LUẬN GIẢI THOÁT ĐẠO 
(Con đường giải thoát)
A-la-hán Ưu-ba-để-sa tạo luận
Tam tạng Tăng-già-bà-la dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 4

Phẩm 8: HÀNH MÔN 1

Hỏi: Thế nào là Địa nhất thiết nhập ? Tu hành như thế nào ? Tướng như thế nào ? Vị như thế nào ? Hành xứ thế nào ? Được các công đức gì ? Nhất thiết nhập là ý nghĩa gì ? Có bao nhiêu loại ? Sao lấy tướng là đất ? Làm sao tác pháp Mạn-đà-la ? Tu hành Địa pháp như thế nào ?

Đáp: Tâm người tu hành nương theo tướng đất sinh, do đó gọi là Địa nhất thiết nhập. Tâm trụ nơi tướng đất không loạn, đó là tu hành theo pháp Địa nhất thiết nhập. Khéo vui thích ý tưởng bám đất là tướng. Không xả bỏ là vị. Ý không có niệm nào khác là xứ.

Có các công đức gì ?

Có 12 công đức sinh ra do Địa nhất thiết nhập là:

  1. Tướng nầy dễ được trong mọi thời gian.
  2. Qua mọi hoạt động tâm không trở ngại.
  3. Tâm được dễ dàng trong mọi hành xứ.
  4. Tâm không trở ngại trong mọi hành xứ.
  5. Được thần thông như ý.
  6. Đi trên mặt nước, bay trên không trung như đi trên mặt đất.
  7. Nhận rõ mọi loại sắc.
  8. Biết rõ niệm ban đầu.
  9. Biết rõ các kiếp trước.
  10. Được thiên nhĩ. Phân biệt rõ các cảnh giới.
  11. Đi theo các nẻo thiện.
  12. Đến bờ cam lộ.

Hỏi: Nhất thiết nhập nghĩa là gì ?

Đáp: Là thấm nhập vào khắp tất cả. Như Phật nói trong bài kệ:

Nếu nhớ công đức Phật,

Hoan hỷ khắp châu thân

Quán Địa nhất thiết nhập,

Đầy cõi Diêm-phù-đề.

Quán này duyên đất sinh,

Tâm hoan hỷ cũng vậy.

Tu quán như vậy thấy Mạn-đà-la thấm nhập vào tất cả.

Hỏi: Đất có mấy loại ? Tu tướng đất như thế nào ?

Đáp: Đất có 2 loại: đất tự tướng và đất tạo thành.

Cứng chắc là tự tướng của địa giới, gọi là đất tự tướng. Nếu tự mình đào xới lên, hoặc bảo người đào xới, đó là đất do tạo tác làm ra, gọi là đất tạo thành.

Đất có 4 màu sắc: trắng, đen, đỏ và sáng. Nơi đất tự tướng, người ngồi thiền không nên tác ý vào tướng của đất, mà nên loại trừ 3 màu sắc trắng, đen và đỏ.

Vì sao vậy ? Vì quán tưởng vào tự tướng của đất thì từ đó không khởi các phần tướng khác. Nếu lấy màu trắng, đen, đỏ thì trở thành quán Sắc nhất thiết nhập.

Vì sao vậy ? Quán tự tướng của đất phải lìa các màu trắng, đen và đỏ, dù tạo tác không tạo tác phải giữ lấy tướng đất, khi tướng sáng hiện lên thì phải giữ lấy tướng đất đó.

Hỏi: Sao gọi là đất không tạo tác ?

Đáp: Trong tầm nhìn nơi nào cũng thấy bằng phẳng, không có bụi rậm, cây trơ trụi, khiến khởi tưởng về đất đó là tướng đất không tạo tác.

Người ngồi thiền kỳ cựu, tuỳ vui hay không vui, liền thấy được tướng phần khác của đất mà an trụ trong phần không thoái chuyển.

Người mới tập thiền muốn giữ lấy tướng đất tạo tác, tạo Mạnđà-la, mà không quán đất không tạo tác.

Hỏi: Thế nào là tạo Mạn-đà-la ?

Đáp: Nếu người ngồi thiền muốn tạo Mạn-đà-la trên đất, trước nên tìm nơi tĩnh mịch, hoặc ở chùa, hoặc nơi hang đá, hoặc dưới bóng cây, tránh ở nơi u ám không ánh mặt trời, hoặc nơi gần đường người qua lại. Tại nơi đó, cách xa chừng một tầm, tưới quét sạch sẽ để cho đất khô ráo. Nơi đó, khi mặt trời lên màu đất làm phát khởi tướng đất. Với dung nghi cung kính, tính trước một số vừa phải, rồi cầm thau lấy nước hòa với đất, loại bỏ cỏ rác, rễ cây, các vật không sạch, dùng chéo khăn vắt chất bùn ướt lên nơi đất sạch. Chỗ ngồi được che ánh nắng nơi đất sạch, không cách quá xa mà cũng không quá gần. Dùng thước đo quay một vòng tròn, bên trong bằng phẳng, không có ngấn cao thấp. Sau đó, dùng bùn trét lên đất, không cho có màu tạp lẫn lộn vào đất rồi che lại giữ yên cho đến khi thật khô. Đến khi khô, dùng một màu khác vẽ bọc vòng phiá ngoài, trông lớn bằng như một cái sàng gạo hoặc một cái đồng la, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc 3 góc, hay 4 góc đều có tác dụng khác biệt.

Theo Đức Bản Sư nói thì làm Mạn-đà-la hình tròn là tốt nhất. Mạn-đà-la có thể làm trên tấm vải, trên mặt gỗ, trên vách tường đều được, nhưng trên mặt đất là tốt nhất.

Hỏi: Thế nào là pháp tu Địa nhất thiết nhập ?

Đáp: Người ngồi thiền muốn tu hành theo pháp Địa nhất thiết nhập, trước hết phải quán các lỗi lầm của sự ham muốn, rồi phải quán các công đức của sự xuất ly.

Hỏi: Vì sao phải quán lỗi lầm của sự ham muốn ?

Đáp: Tham dục sướng ít khổ nhiều, cho nên trong tham dục có nhiều lỗi lầm.

Dục ví như khúc xương ít đem lại thích thú.

Dục ví như miếng thịt có nhiều phụ thuộc.

Dục như cầm lửa đi ngược gió sẽ bị đốt cháy.

Dục ví như lửa than, lớn cũng có nhỏ cũng có.

Dục như giấc mơ mau biến mất.

Dục như vật mượn tạm, không thể giữ lâu.

Dục như cây ăn quả bị người khác đốn chặt.

Dục như gươm đao dùng để chém chặt.

Dục như ngọn giáo để đâm.

Dục như đầu rắn độc đáng sợ.

Dục như gió thổi bông gòn không thể giữ không bay.

Dục như trò ảo thuật mê hoặc người ngu.

Dục là bóng tối làm cho không thấy được gì.

Dục làm chướng ngại đường đi, làm trở ngại các pháp lành.

Dục là si mê, vì làm mất chính niệm.

Dục như vật đã chín muồi sẽ ung thối.

Dục là gông cùm trói buộc.

Dục là kẻ trộm đánh cắp công đức.

Dục là oan gia thù oán khởi đấu tranh.

Dục là khổ, tạo các lỗi lầm.

Như vậy, khi đã quán các lỗi lầm của tham dục xong, nên quán công đức của sự xuất ly.

Nói xuất ly là người mới xuất gia tu Sơ thiền, thực hành các điều thiện, đó gọi là xuất ly.

Hỏi: Thế nào công đức của sự xuất ly ?

Đáp: Tâm tự tại vô tận trụ nơi niềm vui tịch tĩnh, kham nhẫn khổ vui an trụ không quên mất, rộng cứu giúp chúng sinh được đạo quả lớn, kham thụ cúng dường, làm lợi ích cho 2 xứ là đại trí tuệ, là tất cả thiện xứ, gọi là vượt qua khỏi 3 cõi.

