SỐ 1522/12
LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 9

Địa thứ bảy: ĐỊA VIỄN HÀNH

* Luận nêu: Trong Địa thứ bảy 5 thứ tướng sai biệt:

  1. Sai biệt về chỗ đối trị sự ưa thích hành vô tác.
  2. Sai biệt về đối trị chướng.
  3. Sai biệt do cả hai cùng hành.
  4. Sai biệt do sự thù thắng nơi Địa trên, trước.
  5. Sai biệt về quả.

1. Thế nào là Sai biệt về chỗ đối trị sự ưa thích hành vô tác?

* Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã khéo hành trì đầy đủ Địa thứ sáu, muốn đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thì Bồ-tát ấy phải dùng mười thứ trí phương tiện phát khởi hành thù thắng để hội nhập. Những gì là mười? Đó là:

1. Khéo tu tập các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, tích tập công đức trợ đạo lớn.

2. Hội nhập nơi các pháp không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, nhưng không xả bỏ việc dấy khởi bốn vô lượng.

3. Phát khởi pháp công đức, làm tăng thượng hành Ba-la-mật, niệm không chấp giữ nơi pháp nào.

4. Nên xa lìa ba cõi nhưng có thể ứng hóa, dấy khởi hành làm trang nghiêm cả ba cõi.

5. Làm vắng lặng hoàn toàn các thứ lửa phiền não, nhưng có thể vì hết thảy chúng sinh phát khởi hành động trừ diệt bao lửa dữ của phiền não như tham, sân, si.

6. Thuận theo các pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, ánh trăng trong nước, bóng noi gương, tự tánh không hai, khởi tạo nghiệp với tâm vô lượng sai biệt.

7. Khéo nhận biết về tất cả cõi nước, các cõi như hư không, khởi hành làm trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật.

8. Nhận biết rõ Pháp thân của chư Phật tự tánh là không thân khởi hiện sắc thân với tướng hảo trang nghiêm đầy đủ.

9. Biết rõ âm thanh của chư Phật là vô thanh, xưa nay vốn tịch diệt không thể nêu bày về tướng, tùy thuận hết thảy chúng sinh, khởi vô số âm thanh trang nghiêm, sai biệt để hành hóa.

10.0 Hội nhập nơi chư Phật, trong khoảng một niệm thông đạt sự việc của ba đời, có thể phân biệt về vô số tướng nơi số kiếp để tu tập thuận theo tâm của tất cả chúng sinh, quán xét sự sai biệt.

Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, với mười thứ trí phương tiện này, phát khởi hành thù thắng, hành trì đầy đủ nơi sáu Địa rồi nên được hội nhập Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát. Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, từ nơi mười thứ trí phương tiện này phát khởi hành thù thắng, hành hiện tiền, gọi là đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát”.

* Luận nêu: Đối trị sự ưa thích hành vô tác: Tức là trí phương tiện phát khởi mười thứ hành thù thắng. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã khéo hành trì đầy đủ Địa thứ sáu, muốn đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thì Bồ-tát ấy phải dùng mười thứ trí phương tiện phát khởi hành thù thắng để hội nhập v.v…”. Bồ-tát kia, với trí không chướng ngại hiện tiền, khi hành Bát-nhã Ba-la-mật hiện tiền, tức ở nơi hành vô tác sinh tâm ưa thích, không khởi hành tăng thượng. Đối trị chỗ ưa thích đó, ở đây đã chỉ rõ về mười thứ pháp sai biệt.

Trí phương tiện: Là sự đối trị của trí không bỏ chúng sinh và pháp vô ngã, thâu giữ hành tăng thượng, phát khởi hành thù thắng. Hành thù thắng này, đối với thế gian và xuất thế gian là hành tăng thượng, lại không gì hơn, do có 4 thứ công đức:

1. Làm nhân thù thắng cho tài sản và thân mạng: Theo chỗ, theo ý đạt được tài sản cùng thân mạng thù thắng do công đức tích tập làm nhân. Như kinh nói: “Khéo tu tập các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, tích tập công đức trợ đạo lớn”.

2. Làm nhân ngăn chận hành ác: Đạt được vô lượng sự tu tập thù thắng như vậy, nên đối với tất cả chúng sinh không khởi hành sai lạc. Như kinh nói: “Hội nhập nơi các pháp không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, nhưng không xả bỏ việc dấy khởi bốn vô lượng”.

3. Làm nhân giữ gìn căn thiện: Đạt được nhân thù thắng tăng thượng, nên pháp công đức nơi hành tăng thượng, do hành Ba-lamật. Như kinh nói: “Phát khởi pháp công đức, làm tăng thượng hành Ba-la-mật, niệm không chấp giữ nơi pháp nào”.

4. Làm nhân để gồm thâu chúng sinh: Ở đây có 7 thứ môn:

1. Nguyện lực lấy sự sống làm hàng đầu, giáo hóa các chúng sinh khác. Hàng đầu là chỉ cho sự gắn bó với chúng sinh. Như kinh nói: “Nên xa lìa ba cõi nhưng có thể ứng hóa, dấy khởi hành làm trang nghiêm cả ba cõi”.

2. Nêu bày sự đối trị: Vì nhằm diệt trừ những phiền não cấu nhiễm cùng các thứ tùy phiền não, các kiết sử, luôn tự làm vắng lặng. Như kinh nói: “Làm vắng lặng hoàn toàn các thứ lửa phiền não, nhưng có thể vì hết thảy chúng sinh phát khởi hành động trừ diệt bao lửa dữ của phiền não như tham sân si”.

3. Vì diệt trừ các chướng: Chướng có bốn thứ như trong Địa thứ năm đã nêu. Như kinh nói: “Thuận theo các pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, ánh trăng trong nước, bóng noi gương, tự tánh không hai, khởi tạo nghiệp với tâm vô lượng sai biệt”.

4. Hợp tập chúng hội của đại pháp. Như kinh nói: “Khéo nhận biết về tất cả cõi nước, các cõi như hư không, khởi hành làm trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật”.

