LUẬN GIẢI THOÁT ĐẠO 
(Con đường giải thoát)
A-la-hán Ưu-ba-để-sa tạo luận
Tam tạng Tăng-già-bà-la dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

Phẩm 8: HÀNH MÔN 5

Hỏi: Thế nào là Từ vô lượng tâm ? Từ vô lượng tâm thì tu, tướng, vị, khởi và công đức như thế nào ? Làm sao tu hành từ vô lượng tâm ?

Đáp: Là như lòng thương của cha mẹ khi nhìn đứa con duy nhất của mình, khởi dậy lòng từ và tâm làm lợi ích cho con. Đem tâm như vậy đến với tất cả chúng sinh, gọi là từ. Giữ tâm từ ấy an trụ không loạn, là tu tâm từ. Khiến làm lợi ích, là tướng của tâm từ. Ái niệm là vị của tâm từ. Không giận là khởi của tâm từ.

Tu hành tâm từ được 11 công đức:

  1. Ngủ yên giấc.
  2. Thức an ổn.
  3. Không thấy ác mộng.
  4. Được người yêu mến.
  5. Được phi nhân yêu mến.
  6. Được chư thiên bảo hộ.
  7. Không bị lửa, chất độc, đao, gậy hại thân.
  8. Khiến tâm chóng được định.
  9. Sắc diện tươi vui.
  10. Khi sắp chết không hôn mê.
  11. Nếu chưa được thắng pháp, thì được sinh lên cõi trời Phạm Thế.

Làm sao tu hành từ vô lượng tâm ?

Người tu thiền muốn tu hành tâm từ, trước tiên quán lỗi lầm của sự hờn giận, quán công đức của sự nhẫn nhục và tâm phải thụ trì nhẫn nhục.

Thế nào là quán các lỗi lầm của sự giận hờn ?

Là nếu ai khởi giận hờn thì sự giận hờn thiêu đốt tâm từ, khiến tâm nhơ bẩn. Do đó làm cho sắc mặt cau có, miệng nói lời thô ác, rồi quắc nhìn 4 phía, tay chụp đao, gậy, cơn giận sôi lên đến ói máu, đập phá đồ đạc, hủy hoại tài sản, đến nỗi giết người hoặc tự sát.

Lại nữa, nếu ai thường ôm lòng uất hận, có thể đưa đến việc giết cha mẹ, giết A-la-hán, hoặc phá hoại Tăng đoàn, hoặc ác tâm làm thân Phật chảy máu. Đó là làm những việc đáng sợ, nên quán tưởng như vậy.

Lại nữa, nên quán như vầy: Ta mang danh là Thanh Văn mà không đoạn dứt tâm giận hờn, thật đáng hổ thẹn. Ta nhớ trong kinh có nói thí dụ cây cưa: Ta vui theo pháp thiện. Nếu ta để tâm giận hờn tăng trưởng thì thật đáng ghét, khác nào người muốn tắm mà lại vào nơi dơ dáy. Ta tự coi mình là người biết nghe nhiều mà còn chưa khắc phục được sự phẫn hận, thì sẽ bị khinh bạc chê bai, như chê cười thầy thuốc mà mắc bệnh thổ tả. Ta được thế gian qúi trọng, nếu ta không trừ được tâm giận hờn, sẽ bị người khinh bỏ, như chiếc lọ đẹp bên trong chứa đầy đồ bất tịnh mà không che đậy. Nếu ai có trí tuệ mà khởi sân hận cũng giống như người cố ăn các món độc.

Vì sao vậy ? Vì do phẫn hận đáng chê bỏ đó mà tạo thành quả báo khổ. Như người bị rắn độc cắn, tự mình có thuốc giải độc mà không chịu uống, nên chỉ bìết khổ mà không biết vui.

Cũng vậy, Tì-kheo nào khi giận hờn nổi lên mà không mau khắc phục, thì chỉ thấy khổ mà không thấy vui. Sao lại giữ tâm phẫn hận đáng sợ đó ?

Lại nữa, nên quán sự phẫn hận như vầy: Người giận hờn bị oan gia cười chê, bị xấu hổ với bạn. Dầu là người có thịnh đức nhưng vì phẫn hận vẫn bị người đời khinh dể. Dầu xưa nay được qúi trọng nhưng vì phẫn hận mà đổi ra bị khinh dể. Dầu xưa nay được khen ngợi nay vì phẫn hận mà thành bị chê bai.

