính theo thời gian. Lời nói khéo nhận biết chỗ ưa thích của tâm. Bồ-tát ấy, cho đến đối với sự vui đùa hãy còn không nói lời thêu dệt, huống hồ là cố ý nói lời thêu dệt”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ lời nói thêu dệt: Gồm có 2 thứ lìa:

  1. Lìa bằng cách đối trị.
  2. Lìa do hành quả.

Lìa bằng cách đối trị: Tức khéo nhận biết khi nói năng. Dựa nơi lời nói đây kia, khuyên phát khởi nhớ nghĩ. Lúc tu tập, nếu thấy các chúng sinh hành xử bất thiện thì khiến họ xả bỏ, an trụ nơi pháp thiện, tùy hoàn cảnh nói lời giáo hóa. Như kinh nói: “Lời nói khéo tư duy. Lời nói đúng lúc”.

Lại, lời nói không điên đảo là dựa vào sự giảng dạy lần lượt, tùy thuận, khi tu hành nói năng đúng nghĩa đúng pháp. Như kinh nói: “Lời nói chân thật. Lời nói có ý nghĩa. Lời nói đúng pháp”.

Lại nữa, dựa vào sự cử tội lần lượt diệt trừ sự tranh chấp, lúc tu học, hành trì, lời nói đúng như pháp, lời nói đúng như kinh điển. Như kinh nói: “Lời nói thuận đạo. Lời nói đúng giới luật”.

Lại, dựa vào lời nói thâu nhận, thuyết giảng pháp để thâu nhận, khi tu hành, lời nói đúng như oai nghi an trụ, lời nói nêu ví dụ thuận theo nghĩa. Như kinh nói: “Lời nói trù tính theo thời gian. Lời nói khéo nhận biết chỗ ưa thích của tâm”.

Lìa do hành quả:2 thứ: (a) Vi tế. (b) Thô trọng. Xa lìa hai thứ ấy, nên gọi là Lìa do hành quả. Vi tế, thô trọng: Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, cho đến đối với sự vui đùa hãy còn không nói lời thêu dệt, huống hồ là cố ý nói lời thêu dệt”.

– Kinh nói:Lìa bỏ tâm tham. Đối với tất cả tài sản vật dụng hiện có của kẻ khác, do kẻ khác thọ dụng, không sinh tâm tham. Không cầu, không mong nên không sinh tâm tham”.

– Luận nêu: Dựa nơi tâm không tham: Gồm có 3 thứ lìa:

  1. Sự.
  2. Thể.
  3. Sai biệt.

Sự: Là thuộc về phần thọ dụng. Ở đây có 2 thứ: (a) Đã thâu giữ thọ dụng. (b) Tưởng thâu giữ. Như kinh nói: “Đối với tất cả tài sản vật dụng hiện có của kẻ khác”.

Thể:2 thứ: (a) Sự việc của đối tượng thọ dụng tức như vàng, bạc v.v… (b) Sự việc thọ dụng cho đời sống như thức ăn uống, y phục v.v… Như kinh nói: “Do kẻ khác thọ dụng”. Tánh không tham là đối trị tâm tham, như kinh nói: “Không sinh tâm tham”.

Sai biệt ở đây đối trị 3 thứ tham: (a) Hành theo nẻo mong muốn. (b) Hành theo nẻo đạt được. (c) Hành theo nẻo chiếm đoạt. Đối trị những thứ ấy, như kinh nói: “Không cầu, không mong nên không sinh tâm tham”. Trong đó, hai thứ đầu là vi tế, thứ ba là thô trọng.

– Kinh nói:Lìa bỏ tâm sân hận, đối với hết thảy chúng sinh thường khởi tâm từ, sinh tâm an ổn, tâm thương xót, tâm an vui, khởi tâm tạo lợi lạc, tâm gồm thâu tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Các thứ vọng tưởng cấu uế v.v… hiện có như sân hận, ganh ghét, não hại, thảy đều xa lìa. Hết thảy những thứ hiện có đều thuận theo từ bi, khéo tu tập để thành tựu tất cả công hạnh”.

– Luận nêu: Dựa nơi việc lìa bỏ tâm sân: Tức đối trị chướng ngại, là vì 5 loại chúng sinh mà nói.

1. Đối với loại oán thù, nên sinh khởi tâm từ bi. Như kinh nói: “Thường khởi tâm từ”.

2. Đối với các chúng sinh làm ác. Như kinh nói: “Sinh tâm an ổn”.

3. Đối với các chúng sinh bần cùng, xin ăn, khổ sở. Như kinh nói: “Sinh tâm thương xót, tâm an vui”.

4. Đối với các chúng sinh ưa thích đắm nhiễm nơi phiền não. Như kinh nói: “Khởi tâm tạo lợi lạc”.

5. Đối với các chúng sinh phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát càng siêng năng chịu khó nhọc, vất vả trong việc hành trì vô lượng lợi ích. Như kinh nói: “Tâm gồm thâu tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh”.

Tâm từ ấy v.v… có sáu thứ chướng ngại. Ở đây không phân biệt, cũng không mỗi mỗi đối chiếu. Đối với trường hợp chưa sinh oán thù thì có thể khiến sinh, đã sinh rồi thì theo đấy làm cho tăng trưởng. Trường hợp chưa sinh thân thiện thì khiến chẳng sinh, đã sinh rồi thì khiến không tăng trưởng.

Nơi tự thân, pháp thiện chưa sinh thì khiến chẳng sinh, đã sinh rồi thì khiến diệt mất. Đối với pháp bất thiện chưa sinh thì khiến có thể sinh, đã sinh rồi thì khiến tăng trưởng.

Nơi thân người khác, sự việc không yêu thích chưa sinh thì khiến sinh, đã sinh rồi thì khiến tăng trưởng. Sự việc yêu thích chưa sinh thì khiến không sinh, đã sinh rồi thì chẳng khiến tùy thuận. Như kinh nói: “Các thứ vọng tưởng cấu uế v.v… hiện có như sân hận, ganh ghét, não hại, thảy đều xa lìa”.

Nơi kinh này, theo thứ lớp của câu văn đã nói đến vô lượng hành ác căn bản như ở đây là sân hận v.v…, nên nói đều cùng lìa bỏ những thứ ấy.

Phần còn lại tùy theo chỗ nhớ nghĩ, tất cả đều dùng tâm từ tạo lợi ích. Như kinh nói: “Hết thảy những thứ hiện có đều thuận theo từ bi, khéo tu tập để thành tựu tất cả công hạnh”.

– Kinh nói:Lìa bỏ tà kiến, thuận theo chánh đạo, trừ bỏ các thứ xem tướng đoán chuyện lành dữ. Xa lìa kiến chấp của giới xấu ác, tu tập theo kiến giải đúng đắn. Không gian dối, không dua nịnh, quanh co. Quyết định tin tưởng hoàn toàn nơi Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Bồ-tát như thế là ngày đêm luôn hộ trì mười đạo nghiệp thiện”.

– Luận nêu: Dựa nơi chánh kiến: Gồm có 7 thứ kiến giải cần đối trị.