5. Hiểu biết, thân cận cúng dường, tu hành sinh phước đức. Như kinh nói: “Nhận biết rõ Pháp thân của chư Phật tự tánh là không thân khởi hiện sắc thân với tướng hảo trang nghiêm đầy đủ”.

6. Chuyển pháp luân. Như kinh nói: “Biết rõ âm thanh của chư Phật là vô thanh, xưa nay vốn tịch diệt không thể nêu bày về tướng, tùy thuận hết thảy chúng sinh, khởi vô số âm thanh trang nghiêm, sai biệt để hành hóa”.

7. Theo chỗ vấn nạn, khéo giải thích đầy đủ. Như kinh nói: “Hội nhập nơi chư Phật, trong khoảng một niệm thông đạt sự việc của ba đời, có thể phân biệt về vô số tướng nơi số kiếp để tu tập thuận theo tâm của tất cả chúng sinh, quán xét sự sai biệt”.

Mười thứ hành thù thắng được phát khởi này, cùng thâu giữ để đối trị, để đối hợp, khéo tu tập các hành Không, Vô tướng, Vô nguyện, hội nhập nơi tất cả pháp không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, thứ lớp như thế, nên biết. Mười thứ pháp này hiện tiền, nên được trụ nơi Địa thứ bảy. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, với mười thứ trí phương tiện này, phát khởi hành thù thắng, hành trì đầy đủ nơi sáu Địa rồi nên được hội nhập Địa thứ bảy của bậc Bồtát. Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, từ nơi mười thứ trí phương tiện này phát khởi hành thù thắng, hành hiện tiền, gọi là đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát”.

2. Thế nào là Sai biệt về đối trị chướng?2 thứ tướng:

  1. Tu hành vô lượng thứ loại.
  2. Tu hành với hành không dụng công.

a. Thế nào là Tu hành vô lượng thứ loại?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa thứ bảy của bậc Bồtát, hội nhập nơi vô lượng cảnh giới của chúng sinh. Hội nhập nơi vô lượng nẻo tạo tác của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Hội nhập nơi vô lượng lưới thế giới. Hội nhập nơi vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Hội nhập nơi vô lượng các pháp sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng trí của chư Phật, chứng đắc đạo vô thượng. Hội nhập nơi vô lượng số kiếp. Hội nhập nơi vô lượng sự thông đạt các việc trong ba đời của chư Phật. Hội nhập nơi vô lượng nẻo sai biệt của chúng sinh tin ưa sự việc thù thắng. Hội nhập nơi vô lượng danh hiệu, sắc thân của chư Phật với vô số sự thị hiện. Hội nhập nơi vô lượng tâm hành, căn tín của chúng sinh với đủ thứ loại sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật, khiến chúng sinh hoan hỷ. Hội nhập nơi vô lượng tâm, nẻo hành nơi tâm của chúng sinh với vô số sự sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng hành tùy trí tuệ của chư Phật. Hội nhập nhân nơi vô lượng sự tin hiểu của thừa Thanh văn. Hội nhập nơi vô lượng sự thuyết giảng đạo của chư Phật, khiến chúng sinh tin hiểu. Hội nhập nơi vô lượng sự tập thành của thừa Phật-bích-chi. Hội nhập nơi vô lượng môn trí tuệ sâu xa của chư Phật đã thuyết giảng. Hội nhập nơi vô lượng nẻo hành đạo của các Bồ-tát. Hội nhập nơi vô lượng sự tập thành pháp Đại thừa được chư Phật thuyết giảng, khiến Bồtát được hội nhập”.

– Luận nêu: Tu hành vô lượng thứ loại: Tức tùy chỗ tạo lợi ích cho những chúng sinh nào? Chúng sinh trụ ở nơi chốn nào? Dùng những trí tuệ nào? Dùng những tâm nào? Dùng những hành nào? Đưa đến những thừa nào? Do những sai biệt ấy, nên có mười thứ tu hành. Trong đó:

Tùy chỗ tạo lợi ích cho những chúng sinh nào: Ở nơi vô lượng chúng sinh, dùng vô lượng nghiệp để giáo hóa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, hội nhập nơi vô lượng cảnh giới của chúng sinh. Hội nhập nơi vô lượng nẻo tạo tác của chư Phật để giáo hóa chúng sinh”.

Chúng sinh trụ ở nơi chốn nào: Ở trong vô lượng thế giới, khiến nương dựa nơi cõi Phật thanh tịnh. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng lưới thế giới. Hội nhập nơi vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật”.

Dùng những trí tuệ nào: Vô lượng chủng loại trí tuệ giác ngộ về pháp giới. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng các pháp sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng trí tuệ của chư Phật, chứng đắc đạo vô thượng”. Vô lượng số kiếp, thông đạt về ba đời, cùng hội nhập nơi trí tuệ giác ngộ. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng số kiếp. Hội nhập nơi vô lượng sự thông đạt các sự việc trong ba đời của chư Phật”.

Dùng những tâm nào?2 thứ sự:

1. Có các chúng sinh tin nơi vô số thân tướng chư thiên, tâm tùy đồng hành, thuận nơi sự tin ấy mà thuyết giảng. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng nẻo sai biệt của chúng sinh tin ưa sự việc thù thắng. Hội nhập nơi vô lượng danh hiệu, sắc thân của chư Phật với vô số sự thị hiện”.

2. Nhận biết tâm quá khứ, tùy nơi căn trí để nêu giảng ứng hợp. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng tâm hành, căn tín của chúng sinh với đủ thứ loại sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật, khiến chúng sinh hoan hỷ”.

Dùng những hành nào? Tùy nơi tâm của chúng sinh mà nêu bày sự đối trị. Như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng tâm, nẻo hành nơi tâm chúng sinh với vô số sự sai biệt. Hội nhập nơi vô lượng hành tùy trí tuệ của chư Phật”.

