LUẬN KINH THẬP ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỀN 6

Địa thứ tư: ĐỊA DIỆM

* Luận nêu: Địa thứ tư của bậc Bồ-tát là Địa Diệm, tức dựa nơi Tam-muội thanh tịnh của Bồ-tát kia, hiển bày sự lãnh hội, hành trì đúng như thật nơi trí thanh tịnh. Sự sai biệt của Địa này có 4 phần:

  1. Nêu nhân tăng trưởng của sự tu hành đối trị đạt thanh tịnh.
  2. Nêu sự thanh tịnh.
  3. Nêu sự tu hành đối trị tăng trưởng.
  4. Nêu quả.

1. Thế nào là Nêu nhân tăng trưởng của sự tu hành đối trị đạt thanh tịnh:10 pháp Minh nhập.

* Kinh nói:Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được Địa thứ ba của bậc Bồ-tát, đầy đủ ánh sáng thanh tịnh rồi, muốn chứng đắc Địa thứ tư của bậc Bồ-tát, phải dùng mười pháp Minh nhập để hội nhập Địa thứ tư. Những gì là mười? Đó là:

  1. Lượng xét về cảnh giới của chúng sinh để minh nhập.
  2. Lượng xét về thế giới để minh nhập.
  3. Lượng xét về pháp giới để minh nhập.
  4. Lượng xét về hư không giới để minh nhập.
  5. Lượng xét về thức giới để minh nhập.
  6. Lượng xét về Dục giới để minh nhập.
  7. Lượng xét về Sắc giới để minh nhập.
  8. Lượng xét về Vô sắc giới để minh nhập.
  9. Lượng xét về cảnh giới của tâm thù thắng quyết định tin tưởng để minh nhập.
  10. Lượng xét về cảnh giới của tâm lớn lao quyết định tin tưởng để minh nhập.

Này các Phật tử! Bồ-tát do 10 pháp Minh nhập này nên được vào Địa thứ tư”.

* Luận nêu: Pháp Minh nhập: Là chứng đắc ánh sáng của trí địa, dựa nơi ánh sáng của trí ấy để hội nhập trong giáo pháp do Như Lai thuyết giảng. Trí ấy gọi là Pháp Minh nhập. Pháp do Phật nêu giảng, Bồ-tát dùng chánh quán để lượng xét, nhận biết đúng như thật, hai xứ đều thuận hành. Sự lượng xét ấy có 10 thứ sai khác:

1. Sai khác do lượng xét phân biệt về cảnh giới chúng sinh là giả danh. Như kinh nói: “Lượng xét về cảnh giới chúng sinh để minh nhập”.

2. Phân biệt do y trụ. Như kinh nói: “Lượng xét về thế giới để minh nhập”.

3. Phân biệt do nhiễm. Như kinh nói: “Lượng xét về pháp giới để minh nhập”.

4. Phân biệt do vô tận. Như kinh nói: “Lượng xét về hư không giới để minh nhập”.

5. Phân biệt do nương dựa vào nhiễm tịnh. Như kinh nói:

“Lượng xét về thức giới để minh nhập”.

1. Phân biệt do phiền não, sử cấu nhiễm. Như kinh nói: “Lượng xét về Dục giới để minh nhập.

2. Lượng xét về Sắc giới để minh nhập.

3. Lượng xét về Vô sắc giới để minh nhập”.

4. Phân biệt do thanh tịnh. Như kinh nói: “Lượng xét về cảnh giới của tâm thù thắng quyết định tin tưởng để minh nhập.

5. Lượng xét về cảnh giới của tâm lớn lao quyết định tin tưởng để minh nhập”.

Trong đoạn này: Phiền não, sử cấu nhiễm: Tức chỉ cho ba cõi. Thanh tịnh: Nơi hai câu sau (9, 10): Một là dựa nơi phiền não nhưng không nhiễm. Hai là dựa nơi nghĩa đồng, chẳng đồng: Không xả bỏ chúng sinh, hàng Thanh văn v.v…

2. Thế nào là Nêu sự thanh tịnh: Tức ở nơi nhà của Như Lai chuyển tăng có uy lực.

* Kinh nói:Này các Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được Địa Diệm của bậc Bồ-tát, tức ở nơi nhà của Như Lai chuyển tăng có uy lực, đạt pháp bên trong kia, nên dùng mười thứ pháp trí để giáo hóa tạo các thành tựu đầy đủ. Những gì là mười? Đó là:

  1. Tâm không thoái chuyển.
  2. Đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính trọn vẹn.
  3. Phân biệt quán xét về hành sinh diệt.
  4. Phân biệt quán xét về tự tánh của các pháp là chẳng sinh.
  5. Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian.
  6. Phân biệt quán xét về chỗ hữu sinh của nghiệp.
  7. Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn.
  8. Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi chúng sinh, thế giới, nghiệp.
  9. Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi biên vực trước sau.
  10. Phân biệt quán xét về chỗ tận cùng của vô sở hữu.

Này các Phật tử! Bồ-tát như vậy, đối với mười thứ pháp trí giáo hóa thành thục, tức ở nơi nhà của Như Lai chuyển tăng có uy lực đạt được pháp bên trong kia”.

* Luận nêu: Thế nào là ở nơi nhà của Như Lai chuyển tăng có uy lực? Tức nương dựa nơi trí đa văn rốt ráo, trừ diệt các chướng ngại của trí, thâu tóm chỗ thù thắng. Ở đây, nhà của Như Lai thanh tịnh thù thắng như thế, do đó gọi là đạt được pháp bên trong kia. Tự thân của Như Lai hiện có các pháp, do các pháp ấy hiển bày về Như Lai, tức là mười thứ pháp trí giáo hóa thành thục. Pháp minh nhập ấy đồng thời đạt được, nên biết.

Bồ-tát lại có 4 thứ trí để giáo hóa, gọi là pháp trí giáo hóa thành thục:

1. Trí tự trụ xứ rốt ráo. Như kinh nói: “Tâm không thoái chuyển”.

2. Trí đồng kính Tam bảo rốt ráo. Như kinh nói: “Đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính trọn vẹn”.

3. Trí chân như. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về hành sinh diệt. Phân biệt quán xét về tự tánh của các pháp là chẳng sinh”.

4. Trí phân biệt đối tượng thuyết giảng. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian. Phân biệt quán xét về chỗ hữu sinh của nghiệp. Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn v.v…”.

Tự trụ xứ của Bồ-tát: Là pháp Đại thừa.

Hai pháp đầu ở đây: Tâm không thoái chuyển, tâm đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính trọn vẹn là hai trí đầu: Trí tự trụ xứ rốt ráo, trí đồng kính Tam bảo rốt ráo, để giáo hóa thành thục.

Hai pháp tiếp theo: Phân biệt quán xét về các hành sinh diệt. Phân biệt quán xét về tự tánh của các pháp là chẳng sinh, là trí chân như. Nghĩa là quán về chúng sinh và pháp đều vô ngã. Thứ lớp phân biệt như vậy nên biết.

Phần còn lại: Là trí phân biệt đối tượng thuyết giảng.

Bồ-tát lại dựa nơi chỗ nhiễm, tịnh của phiền não: Theo chỗ nhiễm của phiền não, là do phiền não cấu nhiễm. Chỗ tịnh hiện có, là theo chỗ tịnh.

Thế nào là theo chỗ nhiễm của phiền não? Tức thuận nơi khí thế gian. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian”. Chúng sinh, thế gian sinh, cùng nhân thọ sinh. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về chỗ hữu sinh của nghiệp”.

Thế nào là phiền não cấu nhiễm? Tức là thế gian.

Thế nào là chỗ tịnh hiện có? Tức là Niết-bàn. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn”.

Thế nào là theo chỗ tịnh? Là trong thế giới của chư Phật, giáo hóa chúng sinh thành thục về tự nghiệp. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi chúng sinh, thế giới, nghiệp”.

Phiền não nhiễm và tịnh tức biên vực trước, biên vực sau. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi biên vực trước sau”.

Biên vực trước sau kia không giảm không tăng. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về chỗ tận cùng của vô sở hữu”.

Ở trong pháp nhiễm, không thấy một pháp có thể giảm. Ở nơi pháp tịnh, không thấy một pháp có thể tăng.