1. Kiến giải của Thừa khác: Đối trị điều này, như kinh nói: “Thuận theo chánh đạo”.

2. Kiến giải do phân biệt hư vọng.

3. Kiến giải do giới cấm thủ cho là thanh tịnh: Đối trị điều này, như kinh nói: “Trừ bỏ các thứ xem tướng đoán chuyện lành dữ. Xa lìa kiến chấp của giới xấu ác”. Kiến chấp của giới xấu ác là tự chấp giữ chỗ kiến giải của mình.

4. Tự cho là chánh kiến: Đối trị điều này, như kinh nói: “Tu tập theo kiến giải đúng đắn”.

5. Kiến giải do che giấu.

6. Kiến giải trá hiện không thật: Đối trị điều này, như kinh nói: “Không gian dối, không dua nịnh, quanh co”.

7. Kiến giải không thanh tịnh: Nghĩa là kiến giải của thế gian. Đối trị điều này, như kinh nói: “Quyết định tin tưởng hoàn toàn nơi Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng”.

Như thế là đã nói về giới lìa bỏ tất cả các thứ.

Lại nói về giới thanh tịnh do xa lìa khiến tăng thượng, không gián đoạn, không thiếu sót, luôn hộ trì. Như kinh nói: “Bồ-tát như thế là ngày đêm luôn hộ trì mười đạo nghiệp thiện”.

Như vậy là đầy đủ tất cả các thứ cần xa lìa, giới tánh thành tựu, lại chỉ rõ sự không gián đoạn, không thiếu sót.

2. Thế nào là Giới thanh tịnh do thâu giữ pháp thiện? Nghĩa là Bồ-tát suy nghĩ v.v… như nơi kinh theo thứ lớp nêu bày.

– Kinh nói:Bồ-tát suy nghĩ: Hết thảy chúng sinh bị đọa nơi các đường ác đều do không xa lìa nhân duyên tập khởi là mười thứ đạo nghiệp bất thiện. Do vậy, Ta trước hết nên trụ nơi pháp thiện, cũng khiến cho người khác trụ nơi pháp thiện. Vì sao? Vì nếu người tự mình không hành thiện, không có đủ hạnh thiện, vì người khác thuyết pháp khiến họ trụ nơi nẻo thiện, là điều không thể có”.

– Luận nêu: Đọa nơi các đường ác: Gồm có 3 thứ nghĩa:

  1. Nhân nơi hành ác mà đi đến.
  2. Nương dựa nơi tự thân có thể sinh ra khổ não.
  3. Thường rơi vào nơi chốn có vô số tướng khổ.

Do đâu nói mười đạo nghiệp bất thiện? Nghĩa là do thâu tóm đủ khắp số lượng của tất cả quả ác.

Thâu tóm đủ khắp số lượng của tất cả quả ác: Tức nói về mười đạo nghiệp bất thiện.

Số lượng: Tức chỉ việc thâu giữ mười tên gọi.

Ác: Tức là bất thiện.

Quả: Tức bị đọa nơi ba nẻo ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), thật đáng thương.

Đủ khắp: (Đáo): Tức là thâu giữ lấy nghiệp.

Nhân tập khởi: Tức là thọ hành.

Bồ-tát như thế là xa lìa, không có nhân điên đảo, nhờ đó khéo lãnh hội về việc chúng sinh tự hành nghiệp ác, trụ nơi chốn phi pháp, không thể xa lìa. Bồ-tát tư duy có được sự tịch tĩnh sâu xa, muốn cứu độ các chúng sinh kia, tự nhận biết là có khả năng thực hiện được. Lại quán xét về chướng ngại, sự đối trị nơi đạo nghiệp bất thiện và quả, nơi đạo nghiệp thiện và quả, cùng sự thanh tịnh tối thượng để phát khởi tâm tăng thượng, cầu học, tu tập, hành trì giới thanh tịnh do thâu giữ pháp thiện.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy lại suy nghĩ sâu xa: Do nhân duyên tập khởi là hành mười đạo nghiệp bất thiện, nên bị đọa nơi ba nẻo ác. Do nhân duyên tập khởi là hành mười đạo nghiệp thiện, nên được sinh trong nẻo người, cho đến sinh nơi cõi Hữu đảnh. Lại, mười đạo nghiệp thiện nêu trên ấy, cùng với trí tuệ quán xét, hòa hợp tu hành, nhưng do tâm hẹp kém, tâm chán sợ ba cõi, do xa lìa đại bi, theo người khác, nghe âm thanh mà thông đạt, nghe âm thanh mà ý hiểu rõ, nên thành tựu thừa Thanh văn”.

– Luận nêu: Trí tuệ quán xét: Là quán xét về thật tướng. Nẻo ác là Khổ. Đạo nghiệp bất thiện là Tập. Xa lìa chúng là Diệt. Đối trị chúng là Đạo. Lại nữa, nẻo thiện là Khổ. Đạo nghiệp thiện là Tập.

Lìa các sử kia là Diệt. Đối trị chúng là Đạo. Trí tuệ cùng quán xét, tu hành không phân biệt.

Thanh văn có 5 thứ tướng:

  1. Tập nhân.
  2. Sợ khổ.
  3. Xả bỏ tâm.
  4. Nương dựa.
  5. Quán xét.

Tính chất hẹp, kém v.v… như thế là tâm Thanh văn.

Tập nhân: Tức tu hành về căn thiện còn ít, mỏng, chỉ dựa vào lợi ích của tự thân. Như kinh nói: “Tâm ấy hẹp, kém”.

Sợ khổ: Như kinh nói: “Tâm chán sợ ba cõi”.

Xả bỏ tâm: Là xả bỏ các chúng sinh. Như kinh nói: “Do xa lìa đại bi”.

Nương dựa: Là nương vào sự giảng dạy trao truyền của thầy.

Quán xét: Là nhớ nghĩ về âm thanh. Thế nào là âm thanh? Tức ngã và chúng sinh chỉ có tên gọi. Như vậy ngã và chúng sinh kia theo âm thanh mà lãnh hội. Hội nhập nơi chúng sinh vô ngã không phải là pháp vô ngã. Như kinh nói: “Theo người khác nghe âm thanh mà thông đạt, nghe âm thanh mà ý hiểu rõ v.v…”.

– Kinh nói:Lại, mười đạo nghiệp thiện thanh tịnh nêu trên ấy, không theo người khác để nghe, tự mình giác ngộ về chánh pháp, không thể gồm đủ phương tiện đại bi nhưng có thể thông đạt pháp nhân duyên sâu xa, thành tựu thừa Phật-bích-chi”.

– Luận nêu: Phật-bích-chi có 3 thứ tướng:

  1. Tự giác ngộ.
  2. Không thể thuyết pháp.
  3. Quán xét một phần ít cảnh giới.

Không nhờ Phật và các Bồ-tát thuyết pháp, chỉ tự giác ngộ. Như kinh nói: “Không theo người khác để nghe, tự mình giác ngộ về chánh pháp”.

Không khởi tâm nêu giảng, không kham nổi việc thuyết pháp. Như kinh nói: “Không thể gồm đủ phương tiện đại bi”.

Quán xét các hành nơi cảnh giới của nhân duyên vi tế. Như kinh nói: “Nhưng có thể thông đạt pháp nhân duyên sâu xa, thành thừa Phật-bích-chi”.