Đưa đến những thừa nào? Ở trong ba Thừa: Đưa đến thừa Thanh văn, như kinh nói: “Hội nhập nhân nơi vô lượng sự tin hiểu về thừa Thanh văn. Hội nhập nơi vô lượng sự thuyết giảng đạo của chư Phật, khiến chúng sinh tin hiểu”. Đưa đến nơi thừa Phật-bích-chi, như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng sự tập thành của thừa Phật-bích-chi. Hội nhập nơi vô lượng môn trí tuệ sâu xa của chư Phật đã thuyết giảng”. Đưa đến Đại thừa, như kinh nói: “Hội nhập nơi vô lượng nẻo hành đạo của các Bồ-tát. Hội nhập nơi vô lượng sự tập thành pháp Đại thừa được chư Phật thuyết giảng, khiến Bồ-tát được hội nhập”.

b. Thế nào là Tu hành với hành không dụng công?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, khởi niệm như vầy: Chư Phật Thế Tôn có vô lượng vô biên cảnh giới. Cảnh giới đó không thể dùng bao nhiêu là thời gian như trăm ức kiếp, ngàn ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp, cho đến vượt hơn số lượng ấy, như vô lượng trăm ngàn vạn ức nado-tha kiếp cũng không thể tính toán được. Cảnh giới của chư Phật như vậy, Ta đều nên tập hợp, tự nhiên không do phân biệt nên được thành tựu. Do không phân biệt, không chấp giữ tướng nên thành tựu. Bồ-tát ấy khéo quán xét như thế nên trí thông tỏ, ngày đêm luôn tu tập trí phương tiện, dốc sức phát khởi hành thù thắng, khéo an trụ kiên cố do pháp bất động”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Tự nhiên: Tự tánh thù thắng, không phân biệt. Như kinh nói: “Tự nhiên không do phân biệt nên được thành tựu. Do không phân biệt, không chấp giữ tướng nên thành tựu”. Câu này đã chỉ rõ điều ấy.

Bồ-tát ấy khéo quán xét như thế v.v…: Là đối trị về chướng kia.

3. Thế nào là Sai biệt do cả hai cùng hành?4 thứ tướng:

  1. Hai hành cùng hành không gián đoạn.
  2. Tin tưởng thù thắng.
  3. Có thể tạo ra nghĩa lớn.
  4. Sai biệt của pháp Bồ-đề phần.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, lúc phát khởi đạo, một niệm tâm cũng không xa lìa. Bồ-tát này tu hành trì tuệ, khi đến cũng khởi, lúc đi cũng khởi, khi đứng cũng khởi, lúc ngồi, nằm cũng khởi, cho đến khi ngủ nghỉ, nằm mộng đều có thể phát khởi đạo. Lìa các thứ ngăn che, an trụ nơi các oai nghi, luôn không lìa tướng niệm như thế.

Bồ-tát ấy, ở trong từng niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Bala-mật của bậc Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát khởi tất cả tâm như thế, ở trong từng mỗi niệm, dùng đại bi làm đầu, tu tập hết thảy pháp Phật, đều hồi hướng đến trí của Như Lai. Bồ-tát ấy, lúc cầu đạt Phật đạo, những căn thiện được tu tập đều ban cho tất cả chúng sinh, là Bố thí Ba-la-mật. Có thể diệt trừ hết thảy những phiền não thiêu đốt là Trì giới Ba-la-mật. Từ bi làm hàng đầu, có thể nhẫn đối với hết thảy chúng sinh, là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Cầu căn thiện chuyển thắng, tâm không hề chán đủ, là Tinh tấn Ba-la-mật. Chỗ tu tập các tâm hành không dong ruổi, tán loạn, luôn hướng tới trí Nhất thiết trí, là Thiền định Ba-la-mật. Hiện nhận biết các pháp, tự tánh là chẳng sinh, tức Bát-nhã Ba-la-mật. Có thể dấy khởi vô lượng môn trí, là Phương tiện Ba-la-mật. Mong đạt trí thù thắng tối thượng là Nguyện Ba-la-mật. Hết thảy luận tà của ngoại đạo cùng các chúng ma đều không thể phá hoại đạo Bồ-tát, là Lực Ba-la-mật. Quán xét đúng như thật, nhận biết về tướng của tất cả các pháp, là Trí Ba-la-mật.

Này các Phật tử! Như vậy, Bồ-tát ấy an trụ trong Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát, niệm niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật, cũng hành trì đầy đủ bốn Nhiếp pháp, cũng hành trì đầy đủ bốn Gia, ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề phần, ba môn giải thoát, lược nói về tất cả pháp trợ Bồ-đề phần, ở trong mỗi mỗi niệm thảy đều hành trì đầy đủ”.

– Luận nêu:

1. Hai hành cùng hành không gián đoạn: Ở đây, trong một niệm, hai hành Xa-ma-tha (Chỉ) Tỳ-bát-xá-na (Quán) đều cùng hiện tiền.

Trụ nơi các oai nghi: Tức trong tất cả hành, Bồ-tát lúc tu tập, hành trì đều không gian đoạn, không ngừng nghỉ. Như kinh nói: “Bồtát ấy, lúc phát khởi đạo, một niệm tâm cũng không xa lìa v.v…”.

2. Tin tưởng thù thắng: Là Bồ-tát, trong trí vô lượng, với nghĩa đặc biệt, tướng trang nghiêm, chuyên niệm để hiện tiền. Như kinh nói: “Luôn không lìa tướng niệm như thế”.

3. Có thể tạo ra nghĩa lớn: Niệm niệm đều hành trì đầy đủ các thứ nghĩa lớn của mười Ba-la-mật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, ở trong từng niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật của bậc Bồ-tát v.v…, cho đến Trí Ba-la-mật”. Ở đây:

Phương tiện Ba-la-mật: Là khởi vô lượng trí sự, do nơi trí ấy nên khởi vô lượng hạnh nguyện như bố thí v.v… dùng diệu lực để thâu tóm.

Nguyện Ba-la-mật: Là phát khởi trí tối thượng, do nơi trí ấy, nên khởi các hành tối thượng như bố thí v.v… làm sinh trưởng, thâu giữ các thứ thù thắng.