Lại nữa, gọi xuất ly là xuất ly khỏi dâm dục, vắng lặng các triền cái, an lạc không nhơ, là con đường đạt đến nơi tối thắng, là khiến tâm nhơ được thanh tịnh. Đó là do công đức tu hành tạo nên công đức, là an lạc trong tu hành..

Dục là thô, xuất ly là thắng diệu.

Dục là có phiền não, xuất ly thì không phiền não.

Dục thì thấp, xuất ly thì cao.

Dục thì có giận dữ, xuất ly thì không giận dữ.

Dục thì không có quả báo tốt, xuất ly thì có quả báo tốt.

Dục thì có lo sợ, xuất ly thì không có lo sợ.

Như vậy, sau khi quán các lỗi lầm của dâm dục và các công đức của xuất ly, hành giả y theo xuất ly mà sinh khởi dục lạc, tâm sinh tin tưởng, cung kính, quán sát việc đáng làm, việc không đáng làm. Tiết độ việc ăn uống, an trí y bát, thân không nhọc mệt, tâm không lười biếng. Sau khi tiểu hành cước xong, rửa sạch tay chân, an nhiên tĩnh tọa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tu các thiện hạnh. Niệm xong khiến tâm hoan hỷ nghĩ rằng: Ta do xuất ly mà được đầy đủ như thế này, nếu chưa xuất ly sẽ không được an định lâu dài. Như vậy, ta phải tinh tiến dũng mãnh hơn lên.

Nên an trí Mạn-đà-la cách nơi tọa thiền không quá xa cũng không quá gần, độ chừng một khoảng bằng từ cái ách con bò đến cái xe bò, hoặc một tầm nhìn, đặt tọa cụ phía trước Mạn-đà-la, rồi ngay ngắn ngồi kết già, tâm khởi chính niệm và nhắm mắt một lúc cho thân tâm trừ được loạn động, thâu nhiếp tất cả tâm thành nhất tâm, hé mắt chăm chú nhìn vào Mạn-đà-la mà quán tưởng.

Người tọa thiền quán hình Mạn-đà-la, do thực hành 3 quán mà giữ được tướng. Đó là đẳng quán, phương tiện và lìa loạn.

Hỏi: Thế nào là do đẳng quán mà giữ tướng ?

Đáp: Người ngồi thiền khi quán Mạn-đà-la, không mở to mắt, không nhắm kín mắt. Vì sao vậy ? Nếu mở to mắt sẽ dễ mỏi, không thể nhận thấy tự tính của Mạn-đà-la hiện khởi.

Nếu nhắm kín mắt lại thì thấy Mạn-đà-la mờ tối, không thấy được tướng của nó mà sinh ra giải đãi. Vì vậy không nên mở to mắt, cũng không nên nhắm kín mắt lại, chỉ nên chuyên tâm an trụ vào Mạn-đà-la. Để cho tâm an trụ, phải quán như người nhìn mặt mình trong gương soi, nương theo gương mà thấy mặt mình, mặt mình theo gương mà sinh. Người ngồi thiền quán Mạn-đà-la thấy được tướng định khởi lên, nương theo Mạn-đà-la mà khởi. Do đó, phải quán đẳng quán mà giữ tướng là tâm được an trụ.

Như vậy là do đẳng quán mà giữ tướng.

Hỏi: Thế nào là do phương tiện giữ tướng ?

Đáp: Là 4 phương tiện tác ý:

  1. Tác ý ngăn cách bên trong.
  2. Tác ý đầy hình vuông.
  3. Chuyển tác ý.
  4. Tác ý đầy khắp.

Khi thấy tướng của Mạn-đà-la xuất hiện phân tán không ngăn cách thì phải dùng tác ý ngăn cách bên trong.

Khi thấy tướng xuất hiện nhỏ, hoặc thấy còn nửa phần Mạn-đàla, thì khởi tác ý thấy Mạn-đà-la đầy hình vuông.

Khi thấy tâm tán loạn hoặc giải đãi, thì nên khởi tác ý thúc giục xoay chuyển như người thợ đồ gốm xoay chuyển cái bàn xoay.

Khi thấy tâm an trụ, thấy Mạn-đà-la đầy khắp, không khuyết thì nên quán xả.

Như vậy là có thể do phương tiện tác ý mà giữ tướng.

Hỏi: Thế nào là do lìa loạn động mà giữ tướng ?

Đáp: Có 4 thứ lìa loạn động:

  1. Khởi tinh tiến quá gấp.
  2. Khởi tinh tiến quá chậm.
  3. Quá cao.
  4. Quá thấp.

Hỏi: Thế nào là khởi tinh tiến quá gấp ?

Đáp: Là tác ý gấp gáp, không đợi thời tiết, sớm ngồi chiều nghỉ cho đến khi thân mỏi mệt, đó là khởi tác ý quá gấp.

Hỏi: Thế nào là khởi tác ý tinh tiến quá chậm ?

Đáp: Là lìa bỏ phương tiện tác ý. Tuy có thể thấy Mạn-đà-la, nhưng không tác ý một cách cung kính, lúc thì khởi, lúc thì ngủ quên.

Nếu tác ý tinh tiến gấp thì thân nhọc, tâm thoái, tâm chạy theo các duyên bên ngoài sinh các thứ đùa cợt. Nếu tác ý tinh tiến chậm thì thân tâm lười biếng, buồn ngủ nổi lên.

Quá cao là, khi tâm thoái thì khởi các đùa cợt loạn động, hành xứ không an vui. Do không an vui nảy sinh lòng dục cao mà có nói năng đùa cợt.

Lại nữa, nơi hành xứ được các thứ hành tướng thì dục tâm do hỷ lạc mà tăng trưởng thì tâm ham muốn cũng thành cao.

Quá thấp là khi các thứ vui đùa thoái mất, với nghiệp thành ra không vui thích. Nếu hành xứ ban đầu không vui thì nơi hành xứ trở thành nơi sinh khởi giận dữ, và do tâm giận dữ khiến cho nơi hành xứ trở thành thành thấp.

Lại nữa, do mệt mỏi với giác quán mà từ chỗ thù thắng thoái đọa, tâm do âu lo mà trở thành thấp.

Người ngồi thiền, nếu tâm tác ý gấp gáp sẽ thoái đọa vào loạn động, nên dùng niệm căn và định căn mà nhiếp phục để xả bỏ sự loạn động.

Nếu tâm tác ý chạm chạp sẽ thoái đọa vào chỗ lười biếng, nên dùng niệm căn và tinh tiến căn mà nhiếp phục để xả bỏ sự lười biếng.

Nếu tâm ấy trở thành cao sẽ thoái đọa rơi vào chỗ ham muốn mà thành hiện tri, thì dùng tâm xả để lìa bỏ sự ham muốn.

Nếu tâm ấy trở thành thấp sẽ thoái đọa rơi vào giận dữ mà thành hiện tri thì dùng tâm xả lìa bỏ sự giận dữ.

Như vậy, 4 nơi loạn động này thành tâm thanh tịnh, thành tâm chuyên nhất.

Đây rõ ràng do thức hành 3 định tâm mà được tùy ý thấy hình Mạn-đà-la.

Nếu quán tưởng chuyên nhất tâm được thành thì gọi đó là khởi tướng.

Khởi tướng có 2 loại: thủ tướng và bỉ phần tướng.

Hỏi: Thế nào là thủ tướng ?

Đáp: Là nếu người ngồi thiền dùng tâm không tán loạn hiện quán Mạn-đà-la, từ Mạn-đà-la khởi tưởng, như thấy nơi hư không, lúc xa lúc gần, lúc bên trái, lúc bên phải, lúc lớn lúc nhỏ, lúc xấu, lúc tốt, lúc nhiều lúc ít.

Không dùng mắt quán Mạn-đà-la, mà dùng phương tiện tác ý để giữ tướng khởi, đó gọi là thủ tướng. Từ sở duyên kia mà sinh khởi nhiều thứ tác ý thì gọi là bỉ phần tướng.