3. Thế nào là Đối trị? Là tu hành tăng trưởng. Có 2 thứ:

  1. Tu hành cứu hộ thoát khỏi phiền não cấu nhiễm.
  2. Tu hành cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa.

Thế nào là Tu hành cứu hộ thoát khỏi phiền não cấu nhiễm? Là tu hành các pháp phần Bồ-đề.

* Kinh nói:Bồ-tát ấy, an trụ nơi Địa Diệm của bậc Bồ-tát này rồi, quán về nội thân, theo thân mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ những tham ưu của thế gian. Quán ngoại thân, theo thân mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ những tham ưu của thế gian. Quán nội ngoại thân, theo thân mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ những tham ưu của thế gian. Cũng như vậy, quán nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ, quán nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm. Cũng như vậy, quán nội pháp, theo pháp mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ hết tham ưu của thế gian. Quán ngoại pháp, theo pháp mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ hết tham ưu của thế gian. Quán nội ngoại pháp, theo pháp mà quán xét, tinh tấn, nhất tâm dứt trừ hết tham ưu của thế gian.

Bồ-tát ấy, đối với các pháp ác, bất thiện chưa sinh thì làm cho chúng không sinh. Chúng sắp sinh thì siêng năng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Đối với các pháp ác, bất thiện đã sinh thì đoạn trừ. Chúng sắp sinh nữa thì siêng năng tinh tấn phát tâm chánh đoạn trừ. Đối với pháp thiện chưa sinh thì khiến cho sinh. Chúng sắp sinh thì siêng năng tinh tấn phát tâm chánh hành. Đối với các pháp thiện đã sinh, thì khiến cho chúng an trụ, không mất, tu tập đầy đủ, làm tăng trưởng rộng khắp. Chúng sắp sinh nữa thì siêng năng tinh tấn phát tâm chánh hành. Bồ-tát ấy, tu hành bốn như ý phần, thành tựu hành dục định đoạn. Tu như ý phần, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả, thành tựu hành tinh tấn định đoạn. Tu như ý phần, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả, thành tựu hành tâm định đoạn. Tu như ý phần, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả, thành tựu hành tư duy định đoạn.

Bồ-tát ấy, tu hành căn tín, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả. Tu hành căn tinh tấn, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả. Tu hành căn niệm, căn định, căn tuệ, dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả.

Bồ-tát ấy, tu hành về năm lực (Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ) đều dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả.

Bồ-tát ấy, tu hành về bảy giác phần (Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, ỷ – khinh an, định, xả) đều dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả.

Bồ-tát ấy, tu hành về tám đạo (Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) đều dựa nơi sự nhàm chán, dựa nơi sự xa lìa, dựa nơi sự diệt trừ, hồi hướng về xả”.

– Luận nêu: Thế nào là Tu hành cứu hộ thoát khỏi Tiểu thừa? Là không xả bỏ tất cả chúng sinh, nên tu hành pháp trợ Bồ-đề phần.

– Kinh nói:Bồ-tát này, do tâm không xả bỏ tất cả chúng sinh nên hành trì. Do bản nguyện phát khởi đã thuần thục trọn vẹn, nên dùng đại bi làm đầu, thành tựu tâm đại từ, quán xét trí Nhất thiết trí, vì dấy khởi việc làm trang nghiêm cõi Phật, vì nhằm gồm đủ các pháp vô úy, mười lực, mười tám pháp bất cộng, các tướng tốt trang nghiêm của Phật, đầy đủ âm thanh vi diệu, vì nhằm cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng, vì tùy thuận để lãnh hội pháp Phật hết mực sâu xa, giải thoát, vì tư duy về phương tiện lớn, nên hành trì”.

– Luận nêu: Tâm không xả bỏ tất cả chúng sinh: Tâm không xả bỏ chúng sinh ấy có 4 thứ:

  1. Khởi đầu.
  2. Tạo lợi ích.
  3. Mong cầu.
  4. Hành trì.

Khởi đầu: Tức là bản nguyện. Như kinh nói: “Bản nguyện phát khởi đã thuần thục trọn vẹn”.

Tạo lợi ích: Là thương xót. Như kinh nói: “Dùng đại bi làm đầu, thành tựu tâm đại từ”.

Mong cầu: Là cầu đạt trí Phật. Như kinh nói: “Quán xét trí Nhất thiết trí”.