Tập nhân, sợ khổ, xả bỏ chúng sinh, Phật-bích-chi cũng có các pháp ấy. Các sự việc thù thắng hiện có, trong đó đã nêu bày.

– Kinh nói:Lại nữa, mười đạo nghiệp thiện thanh tịnh tối thượng ấy đã gồm đủ tâm rộng lớn vô lượng kia, đối với các chúng sinh khởi tâm thương xót, phương tiện gồm thâu, nên khéo phát khởi đại nguyện, không xả bỏ tất cả chúng sinh, quán xét trí tuệ Phật rộng lớn. Địa Bồ-tát thanh tịnh. Ba-la-mật thanh tịnh, thành tựu việc hội nhập nơi các hành sâu rộng”.

– Luận nêu: Bồ-tát có 4 thứ tướng:

  1. Tập nhân.
  2. Dụng.
  3. Diệu lực.
  4. Chỗ dựa của địa (Cảnh giới).

Tất cả căn thiện được phát khởi, hành trì. Dựa nơi tất cả chúng sinh để tạo lợi ích. Tâm Đại thừa rộng lớn vô lượng. Đây là Tích tập về nhân. Như kinh nói: “Lại nữa, mười đạo nghiệp thiện thanh tịnh tối thượng ấy đã gồm đủ tâm rộng lớn vô lượng kia”.

Thấy các chúng sinh tạo tác nhân khổ cùng khi thọ quả khổ, khởi tâm thương xót, dựa nơi các chúng sinh ấy để tạo lợi ích, đó là Dụng của Bồ-tát. Như kinh nói: “Đối với các chúng sinh khởi tâm thương xót”.

Diệu lực tức là bốn Nhiếp pháp. Như kinh nói: “Phương tiện gồm thâu”.

Địa (Cảnh giới) có ba thứ: (a) Cảnh giới của tâm sâu xa thanh tịnh, được mang tên nơi mười đại nguyện. Như kinh nói: “Nên khéo phát khởi đại nguyện”. (b) Cảnh giới không thoái chuyển: Đạt được hạnh vắng lặng rồi nhưng không xả bỏ việc giải thoát cho chúng sinh. Như kinh nói: “Không xả bỏ tất cả chúng sinh”. (c) Cảnh giới thọ nhận quả vị lớn: Do đó cần chứng đắc trí tuệ rộng lớn của Phật. Như kinh nêu: “Quán xét trí tuệ Phật rộng lớn”.

Địa Bồ-tát thanh tịnh, Ba-la-mật thanh tịnh, thành tựu việc hội nhập nơi các hành sâu rộng: Trong đó chỉ nói Địa Bồ-tát rộng lớn, thành tựu đầy đủ các phương tiện. Do đâu lại nói địa thanh tịnh, Bala-mật thanh tịnh? Nghĩa là do có sự thanh tịnh hơn hết, trên hết. Là pháp thanh tịnh bậc nhất. Hiển bày chỗ thành tựu hạnh sâu rộng của Bồ-tát.

Đệ nhất nghĩa: Là nghĩa của Ba-la-mật.

– Kinh nói:Lại nữa, mười đạo nghiệp thiện hơn hết, trên hết ấy, là diệu lực của mười lực nơi Nhất thiết chủng thanh tịnh, tích tập tất cả pháp Phật khiến được thành tựu. Do đó, Ta nên cùng hành trì mười đạo nghiệp thiện, tu tập Nhất thiết chủng, khiến đầy đủ thanh tịnh”.

– Luận nêu: Thượng thượng (Hơn hết, trên hết):4 thứ nghĩa làm rõ tính chất “Thượng thượng”:

  1. Diệt trừ.
  2. Xả bỏ.
  3. Phương tiện.
  4. Không chán đủ.

Đạo nghiệp bất thiện cùng tập khí được diệt trừ, nên nghiệp thiện thành tựu, tự tại.

Xả bỏ là đối với thừa Thanh văn và Phật-bích-chi.

Phương tiện là tính chất thiện xảo nơi thừa Bồ-tát, nên không chán đủ đối với các thứ còn lại khác. Trong Nhất thiết trí, đạt trí tự tại. Nhất thiết chủng khiến càng thanh tịnh. Như kinh nói: “Lại nữa, mười đạo nghiệp thiện hơn hết, trên hết ấy, là diệu lực của mười lực nơi Nhất thiết chủng thanh tịnh, tích tập tất cả pháp Phật khiến được thành tựu. Do đó, Ta nên cùng hành trì mười đạo nghiệp thiện, tu tập Nhất thiết chủng, khiến đầy đủ thanh tịnh”.

Hàng phục các thứ ma oán, khiến hàng Tiểu thừa tạo sự tăng thượng, hiển bày diệu lực nơi pháp Phật, nên biết.

3. Thế nào là Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh? Nghĩa là giới tăng thượng dựa nơi tâm đại bi tạo lợi ích cho chúng sinh có 5 thứ nghĩa:

  1. Trí.
  2. Nguyện.
  3. Tu hành.
  4. Tích tập.
  5. Tích tập quả.

a. Thế nào là Trí? Trí có 3 thứ tướng:

  1. Sai biệt của thời.
  2. Sai biệt của quả báo.
  3. Sai biệt của quả nơi tập khí.

* Kinh nói:Bồ-tát ấy lại suy nghĩ: Mười đạo nghiệp bất thiện này, kẻ tạo tác thuộc hạng nặng là nhân duyên của địa ngục. Hạng trung bình là nhân duyên của súc sinh. Hạng nhẹ là nhân duyên của ngạ quỷ. Trong đó:

Tội sát sinh có thể khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh nơi nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thọ mạng ngắn ngủi. Hai là nhiều bệnh tật. Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là bần cùng. Hai là có của cải chung không được tự tại. Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh nơi nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là vợ không trinh thuận. Hai là vợ cùng tranh chấp, không theo tâm ý mình.

Tội nói dối cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng. Hai là luôn bị nhiều kẻ dối gạt. Tội nói hai lưỡi cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh làm người thì bị hai thứ quả báo: Một là bị hàng thân thuộc phá hoại. Hai là hàng thân thuộc đều là kẻ xấu ác thậm tệ. Tội nói lời thô ác cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thường nghe các âm thanh xấu ác. Hai là các thứ ngôn thuyết luôn có sự tranh chấp kiện tụng. Tội nói lời thêu dệt cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là giảng điều chân chánh, người nghe không tin, thọ. Hai là các thứ ngôn thuyết hiện có đều không thể hiện giải.

Tội tham dục cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là tham muốn về của cải không biết chán đủ. Hai là nhiều mong cầu luôn không theo ý. Tội sân hận cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là luôn bị kẻ khác tìm kiếm, soi mói về chỗ hơn kém của mình. Hai là thường bị kẻ khác gây não hại. Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thường sinh vào nhà tà kiến. Hai là tâm luôn quanh co, dua nịnh.

Này các Phật tử! Mười đạo nghiệp bất thiện như thế đều là nhân duyên của các khối khổ lớn”.