Bỉ phần tướng khi tác ý thì tùy theo tâm mà khởi hiện liền, không phải mắt thấy Mạn-đà-la rồi sau mới sinh khởi tâm niệm. Chỉ cần tâm tác ý như trước quán tưởng mà nhắm mắt cũng vẫn thấy. Nếu tác ý xa thì thấy xa, tác ý gần, bên trái, bên phải, trong, ngoài, trên, dưới, cũng đều như vậy, đều có thể tùy theo tâm mà hiện khởi. Đó gọi là bỉ phần tướng.

Tướng nghĩa là gì ? Nghĩa của tướng là nghĩa của nhân. Như Phật dạy các Tỳ-kheo: Các pháp ác bất thiện kia đều có tướng khởi lên, đó là nghĩa của nhân duyên.

Lại nói nghĩa của trí, tức là nghĩa của tướng. Như Phật nói: Bởi tưởng khởi, nên xả bỏ. Đó là nghĩa của trí.

Lại nói nghĩa của hình tượng là nghĩa của tướng. Như người soi thấy bóng mình trong gương, tưởng tượng và bỉ phần, nghĩa không khác.

Bấy giờ người ngồi thiền đã được nghĩa của tướng, khởi tâm cung kính thầy mình, giữ lấy tướng thù thắng đó và phải giữ gìn. Nếu không giữ gìn sẽ mất.

Hỏi: Thế nào là phải bảo vệ tướng ?

Đáp: Dùng 3 thứ hành pháp để giữ gìn tướng. Đó là lìa điều ác, tu hành điều thiện, thường xuyên thực hành.

Thế nào là lìa điều bất thiện ?

Ưa thích làm các công việc, ưa thích các loại nói năng đùa cợt, ưa thích ngủ nghỉ, ưa thích tụ họp, ưa thích sống theo thế tục, không giữ gìn kềm chế các căn, không tiết độ trong việc ăn uống, đầu hôm sớm mai không tập ngồi thiền, không kính sở học, nhiều bạn ác, tập theo chỗ phi pháp. Nên lìa sự ăn uống không tiết độ, nằm ngồi không đúng thời. Để đối trị các việc ác, đó là thường xuyên làm các điều thiện.

Hỏi: Thế nào là thường xuyên thực hành ?

Đáp: Người ngồi thiền khéo giữ tướng này thường quán tưởng đến các công đức tưởng như như châu báu, thường hoan hỷ thực hành, thường tu và tu nhiều. Hoặc ngày đêm đều tu, hoặc ngồi, nằm tâm ưa các duyên sự bên ngoài, phóng tâm giữ tướng, giữ lấy tướng rồi khiến khởi, khởi rồi theo quán, quán rồi tu. Tu thì thường thường quán Mạn-đà-la.

Như vậy là do thường xuyên thực hành mà thấy và giữ gìn được tướng mà được tự tại.

Nếu tướng tùy theo tâm thì được thiền ngoại hành.

Nếu thiền ngoại hành được tuỳ theo tâm thì được an định.

Hỏi: Thế nào là thiền ngoại hành ?

Đáp: Việc nầy tùy theo tâm tác ý không loạn để điều phục các triền cái. Nhưng chưa tu hành giác, quán, hỷ, lạc, và nhất tâm, cùng với tín v.v… 5 căn. Tuy được định lực, niệm niệm vẫn còn khởi. Đó là thiền ngoại hành.

Tiếp theo thiền ngoại hành nầy là an. Nghĩa là người ngồi thiền do tâm sinh pháp được sức mạnh của tu hành. Pháp này là giác v.v…5 thiền chi và tín v.v…5 căn, pháp nầy không động tâm đối với đối tượng, đó gọi là an.

Hỏi: Thiền ngoại hành và an khác nhau thế nào ?

Đáp: Nếu điều phục 5 triền cái là thiền ngoại hành. Bởi điều phục 5 triền cái này nên trở thành an. Do thiền ngoại hành mà được thắng định.

Nếu được thắng định, thì gọi là an.

Nếu thân tâm chưa được yên tĩnh, ngoài định tâm động như thuyền trên sóng.

Nếu thân tâm đã được yên tĩnh, thì an ổn không động như thuyền trên mặt nước không gặp gió. Vì các căn không có sức nên ngoại thiền hành không an trụ lâu nơi đối tượng, giống như đứa trẻ nhỏ. Khi các căn có sức thì có thể an trụ lâu nơi đối tượng, ví như người lớn có sức mạnh. Vì tu không được tự tại, nên thiền ngoại hành thành ra không hoà hợp. Như người tụng kinh bỏ phế lâu thì quên. Nếu tu được tự tại thì thành ra an ổn, hoà hợp. Như người tụng kinh thường đọc tụng luôn nên không quên. Nếu không khéo điều phục các triền cái thì như người mù, đối với thiền ngoại hành cũng thành mù vậy. Những pháp không thanh tịnh nếu khéo điều phục các triền cái thì thành không mù, mà được an định. Như vậy các pháp thanh tịnh từ lúc ban sơ khai thủy tướng tự tại cho đến khi trừ được tính triền cái, gọi là ngoại hành. Liên tục trừ được hết các tính triền cái gọi là an.

Hỏi: Ngoại hành là nghĩa thế nào ?

Đáp: Nghĩa của thiền ngoại hành là thiền cận, tức tiếp cận với thiền. Như con đường tiếp cận làng gọi là đường làng. Tên khác nhưng nghĩa là một.

Hỏi : An là nghĩa thế nào ?

Đáp: An có nghĩa là hoà hợp. Như đến Mạn-đà-la. Xuất ly và thiền an, không khác nghĩa nhau. Ở đây, người ngồi thiền khi trụ vào thiền ngoại hành, cần phải tăng trưởng nhất thiết nhập. Hoặc ở giai đoạn an định, hoặc ở giai đoạn Sơ thiền, cần phải làm tăng trưởng.

Hỏi: Thế nào là phải làm tăng trưởng ?

Đáp: Nghĩa là từ lúc ban sơ, tướng của nhất thiết nhập như 4 ngón của bàn tay, nên làm tăng lên từ từ. Người ngồi thiền như thế mà tác ý, như thế mà được tự tại, như thế theo thứ lớp, như bánh xe, như dù lọng, như bóng cây, như ruộng phúc, như xóm, như làng, như quách, như thành. Như vậy lần lượt theo thứ lớp làm tăng trưởng lên cho đến khi tướng ấy tràn khắp cả đại địa. Nếu có núi sông cao thấp, cây cối gai góc, các chỗ không bằng phẳng, thì đừng tác ý. Cho đến biển cả đại dương cũng tác ý thành tướng đất liền. Cứ như vậy tăng lên lớn mãi thì tâm sở hành sẽ thành định tối thắng.

Nếu người ngồi thiền được thiền ngoại hành mà không được an định thì nên theo 2 cách sau đây để làm phương tiện an định: Thứ nhất là dùng nhân duyên. Thứ hai là dùng sự thụ trì.

Dùng 10 hành pháp làm nhân duyên phương tiện khởi an định:

  1. Khiến chỗ quán tưởng được phân minh thanh tịnh.
  2. Khởi quán khắp các căn.
  3. Hiểu tướng rõ ràng.
  4. Chế ngự điều phục tâm.
  5. Bẻ gãy tâm lười biếng.
  6. Tâm không đắm trước mùi vị.
  7. Tâm hoan hỷ.
  8. Tâm định thành tâm xả.
  9. Xa người không học định, gần người học định.
  10. Vui trụ trong an định.

Hỏi: Thế nào là khiến chỗ quán tưởng được phân minh thanh tịnh ?

Đáp: Có 3 thứ hành pháp làm cho quán xứ được rõ ràng:

  1. Tu tập việc ăn uống thích nghi điều độ.
  2. Tu tập theo thời tiết.
  3. Tu tập oai nghi thích hợp.

Quán khắp các căn là quán tín v.v… 5 căn đồng đều không cho căn nào tiêu diệt, không giãi đãi, như cưỡi ngựa chạy xe nhanh.