Sự phẫn hận khiến cầu vui lại thành khổ, muốn không động hoá ra loạn động, có mắt mà thành mù lòa, thông minh trở nên vô trí.

Do đó, hãy quán các lỗi lầm của sự phẫn hận như vậy.

Hỏi: Thế nào là quán công đức của sự nhẫn nhục ?

Đáp: Nhẫn nhục là sức mạnh, là áo giáp có thể hộ thân.

Nhẫn nhục có thể trừ sự giận hờn, là tiếng khen, được người trí khen ngợi.

Nhẫn nhục là niềm vui có thể khiến tín tâm không thoái chuyển.

Nhẫn nhục là người bảo vệ, có thể giữ gìn tất cả và khiến tất cả đầy đủ.

Nhẫn nhục là trí thông hiểu khiến quán thấy các nghiã.

Cho nên nhẫn nhục còn gọi là khởi hổ thẹn.

Lại nữa, nên quán như thế này: Ta đã cạo đầu đi tu chỉ nên lấy sự nhẫn nhục làm điều mà ta yêu thích.

Ta đã nhận sự bố thí của cả nước, nên phải nhẫn nhục cho các thí chủ được quả báo lớn.

Ta mang hình dáng và phục sức của Thánh giả, thì sự nhẫn nhục của ta đây cũng là Thánh hạnh.

Ta có giận dữ thì khiến không còn giận dữ.

Ta mang danh là Thanh Văn, phải làm sao thật sự xứng đáng là Thanh Văn.

Đàn-việt bố thí ta, với lòng nhẫn nhục nầy ta sẽ làm cho thí chủ được quả báo lớn.

Ta có niềm tin, và sự nhẫn nhục chính là chỗ trụ của niềm tin đó. Ta có trí tuệ, và sự nhẫn nhục chính là chỗ trụ của trí tuệ đó.

Nếu ta có độc hại của sự giận hờn, thì nhẫn nhục này là thuốc giải độc.

Như vậy, quán lỗi lầm của phẫn hận và công đức của nhẫn nhục, khiến tâm thụ trì nhẫn nhục. Khi có người mắng nhiếc ta phải nhẫn nhục. Ta phải dịu dàng không kiêu mạn.

Như vậy là người tu thiền hướng đến cái vui nhẫn nhục, tự làm lợi ích, đến nơi yên tĩnh, dùng tâm không loạn bắt đầu khiến ý nghĩ nầy đầy khắp toàn thân: Ta đã được vui cái tâm vui, trong tâm không còn khổ nữa.

Thế nào là ta không có oan gia, không giận dữ, vui xa lìa các phiền não huyên náo, thành tựu tất cả công đức ?

Người tu thiền điều phục tâm mình, làm cho tâm nhuần nhuyễn đủ sức thụ trì. Nếu tâm đã nhuần nhuyễn đủ sức thụ trì rồi, từ đó mới nên khởi tu tâm từ, xem tất cả chúng sinh như chính thân mình.

Nếu người tu thiền tu hành tâm từ đối với tất cả chúng sinh, mới đầu không nên khởi tâm từ đối với kẻ thù oán, người dưng, bọn ác nhân, những người không có công đức, người đã chết. Người tu thiền tu tâm từ nên bắt đầu khởi tâm đến những người được đời qúi trọng, người không bị khinh khi xấu hổ bị thương tổn, người làm lợi ích cho đời. Đối với những người ấy không khởi ý ganh ghét hay hờn giận. Chính những người ấy là nơi thích hợp cho người tu thiền bắt đầu tu tập tâm từ.

Trước tiên, người tu thiền nên nghĩ nhớ công đức của việc tạo lợi ích, công đức qúi trọng. Người tu thiền như vậy do tính thành tựu, do sự khen ngợi thành tựu, do nghe thành tựu, do giới thành tựu, do định thành tựu, do tuệ thành tựu, mà thành tựu tâm từ vô lượng quý trọng của mình.

Như vậy, do bố thí, do ái ngữ, do lợi ích, do đồng sự thành tựu. Thành tựu này đã làm lợi ích cho tâm từ vô lượng của mình.

Như vậy, nhờ khéo niệm công đức qúi trọng và công đức làm lợi ích của tâm từ vô lượng khiến sinh khởi tâm từ vô lượng đối với tất cả chúng sinh và thân hữu.

Người tu thiền đối với sở duyên những người ấy mà tu hành tâm từ vô lượng, làm việc lợi ích.