* Luận nêu: Sai biệt của thời: Là dựa vào sự sai biệt về thượng, trung, hạ nơi nhân quả của đạo nghiệp bất thiện. Như kinh nói: “Bồtát ấy lại tư duy: Mười đạo nghiệp bất thiện này, kẻ tạo tác thuộc hạng nặng là nhân duyên của địa ngục. Hạng trung bình là nhân duyên của súc sinh. Hạng nhẹ là nhân duyên của ngạ quỷ”.

Trước đã xét chung về nhân của đạo nghiệp bất thiện. Nay, xét riêng về quả báo nơi tất cả các chốn ác. Như kinh nói: “Tội sát sinh có thể khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác v.v… cho đến: Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thường sinh vào nhà tà kiến. Hai là tâm luôn quanh co, dua nịnh”.

Quả của tập khí: Tức nơi con người mỗi mỗi đều có hai thứ quả. Như kinh nói: “Nếu sinh nơi nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thọ mạng ngắn ngủi. Hai là nhiều bệnh tật. Cho đến: Nếu sinh vào nẻo người thì bị hai thứ quả báo: Một là thường sinh vào nhà tà kiến. Hai là tâm luôn quanh co, dua nịnh”.

Sai biệt của quả báo theo thời gian: Tức là chỉ rõ sự khổ não sâu nặng. Chỉ rõ như thế nào? Thấp nhất là trong nẻo ngạ quỷ, là sâu. Hạng giữa là lại thêm sâu. Hạng trên là càng sâu nặng.

Sai biệt của quả nơi tập khí: Tức tùy thuận đến trong đường thiện. Hợp quán chung riêng về vô lượng khổ lớn trong đường ác. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Mười đạo nghiệp bất thiện như thế đều là nhân duyên của các khối khổ lớn”.

b. Thế nào là Nguyện?

– Kinh nói:Bồ-tát lại suy nghĩ: Ta phải xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện, ưa thích hành pháp hành”.

– Luận nêu: Nguyện là nghĩa lại ưa thích hành pháp Đại thừa, tạo lợi ích cho chúng sinh, gồm thâu pháp thiện. Như kinh nói: “Bồtát lại suy nghĩ: Ta phải xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện, ưa thích hành pháp hành”.

c. Thế nào là Tu hành?

– Kinh nói:Bồ-tát xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện, an trụ nơi mười đạo nghiệp thiện, cũng khiến người khác an trụ nơi mười đạo nghiệp thiện”.

– Luận nêu: Tu hành: Là tự an trụ nơi pháp thiện, xa lìa các chướng ngại kia. Tu hành nhằm đối trị tức cũng khiến cho chúng sinh trụ nơi pháp thiện. Như kinh nói: “Bồ-tát xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện, an trụ nơi mười đạo nghiệp thiện, cũng khiến người khác an trụ nơi mười đạo nghiệp thiện”.

d. Thế nào là Tích tập?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, lại ở trong tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm đem lại an lạc, tâm từ, tâm bi, tâm thương xót, tâm tạo lợi ích, tâm giữ gìn, tâm ngã (Tâm xem như ta), tâm sư (Tâm xem như thầy), tâm sinh tôn kính”.

– Luận nêu: Tích tập: Là dựa nơi tâm bi tăng thượng. Lại vì nhớ nghĩ đến chúng sinh nên sinh khởi mười thứ tâm.

Lại nữa, tâm ấy là vì 8 loại chúng sinh nên sinh khởi:

1. Đối với chúng sinh hành ác: Nhằm khiến họ trụ nơi hành thiện. Như kinh nói: “Tâm an ổn”.

2. Đối với chúng sinh khổ não: Nhằm khiến họ có đủ an lạc không cùng tận. Như kinh nói: “Tâm đem lại an lạc”.

3. Đối với chúng sinh oán ghét: Không nhớ nghĩ đến việc gia tăng trả thù. Như kinh nói: “Tâm từ”.

4. Đối với chúng sinh bần cùng: Nhằm khiến xa lìa các thứ khổ ấy. Như kinh nói: “Tâm bi”.

5. Đối với chúng sinh nhiều hoan lạc: Nhằm khiến họ không phóng dật. Như kinh nói: “Tâm thương xót”.

6. Đối với các chúng sinh thuộc ngoại đạo: Nhằm khiến họ hiện tại tin tưởng nơi pháp Phật. Như kinh nói: “Tâm tạo lợi ích”.

7. Đối với các chúng sinh đồng hành: Nhằm giúp họ không thoái chuyển. Như kinh nói: “Tâm giữ gìn”.

8. Đối với hết thảy chúng sinh đã phát nguyện gồm thâu đạo quả Bồ-đề thì xem như là thân mình. Các chúng sinh ấy tức là thân ta. Như kinh nói: “Tâm xem như ta”.

Sinh khởi hai tâm còn lại: Quán xét các chúng sinh kia, nhân nơi đạo Đại thừa, tiến tới tích tập đầy đủ công đức. Như kinh nói: “Tâm xem như thầy, tâm sinh tôn kính”.

đ. Thế nào là Tích tập quả? Là chỗ thâu tóm của tâm bi thù

thắng nhằm khiến càng thù thắng.

Lại nữa, dựa nơi điên đảo tăng thượng làm đầu đối với ba loại chúng sinh:

  1. Cầu Dục.
  2. Cầu Hữu.
  3. Cầu Phạm hạnh.

Chúng sinh cầu Dục có hai thứ: (1) Lúc thọ dụng. (2) Lúc theo đuổi tìm cầu.

Thọ dụng có ba thứ: (a) Thọ dụng của cải không chung. (b) Thọ dụng của cải không biết chán đủ. (c) Thọ dụng của cải tích trữ.

Theo đuổi tìm cầu có hai thứ: (a) Theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, nhân nơi các hành ác. (b) Theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, nhân nơi các hành thiện.

Chúng sinh cầu Hữu cũng có hai thứ: (1) Sai biệt về đạo. (2) Sai biệt về cảnh giới.

Chúng sinh cầu Phạm hạnh cũng có hai thứ: (1) Tà kiến như các ngoại đạo v.v… (2) Chánh kiến như hàng Tiểu thừa đồng pháp v.v…

Các chúng sinh kia hướng tới đạo như thế, tùy thuận nhằm đối trị khiến họ an trụ nơi chốn ứng hợp. Thế nào là Điên đảo làm đầu?

– Kinh nói:Bồ-tát lại suy nghĩ: Các chúng sinh ấy rơi vào rừng rậm tà kiến, ý ác, tâm ác, hành theo đạo ác. Ta nên khiến các chúng sinh kia hành theo đạo chân thật, trụ trong pháp như thật của đạo chánh kiến”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Tà kiến: Tức là bốn điên đảo. Điên đảo này, hai thứ gọi là Ý ác, chuyên nhớ nghĩ về hành. Hai thứ gọi là Tâm ác, không chuyên nhớ nghĩ về hành, tức là tưởng chấp về ngã tịnh. Vì đấy không phải là chánh đạo mà là nhân nơi hành của rừng rậm.

Không phải là chánh đạo: Là các thứ phiền não.

Rừng rậm: Là phiền não, kiết sử. Như kinh nói: “Bồ-tát lại suy nghĩ: Các chúng sinh ấy rơi vào rừng rậm tà kiến, ý ác, tâm ác, hành theo đạo ác”. Các chúng sinh kia nên tùy thuận dùng diệu pháp để đối trị theo nẻo chánh niệm, chánh kiến nơi pháp xuất thế gian. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh kia hành theo đạo chân thật, trụ trong pháp như thật của đạo chánh kiến”.