Hành trì: Là tu hành. Tu hành có 5 thứ.

1. Tu hành nơi cõi tịnh. Như kinh nói: “Vì dấy khởi việc làm trang nghiêm cõi Phật”.

2. Tu hành dấy khởi pháp Phật. Như kinh nói: “Vì nhằm gồm đủ các pháp vô úy, mười lực, mười tám pháp bất cộng, các tướng tốt trang nghiêm của Phật, đầy đủ âm thanh vi diệu”. Âm thanh vi diệu là tiếng loa pháp.

3. Tu hành theo phương tiện của địa kia không cho là chánđủ. Như kinh nói: “Vì nhằm cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng”.

4. Tu hành hội nhập nơi địa không thoái chuyển. Như kinh nói: “Vì tùy thuận để lãnh hội pháp Phật hết mực sâu xa, giải thoát”.

5. Tu hành giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Vì tư duy về phương tiện lớn, nên hành trì”.

4. Thế nào là Nêu quả của sự tu hành đối trị tăng trưởng?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, đối với thân kiến hiện có, được xem là đứng đầu, đối với ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, ấm, giới, nhập, ngã mạn. Các sự việc như vậy dấy khởi hiện ra hay ẩn mất, tư duy, nhiều xem xét, đối chiếu, so sánh, khởi ngã, giữ gìn, nơi chốn tham chấp. Bồ-tát ấy, đối với các sự việc như thế thảy đều đoạn trừ”.

– Luận nêu: Quả của sự tu hành đối trị tăng trưởng: Là trí của ngã, trí lớn, ngã tu tập, ngã sở tu tập. Như thế, cùng với các sự việc hiện ra, ẩn mất v.v… thảy đều diệt trừ.

Hiện ra: Là Tam-muội phát khởi.

Ẩn mất: Là Tam-muội dứt mất.

Chỗ thảy đều diệt trừ của Bồ-tát: Lại có 5 thứ: (1) Gốc. (2) Dấy khởi. (3) Hành. (4) Giữ gìn. (5) Lỗi lầm.

Gốc: Tức dựa nơi thân kiến làm gốc. Ngã mạn nơi chúng sinh, ngã mạn nơi pháp có sai biệt như thế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với thân kiến hiện có, được xem là đứng đầu v.v…”.

Dấy khởi: Là khởi tư duy không chân chánh. Như kinh nói: “Tư duy”. Hành: Là khiến người khác nhận biết. Như kinh nói: “Nhiều xem xét”.

Giữ gìn: Là luôn luôn xem xét. Dấy khởi ngã tưởng, thọ trì. Như kinh nói: “Đối chiếu, so sánh, khởi ngã, giữ gìn”. Lỗi lầm: Là các sự việc như chốn an ổn của tâm. Như kinh nói: “Nơi chốn tham chấp”.

Các sự việc hiện ra, ẩn mất v.v… trong sự việc học hành như thế thảy đều xa lìa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với các sự việc như thế thảy đều đoạn trừ”.

Đây là dựa nơi phiền não cấu nhiễm sinh quả xa lìa.

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, đối với nghiệp không thể tạo tác hiện có, đối với các thứ phiền não cấu nhiễm bị Như Lai quở trách, tất cả đều không hành trì. Đối với nghiệp có thể tạo tác hiện có, thuận theo hạnh Bồ-tát, được Như Lai tán thán, tất cả nên tu hành đúng đắn”.

– Luận nêu: Ở đây:

Nghiệp không thể tạo tác hiện có:2 thứ sự việc khiến không nên làm:

1. Không tôn kính Như Lai, Phật không tán thán.

2. Sợ tiếng tăm xấu, sinh phiền não. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với nghiệp không thể tạo tác hiện có, đối với các thứ phiền não cấu nhiễm bị Như Lai quở trách, tất cả đều không hành trì”.

Nghiệp có thể tạo tác hiện có:2 thứ sự việc do đó nên làm:

1. Thấy rõ không có danh, lợi xấu ác, thuận theo hạnh Bồ-tát.

2. Tôn kính Như Lai, được Phật tán thán. Như kinh nói: “Đối với nghiệp có thể tạo tác hiện có, thuận theo hạnh Bồ-tát, được Như Lai tán thán, tất cả nên tu hành đúng đắn”.