Hiểu tướng rõ ràng là khéo nắm lấy ý tưởng không gấp rút không buông lơi, như người thợ mộc giỏi giữ đúng mực thước ngay thẳng không lệch, lại khéo rõ tác ý lìa bỏ gấp hay không lìa bỏ.

Chế ngự điều phục tâm là có 2 thứ tâm cần phải chế ngự điều phục:

  1. Tâm tinh tiến quá độ.
  2. Chấp trước vào chỗ tinh tiến quá độ, hoặc để tâm đi đến dâm xứ hoặc các nơi có nhiều thứ tướng khiến tăng trưởng loạn ý.

Người ngồi thiền nếu khởi tinh tiến quá độ thì điều phục tâm bằng cách dùng 2 hành pháp điều phục tâm để khiến tinh tiến thích hợp.

Nếu tâm đi dâm xứ và có nhiều thứ tướng thì tăng trưởng điều phục tâm, dùng 2 hành pháp chiết phục, dùng quán tìm các khổ và các quả báo ác.

Bẻ gãy tâm lười biếng là do 2 việc mà tâm trở thành lười biếng:

  1. Vì không được được thắng định.
  2. Vì tâm vô vị nên trở thành lười biếng.

Nếu tâm nhiều lười biếng thì sinh buồn ngủ. Người ngồi thiền nếu không được thắng định khiến tâm vô vị thành ra lười biếng thì nên dùng 2 hành pháp để chiết phục đó là quán tưởng công đức của ngồi thiền khiến khởi tâm tinh tiến.

Nếu sinh lười biếng, buồn ngủ và lười, thì làm theo 4 việc nầy để chiết phục:

  1. Tiết chế việc ăn uống, bởi do ăn nhiều quá nên sinh tướng lười biếng.
  2. Tự chấn chỉnh 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi.
  3. Ở chỗ trống trải để sử dụng tướng sáng.
  4. Khiến tâm hoan hỷ không chấp trước bất cứ điều gì.

Do 3 việc mà thành vô vị thiếu phương tiện, tuệ căn chậm lụt, không được cái vui tĩnh lặng.

Người ngồi thiền nếu tâm vô vị, nên làm 2 pháp khiến tâm hoan hỷ:

  1. Lấy sự sợ hãi.
  2. Lấy sự hoan hỷ.

Nếu quán cảnh sinh, già, chết và 4 đường dữ, thấy các thứ đáng sợ, tâm sinh sầu não.

Nếu niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm Thiên, thấy 6 công đức tâm sinh hoan hỷ.

Tâm định thành tâm xả là do 2 thứ chính hành mà thành tựu thiền ngoại địa định:

  1. Đoạn diệt các triền cáí khiến tâm thành định.
  2. Do cảnh giới được định, sinh khởi các thiền chi mà thành tựu định tâm.

Người ngồi thiền sau khi thành tựu định tâm còn phải xả bỏ 2 thứ:

  1. Điều gì khiến không trụ tâm.
  2. Điều gì khiến mất sự điều hòa thích hợp.

Xa người không học định là người nào hoặc chưa được an định, hoặc chưa được thiền ngoại hành định, hoặc chưa đầy đủ uy nghi định, còn chưa tu học về định, thì không nên cúng dường. Với người học là người đã được an định, được thiền ngoại hành định, đầy đủ uy nghi định, thì nên theo tu học và cúng dường.

Vui trụ trong an định là người ngồi thiền luôn vui cung kính việc tu hành, như nguồn sâu, như suối chảy, như ở dưới cây thấp, tu hành nhiều. Làm 10 việc nhân duyên này sẽ được an định.

Hỏi: Thế nào là dùng sự thụ trì có thể sinh phương tiện an định ?

Đáp: Người ngồi thiền khéo hiểu rõ duyên khởi thì có thể vào được chỗ tĩnh lặng, với sự hiểu rõ tướng định đang tu tập thì được tùy tâm tự tại, khiến tâm sinh khởi tâm vui thích. Từ sự vui thích đó, thân tâm kham nhiệm hữu dụng, khiến được thụ trì.

Do sinh hoan hỷ mà tâm được thụ trì.

Do sinh vui thích mà thân tâm được thụ trì.

Do sinh sáng suốt mà tâm được thụ trì.

Do sinh bi thương mà tâm được thụ trì.

Do bi thương đó mà tâm được tĩnh.

Do khéo giữ tĩnh tâm mà tâm được thụ trì.

Như vậy khéo giữ, khiến xả bỏ, mà tâm được thụ trì. Từ vô biên phiền não, tâm được giải thoát, thành tựu được thụ trì. Do giải thoát, nên thành tựu 1 pháp vị. Do 1 pháp vị ấy mà tâm được thụ trì tu hành.

Cho nên, từ sự thắng diệu đó, tâm được tăng trưởng thụ trì. An trụ nơi thụ trì như vậy, khởi phương tiện an định. Như vậy khéo hiểu rõ duyên khởi, và tâm thụ trì thì không lâu sẽ khởi định.

Người ngồi thiền lìa sự ham muốn, bỏ các pháp bất thiện, có giác, có quán, tâm thành tựu nơi an tĩnh, có hỷ, có lạc, chứng được Sơ thiền. Đó là công đức của Địa nhất thiết nhập.

Nói về lìa dục có 3 thứ: thân ly, tâm ly và phiền não ly.

Hỏi: Thế nào là thân ly ?

Đáp: Là thân lìa những nơi náo loạn, ở nơi sơn dã.

Hỏi: Thế nào là tâm ly ?

Đáp: Với tâm thanh tịnh đến ở nơi thắng thiện.

Hỏi: Thế nào là phiền não ly ?

Đáp: Không còn mọi ràng buộc, tu hành vô sinh tử xứ.

Lại nữa, có 5 thứ lìa bỏ là: phục ly, phần ly, đoạn ly, ỷ ly, và xuất ly.

Thế nào là phục ly ?

Là tu Sơ thiền đè bẹp 5 triền cái.

Thế nào là phần ly ?

Là tu được một phần định, chế phục được các tà kiến.

Thế nào là đoạn ly ?

Là theo đường tu xuất thế gian, cắt đứt phiền não.

Thế nào là ỷ ly ?

Là khi được quả thì an vui.

Thế nào là xuất ly ?

Là Niết-bàn.

Dục có 2 thứ: dục xứ và dục phiền não.

Cảnh giới Thiên đường cùng các thứ con người yêu thích như hình sắc, hương thơm, mùi vị, sự chạm xúc. Đó gọi là dục xứ. Nơi các dục xứ khởi tư duy dục nhiễm. Đó là dục phiền não. Từ các dục đó, dùng tâm biệt ly, dùng chế phục biệt ly. Đó là pháp viễn ly, pháp xuất ly, cũng là pháp giải thoát, là pháp không tương ưng. Đó gọi là ly dục.

Hỏi: Thế nào là lìa pháp bất thiện ?

Đáp: Bất thiện căn có 3 thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Ba thứ này tương ưng với thụ, tưởng, hành, thức và thân, khẩu, ý nghiệp, gọi đó là các pháp bất thiện.

Lại bất thiện có 3 thứ: 1. Tự tính. 2. Tương ưng. 3. Sinh duyên tính. Ba bất thiện căn này là tham, sân, si được gọi là tự tính. Cùng với chúng tương ưng thụ, tưởng, hành, thức gọi là tương ưng. Khởi thân, khẩu, ý nghiệp, gọi là duyên tính.

Xa lìa được 3 thứ pháp bất thiện đó gọi là viễn ly, là xuất, là thoát, là không tương ưng. Đó gọi là lìa các pháp bất thiện.

Lại nữa, lìa dục có nghiã là lìa các tham dục ngăn che. Lìa các pháp bất thiện là lìa các thứ ngăn che còn lại.

Hỏi: Đã nói về việc lìa các pháp bất thiện, tức trong đó đã có dục là một pháp bất thiện, vì sao còn đặc biệt nói lìa dâm dục ?