Thế nào là Thọ dụng của cải không chung?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy đều cùng hủy hoại lẫn nhau, phân biệt ta, người, thường cùng tranh giành, đấu đá, ngày đêm sân hận bùng phát không dứt. Ta nên khiến các chúng sinh đó an trụ nơi pháp Đại từ vô thượng”.

– Luận nêu: Thọ dụng của cải không chung: Là cùng hủy hoại lẫn nhau. Hủy hoại có 2 thứ: (1) Đối oán ở trong tâm. (2) Tranh giành, đấu đá trong lời nói. Sự hủy hoại như thế khiến luôn nhớ nghĩ, tạo báo thù, làm tăng trưởng các hành động hung dữ. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy đều cùng hủy hoại lẫn nhau, phân biệt ta, người, luôn tranh giành, đấu đá, ngày đêm sân hận bùng phát không dứt”.

Đối oán ở trong tâm, phân biệt ta, người: Câu này chỉ rõ sự tranh giành, đấu đá ở trong lời nói.

Thường cùng tranh giành, đấu đá: Câu này chỉ rõ việc nhớ nghĩ, tạo thù, làm tăng trưởng các hành động hung dữ.

Ngày đêm sân hận bùng phát không dứt: Câu này chỉ rõ các chúng sinh kia nên tùy thuận, đem tâm đại từ tạo lợi ích để đối trị. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh đó trụ nơi pháp Đại từ vô thượng”.

Thế nào là Thọ dụng của cải không biết chán đủ?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy tâm không biết chán đủ, thường mong cầu tài sản của người khác, sinh sống theo tà mạng. Ta nên khiến các chúng sinh đó an trụ trong ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nơi pháp chánh mạng”.

– Luận nêu: Thọ dụng của cải không biết chán đủ:2 thứ: (1) Tham lam ở trong tâm. (2) Ở nơi thân, miệng, dùng các phương tiện như cân, đong, nói dối để chiếm đoạt. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy tâm không biết chán đủ, thường mong cầu tài sản của người khác, sinh sống theo tà mạng”.

Các chúng sinh kia nên tùy thuận để đối trị khiến ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, tự sinh sống theo chánh mạng. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh đó an trụ trong ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nơi pháp chánh mạng”.

Thế nào là Thọ dụng của cải tích trữ?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy do chạy theo tham dục, sân hận, ngu si nên luôn bị vô số các thứ phiền não bùng cháy thiêu đốt, không thể dốc cầu phương tiện để giải thoát. Ta nên khiến các chúng sinh đó diệt trừ tất cả lửa dữ phiền não, ở yên nơi chốn mát mẻ, không sợ hãi”.

– Luận nêu: Thọ dụng của cải tích trữ: Do Thể của nhân như tham v.v… vượt hơn sự nhiễm đắm kia, nên đối với chỗ thọ dụng bị mất mát thì khởi tâm giận dữ.

Trong sự thọ dụng của thứ quý báu kia, phần nhiều ưa thích về cảnh giới nên luôn bị lửa phiền não đốt cháy dữ dội. Do không thấy lỗi lầm ấy nên không có ý cầu xuất ly. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy do chạy theo tham dục, sân hận, ngu si nên luôn bị vô số các thứ phiền não bùng cháy thiêu đốt, không thể dốc cầu phương tiện để giải thoát”.

Các chúng sinh đó nên tùy thuận để đối trị, diệt trừ tất cả phiền não để đạt đến nơi chốn mát mẻ. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh đó diệt trừ tất cả lửa dữ phiền não, ở yên nơi chốn mát mẻ, không sợ hãi”.

Thế nào là Theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, nhân nơi các hành ác?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy thường bị ngu si tối tăm, vọng kiến phủ dày, vô minh đen ngòm che lấp, nên đi vào nẻo rừng rậm phiền não hết sức mờ mịt, xa lìa ánh sáng trí tuệ, rơi vào chốn tăm tối mênh mông, tùy theo chỗ thấy biết là đã đi đến vô số đường hiểm ác. Ta nên khiến các chúng sinh kia đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, dùng mắt tuệ ấy để nhận biết về tướng như thật của tất cả pháp, đạt được trí nhận biết tất cả như thật không chướng ngại không theo kẻ khác”.

– Luận nêu: Theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, nhân nơi các hành ác: Tức đã có ngu si tối tăm, vọng kiến phủ dày, vô minh (Hắc ám) che lấp, vượt hơn vọng kiến về lạc, nên không thấy lỗi lầm của quả báo thật nơi vị lai, cũng không thấy lỗi lầm của quả báo thật nơi hiện tại. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy thường bị ngu si tối tăm, vọng kiến phủ dày, vô minh đen ngòm che lấp”.

Ngu si: Tức là tối tăm, mờ mịt. Vọng kiến: Tức ưa thích kiến chấp điên đảo.

Phủ dày: Là không thấy lỗi lầm của quả báo thật nơi vị lai. Hắc ám (Vô minh): Là không thấy lỗi lầm của quả báo thật nơi hiện tại.

Ngu si ấy do tràn đầy nên khiến việc làm trở thành lỗi lầm cùng xa lìa nơi chốn của trí vô lậu. Chúng gây chướng ngại cho hành thiện, thuận theo hành bất thiện. Như kinh nói: “Nên đi vào nẻo rừng rậm phiền não hết sức mờ mịt, xa lìa ánh sáng trí tuệ v.v…”.

Rừng rậm: Là nhân khiến ngu si.

Lớn (Đại): Là đầy khắp, nên thọ nhận lỗi lầm đáp lại là hết sức lớn. Như kinh nói: “Rơi vào chốn tăm tối mênh mông”.

Ở đây, đáp lại là chỉ rõ về sự tăm tối. Như người đi trong tối tăm thì nơi nơi bị chướng ngại. Pháp tương tợ như thế. Thọ nhận các sự việc đáp lại lớn chính là đi đến các đường ác. Vì thế gọi là rơi vào chốn gây tạo nhiều nhân tội lỗi. Vào lúc lâm chung thấy rõ tướng ác báo, tâm sinh hối hận, thấy biết lỗi lầm. Như kinh nói: “Tùy theo chỗ thấy biết là đã đi đến vô số đường hiểm ác”.

Thấy biết đường hiểm: Tức hối hận, nhận biết. Thấy biết về tướng của tội gốc, nhưng không thể tích tập để đối trị chúng theo chánh kiến.

Tùy theo chỗ thấy biết kia: Tức chỉ vào lúc sắp qua đời, các chúng sinh kia thuận theo sự đối trị, nhờ vào pháp như thật khiến đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh kia đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, dùng mắt tuệ ấy để nhận biết về tướng như thật của tất cả pháp, đạt được trí nhận biết tất cả như thật không chướng ngại, không theo kẻ khác”.