Lực Ba-la-mật: Hết thảy Dị luận cùng các thứ ma đến không thể phá hoại nẻo hành của Bồ-tát. Do nơi hành ấy, nên xa lìa những chướng ngại nơi bố thí v.v…

Trí Ba-la-mật: Quán xét đúng như thật, nhận biết về tướng của tất cả các pháp. Do nơi trí ấy, nên đối với các pháp bố thí v.v… với hết thảy các thứ sai biệt đều nhận biết, nhằm hóa độ chúng sinh.

4. Sai biệt của pháp Bồ-đề phần:4 thứ tướng:

1- Dựa nơi pháp Đại thừa, hành Ba-la-mật. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Như vậy, Bồ-tát ấy an trụ trong Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát, niệm niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật”.

2- Dựa nơi sự giáo hóa chúng sinh, hành bốn Nhiếp pháp. Như kinh nói: “Cũng hành trì đầy đủ bốn Nhiếp pháp”.

3- Dựa nơi phiền não chướng đã được thanh tịnh tăng thượng: Gia, Bồ-đề phần, môn giải thoát: Là trụ ở nơi chốn nào, dùng những môn gì, để tu hành đạt được thanh tịnh. Như kinh nói: “Cũng hành trì đầy đủ bốn Gia, ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề phần, ba môn giải thoát”. Bốn gia là Gia Bát-nhã, Gia đế, Gia xả phiền não, Gia khổ đã được thanh tịnh.

4- Dựa nơi trí chướng đã thanh tịnh. Như kinh nói: “Lược nói về tất cả pháp phần trợ Bồ-đề, ở trong mỗi mỗi niệm thảy đều hành trì đầy đủ”.

4. Thế nào là Sai biệt do sự thù thắng nơi Địa trên, trước? Địa dưới phương tiện tăng thượng, hành trì đầy đủ, nên trong Địa thứ bảy nói rõ.

– Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Bồ-tát chỉ ở trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, mới hành trì đầy đủ tất cả pháp phần trợ Bồ-đề, hay là hết thảy Bồ-tát trong các Địa, cũng đều hành trì đầy đủ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát ở trong mười Địa của bậc Bồ-tát, thảy đều hành trì đầy đủ tất cả pháp phần trợ Bồ-đề, song nơi Địa thứ bảy thì hơn hẳn nên được mang tên. Vì sao? Này Phật tử! Vì Bồ-tát ấy, ở trong địa của bậc Bồ-tát này, đã hành trì đầy đủ phương tiện, nên được hội nhập nơi hành trí tuệ, thần thông.

Này Phật tử! Bồ-tát ở trong Địa thứ nhất phát nguyện, quán xét tất cả pháp Phật, gồm đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Nơi Địa thứ hai, diệt trừ các thứ cấu uế, xấu ác của tâm, gồm đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ ba, nguyện chuyển tăng trưởng, đạt được pháp mình, gồm đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Nơi Địa thứ tư, hội nhập đạo, gồm đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ năm, tùy thuận hành pháp thế gian, nên hành trì đầy đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Nơi Địa thứ sáu, hội nhập nơi pháp môn thâm diệu, nên hành trì đầy đủ pháp phần trợ Bồ-đề. Và trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, phát khởi hết thảy pháp Phật, nên hành trì đầy đủ pháp phần trợ Bồ-đề”.

– Luận nêu: Thế nào là Địa dưới phương tiện tăng thượng, hành trì đầy đủ? Do đầy đủ nên hội nhập nơi hành đại trí thông. Như kinh nói: “Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát ở trong mười Địa của bậc Bồ-tát, thảy đều hành trì đầy đủ tất cả pháp phần trợ Bồ-đề, song nơi Địa thứ bảy thì hơn hẳn nên được mang tên. Vì sao? Này Phật tử! Vì Bồ-tát ấy, ở trong địa của bậc Bồ-tát này, đã hành trì đầy đủ phương tiện, nên được hội nhập nơi hành trí tuệ, thần thông”. Ở đây, Thông: Là năm thần thông. Trí: Như trước đã nêu.

Vì sao trong Địa này hành phương tiện đầy đủ? Vì Bồ-tát, trong hành thế gian, xuất thế gian khác lại hành thù thắng. Do đó, nơi Địa thứ bảy này khởi tất cả pháp Phật, có thể hành trì đầy đủ các pháp phần trợ Bồ-đề. Như kinh nói: “Bồ-tát ở trong Địa thứ nhất phát nguyện, quán xét tất cả pháp Phật, gồm đủ pháp phần trợ Bồ-đề v.v…”.

Thế nào là Địa trên tu hành tăng thượng nơi trí tuệ phương tiện đối với pháp phần Bồ-đề? Là hành công dụng đã đầy đủ.

– Kinh nói:Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở đi, cho đến bảy Địa, đạt được các trí tuệ, hành hóa đạo. Do nơi diệu lực ấy, nên từ Địa thứ tám của bậc Bồ-tát cho đến Địa thứ mười, là hành không dụng công, tự nhiên đầy đủ.