Đây là dựa nơi nghiệp cấu nhiễm sinh quả xa lìa.

Bồ-tát ấy lại chuyển tăng, tùy từng chỗ, từng nơi, với trí phương tiện đã phát khởi tu hành trợ đạo phần. Như vậy, như vậy, thành tựu tâm nhuận ích v.v…”: Bốn mươi câu như thế v.v… là hiển bày 4 thứ quả:

1. Ở trong công đức thù thắng sinh tâm mong muốn tăng thượng.

2. Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia phát khởi hành  báo ân.

3. Trong hành phương tiện kia phát khởi sự siêng năng tinh tấn.

4. Nơi sự mong muốn tăng thượng kia cảnh giới nơi tâm gốc luôn đầy đủ.

a. Thế nào là ở trong công đức thù thắng sinh tâm mong muốn tăng thượng?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy lại chuyển tăng, tùy từng chỗ từng nơi, với trí phương tiện đã phát khởi tu hành trợ đạo phần. Như vậy, như vậy, thành tựu tâm nhuận ích, tâm mềm dịu, tâm thuận hợp, tâm an ổn vui thích, tâm không cấu nhiễm, tâm chuyển tăng cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng, tâm chuyển tăng cầu đạt thắng trí, tâm cứu độ tất cả thế gian, tâm cung kính các bậc Thầy, tùy thuận thọ giáo, tâm theo chỗ pháp được nghe dốc sức tu tập”.

– Luận nêu: Nơi đoạn này:

Tùy từng chỗ từng nơi, với trí phương tiện đã phát khởi tu hành: Là tu hành không xả bỏ tất cả chúng sinh, như trước đã nói.

Trợ đạo phần: Là tất cả chi đạo của pháp Bồ-đề phần.

Như vậy, như vậy, thành tựu tâm nhuận ích: Là yêu kính, mong muốn sâu xa.

Tâm nhuận ích ấy có 3 thứ tướng:

1. Thù thắng do ưa thích hành trì. Như kinh nói: “Tâm mềm dịu”.

2. Thù thắng do Tam-muội tự tại. Như kinh nói: “Tâm thuận hợp”.

3. Thù thắng do đối trị lìa lỗi lầm. Như kinh nói: “Tâm an ổn vui thích”.

Lỗi lầm kia lại có 6 thứ:

1. Lỗi lầm về tiếp nhận. Hoặc lỗi lầm do có tâm ganh ghét trong sự thuyết pháp. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm không cấu nhiễm”.

2. Lỗi lầm do ít mong muốn về công đức. Không ưa thích hành trì nhiều bố thí, đầu đà. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm chuyển tăng cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng”.

3. Lỗi lầm do ít mong muốn trí tuệ, không Thích-cầu đạt thắng trí. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm chuyển tăng cầu đạt thắng trí”.

4. Lỗi lầm do biếng trễ, không siêng năng giáo hóa chúng sinh. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm cứu độ tất cả thế gian”.

5. Lỗi lầm do tự kiến thủ, đối với giáo pháp tôn quý, tâm không tùy thuận. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm cung kính các bậc Thầy, tùy thuận thọ giáo”.

6. Lỗi lầm do xả bỏ hết, không theo lời giảng nói để hành trì. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm theo chỗ pháp được nghe dốc sức tu tập”.

“Như vậy, như vậy, thành tựu tâm nhuận ích v.v…”: Mười câu này gọi là Quả thứ nhất của việc Ở trong công đức thù thắng sinh tâm mong muốn tăng thượng.

b. Thế nào là trong sự tôn kính người thuyết pháp kia phát khởi hành báo ân?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy thành tựu tâm biết ân, tâm biết báo ân như thế, chuyển tăng nhu hòa, cùng trụ nơi an lạc. Thành tựu tâm chánh trực, tâm mềm dịu, không có hành nơi rừng rậm phiền não, không có dua nịnh quanh co, không có ngã mạn, khéo thọ nhận sự chỉ dạy, đạt được ý của người thuyết giảng, thành tựu tâm thiện như thế, thành tựu tâm tịch diệt như thế, thành tựu tâm hoàn toàn tịch diệt như thế”.