Đáp: Dâm dục chẳng qua chỉ là đưa ra một thứ pháp đối trị. Như Phật có nói: Dục có khả năng trừ phiền não. Lìa dục Phật nói là pháp xuất. Như khi được nhập vào Sơ thiền, dục tưởng tác ý tương ưng với Sơ thiền, hình thành thoái phần pháp. Cho nên do dục hoà hợp với phiền não, nếu mà biệt ly thì tất cả các phiền não cũng đều biệt ly. Do đó cần đặc biệt nhấn mạnh về lìa dục.

Lại nữa, ly dục là được pháp xuất ly ra khỏi dục. Lìa pháp bất thiện là:

Nếu được sự không giận thì thành tựu pháp lìa giận.

Nếu được tướng sáng thì thành tựu pháp lìa biếng nhác và mê ngủ.

Nếu được sự không loạn tâm thì thành tựu pháp lìa sự loạn động, diễu cợt.

Nếu được sự không hối thì thành tựu pháp lìa được sự hối tiếc.

Nếu được sự an định thì thành tựu pháp lìa sự nghi ngờ.

Nếu được trí tuệ thì thành tựu pháp lìa vô minh.

Nếu được chính tư duy thì thành tựu pháp lìa tà niệm.

Nếu được hoan hỷ, thì thành tựu pháp lìa sự không vui.

Nếu tâm được niềm vui thì thành tựu pháp lìa khổ.

Nếu được tất cả thiện pháp thì thành tựu pháp lìa được tất cả bất thiện. Như trong Tam tạng kinh có nói: Do hoàn toàn không tham nên thành tựu sự lìa dục. Do hoàn toàn không sân, không si nên thành tựu sự lìa các pháp bất thiện.

Lại nữa, lìa dục là nói thân lìa. Lìa các pháp bất thiện là nói tâm lìa.

Lại nữa, lìa dục là nói cắt đứt các ý tưởng về tham dục. Lìa các pháp bất thiện là nói cắt đứt các ý tưởng về giận dữ và gây não hại.

Lại nữa, lìa dục là nói tránh xa dục lạc. Lìa các pháp bất thiện là nói tránh sự lười biếng của thân.

Lại nữa, lìa dục là nói cắt đứt thú vui của 6 căn và sự hoan lạc. Lìa các pháp bất thiện là nói cắt đứt các ý tưởng về vui đùa và buồn khổ. Cũng nói cắt đứt sự vui đùa và xả.

Lại nữa, lìa dục là nói cái vui hiện được thoát ra khỏi dục lạc thường tình. Lìa các pháp bất thiện là nói hiện được cái tâm vui không tội lỗi.

Lại nữa, lìa dục là nói siêu việt khỏi dòng đời cõi Dục. Lìa các pháp bất thiện là nói siêu việt hết các phiền não còn sót làm nguyên nhân tái sinh vào cõi Dục, mà chuyển sinh về cõi Sắc. Đó là ý nghĩa của siêu việt.

Có giác và quán, sao gọi là giác ?

Giác là các thứ tri giác, tư duy, tư tưởng cho là an ổn, mà tâm không biết nhập vào chính tư duy. Đó gọi là giác.

Khi giác nầy thành tựu thì được gọi là Sơ thiền có giác.

Lại nữa, khi quán tưởng vào Địa nhất thiết nhập, nương theo tướng đất không gián đoạn, thành ra cái giác tư duy, nghĩa là cái biết có suy nghĩ, cho nên gọi là giác, như tâm người khi tụng kinh đang theo dõi lời kinh.

Hỏi: Giác có tướng, vị, khởi, xứ như thế nào ?

Đáp: Giác lấy khinh an làm tướng, lấy tu tưởng khinh an làm vị, lấy hạ tâm làm niệm là khởi, lấy tưởng khinh an làm hành xứ.

Hỏi: Thế nào là quán?

Đáp: Khi tu quán, tùy chỗ lựa chọn mà quán. Khi tâm an trụ nơi quán xứ thì tùy tâm mà xả. Đó gọi là quán.

Người ngồi thiền khi tương ưng với các hành pháp này thì gọi là thành tựu Sơ thiền có quán.

Lại nữa, ngưòi nhập định vào Địa nhất thiết nhập, khi quán tướng đất, như quán các nghĩa. Đó gọi là quán.

Hỏi: Quán có tướng, vị, khởi, xứ như thế nào ?

Đáp: Quán lấy sự lựa chọn làm tướng, khiến tâm khinh an làm vị, lấy kiến giác làm khởi, lấy tùy kiến giác làm hành xứ.

Hỏi: Giác và Quán khác nhau thế nào ?

Đáp: Cũng như đánh chuông, tiếng chuông ban đầu là giác, tiếng chuông lúc sau là quán.

Lại nữa, như khi tâm duyên cảnh, lúc đầu là giác, lúc sau là quán.

Lại nữa, cầu được thiền là giác, gìn giữ thiền là quán.

Lại nữa, nhớ lại là giác; không lìa bỏ là quán.

Lại nữa, thô tâm thụ trì là giác; thụ trì với tâm vi tế là quán.

Nơi nào có giác, nơi đó có quán.

Nơi nào có quán, nơi đó hoặc có giác, hoặc không có giác. Như trong Tam tạng kinh có nói: Tâm mới vừa an nơì sự là giác, tâm được giác nhưng chưa định là quán. Như thấy người từ xa đi lại, chưa rõ nam nữ, hay biết là nam nữ, hình, sắc, đó là giác. Từ đó, quán sát người ấy có hay không có giới hạnh, giàu sang hay nghèo hèn, đó gọi là quán.

Giác là cầu dẫn đến tương lai, quán thì giữ lấy, đeo đuổi. Như con chim bay liệng trên không, vỗ cánh là giác, đậu lại là quán. Mới dạy là giác, dạy dỗ lâu lâu là quán. Giác dùng để giữ gìn, quán dùng để lựa chọn. Dùng giác để tư duy, dùng quán để đi sâu vào tư duy.

Giác hạnh thì không nghĩ các pháp ác. Quán hạnh thì thường thụ trì thiền. Nếu ai có năng lực, thầm tụng văn kinh, đó là giác. Có thể tùy niệm nghiã kinh, hiểu được nghĩa lý văn kinh, đó là quán. Nếu như giác ngộ chỗ giác ngộ của mình, giác ngộ xong lại hiểu biết rõ ràng, đó là quán. Với lời văn hiểu rõ ràng và nói trôi chảy là giác. Rõ nghĩa, rõ pháp là quán. Tâm hiểu chỗ hơn là giác; tâm hiểu phân biệt là quán. Đó là chỗ khác biệt giữa giác và quán.

Tịch tịch làm thành. Nói tịch tịch là lìa 5 triền cái thì gọi là tịch tịch.

Lại nữa, thiện căn của cõi Sắc, Sơ thiền, thiền ngoại hành, Thiền tâm v.v… đều do từ tâm này sinh ra, nên gọi là tịch tịch làm thành. Như đất, nước sinh cây hoa, gọi là hoa đất, hoa nước.

Hỷ, lạc là bấy giờ tâm được rất hoan hỷ, vui cười. Tâm tràn đầy mát mẻ gọi là hỷ.

Hỏi: Hỷ có tướng, vị, khởi, xứ như thế nào ? Có mấy thứ hỷ ?

Đáp: Hỷ lấy sự tràn đầy hân hoan làm tướng, lấy sự thích thú làm vị, lấy sự điều phục loạn tâm làm khởi, lấy sự phấn chấn hành động làm hành xứ.

Hỷ có 6 thứ:

  1. Do dục sinh hỷ.
  2. Do tin sinh hỷ.
  3. Do sự không hối tiếc sinh hỷ.
  4. Do tịch tịch sinh hỷ.
  5. Do định sinh hỷ.
  6. Do Bồ-đề phần sinh hỷ.

Thế nào là do dục sinh hỷ ?

Tham dục đắm nhiễm tâm mà vui mừng, đó là do dục sinh hỷ.