Này Phật tử! Ví như có hai thế giới: Một là thế giới nhiễm tịnh. Hai là thế giới thuần tịnh. Ở giữa hai thế giới ấy khó có thể vượt qua được. Muốn vượt qua cảnh giới này phải dùng diệu lực của đại thần thông. Phật tử! Bồ-tát cũng vậy, hành hóa nơi đạo Bồ-tát nhiễm tịnh, khó có thể vượt qua được. Phải dùng diệu lực của đại ngưyện, của trí phương tiện lớn, của thần thông lớn mới có thể vượt qua được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Thưa Phật tử! Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát là hành nhiễm hay là hành tịnh?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Từ Địa thứ nhất trở đi, Bồ-tát hành trì đều xa lìa nghiệp phiền não nhiễm. Vì sao? Vì đều hồi hướng đến đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng. Tùy theo các đạo mà hành hóa, như phần hành đạo bình đẳng, nên không gọi là đã vượt qua hành phiền não của bảy Địa. Này Phật tử! Ví như Chuyển luân Thánh vương cỡi voi báu du hành khắp bốn châu thiên hạ, nhận biết có những kẻ bần cùng, khốn khổ, cấu nhiễm, lỗi lầm, nhưng không bị những lỗi lầm kia làm cho ô nhiễm. Vì vua chưa thoát khỏi thân người. Nếu bỏ thân người, sinh nơi cõi trời Phạm Thế, trụ tại cung điện của Phạm Thiên, thấy rõ hàng ngàn thế giới, thị hiện uy lực, ánh sáng của bậc Phạm vương, bấy giờ không còn gọi là người. Này Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy. Từ Địa thứ nhất trở đi, cỡi trên cỗ xe là các pháp Ba-la-mật, hành hóa nơi tất cả thế gian, cũng nhận biết các thứ phiền não cấu nhiễm, lỗi lầm của thế gian, nhưng không bị những thứ ấy làm cho ô nhiễm, vì đã hành trì chánh đạo mà không gọi là đã vượt quá phiền não cấu nhiễm của bảy Địa. Nếu Bồ-tát xả bỏ hết thảy hành công dụng, từ bảy Địa nhập vào Địa thứ tám, bấy giờ gọi là đi trên cỗ xe Bồ-tát thanh tịnh, hành hóa nơi tất cả thế gian, nhận biết đúng như thật về hết thảy các thứ phiền não cấu uế, lỗi lầm, nhưng không bị chúng làm cho ô nhiễm, do đã được vượt qua.

Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, vượt qua phần lớn các thứ phiền não như tham dục v.v… Bồ-tát ấy, trụ trong Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát này, không gọi là người có phiền não, cũng không gọi là người không phiền não. Vì sao? Vì tất cả phiền não không hiện hành, nên không gọi là có phiền não. Vì còn tham cầu trí tuệ của Như Lai hiện chưa đầy đủ, nên không gọi là không phiền não”.

* Luận nêu: Thế nào là Địa trên, trí tuệ phương tiện tăng thượng hành Bồ-đề phần? Là hành công dụng đã đầy đủ. Như kinh nói: “Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở đi, cho đến Địa thứ bảy, đạt được các trí tuệ, hành hóa đạo v.v…”. Tức chỉ rõ là từ Địa thứ nhất trở đi, luôn xa lìa các thứ phiền não như thế. Địa này gọi là nhiễm tịnh, không phải là hành nhiễm, như phần Hành đạo bình đẳng.

Bồ-tát ấy, ở trong Địa này, tùy nơi phần lực, xả bỏ nẻo công dụng, như ví dụ về Chuyển luân Thánh vương. Nơi Địa thứ tám, tự nhiên đạt được hạnh báo, vượt quá các thứ phiền não cấu nhiễm, lỗi lầm, chỉ rõ như sinh nơi cõi trời Phạm Thế, xả bỏ thân người của Chuyển luân Thánh vương. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như Chuyển luân Thánh vương cỡi voi báu du hành khắp bốn châu thiên hạ v.v…”.

Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, vượt qua phần lớn các thứ phiền não như tham dục: Tức chưa đạt đến Địa báo. Vì thế Địa này không gọi là hành lìa phiền não, là do còn có dụng cộng. “Bồ-tát ấy, trụ trong Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát này, không gọi là người có phiền não, cũng không gọi là người không phiền não. Vì sao? Vì tất cả phiền não không hiện hành, nên không gọi là có phiền não. Vì còn tham cầu trí tuệ của Như Lai hiện chưa đầy đủ, nên không gọi là không phiền não”.

5. Thế nào là Sai biệt về quả do song hành?4 thứ tướng:

  1. Nghiệp thanh tịnh.
  2. Đạt được Tam-muội thù thắng.
  3. Quá địa (Chỗ vượt hơn nơi địa).
  4. Đạt được hành thù thắng.

a. Thế nào là Nghiệp thanh tịnh?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thành tựu trọn vẹn thân nghiệp thanh tịnh sâu xa, thành tựu trọn vẹn khẩu nghiệp thanh tịnh sâu xa, thành tựu trọn vẹn ý nghiệp thanh tịnh sâu xa. Bồ-tát ấy, đối với các nẻo nghiệp bất thiện hiện có, luôn bị chư Phật quở trách, đều đã lìa bỏ. Đối với các nẻo nghiệp thiện hiện có, luôn được chư Phật khen ngợi, đều luôn hành trì. Những thứ kinh sách, kỹ thuật hiện có nơi thế gian, như đã nói trong năm Địa, tự nhiên mà hành. Bồ-tát ấy, ở trong Tam thiên đại thiên thế giới, được xem là bậc Đại sư, chỉ trừ chư Phật và Bồ-tát nơi tám Địa, không có chúng sinh nào, về tâm sâu xa, hành vi diệu có thể sánh kịp. Bồ-tát ấy, hết thảy các thứ thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thần thông, giải thoát, đều hiện tiền. Trong môn tu hành, không phải là đã khéo thành tựu lực báo như nơi Địa thứ tám của bậc Bồ-tát. Bồ-tát ấy, trụ nơi Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, ở trong mỗi mỗi niệm, tu tập đầy đủ diệu lực của trí phương tiện cùng tất cả pháp phần trợ Bồ-đề, luôn chuyển tăng, thù thắng viên mãn”.

– Luận nêu: Nghiệp thanh tịnh:4 thứ tướng:

1. Giới thanh tịnh thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thành tựu trọn vẹn thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thanh tịnh sâu xa”.

2. Trí thế gian thanh tịnh thù thắng. Như kinh nói: “Những thứ kinh sách, kỹ thuật hiện có nơi thế gian, như đã nói trong năm Địa, tự nhiên mà hành”.

3. Đạt tự thân thù thắng: Tâm hành hai bình đẳng, không ai sánh kịp. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, ở trong Tam thiên đại thiên thế giới, được xem là bậc Đại sư, chỉ trừ chư Phật và Bồ-tát nơi tám Địa, không có chúng sinh nào, về tâm sâu xa, hành vi diệu có thể sánh kịp”.