– Luận nêu: Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia, phát khởi hành báo ân, tâm biết ân kia v.v…: Mười câu (Đợt 2) này đã chỉ rõ về điều ấy. Ở đây:

Thành tựu tâm biết ân: Là hành báo ân của hành tùy thuận. Hành báo ân có 9 thứ: Dựa nơi sự tôn kính khởi tâm báo ân. Như kinh nói: “Tâm biết báo ân như thế”. Dựa nơi đồng pháp, khởi tâm dẫn dắt, giúp đỡ. Như kinh nói: “Chuyển tăng nhu hòa, cùng trụ nơi an lạc”. Dựa nơi nẻo hành pháp, tùy thuận thọ nhận sự giáo hóa phát khởi khả năng nhẫn chịu các việc. Như kinh nói: “Thành tựu tâm chánh trực, tâm mềm dịu”. Dựa nơi sự thọ dụng ăn uống, ở chỗ thí chủ, không che giấu lỗi lầm của mình, không khoe khoang đức độ của mình. Như kinh nói: “Không có hành nơi rừng rậm phiền não, không có dua nịnh quanh co”. Dựa nơi công đức thù thắng của mình, không khởi tâm cao ngạo. Như kinh nói: “Không có ngã mạn”. Dựa nơi sự giáo hóa, thọ nhận đúng đắn lời giảng nói. Như kinh nói: “Khéo thọ nhận sự chỉ dạy”. Dựa nơi sự chỉ dạy, thọ nhận không điên đảo. Như kinh nói: “Đạt được ý của người thuyết giảng”. Bồ-tát như vậy là ở nơi chỗ bậc tôn kính kia, tu tập hành báo ân.

Thành tựu tâm thiện như thế: Là tu hành đối trị tăng trưởng.

Thành tựu tâm tịch diệt như thế: Là diệu lực thứ nhất của sự tu hành đối trị tăng trưởng.

Thành tựu tâm tịch diệt hoàn toàn như thế: Là nói về quả nơi hai câu trước đã hiển bày.

Đó gọi là Quả thứ hai của Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia phát khởi hành báo ân.

c. Thế nào là trong hành phương tiện kia phát khởi sự siêng năng tinh tấn?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, thành tựu tinh tấn không ngừng nghỉ như thế, thành tựu tinh tấn không tạp nhiễm, tinh tấn không thoái chuyển, tinh tấn rộng khắp, tinh tấn vô biên, tinh tấn sáng tỏ, tinh tấn không gì sánh bằng, tinh tấn không hoại, tinh tấn giáo hóa tất cả chúng sinh, tinh tấn khéo phân biệt đạo đúng đạo không đúng”.

– Luận nêu: Ở trong hành phương tiện kia phát khởi sự siêng năng tinh tấn, thành tựu tinh tấn không ngừng nghỉ v.v…: Mười câu (Đợt 3) này chỉ rõ về tinh tấn không ngừng nghỉ.

Tinh tấn này có 9 thứ:

1. Tinh tấn ấy được thể hiện một cách thuần nhất bình đẳng. Như kinh nói: “Tinh tấn không tạp nhiễm”. Tạp nhiễm là chỉ cho vừa lười biếng vừa cấu nhiễm, hoặc thái quá hoặc bất cập.

2. Đối với thừa của mình không động. Như kinh nói: “Tinh tấn không thoái chuyển”.

3. Nhớ nghĩ rộng khắp. Như kinh nói: “Tinh tấn rộng khắp”.

4. Vì vô lượng chúng sinh tạo lợi ích, nguyện thâu giữ, dẫn dắt. Như kinh nói: “Tinh tấn vô biên”.

5. Luôn chí tâm hành trì thuận hợp. Như kinh nói: “Tinh tấn sáng tỏ”.

6. Tu tập vượt hơn các thứ tinh tấn khác. Như kinh nói: “Tinh tấn không gì sánh bằng”.

7. Các thứ hành của ma phiền não không thể phá hoại. Như kinh nói: “Tinh tấn không hoại”.

8. Thâu giữ, dẫn dắt. Như kinh nói: “Tinh tấn giáo hóa tất cả chúng sinh”.

9. Có thể đoạn trừ nghi hoặc, hàng phục ngôn thuyết của người khác, tu tập chân chánh. Như kinh nói: “Tinh tấn khéo phân biệt đạo đúng đạo không đúng”.