Thế nào là do tin sinh hỷ ?

Người có nhiều tin tưởng mà sinh vui mừng, như người thợ đồ gốm tin sản phẩm mình làm ra.

Thế nào là do sự không hối tiếc sinh hỷ ?

Đó là tâm vui mừng của người trì giới thanh tịnh, không có gì phải hối tiếc.

Thế nào là do tịch tịch sinh hỷ ?

Đó là sự vui mừng được vào Sơ thiền.

Thế nào là do định sinh hỷ ?

Đó là sự vui mừng sinh ra khi được vào Nhị thiền.

Thế nào là do Bồ-đề phần sinh hỷ ?

Đó là sự vui mừng của người được Nhị thiền đang theo con đường tu hành xuất thế gian.

Lại có thuyết nói có 5 thứ hỷ:

  1. Tiếu hỷ.
  2. Niệm niệm hỷ.
  3. Lưu hỷ. 4. Việt hỷ.

5. Mãn hỷ.

Tiếu hỷ là như mưa nhỏ thấm vào người làm rởn chân lông.

Niệm niệm hỷ là khởi diệt không dừng trụ lâu, như cơn mưa đêm.

Lưu hỷ là như dầu thoa trên thân chảy lan ra, nhưng không thấm khắp.

Việt hỷ là khắp giáp tất cả, tâm sinh hoan hỷ, không lâu thì mất, như người nghèo trông thấy kho tàng.

Mãn hỷ là toàn thân tràn đầy vui mừng, như trận mưa giông.

Như vậy trong 5 thứ hỷ, tiểu hỷ và niệm niệm hỷ là do sức tin vào thiền ngoại hành mà sinh khởi.

Lưu hỷ là nếu có đủ sức thì khởi thiền ngoại hành.

Việt hỷ thì do nơi Mạn-đà-la bất luận ngay thẳng hay không ngay thẳng đều khởi xứ phương tiện.

Mãn hỷ thì sinh nơi an tĩnh.

Hỏi: Thế nào là lạc ?

Đáp: Là khi tâm tiếp xúc và cảm nhận sự khả ái sinh ra vui, đó là lạc.

Hỏi: Lạc có tướng, vị, khởi, xứ như thế nào ? Hỷ và lạc khác biệt nhau thế nào ?

Đáp: Lạc lấy vị làm tướng.

Lạc duyên cảnh khả ái, ái vị là vị của lạc.

Lạc lấy nhiếp thụ làm sinh khởi.

Lạc lấy sự khinh an làm hành xứ.

Lạc có 5 thứ:

  1. Nhân lạc.
  2. Tư cụ lạc.
  3. Tịch tịch lạc.
  4. Vô phiền não lạc.
  5. Thụ lạc.

Sao gọi là nhân lạc ? Như Phật nói: Niềm vui giữ vẹn giới hạnh là nhân lạc, là công đức của lạc.

Tư cụ lạc là như Phật nói: Phật sinh ra niềm vui cho cả thế gian.

Tịch tịch lạc là niềm vui do do định sinh xả, và thiền định tịch diệt.

Vô phiền não lạc là niềm vui do dứt sạch các phiền não, như Phật có nói: Niềm vui cao nhất là sự thụ lạc của Niết-bàn.

Thụ lạc là niềm vui do cảm thụ mà thụ trì. Đó là sự thụ lạc được nói trong bản luận nầy.

Hỷ và lạc khác biệt nhau như thế nào ?

Tâm phấn chấn rộn rã là hỷ, tâm dịu dàng là lạc.

Tâm khinh an là lạc, tâm định là hỷ.

Tâm thô là hỷ, tâm vi tế là lạc.

Hỷ thuộc hành ấm, lạc thuộc thụ ấm.

Nơi nào có hỷ thì có lạc, nơi có lạc thì có thể có hoặc không có hỷ.

Sơ là có thể hình thành Đệ nhị, đó là Sơ. Thiền ngoại hành được thành tựu, cảnh giới được nhập vào là Sơ thiền. Giác, quán, hỷ, lạc, và nhất tâm là 5 thiền chi.

Thiền nghĩa là gì ?

Thiền là tư duy bình đẳng trước một đối tượng, phấn chấn tư duy đối trị 5 triền cái.

Nhập Sơ thiền được chính thụ là đã được, đã xúc, đã tác chứng và an trú. Đó gọi là được nhập vào Sơ thiền.

Lại nữa, từ Dục giới địa thì nói Sơ thiền là thắng tướng. Từ có giác và quán thì nói Nhị thiền là thắng tướng.

Dùng tịch tịch làm thành có hỷ có lạc, từ tịch tịch làm thành hỷ lạc là thắng tướng.

Lại nữa, lìa dục và các pháp bất thiện là nói đoạn dứt, đối trị. Có giác có quán là nói thiền tướng. Tịch tịch làm thành hỷ lạc là nói tương tự thiền. Chính thụ và an trú ở đó là nói được nhập vào Sơ thiền. Lìa 5 phần, thành tựu 5 phần, 3 thiện, 10 tướng đầy đủ 25 công đức tương ưng. Nhờ các phúc thiện nầy được sinh lên cõi Phạm Thiên thắng diệu.

Lìa 5 phần là lìa 5 triền cái.

Những gì là 5 ?

Là:

  1. Tham dục.
  2. Sân nhuế.
  3. Giãi đãi thụy miên.
  4. Điệu hối.
  5. Nghi.

Tham dục là tâm sinh tham nhiễm nơi 5 trần. Sân nhuế là làm 10 điều phiền não. Giải đãi là tâm lười biếng. Thụy miên là thân nặng nề mê ngủ.

Có 3 thứ làm nguyên do của mê ngủ:

  1. Do ăn uống.
  2. Do thời tiết.
  3. Do tâm sinh.

Nếu do tâm sinh thì dùng tư duy đoạn trừ. Nếu do ăn uống hay do thời tiết, như một A-la-hán không do tâm sinh nên không bị triền cái. Nếu buồn ngủ là do ăn uống và thời tiết thì lấy tinh tiến mà đoạn trừ. Như Tôn giả A-nậu-lâu-đà có nói: Từ khi tôi bắt đầu hết các lậu đã không mê ngủ vì do tâm. Đến nay 55 tuổi, trong khoảng thời gian đó, đã 25 năm tôi cắt đứt không buồn ngủ vì do ăn uống hay do thời tiết.

Hỏi: Nếu ngủ là sắc pháp tạo nên, vì sao lại thành tâm số phiền não ?

Đáp: Sắc pháp từ trước đã thành tâm số phiền não. Như ta thấy người uống rượu và đang ăn thì có thể biết được.

Hỏi: Nếu ngủ là thân pháp và giải đãi là tâm số pháp thì sao hợp 2 pháp thành chung 1 triền cái ?

Đáp: Hai thứ pháp đó một là sự, một là tướng, nên gọi mệt mỏi, giải đãi là cộng chung làm 1 triền cái.

Điệu là tâm không tịch tịch. Hối là tâm hận không định. Tướng của chúng như nhau, nên chung làm 1 triền cái.

Nghi là tâm chấp nhiều thứ. Có 4 thứ nghi:

  1. Nghi ngờ Xa-ma-tha.
  2. Nghi ngờ Tỳ-bà-xá-na.
  3. Nghi ngờ cả hai.
  4. Nghi ngờ các phi pháp.

Tịch tịch đầy đủ thì được Xa-ma-tha. Đối với tịch tịch hoặc đối tự thân còn nghi ngờ rằng ta có thể được tịch tịch hay không được tịch tịch, đó gọi là nghi ngờ Xa-ma-tha.

Đối với 4 Thánh đế có nghi ngờ, hoặc nghi nơi 3 đời, đó gọi là nghi ngờ Tì-bà-xá-na.

Đối với Phật, Pháp, Tăng có chỗ nghi ngờ, đó là nghi ngờ cả 2 Xa-ma-tha và Tì-bà-xá-na.

Đối với quốc gia, thành trì, đường sá, nam nữ, tên họ có chỗ nghi ngờ, đó là nghi ngờ các phi pháp.