4. Đạt được diệu lực thù thắng, các thứ thiền định v.v… luôn hiện tiền, thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hết thảy các thứ thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thần thông, giải thoát, đều hiện tiền v.v…”. Ở đây, dựa nơi thiền, khởi Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thần thông, giải thoát, là giáo hóa chúng sinh, là ưa thích hành tịch diệt, là diệt định Tam-ma-bạt-đề, thứ lớp như vậy.

b. Thế nào là Đạt được Tam-muội thù thắng?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, hội nhập nơi các Tam-muội: Thiện trạch trí Bồ-tát. Thiện tư nghĩa. Ích ý. Phân biệt nghĩa tạng. Trạch nhất thiết nghĩa. Thiện trụ kiên căn. Trí thần thông môn. Pháp giới nghiệp. Như Lai lợi ích. Nhập Tam-muội mang tên Bồ-tát chủng chủng nghĩa tạng, thế gian Niết-bàn môn. Bồ-tát ấy, ở nơi môn đại trí thông như thế, nhập đầy đủ mười Tam-muội hàng đầu, nên có thể nhập vào trăm ngàn môn Tam-muội của bậc Bồ-tát, làm thanh tịnh Địa này”.

– Luận nêu: Đạt được Tam-muội thù thắng:10 thứ tướng:

1. Dựa nơi nghĩa chưa quán.

2. Dựa nơi nghĩa đã quán. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, hội nhập nơi Tam-muội Thiện trạch trí Bồ-tát”.

3. Dựa nơi một câu với vô lượng nghĩa thù thắng. Như kinh nói: “Tam-muội Thiện tư nghĩa”.

4. Dựa nơi một nghĩa để nói về vô lượng tên gọi. Như kinh nói: “Tam-muội Ích ý. Tam-muội Phân biệt nghĩa tạng”.

5. Dựa nơi trí thông tỏ tất cả xứ của năm minh. Như kinh nói: “Tam-muội Trạch nhất thiết nghĩa”.

6. Dựa nơi chướng phiền não đã được thanh tịnh. Quán chân như với căn kiên định. Như kinh nói: “Tam-muội Thiện trụ kiên căn”.

7. Dựa nơi chướng ngại của trí đã được thanh tịnh: Có 4 thứ chướng đã được thanh tịnh:

8. Chướng ngại đối với công đức thù thắng. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Trí thần thông môn”.

9. Chướng ngại nơi trí không chướng ngại: Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Pháp giới nghiệp”.

10. Chướng ngại do khiếp sợ đối với pháp Phật sâu xa tối thượng. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Như Lai lợi ích”.

11. Chướng ngại đối với hành không trụ. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Nhập Tam-muội mang tên Bồ-tát chủng chủng nghĩa tạng, thế gian Niết-bàn môn”. Chủng chủng nghĩa tạng là vô số thứ loại căn thiện.

Như vậy, nơi môn đại trí thông, Bồ-tát đã hành trì đầy đủ mười Tam-muội hàng đầu, nên có thể hội nhập trăm ngàn vạn môn Tammuội của bậc Bồ-tát, làm thanh tịnh Địa này.

c. Thế nào là Quá địa? (Chỗ vượt hơn nơi địa)

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, đạt được Tam-muội như thế, trí tuệ phương tiện hoàn toàn thanh tịnh, đạt diệu lực của đại bi, nên vượt hơn cảnh giới của hàng Nhị thừa, hiện tiền tư duy, lượng xét, hướng tới cảnh giới trí tuệ”.

– Luận nêu: Vượt hơn cảnh giới của hàng Nhị thừa:2 thứ tướng:

  1. Diệu lực của trí phương tiện tu hành.
  2. Diệu lực của tâm đại bi.

Hiện tiền: Tức có thể hội nhập nơi dòng chảy của đạo pháp.

Lượng xét, hướng tới cảnh giới trí tuệ: Tức trí tuệ nơi tám Địa. Chính là quán nơi Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, hết thảy xứ ấy đều thành tựu. Lại nữa, chỗ vượt hơn là nẻo hành hóa thù thắng, nên chỉ rõ.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, nơi vô lượng thân nghiệp hành vô tướng, nơi vô lượng khẩu nghiệp, ý nghiệp đều hành vô tướng. Bồ-tát này, khéo hành thanh tịnh nên đạt được pháp Nhẫn vô sinh sáng tỏ.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói: Này Phật tử! Bồ-tát trụ nơi Địa thứ nhất của bậc Bồ-tát, có vô lượng thân nghiệp, vô lượng khẩu nghiệp, vô lượng ý nghiệp, đã vượt hơn tất cả hành của hàng Nhị thừa chăng?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Quán xét về pháp lớn nên là vượt hơn. Không phải là hành lực của tự trí. Nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, đạt được quán nơi hành lực của tự trí, nên hết thảy nẻo hành của hàng Nhị thừa đều không thể sánh kịp.

Này Phật tử! Ví như vương tử sinh tại vương gia, đầy đủ vương tướng hơn hẳn tất cả các bề tôi, là do uy lực của chốn quyền quý, không phải là do hành lực của tự trí. Về sau, thân tướng lớn tăng, tự gồm đủ trí lực, các sự việc tạo tác đều thành tựu, mới đích thực là vượt hơn tất cả các bề tôi. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đã vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Phật-bích-chi, do tâm sâu xa, lớn lao. Nay trụ trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, tự trí hành trụ, nên vượt hơn hành của hàng Nhị thừa”.

– Luận nêu: Vô lượng ba nghiệp hành vô tướng: Là nhập định, xa lìa các tướng. Vô lượng ấy hàng Thanh văn, Duyên giác cũng có nghiệp thanh tịnh xa lìa tướng, nhưng không phải là vô lượng tướng, vì không thể tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lại nữa, vô lượng ấy hơn hẳn sự việc của các Địa dưới khác.

Khéo hành thanh tịnh: Là tu tập, hành phương tiện đầy đủ.