Thế nào là Theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, nhân nơi các hành thiện?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy thuận theo đường hiểm sinh tử nơi thế gian, nên bị rơi vào hầm sâu của ba đường ác, bị cuốn vào lưới ác kiến, bị vô số các thứ rừng rậm ngu si che phủ, chạy theo nẻo hư vọng tạo các hành điên đảo, luôn bị mù lòa, nên xa lìa bậc Đạo sư có trí tuệ. Không phải là nơi chốn của đạo giải thoát mà tưởng chấp cho là giải thoát, lầm lạc theo cõi ma, bị các thứ giặc oán thâu tóm, xa lìa bậc Đạo sư thiện xảo, đi vào chốn rừng rậm của ý ma, xa lìa ý Phật. Ta nên cứu vớt các chúng sinh kia ra khỏi vô số các thứ khổ, vượt qua các nẻo hiểm khó nơi thế gian, đặt yên họ ở chốn không sợ hãi, khiến an trụ nơi thành lớn Nhất thiết trí”.

– Luận nêu: Theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, nhân nơi các hành thiện: Là thuận theo lỗi lầm nơi đường hiểm. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy thuận theo đường hiểm sinh tử nơi thế gian v.v…”.

Đường hiểm kia có 3 thứ:

  1. Tự thể.
  2. Chướng ngại.
  3. Tổn thất.

Tự thể: Tức tính chất ít căn thiện của thế gian.

Chướng ngại:8 thứ:

1. Cầu ra khỏi, nhưng lại thuận theo thế gian, bị đọa vào ba đường ác. Như kinh nói: “Nên bị rơi vào hầm sâu của ba đường ác”.

2. Bị cuốn vào lưới: Ở trong quả khổ, vọng sinh an lạc. Như kinh nói: “Bị cuốn vào lưới ác kiến”.

3. Bị các thứ rừng rậm tối tăm che phủ: Nhân nơi ngu si kia nên khiến bị che phủ. Vì họ nêu giảng về nhân của khổ mà không nhận biết. Như kinh nói: “Bị vô số các thứ rừng rậm ngu si che phủ”.

4. Hành theo đường điên đảo, xả bỏ sự an lạc chân thật, vọng theo đạo tà. Như kinh nói: “Chạy theo nẻo hư vọng tạo các hành điên đảo”.

5. Chịu quả mù tối, tham đắm chỗ mù lòa của ái dục. Như kinh nói: “Luôn bị mù lòa”.

6. Xa lìa bậc thầy dẫn đường, sinh trong đường ác, cùng tạo các lỗi lầm như phóng dật v.v…, tuy gặp đời có Phật mà không thấy không nghe. Như kinh nói: “Nên xa lìa bậc Đạo sư có trí tuệ”.

7. Mong cầu Niết-bàn mà lại hướng tới nơi chốn khác kia: Tức đối với Phạm thiên v.v… các hàng phạm hạnh nơi thế gian, cho là chánh kiến xuất thế gian. Như kinh nói: “Không phải là nơi chốn của đạo giải thoát mà tưởng chấp cho là giải thoát”.

8. Đi theo cảnh giới của ma, giặc oán, tham đắm các dục, cướp hết công đức, khiến không tích tập. Như kinh nói: “Lầm lạc theo cõi ma, bị các thứ giặc oán thâu tóm”.

Tổn thất:3 thứ:

1. Lìa bậc Đạo sư thiện, dựa vào chốn bất thiện. Như kinh nói:

“Xa lìa bậc Đạo sư thiện xảo”.

2. Nương dựa nơi cảnh giới oán. Như kinh nói: “Đi vào chốn rừng rậm của ý ma”.

3. Xa lìa nơi tạo ra thiện tri thức. Như kinh nói: “Xa lìa ý Phật”.

Các chúng sinh này nên được tùy thuận để đối trị. Dùng pháp như thật, khiến ra khỏi thế gian, an trụ nơi chốn Nhất thiết trí. Như kinh nói: “Ta nên cứu vớt các chúng sinh kia ra khỏi vô số các thứ khổ, vượt qua các nẻo hiểm khó nơi thế gian, đặt yên họ ở chốn không sợ hãi, khiến an trụ nơi thành lớn Nhất thiết trí”.

Thế nào là Sai biệt về đạo của chúng sinh cầu Hữu?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy bị sóng dữ của dòng thác lớn nhận chìm. Bị trôi nổi theo bốn dòng chảy: Dòng chảy của dục, dòng chảy của hữu, dòng chảy của kiến chấp và dòng chảy của vô minh. Bị cuốn theo nẻo chìm nổi của thế gian, đắm nơi sông lớn ái dục, quanh quẩn nơi dòng nước xoáy dữ dội không thể quán xét đúng đắn. Luôn có những suy tìm xấu ác như dục, sân, não khiến hành ác càng rộng, nên bị La-sát cầm giữ trong biển nước ái kiến, thuận vào rừng dục, trở lại cầu tìm dục, trong sự cầu tìm dục càng tham ái đắm chấp sâu dày. Vùng đất ngã mạn đã thiêu đốt cháy khô họ, không ai có thể cứu giúp. Ở nơi xóm làng sáu nhập không thể khởi động. Tự lìa hành thiện, không người cứu độ chân chánh. Ta nên đối với các chúng sinh kia khởi tâm đại bi, dùng diệu lực của căn thiện để cứu vớt họ, khiến có được tâm vô úy, vắng lặng, không cấu nhiễm, lìa mọi sợ hãi, an trụ nơi cõi báu của Nhất thiết trí”.

– Luận nêu: Sai biệt về đạo của chúng sinh cầu Hữu: Tức chìm đắm nơi sông lớn lỗi lầm. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy bị sóng dữ của dòng thác lớn nhận chìm”. Sóng dữ nơi dòng thác lớn kia có 3 thứ:

  1. Tự thể.
  2. Khó ra khỏi.
  3. Tổn thất.

Tự thể:5 thứ tướng:

1. Nước sâu vô lượng. Như kinh nói: “Bị trôi nổi theo bốn dòng chảy (dục, hữu, kiến, vô minh)”.

2. Trôi theo dòng chảy nơi thế gian, trôi mãi không dứt. Như kinh nói: “Bị cuốn theo nẻo chìm nổi của thế gian”.

3. Bị chìm nơi biển nước ái. Như kinh nói: “Đắm nơi sông lớn ái dục”.

4. Trôi nổi bồng bềnh: Niệm niệm không dừng, nên không thấy bờ. Như kinh nói: “Quanh quẩn nơi dòng nước xoáy dữ dội không thể quán xét đúng đắn”.

5. Rộng lớn: Xuôi theo tham dục v.v…, suy tìm xấu ác (ác giác) càng rộng lớn. Như kinh nói: “Luôn có những suy tìm xấu ác như dục, sân, não hại khiến hành ác càng rộng.

Khó ra khỏi:4 thứ:

1. Chấp trước nơi ngã, ngã sở như nhà ở, kho chứa, không thể lay động, lìa bỏ. Như kinh nói: “Nên bị La-sát cầm giữ trong biển nước ái kiến”.

2. Vào trở lại: Trước đã lìa bỏ dục, lại trở vào nẻo ấy, tăng lên trong sự nhớ nghĩ về dục. Như kinh nói: “Thuận vào rừng dục, trở lại cầu tìm dục”.