Nơi Kinh luận nầy, nghi có nghĩa là nghi ngờ pháp tịch tịch.

Điều đó có thể chấp nhận.

Triền cái nghĩa là gì ? Có nghĩa là làm chướng ngại đạo, là che lấp, là phiền não, là trói buộc, nói chung không có 2 nghĩa khác nhau.

Hỏi: Có nhiều kết sử vi tế là phú, não v.v…sao chỉ nói đến 5 triền cái ?

Đáp: Vì kể gồm chung lại tất cả thành 5.

Lại nữa, lấy chấp trước dâm dục có thể bao gồm tất cả tham dục. Lấy chấp trước giận dữ có thể bao gồm tất cả pháp bất thiện. Lấy chấp trước lười biếng, mê ngủ, điệu hối và nghi có thể bao gồm tất cả si và các pháp bất thiện. Như vậy, lấy chấp trước 5 triền cái có thể gồm thâu tất cả phiền não. Do tướng nầy mà thành ra 5 triền cái

Năm phần thành tựu là giác, quán, hỷ, lạc và nhất tâm.

Hỏi: Nếu nói Sơ thiền, thành tựu 5 chi là thiền, thì không thể lại nói riêng mỗi chi ấy là thiền được. Nếu nói riêng mỗi chi thì sao Sơ thiền lại nói tương ứng với 5 chi ?

Đáp: Y vào các thiền chi mà thành thiền, không tách rời thiền chi mà có thiền, không có thiền nào khác. Cũng như y vào mỗi mỗi bộ phận của xe mà nói cái xe, nếu tách rời bộ phận thì không có xe. Cũng như dựa vào các đơn vị trong quân đội mà nói là quân đội, tách lìa các đơn vị thì không có quân đội.

Như vậy, dựa vào thiền chi gọi là thiền, không phải tách rời các chi mà có một thứ gọi là thiền. Thống nhất mà nói thì gọi là thiền, phân tích mà nói thì gọi là chi. Nói về sự là thiền, nói về công đức gọi là thiền chi. Nói dựa vào chế gọi là thiền, nói dựa vào tính chế thì gọi là chi.

Hỏi: Còn có các pháp nữa như niệm, tinh tiến, sao chỉ nói có 5 chi thôi ?

Đáp: Vì chấp thủ vào tướng nên hình thành 5 thiền chi.

Hỏi: Thế nào là chấp thủ tướng ?

Đáp: Giác là tùy nơi sự tâm được tự an. Quán là tùy nơi giữ gìn tâm mà được thụ trì. Giác quán không tạp loạn nơi phương tiện. Nếu đầy đủ phương tiện thì sinh hỷ, lạc. Nếu khởi phương tiện đầy đủ thì đồng thời sinh khởi tâm hỷ, tâm hỷ tăng trưởng thì tâm lạc được thành mãn.

Do 4 công đức đó mà tâm thành tựu không loạn. Nếu được tâm không loạn là có thể được định. Đó gọi là chấp thủ tướng. Như vậy là do chấp thủ tướng mà thành 5 thiền chi.

Lại nữa, dùng 5 bậc thiền để đối trị với 5 triền cái mà hình thành 5 thiền chi. Sơ thiền đối trị triền cái thứ nhất, cho đến Đệ Ngũ thiền đối trị triền cái thứ 5. Giác, là chi thù thắng nhất của Sơ thiền, vì giác tiêu trừ tham dục. Nếu giác chi lớn mạnh vào được chính định thì các chi khác chắc chắn sinh khởi. Quán, trong các chi của Nhị thiền, khởi lên trước nhất. Hỷ, trong Tam thiền, khởi lên trước. Lạc trong Tứ thiền, khởi lên trước. Nhất tâm, nơi Ngũ thiền, khởi lên trước. Như vậy lấy sự thù thắng của các chi mà thành ra có 5 chi.

Lại nữa, cũng để đối trị với 5 triền cái mà có 5 chi, như Tam Tạng Kinh có nói: Nhất tâm đối trị dâm dục. Hoan hỷ đối trị giận dữ. Giác đối trị lười biếng, mê ngủ. Lạc đối trị điệu hối. Quán đối trị nghi ngờ. Do đối trị với 5 triền cái mà thành ra có 5 chi.

Hỏi: Người ngồi thiền tác ý quán tưởng tất cả tướng đất làm sao khởi hỷ, lạc ?

Đáp: Tướng Địa nhất thiết nhập không phải khởi hỷ, lạc nhưng do nhân duyên lìa xa các nhiệt não của triền cái và tùy tính tu hành, thân làm pháp tử nên khởi hỷ, lạc.

Lại hỏi: Nếu đã là pháp tử, vì sao ở Tứ thiền không khởi hỷ, lạc ?

Đáp: Bởi vì đó không phải nơi thích nghi, lại nữa vì khi được Tứ thiền, thì đã đoạn xả hỷ lạc.

Lại nữa, buổi đầu khởi hỷ, lạc đã dùng phương tiện đè bẹp đoạn trừ tội lỗi chỉ muốn sự tĩnh lặng của xả lạc, thành ra không khởi hỷ, lạc.

Ba thứ thiện là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Lấy sự tu hành thanh tịnh làm sơ thiện. Lấy sự xả bỏ tăng trưởng làm trung thiện. Lấy sự hoan hỷ làm hậu thiện.

Thế nào là tu hành thanh tịnh ?

Là khiến cho các nhu cầu về thiện được đầy đủ.

Thế nào là xả bỏ tăng trưởng ?

Là được an định.

Thế nào là hoan hỷ ?

Đó là quán.

Như vậy, được Sơ thiền là thành tựu được 3 loại thiện.

Mười tướng đầy đủ là những gì ?

Tu hành thanh tịnh có 3 tướng, xả bỏ tăng trưởng có 3 tướng, và hoan hỷ có 4 tướng. Đó là 10 tướng.

Hỏi: Thế nào là 3 tướng tu hành thanh tịnh ?

Đáp: 1. Do lìa các chướng ngại của thiền khiến tâm thanh tịnh.

  1. Do tâm thanh tịnh được tướng Xa-ma-tha.
  2. Do được tướng Xa-ma-tha, khiến tâm phấn chấn.

Đó là 3 tướng của sự tu hành thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là 3 tướng khi xả bỏ tăng trưởng ?

Đáp: 1. Tâm thanh tịnh thành xả. Nhân xả mà tăng trưởng tâm thanh tịnh. 2. Được tịch tịch thành xả. Nhân xả mà tăng trưởng tịch tịch. 3. Nhất tâm trụ thành xả. Nhân xả mà tăng trưởng nhất tâm.

Đó là 3 tướng của xả bỏ tăng trưởng.

Hỏi: Thế nào là có 4 tướng khiến sinh hoan hỷ?

Đáp: 1. Nơi 10 tướng này, các pháp lần lượt sinh khiến việc tu hành thành hoan hỷ.

  1. Nơi các pháp đó, các căn trở thành một vị, khiến sinh hoan hỷ.
  2. Lần lượt tu hành tinh tiến khiến sinh hoan hỷ.
  3. Do năng tu hành mà thành hoan hỷ.

Đó là 4 tướng khiến sinh hoan hỷ.

Như vậy là nhập vào Sơ thiền có đầy đủ 10 tướng.

Hai mươi lăm công đức tương ứng với Sơ thiền là: 1. Giác đầy đủ. 2. Quán đầy đủ. 3. Hỷ đầy đủ. 4. Lạc đầy đủ. 5. Nhất tâm đầy đủ. 6.Tín đầy đủ. 7. Tinh tiến đầy đủ. 8. Niệm đầy đủ. 9. Định đầy đủ. 10. Tuệ đầy đủ. 11. Sơ thiện đầy đủ. 12. Trung thiện đầy đủ, 13. Hậu thiện đầy đủ. 14. Thâu nhiếp đầy đủ. 15. Tu hành đầy đủ. 16. Tịch tịch đầy đủ. 17. Y đầy đủ. 18. Nhiếp thụ đầy đủ. 19. Tùng đầy đủ. 20. Quán đầy đủ. 21. Tu đầy đủ. 22. Lực đầy đủ. 23. Giải thoát đầy đủ. 24. Thanh tịnh đầy đủ. 25. Tu thành thanh tịnh tối thắng, an trú nơi thắng xứ cõi trời tương ứng với 25 công đức. Đó là nơi thắng xứ cõi trời từ nơi tịch tịch sinh khởi, an trú vào hỷ, lạc, siêu việt cõi nhân gian.