Pháp Nhẫn vô sinh sáng tỏ: Là tướng hiện tiền của pháp nhẫn ấy.

Dụ về vương tử: Là chỉ rõ sự thù thắng, vượt hơn trong Địa này, do tu hành phương tiện đầy đủ.

Tự trí hành trụ: Là hành phương tiện xong, niệm quán để an trụ. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như vương tử sinh tại vương gia v.v… cho đến: Tự trí hành trụ, nên vượt hơn các hành của hàng Nhị thừa”.

Vô lượng nghiệp thù thắng như thân nghiệp v.v… đã nói, không những chỉ là có nhiều thần lực vô lượng mà cũng chỉ rõ về vô lượng nghĩa thù thắng.

– Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, an trụ nơi Địa Viễn Hành này, đạt được nẻo vô hành, xa lìa hết mực sâu xa. Ba nghiệp thân, khẩu, ý đều chuyển tăng, cầu đạt hành thù thắng nhưng không lìa bỏ”.

– Luận nêu: Hết mực sâu xa: Là nhập vào nơi xa.

Xa lìa: Tức các chướng ngại được diệt trừ.

Vô hành: Là chỉ cho các địa thế gian xuất thế gian khác đều không thể hành trì.

Ba nghiệp đều chuyển tăng, cầu đạt hành thù thắng nhưng không lìa bỏ: Tức chỉ cho hàng Nhị thừa, tuy lìa tướng nghiệp kia, nhưng không như thế, mới đạt một ít đã cho là đủ, không cầu đạt hành vô thượng.

d. Thế nào là Đạt được hành thù thắng?

– Kinh nói:Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Này Phật tử! Bồtát từ nơi Địa nào trở đi có thể hội nhập định tịch diệt?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ sáu trở đi, có thể hội nhập nơi định tịch diệt. Nay trụ nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, trong mỗi mỗi niệm đều có thể nhập nơi định ấy, nhưng không thủ chứng. Bồ-tát ấy đã thành tựu trọn vẹn về ba nghiệp thân, khẩu, ý không thể nghĩ bàn. Này Phật tử! Đó là hành của các Bồ-tát hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định tịch diệt.

Này Phật tử! Ví như có người dùng thuyền lớn đi vào biển cả, khéo biết về cách sử dụng thuyền, khéo nhận biết về hình tướng của nước, không bị thủy nạn nơi biển lớn làm hại. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát trụ nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, đi trên thuyền là các pháp Ba-la-mật, hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định tịch diệt”.

– Luận nêu: Hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định tịch diệt: Do không xả bỏ Hữu. Như kinh nói: “Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ sáu trở đi, có thể hội nhập nơi định tịch diệt v.v…”.

Đã nói về phần hành thù thắng nơi Tam-ma-bạt-đề. Tiếp theo là nói về việc phát khởi hành thù thắng.

– Kinh nói:Bồ-tát như vậy là thông đạt về trí lực của Tammuội, tu tập khởi trí lực của phương tiện lớn, hiện thân nơi nẻo thế gian mà tâm sâu xa là Niết-bàn, tuy quyến thuộc vây quanh, nhưng tâm thường xa lìa. Dùng nguyện lực thọ sinh nơi ba cõi, nhưng không bị thế gian làm ô nhiễm. Tâm thường vắng lặng, do diệu lực của phương tiện mà trở lại tỏa sáng, tỏa sáng nhưng không bùng cháy. Tùy thuận trí Phật, xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa, thông đạt cảnh giới của chư Phật, ẩn giấu để hiện bày cảnh giới của ma, vượt qua bốn cõi ma, hiện hành cảnh giới ma. Hiện bày nẻo hành của các ngoại đạo, nhưng tâm sâu xa không xả bỏ nẻo Phật. Thông tỏ tất cả sự việc nơi thế gian, nhưng tâm luôn ở nơi đạo pháp xuất thế gian. Các thứ trang nghiêm hiện có hơn hẳn các chúng chư Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, nhân, phi nhân, bốn Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, mà không xả bỏ sự nhớ nghĩ về pháp an lạc”.

– Luận nêu: Phát khởi hành thù thắng:8 thứ hành cùng chỗ thâu tóm của đối trị:

1. Hành công đức phát khởi, tùy thuận nẻo thế gian. Như kinh nói: “Bồ-tát như vậy là thông đạt về trí lực của Tam-muội, tu tập khởi trí lực của phương tiện lớn, hiện thân nơi nẻo thế gian mà tâm sâu xa là Niết-bàn”.

2. Hành đứng đầu gồm thâu các thứ khác. Như kinh nói: “Tuy quyến thuộc vây quanh, nhưng tâm thường xa lìa”.

3. Hành nguyện chọn lấy cõi. Như kinh nói: “Dùng nguyện lực thọ sinh nơi ba cõi, nhưng không bị thế gian làm ô nhiễm”.

4. Hành không đoạn bỏ gia đình: Xa lìa tham dục, các tùy phiền não, kiết sử, nhưng thị hiện các sự việc hành tham dục. Như kinh nói: “Tâm thường vắng lặng, do diệu lực của phương tiện mà trở lại tỏa sáng, tỏa sáng nhưng không bùng cháy”.

5. Hành hội nhập. Như kinh nói: “Tùy thuận trí Phật, xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa”.

6. Hành nơi đời sống: Ăn uống, ngủ nghỉ, nằm mộng v.v… như cảnh giới của ma. Như kinh nói: “Thông đạt cảnh giới của chư Phật, ẩn giấu để hiện bày cảnh giới của ma”.

7. Hành thoái chuyển: Thị hiện già, bệnh, chết, ba cảnh giới của ma ấy. Như kinh nói: “Vượt qua bốn cõi ma, hiện hành cảnh giới ma”.

8. Hành xoay chuyển: Có 3 thứ xoay chuyển:

9. Xoay chuyển tham chấp. Như kinh nói: “Hiện bày nẻo hành của các ngoại đạo, nhưng tâm sâu xa không xả bỏ nẻo Phật”.

10. Xoay chuyển chướng, nghi. Như kinh nói: “Thông tỏ tất cả sự việc nơi thế gian, nhưng tâm luôn ở nơi đạo pháp xuất thế gian”.