Đó gọi là Quả thứ ba của Trong hành phương tiện kia phát khởi sự siêng năng tinh tấn.

d. Thế nào là Nơi sự mong muốn tăng thượng kia cảnh giới nơi tâm gốc luôn đầy đủ?

– Kinh nói:Bồ-tát ấy, nơi cảnh giới của tâm sâu xa chuyển tăng thanh tịnh. Cảnh giới của tâm sâu xa không mất. Lĩnh vực tin hiểu chuyển tăng sáng tỏ, thông suốt, căn thiện đã sinh càng tăng trưởng, xa lìa các thứ uế trược của thế gian, đoạn trừ các tâm nghi, hiện tiền đầy đủ, không có lưới nghi, thành tựu hỷ lạc, được Như Lai hiện tiền gia hộ, thành tựu tâm sâu xa vô lượng hiện tiền”.

– Luận nêu: Mười câu (Đợt 4) chỉ rõ về cảnh giới của tâm kia chuyển tăng thanh tịnh.

Cảnh giới của tâm: Là tâm dựa nơi Bồ-đề phần, như câu đầu đã chỉ rõ.

Cảnh giới của tâm thanh tịnh có 9 thứ:

1. Tâm đạo kia tu hành tăng tiến. Như kinh nói: “Cảnh giới của tâm sâu xa không mất”.

2. Ở trong chỗ chứng đắc thắng thượng, chuyển sinh tâm quyết định. Như kinh nói: “Lĩnh vực tin hiểu chuyển tăng sáng tỏ, thông suốt”.

3. Nhân đối trị tăng trưởng. Như kinh nói: “Căn thiện đã sinh càng tăng trưởng”.

4. Diệt trừ các chướng ngại. Như kinh nói: “Xa lìa các thứ uế trược của thế gian”.

5. Đoạn trừ các sự nghi ngờ ẩn kín đối với Địa này. Như kinh nói: “Đoạn trừ các tâm nghi”.

6. Do đoạn trừ nghi nên đối với các xứ khác luôn quyết định. Như kinh nói: “Hiện tiền đầy đủ, không có lưới nghi”.

7. Dựa nơi hành an lạc thù thắng. Như kinh nói: “Thành tựu hỷ lạc”.

8. Dựa nơi diệu lực để giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Được Như Lai hiện tiền gia hộ”.

9. Dựa nơi tâm Tam-muội vô lượng hiện có, những chướng ngại của trí đều được thanh tịnh. Như kinh nói: “Thành tựu tâm sâu xa vô lượng hiện tiền”.

Đó gọi là Quả thứ tư của Nơi sự mong muốn tăng thượng kia cảnh giới nơi tâm gốc luôn đầy đủ.

* Kinh nói:Bồ-tát ấy, trụ nơi Địa Diệm của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, nên được thấy nhiều trăm Phật, cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, được thấy nhiều ức Phật cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, đại nguyện, nên Bồ-tát này, khi gặp Phật đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa tôn trọng, cung kính, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả các vật dụng cúng dường thảy đều phụng thí, dùng các thứ các loại tạo nên an lạc thượng diệu của bậc Bồ-tát cúng dường cho chúng Tăng, đem các căn thiện này, đều nguyện hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ở nơi trụ xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính tột bậc, một lòng lắng nghe chánh pháp, nghe rồi thì thọ trì, tùy sức tu tập, ở trong pháp của chư Phật xuất gia học đạo. Bồ-tát ấy, nơi tâm sâu xa quyết định tin hiểu, càng trở nên sáng tỏ, thanh tịnh.

Bồ-tát ấy, trụ nơi Địa Diệm của bậc Bồ-tát, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, tâm sâu xa luôn quyết định tin hiểu thanh tịnh, bình đẳng, các căn thiện kia càng chuyển tăng sáng sạch, thù thắng.

Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ gốc, được các thợ kim hoàn khéo léo luyện, sửa, tạo ra những vật dụng trang sức đẹp đẽ thành tựu không mất. Những vật dụng không phải là trang sức khác, đối với vàng ròng tất không thể sánh kịp.