Như Phật dạy các Tỳ-kheo: Như người phục vụ tắm hoặc người phụ giúp, dùng cái mâm đồng đựng bột tắm làm bằng gạo và đậu vụn, hòa nước lại cho nhão vò thành viên tròn, tẩm nước đều cả trong ngoài cho khỏi rã. Cũng như vậy, Tỳ-kheo thân tâm tịch tịch sẽ sinh hỷ lạc, thấm khắp thân tâm không chỗ nào không thấm khắp. Như dùng tịch tịch sinh hỷ lạc thì thân tâm không đâu không nhuần thấm. Cũng như người phục vụ tắm hay người phụ giúp đã làm, người toạ thiền cũng vậy.

Như vậy, cái mâm đồng là tướng của nhất thiết nhập điều đó ta có thể biết được.

Hỏi: Nhất thiết nhập có những tướng như thế nào ?

Đáp: Như trong mâm đồng, bột tắm cứng, nhuyễn, nóng sáng, là vì khéo thủ lấy tướng nhất thiết nhập mà thành tính cứng, do sinh hỷ mà thành mịn nhuyễn, do thanh tịnh mà thành nóng sáng, do tâm pháp và các tâm số pháp mà thành sự. Cho nên mới nói, cái mâm đồng với tướng nhất thiết nhập của tâm pháp và tâm số pháp bằng nhau, cho đến bột tắm cũng vậy. Điều đó có thể biết được.

Hỏi: Thế nào là bột tắm như tâm và tâm số pháp ?

Đáp: Nếu bột tắm thô, không hòa hợp thì bị gió thổi bay. Cũng vậy, tính của tâm pháp và tâm số pháp lìa hỷ lạc thì thành thô, rời định thì không hòa hợp, sẽ bị thổi bay theo gió của 5 triền cái. Đó là nói bột tắm giống như tính của tâm và tâm số pháp.

Thế nào là như nước ?

Là hỷ, lạc và định cũng như nước đã làm cho bột tắm ướt nhuyễn thành viên tròn. Cũng như vậy, hỷ, lạc khiến tâm và tâm số pháp thấm nhuyễn mà thành định. Như vậy, nước như hỷ, lạc, định. Cho đến giác và quán cũng như vậy, điều đó ta có thể biết được.

Hỏi: Thế nào là như viên tròn ?

Đáp: Đó là nói đến giác và quán cũng như muốn khiến bột tắm ở trong mâm đồng khuấy với nước rồi dùng tay nắn thành viên tròn.

Sau khi nắn thành viên xong, tức bột tắm hòa chung với nước thành viên, thì không tản đi mất rồi mới đặt vào mâm đồng. Cũng vậy, người ngồi thiền đặt tâm và tâm số pháp vào đối tượng quán sát, mới sinh tịch tịch.

Sơ thiền lấy hỷ lạc làm nước, lấy giác, quán làm tay, nhồi nặn thành viên tròn mới có thể sinh khởi tịch tịch an tịch. Tâm và tâm số pháp do Sơ thiền tạo thành có giác, quán, hỷ, lạc theo nhau thành tướng một viên tròn, tâm không tán loạn, đặt trên đối tượng.

Như vậy viên tròn như giác, quán, giống như bột tắm thấm ướt trong ngoài dính vào nhau không tan rã.

Cũng vậy, người ngồi thiền khi nhập Sơ thiền, nơi thân trên dưới, từ đầu đến chân, từ chân đến sọ, tóc da trong ngoài khắp chỗ đều đầy khắp hỷ lạc, trụ nơi không thoái chuyển. Như vậy thành an trú vào cõi trời Phạm Thiên.

Hỏi: Hỷ lạc chỉ là danh tướng, chẳng phải tướng của sắc pháp, không có tướng hữu đối, làm sao trụ khắp trong thân ?

Đáp: Danh là dựa nơi sắc, sắc dựa nơi danh. Do đó, nếu danh thành hỷ, sắc cũng thành hỷ. Nếu danh thành lạc, sắc cũng thành lạc.

Lại nữa, sắc theo lạc sinh, khiến thân khởi khinh an. Ngay khi thân được khinh an, sắc cũng sinh lạc. Do đó, giữa sắc và thân hoàn toàn không chướng ngại.

Công đức của Sơ thiền khiến sinh lên cõi Phạm Thiên là Sơ thiền có 3 hạng: 1. Hạ phẩm. 2. Trung phẩm. 3. Thượng phầm.

Nếu quán tưởng nhân duyên thù thắng, nhưng không khéo trừ 5 triền cái, không đạt được tự tại như ý, đó là hạ phẩm Sơ thiền.

Nếu quán tưởng nhân duyên thù thắng, khéo trừ được 5 triền cái, nhưng chưa đạt được tự tại như ý, đó là trung phẩm Sơ thiền.

Nếu quán tưởng nhân duyên thù thắng, khéo trừ được 5 triền cái, lại đạt được tự tại như ý, đó là thượng phẩm Sơ thiền.

Như vậy người ngồi thiền nếu tu hạ phẩm Sơ thiền khi mạng chung sẽ sinh lên cõi Phạm Thiên làm thiên chúng, thọ mạng 1/3 kiếp. Nếu tu trung phẩm Sơ thiền, mạng chung sẽ sinh lên cõi Phạm Thiên, thọ được 1/2 kiếp. Nếu tu thượng phẩm Sơ thiền, mạng chung sẽ sinh cõi Đại Phạm Thiên, thọ mạng 1 kiếp.

Công đức được sinh lên Phạm Thiên có 4 hạng: 1. Có người thành thoái phần. 2. Có người thành trụ phần. 3. Có người thành thắng phần. 4. Có người thành đạt phần.

Người độn căn vì còn tham dục nên ở nơi phóng túng, tuy tác ý tương tùy mà khởi Sơ thiền, nhưng thành được thoái phần. Lại nữa, người này dùng giác và lạc 2 chi mà hành thiền, mà thành thoái phần. Đó là sự trói buộc rất lớn khiến không tinh tiến. Nếu người này từ đầu đã khởi ác giác không thể tiêu trừ, đó là sự trói buộc rất lớn nên thoái lui mau chóng.

Hành thiền mà còn ham thích sự nghiệp, thích nói năng, mê ngủ nghỉ, không tinh tiến bền lâu, chắc chắn thành thoái phần.

Hỏi: Ai thoái ? Vì sao thoái ?

Đáp: Có thuyết cho rằng, nếu gặp phiền não đến gấp thì thành thoái.

Lại có thuyết cho rằng, phiền não đến chậm, từ từ làm tâm ô nhiễm thì thành thoái.

Lại còn có thuyết cho rằng, vì mất Xa-ma-tha nên thành thoái.

Lại có thuyết nói có tướng tu hành mà lâu không tu hành, không thể nơi duyên đó khiến thiền sinh khởi. Do không được định mà thiền sở duyên thành thoái.

Nếu người độn căn trụ không phóng dật, được pháp niệm, thì thành thiền trụ phần.

Nếu người lợi căn trụ không phóng dật, tùy ý được Đệ Nhị thiền, không còn giác, tác ý tương tùy, nếu khởi thiền thì thành thiền thắng phần.

Nếu người lợi căn trụ không phóng dật, tùy ý được Tì-bàxá-na, theo đuổi tư tưởng nhàm chán, không bị ô nhiễm, thì thành thiền đạt phần.

QUYỂN 4 HẾT