11. Xoay chuyển tâm tham: Đối với các chúng Trời, Rồng v.v… tâm tôn trọng, thâu giữ để xoay chuyển tâm tham của họ. Như kinh nói: “Các thứ trang nghiêm hiện có hơn hẳn các chúng chư Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, nhân, phi nhân, bốn Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, mà không xả bỏ sự nhớ nghĩ về pháp an lạc”.

* Kinh nói:Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, an trụ nơi Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát này rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, nên thấy nhiều trăm Phật, cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, thấy nhiều ức Phật, cho đến nhiều trăm ngàn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, nên Bồ-tát ấy, khi gặp chư Phật đều đem tâm sâu xa, tâm hướng thượng, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men v.v… đối với các căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nơi trụ xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính tột bậc, hết lòng nghe pháp, lãnh hội rồi thì thọ trì, thọ trì xong thì đạt được Tam-muội như thật, trí tuệ tỏa sáng, tùy thuận tu tập, hành hóa, nhớ giữ, hộ trí chánh pháp của chư Phật, hết thảy trí tuệ của hàng Nhị thừa nêu bày vấn nạn đều không thể gây trở ngại. Bồ-tát ấy lại có thể tạo lợi ích cho chúng sinh, nên pháp nhẫn càng chuyển tăng thanh tịnh. Bồ-tát này trụ trong Địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát ấy, nơi vô lượng kiếp, các thứ căn thiện kia, càng trở nên sáng, sạch, thù thắng, thành tựu thuận hợp, chuyển biến, thành tựu tột cùng. Nơi vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp v.v… cho đến vô lượng trăm ngàn na-do-tha kiếp, vô lượng ức kiếp v.v… cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, các thứ căn thiện kia càng chuyển tăng, sáng, sạch, thù thắng, thành tựu những sự thuận hợp, lại chuyển tăng, đạt được những thành tựu trọn vẹn.

Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, dùng tất cả các thứ vật báu để trang nghiêm đầy đủ, thì ánh sáng, màu sắc càng trở nên sáng, đẹp, thù thắng, các vật dụng trang sức khác đều không thể sánh kịp. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát trụ trong Địa Viễn Hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát ấy, thì các thứ căn thiện kia, theo trí phương tiện, lại càng trở nên sáng, sạch, thù thắng, hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể làm trở ngại.

Này Phật tử! Ví như ánh sáng của mặt trời, thì tất cả ánh sáng của tinh tú, mặt trăng đều không thể hủy hoại, các vũng nước bùn lầy hiện có nơi ba châu Diêm-phù-đề, do ánh sáng của mặt trời nên đều có thể khô cạn. Cũng vậy, này Phật tử! Bồ-tát trụ trong Địa Viễn Hành này, các thứ căn thiện kia, tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại, lại có thể làm khô cạn các vũng bùn đọng phiền não nơi tất cả chúng sinh.

Bồ-tát ấy, trong mười pháp Ba-la-mật thì Phương tiện Ba-lamật tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là tùy lực tùy phần.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về Địa Viễn Hành, là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát.

Nếu Bồ-tát trụ trong Địa này, nhiều lần làm Thiên vương cõi trời Tha-hóa-tự-tại, các nẻo tạo tác đều tự tại, khéo khiến cho chúng sinh phát sinh chánh trí, cũng khiến các chúng sinh vượt qua biển phiền não, những nghiệp thiện đã tạo như bố thí, ái ngữ, đồng ngữ, lợi hành, các thứ phước đức ấy, đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát v.v… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn khởi tâm này: Ta phải, đối với tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ suy niệm ấy, phát khởi hành tinh tấn. Do diệu lực của tinh tấn, nên trong một niệm đạt được trăm ngàn ức na-dotha Tam-muội. Thấy trăm ngàn ức na-do-tha Phật. Nhận biết trăm ngàn ức na-do-tha thần lực của Phật. Có thể làm chuyển động trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể đi vào trăm ngàn ức na-dotha thế giới Phật. Có thể soi chiếu trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể trụ thọ nơi trăm ngàn ức na-do-tha kiếp. Có thể nhận biết sự việc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp nơi đời quá khứ, vị lai. Có thể khéo hội nhập nơi trăm ngàn ức na-do-tha pháp môn. Có thể biến hóa thân làm trăm ngàn ức na-do-tha thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại, thắng thượng thì diệu lực của Bồtát còn vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số thứ loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh v.v… Các thứ thần thông đó, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.

* Luận nêu: Hộ trì chánh pháp của chư Phật: Là ở trong Tam thiên đại thiên thế giới được xem là bậc Đại sư, tu tập hành phương tiện đầy đủ, lấy việc hộ trì pháp làm đầu, tạo lợi ích cho chúng sinh, nên pháp nhẫn càng hiển hiện.

Về giải thích tên gọi của Địa này: Nên biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy lại có thể tạo lợi ích cho chúng sinh, nên pháp nhẫn càng chuyển tăng thanh tịnh”. Tu hành công đức đạt đến tận cùng nên gọi là Địa Viễn Hành, hết thảy các thứ báu đều đầy đủ, trang nghiêm.

Dụ về vàng ròng: Là chỉ rõ về tất cả pháp phần Bồ-đề, với hành phương tiện, công dụng đầy đủ, nên nơi Địa này, các thứ căn thiện đều trở nên sáng, sạch, thù thắng trội bật. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc v.v… cho đến: Hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể làm trở ngại”.

Dụ về ánh sáng mặt trời: Như nơi Địa trước đã nói. Nhưng Địa này hơn hẳn. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như ánh sáng của mặt trời v.v… cho đến: Lại có thể làm khô cạn những vũng bùn đọng phiền não nơi tất cả chúng sinh”.

Các phần còn lại: Như trước đã giải thích.

HẾT – QUYỂN 9