3. Bị vướng mắc: Nơi lúc thọ dụng, cầu tìm dục v.v… luôn ưa thích, chấp trước. Như kinh nói: “Trong sự cầu tìm dục càng tham ái đắm chấp sâu dày”.

4. Ở nơi cồn, bãi: Nơi sự thọ dụng, hành xử, cho ngã v.v… là hơn hết. Ba thứ ngã mạn, tự cao, khinh chê kẻ khác. Như kinh nói: “Vùng đất ngã mạn đã thiêu đốt cháy khô họ, không ai có thể cứu giúp”.

Tổn thất:3 thứ:

1. Tổn thất vì không ai cứu độ. Tức ở trong đường ác không người cứu vớt.

2. Tổn thất vì không có ý ra khỏi. Ở trong đường thiện không có tâm xuất ly. Như kinh nói: “Ở nơi xóm làng sáu nhập không thể khởi động”.

3. Tổn thất do đi đến xứ khác: Sinh nơi các xứ nạn không gặp Phật ở đời. Như kinh nói: “Tự lìa hành thiện, không người cứu độ chân chánh”.

Các chúng sinh kia cần nên tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến trụ nơi xứ Nhất thiết trí. Như kinh nói: “Ta nên đối với các chúng sinh kia khởi tâm đại bi, dùng diệu lực của căn thiện để cứu vớt họ, khiến có được tâm vô úy, vắng lặng, không cấu nhiễm, lìa mọi sợ hãi, an trụ nơi cõi báu của Nhất thiết trí”.

Thế nào là Sai biệt về cảnh giới của chúng sinh cầu Hữu?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy bị giam giữ nơi lao ngục của thế gian, bị nhiều thứ khổ nạn, sầu não, vọng tưởng về yêu ghét trói buộc, lo buồn cùng hành, bị vòng khóa ái cột trói, vào nơi ba cõi, bị rừng rậm vô minh che phủ. Ta nên khiến các chúng sinh kia xa lìa hết thảy mọi thứ vướng mắc nơi ba cõi, giúp họ an trụ nơi Niết-bàn vô ngại, lìa tướng”.

– Luận nêu: Sai biệt về cảnh giới của chúng sinh cầu Hữu: Tức bị giam cầu nơi lao ngục lỗi lầm. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy bị giam giữ nơi lao ngục của thế gian”. Lao ngục lỗi lầm này có 5 thứ theo đuổi, nên biết:

  1. Sự khổ.
  2. Của cải hết.
  3. Yêu thương lìa biệt.
  4. Trói buộc.
  5. Chướng ngại.

Ở đây là chỉ rõ về 5 thứ sai biệt của khó khăn.

1. Khó khăn về không bệnh: Tức có nhiều thứ bệnh khổ, vọng tưởng sầu não. Như kinh nói: “Bị nhiều thứ khổ nạn, sầu não, vọng tưởng”.

2. Khó khăn về cuộc sống: Ở trong sự việc yêu thích không yêu thích, luôn bị yêu ghét trói buộc. Như kinh nói: “Yêu ghét trói buộc”.

3. Khó khăn về người thân: Người thân yêu ly tán, hoại diệt nên lo buồn càng tăng trưởng. Như kinh nói: “Lo buồn cùng hành”.

4. Khó khăn về giới: Tuy sinh trong cõi Sắc, Vô sắc, tạm lìa phạm giới, nhưng không tránh khỏi giới, hành trái nhau, cùng bị ái dục sai khiến, trói buộc. Như kinh nói: “Bị vòng khóa ái cột trói”.

5. Khó khăn về kiến giải: Đạt được trí thế gian, nhưng mâu thuẫn với sự che phủ, sai khiến của vô minh. Như kinh nói: “Vào nơi ba cõi, bị rừng rậm vô minh che phủ”.

Các chúng sinh này nên được tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến họ an trụ Niết-bàn vô ngại, lìa tướng. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh kia xa lìa hết thảy các thứ vướng mắc nơi ba cõi, giúp họ an trụ nơi Niết-bàn vô ngại, lìa tướng”.

Thế nào là Tà kiến như các ngoại đạo?

– Kinh nói:Các chúng sinh ấy chấp trước sâu vào tướng ngã. Ở nơi hang ổ của năm ấm không thể tự ra khỏi. Hành bốn điên đảo, dựa nơi sáu nhập là làng xóm trống vắng, thường bị bốn thứ rắn độc là bốn đại xâm phạm, bức não, bị giặc oán năm ấm sát hại, nên thọ nhận vô lượng các thứ khổ não. Ta nên khiến các chúng sinh đó xa lìa hết thảy mọi chướng ngại, giúp họ an trụ nơi đạo trí không, vô ngã, tức là Niết-bàn diệt trừ tất cả chướng ngại”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Phạm hạnh tà như các ngoại đạo: Tức lỗi lầm chấp giữ tướng ngã. Đây là kiến chấp căn bản của các kiến chấp khác. Như kinh nói: “Các chúng sinh ấy chấp trước sâu vào tướng ngã”.

Những chúng sinh này muốn đến thành Niết-bàn, nhưng do có ngã ở nơi ngôi nhà năm ấm nên không thể khởi động ra khỏi. Như kinh nói: “Ở nơi hang ổ của năm ấm không thể tự ra khỏi”.

Muốn hành đạo chánh, nhưng do điên đảo nên đi theo nẻo tà. Như kinh nói: “Hành bốn điên đảo”.

Trụ nơi làng xóm là sáu nhập, theo ngã kiến hư vọng. Như kinh nói: “Dựa nơi sáu nhập là làng xóm trống vắng”. Thọ nhận các khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Ý muốn xa lìa mà không thể lìa được, luôn tùy thuộc nơi tự thân. Như kinh nói: “Thường bị bốn thứ rắn độc là bốn đại xâm phạm, bức não”. Kẻ oán là ấm mãi theo đuổi mà không buông bỏ. Như kinh nói: “Bị giặc oán năm ấm sát hại”.

Luôn bị vô số các khổ đeo bám. Như kinh nói: “Nên thọ nhận vô lượng các thứ khổ não ấy”.

Các chúng sinh kia nên được tùy thuận để đối trị. Dùng pháp như thật, xa lìa hết thảy chướng ngại, khiến an trụ nơi Niết-bàn. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh đó xa lìa hết thảy mọi chướng ngại, giúp họ an trụ nơi đạo trí không, vô ngã, tức là Niết-bàn diệt trừ tất cả chướng ngại”.

Thế nào là Phạm hạnh hành chân chánh như hàng Tiểu thừa đồng pháp?

– Kinh nói:Các chúng sinh đó do tâm nhỏ hẹp, thấp kém, không cầu Đại thừa. Tâm ấy xa lìa trí Nhất thiết trí vô thượng, cùng có xuất hành nhưng ưa thích thừa Thanh văn, Phật-bích-chi. Ta nên khiến các chúng sinh kia an trụ nơi pháp Phật vô thượng, vi diệu, với ý nghĩa rộng lớn, sâu xa. Này các Phật tử! Bồ-tát thuận theo diệu lực của sự trì giới như thế, nên khéo có thể phát khởi rộng phương tiện hành hóa”.