Này các Phật tử! Bồ-tát kia cũng như vậy. Trụ nơi Địa Diệm của bậc Bồ-tát này, những căn thiện kia thành tựu, không thoái chuyển, căn thiện của Địa dưới không thể sánh kịp.

Này các Phật tử! Ví như ngọc báu Ma ni phát sinh ánh sáng, vầng ánh sáng thanh tịnh có thể phóng ra ánh sáng nữa, thành tựu không mất. Ánh sáng của những vật báu khác không thể xâm đoạt.

Hết thảy mọi trường hợp gió giật, mưa dồn, nước tưới, ánh sáng kia cũng không tắt.

Này các Phật tử! Cũng vậy, Bồ-tát an trụ nơi Địa Diệm của bậc Bồ-tát này, những Bồ-tát ở Địa dưới không thể theo kịp. Tất cả các thứ ma cùng các loại phiền não đều không thể phá hoại. Bồ-tát ấy, trong bốn Nhiếp pháp, thì đồng sự là hơn hẳn, trong mười Ba-la-mật thì Tinh tấn Ba-la-mật tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng là theo sức, theo phần.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về Địa Diệm, là Địa thứ tư của bậc Bồ-tát. Chư Bồ-tát trụ trong Địa này, nhiều lần làm Thiên vương cõi trời Tu-dạ-ma, những sự tạo tác đều tự tại, diệt trừ các thứ kiến chấp về thân của chúng sinh. Dùng phương tiện thiện xảo, khiến cho các chúng sinh an trụ trong chánh kiến, những nghiệp thiện đã làm như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hạnh của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm mười Địa, niệm diệu lực không hoại, niệm vô úy, niệm pháp bất cộng của Phật. Cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn sinh tâm này: Ta phải, đối với hết thảy chúng sinh, là người đứng đầu, là hơn hẳn, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí.

Bồ-tát lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tấn, do diệu lực của tinh tấn, nên trong khoảng một niệm, đạt được ức Tam-muội, có thể thấy ức Phật, có thể nhận biết ức thần lực của Phật, có thể làm chuyển động ức thế giới của Phật, có thể đi vào ức thế giới của Phật, có thể soi chiếu ức thế giới của Phật, có thể hóa độ chúng sinh nơi ức thế giới của Phật, có thể trụ trong ức kiếp, có thể biết rõ về sự việc nơi ức kiếp của đời quá khứ, vị lai, có thể khéo hội nhập nơi ức pháp môn, có thể biến hóa thân làm ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại, thắng thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Bồ-tát thị hiện đủ các thứ các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành hóa, hoặc làm trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo nghiệp. Các thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.

* Luận nêu: Bồ-tát ấy, nơi tâm sâu xa luôn quyết định tin hiểu thanh tịnh, bình đẳng, các căn thiện kia càng chuyển tăng sáng sạch, thù thắng: Như các Bồ-tát nơi Địa thanh tịnh khác.

Dụ về vàng ròng tạo ra các vật dụng trang sức: Là dụ cho A-hàm (Pháp không gì sánh) nơi trí hiện tác chứng trang nghiêm, chỉ rõ về trí chứng đắc. Như kinh nói: “Ví như vàng ròng từ gốc v.v…”.

Dụ về ngọc báu Ma ni phát sinh ánh sáng: Là ánh sáng pháp nơi trí chứng đắc của Bồ-tát, như ánh sáng nơi ngọc báu Ma ni, phóng ra ánh sáng của pháp không gì sánh, nhập vào vô lượng pháp môn, chỉ rõ nghĩa Ánh sáng nơi cảnh giới của Trí soi chiếu khắp. Do ý nghĩa ấy nên Địa này được gọi là Diệm (Ánh lửa). Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như ngọc báu Ma ni phát sinh ánh sáng v.v…”.

Phát sinh ánh sáng: Là có đầy đủ ánh sáng.

Vầng ánh sáng thanh tịnh: Là ánh sáng viên mãn, không cấu nhiễm.

Những sự tạo tác đều tự tại: Tức phá trừ thân kiến của các chúng sinh, trong đó, tạo tác là chỗ tạo tác, tự tại là năng lực.

Phần còn lại: Như trước đã nói, nên biết.

HẾT – QUYỂN 6