– Luận nêu: Phạm hạnh hành chân chánh: Là cầu đạt Tiểu thừa với những lỗi lầm. Ý của Tiểu thừa này có 2 thứ:

1. Tâm nhỏ: Pháp Phật vi diệu rộng lớn vô lượng, nhưng tâm ấy thoái chuyển, không thể chứng đắc.

2. Tâm hẹp: Đối với vô lượng chúng sinh, biếng nhác nơi việc tạo lợi ích. Như kinh nói: “Các chúng sinh đó do tâm nhỏ, hẹp, thấp, không cầu Đại thừa”.

Lại dựa nơi lỗi lầm của nguyện nơi tâm Tiểu thừa, là nguyện nơi Tiểu thừa. Như kinh nói: “Tâm ấy xa lìa trí Nhất thiết trí vô thượng”, nên tu hành có lỗi lầm. Chúng sinh nơi tụ bất định thật sự có pháp Đại thừa xuất sinh, nhưng tu hành theo Tiểu thừa. Như kinh nói: “Cùng có xuất hành (Hành trì để giải thoát) nhưng ưa thích thừa Thanh văn, Phật-bích-chi”.

Các chúng sinh này nên được tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến trụ nơi pháp Phật vô thượng, vi diệu, với tâm rộng lớn. Như kinh nói: “Ta nên khiến các chúng sinh kia an trụ nơi pháp Phật vô thượng, vi diệu, với ý nghĩa rộng lớn, sâu xa”.

Dựa nơi việc trì giới để hành hóa, đạt được diệu lực của giới ấy, nên có thể tạo ra tác pháp thiện, khéo léo dấy khởi các hành thiện. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát thuận theo diệu lực của sự trì giới như thế, nên khéo có thể phát khởi rộng phương tiện hành hóa”.

* Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy trụ nơi Địa Ly Cấu của Bồ-tát xong, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, diệu lực của đại nguyện, nên được thấy nhiều đến hàng trăm Đức Phật, hàng ngàn Đức Phật, hàng trăm ngàn, hàng trăm ngàn na-do-tha Phật, hàng ức Phật, hàng trăm ức, hàng trăm ngàn ức, hàng trăm ngàn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, Bồ-tát ấy khi thấy chư Phật đều dùng tâm trên hết, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả các thứ vật dụng cung cấp đều để phụng thí, dùng các thứ vật dụng tạo an lạc thượng diệu của Bồ-tát cúng dường chúng Tăng, đem căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nơi trụ xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính trên hết, lại thọ nhận mười pháp thiện. Thọ nhận pháp thiện rồi, cho đến khi chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, trong quá trình hành trì ấy trọn không thoái thất.

Bồ-tát ấy, ở trong vô lượng kiếp, vô lượng trăm, ngàn, vô lượng trăm ngàn kiếp, vô lượng ức kiếp, vô lượng trăm, ngàn, vô lượng trăm ngàn ức kiếp, vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, xa lìa tâm keo kiệt, ganh ghét, phá giới, cấu nhiễm, thực hành bố thí, trí giới thanh tịnh.

Này các Phật tử! Ví như đem vàng thật đã được luyện xong trong phàn thạch, đun nóng, tách lìa các cáu bẩn, khiến vàng trở nên sáng sạch. Này các Phật tử! Bồ-tát trụ trong Địa Ly Cấu này cũng lại như vậy. Ở trong vô lượng kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức nado-tha kiếp luôn xa lìa tâm keo kiệt, ganh ghét, phá giới, cấu nhiễm, thành tựu bố thí, trì giới thanh tịnh.

Bấy giờ, Bồ-tát ở nơi bốn Nhiếp pháp, chú trọng nhiều về ái ngữ, trong mười Ba-la-mật, dốc tăng trưởng giới Ba-la-mật, các Bala-mật còn lại đều tu tập đầy đủ, tùy sức, tùy phần.

Này các Phật tử! Đó gọi là nói tóm lược về Địa Ly Cấu, là Địa thứ hai của Đại Bồ-tát. Bồ-tát trụ trong Địa này, nhiều lần làm Chuyển luân Thánh vương, được pháp tự tại, bảy báu gồm đủ, có diệu lực tự tại, có khả năng dứt trừ cấu uế như phá giới của hết thảy chúng sinh, dùng phương tiện thiện xảo khiến các chúng sinh tu hành mười đạo nghiệp thiện. Hành trì nghiệp thiện nơi bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự, các phước đức ấy không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm về hạnh của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, mười Địa, lực không hoại, vô úy, pháp bất cộng của Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết trí, trí Nhất thiết chủng trí. Luôn sinh khởi tâm này: Ta phải đối với tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, hơn hẳn, lớn lao, diệu, vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, vị thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí.

Này các Phật tử! Bồ-tát này, nếu muốn lìa bỏ gia đình, siêng năng hành trì tinh tấn, thì ở trong pháp Phật liền có thể xả bỏ nhà cửa, vợ con, năm dục, được xuất gia rồi thì siêng năng, tinh tấn tu tập, trong khoảng một niệm đạt được ngàn Tam-muội, được thấy ngàn Phật, nhận biết ngàn thần lực của Phật, có thể làm chuyển động ngàn thế giới Phật, có thể đi vào ngàn thế giới Phật, có khả năng soi chiếu ngàn thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi ngàn thế giới Phật, có thể thọ mạng ngàn kiếp, có thể nhận biết sự việc trong ngàn kiếp nơi đời quá khứ, vị lai, có thể khéo hội nhập ngàn pháp môn, có thể biến thân thành ngàn, nơi mỗi mỗi thân có thể hiện bày ngàn Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại tối thắng, nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy, chỉ rõ về vô số thần thông. Hoặc thân tướng, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành trì, hoặc trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thứ thần thông ấy, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết”.

* Luận nêu: Ở đây:

Lợi ích của quả, đối chiếu về sự việc thù thắng: Như nơi Địa thứ nhất đã nêu, Địa này cũng như vậy. Chỗ có cùng chỗ không, nên biết.

Sự việc thù thắng được nêu trong đây: Tức nơi vô lượng kiếp xa lìa tâm cấu uế của keo kiệt, ganh ghét, phá giới, thành tựu bố thí, trì giới thanh tịnh, cùng các sự việc thù thắng.

Nơi Địa thứ nhất, giới chưa thanh tịnh, thí cũng chưa thanh tịnh. Như thế, do đâu trong Địa thứ nhất nói về bố thí Ba-la-mật tăng thượng, còn các Ba-la-mật khác thì không bằng? Rõ ràng là bố thí Ba-la-mật kia so với Địa thứ hai này, thì ở đây đã chuyển biến và thanh tịnh hơn, do đã lìa các thứ cấu uế như keo kiệt, ganh ghét, phá giới v.v… Vì vậy Địa này, tên gọi được giải thích là Lìa cấu uế.

Trong Địa thứ nhất, vàng chỉ dùng lửa để luyện, loại trừ các cáu bẩn thô trọng bên ngoài như tham v.v…, gọi là vàng luyện thanh tịnh. Nay, nơi Địa này lại đặt vàng đã luyện trong phàn thạch, đun nóng để loại trừ cáu bẩn, làm sáng rõ tự thể, là tự tánh thanh tịnh đích thật, nên gọi là nghĩa giới tánh thanh tịnh.

HẾT – QUYỂN 4