Người tu thiền, tâm thường giác quán những điều sau đây:

  1. Nguyện không có tâm thù oán.
  2. Nguyện không giận dữ.
  3. Nguyện thành tựu an lạc.
  4. Nguyện lià xa tất cả ồn ào náo nhiệt.
  5. Nguyện thành tựu tất cả công đức.
  6. Nguyện được thiện lợi.
  7. Nguyện được khen ngợi.
  8. Nguyện có đức tin.
  9. Nguyện có niềm vui.
  10. Nguyện giữ giới hạnh.
  11. Nguyện được văn tuệ.
  12. Nguyện hành bố thí.
  13. Nguyện được trí tuệ.
  14. Nguyện được ngủ yên.
  15. Nguyện thức được an ổn.
  16. Nguyện không thấy ác mộng.
  17. Nguyện được người kính mến.
  18. Nguyện được phi nhân kính yêu.
  19. Nguyện được chư thiên bảo hộ.
  20. Nguyện lửa cháy, dao, gậy, chất độc không hại thân.
  21. Nguyện sớm được định tâm.
  22. Nguyện được sắc diện vui tươi.
  23. Nguyện được sinh nơi trung tâm đất nước.
  24. Nguyện được gặp người thiện.
  25. Nguyện được thân thể trọn vẹn.
  26. Nguyện không bệnh tật.
  27. Nguyện được sống lâu.
  28. Nguyện thường được an lạc.

Lại nữa, người tu thiền nên suy nghĩ về các pháp sở duyên bất thiện như sau: Nếu chưa sinh, nguyện chúng đừng sinh. Nếu đã sinh thì nguyện tiêu diệt.

Suy nghĩ về các pháp lành như sau: Nếu chưa sinh thì nguyện sinh, nếu đã sinh thì nguyện tăng trưởng.

Suy nghĩ về các pháp không khả ái như sau: Nếu chưa sinh, nguyện đừng sinh. Nếu đã sinh thì nguyện tiêu diệt.

Suy nghĩ về các pháp không khả ái như sau: Nếu chưa sinh thì nguyện sinh, nếu đã sinh thì nguyện tăng trưởng.

Theo các pháp sở duyên đó do tâm từ mà được tự tại. Người tu thiền, do tin mà giữ tâm niệm được tự tại, do giữ được tự tại khiến niệm trụ. Do niệm tự tại, giữ tự tại, tín tự tại mà tâm không loạn.

Người tu thiền hiện biết tâm không loạn, y theo pháp môn này tu hành, đối với chỗ sở duyên kia tu tâm từ vô lượng, đã tu rồi phải tu nhiều lần.

Người tu thiền hiện biết tâm không loạn, y theo pháp môn này tu hành, đối với người sở duyên kia tu tâm từ vô lượng, đã tu rồi phải tu nhiều lần.

Người tu thiền, cũng như vậy dùng tâm nhu nhuyến, dùng tâm thụ trì, theo thứ lớp mà tu tâm từ hướng đến người thân yêu. Sau khi tu tâm từ đối với người thân yêu rồi, lần lượt đến người dưng, đến kẻ thù oán, rồi đến tất cả chúng sinh. Như vậy, đem tất cả chúng sinh tưởng như chính bản thân mình, không phân biệt, không sót lọt.

Người tu thiền khi tu tâm từ vô lượng, nếu với người dưng kẻ lạ mà tâm từ không sinh khởi, hoặc tạm thời không sinh khởi thì phải coi như một sự lầm lỗi đáng ghét. Sự lầm lỗi đáng ghét này làm cho ta thành bất thiện, không khả ái. Thường tự thức tỉnh rằng ta muốn được thiện pháp và tín tâm nên mới xuất gia. Ta phải y theo đức Bản Sư, khởi đại từ bi làm lợi ích cho chúng sinh, mà nay đối với người dưng kẻ lạ còn chưa có tâm từ, huống chi đối với kẻ oan gia. Nếu quán lỗi lầm chán ghét như vậy mà sự sân giận không diệt, người tu thiền tu tâm từ, không nên tinh tiến thêm, mà phải dùng các phương tiện khác giúp trừ bỏ được sự hờn giận.

Hỏi: Thế nào là phương tiện trừ bỏ giận hờn ?

Đáp: Đối với người mình coi là oan gia, người tu thiền nên nghĩ cho chu toàn, nghĩ đến công đức của người ấy, nghĩ đến nghiệp mình đã tạo, nghĩ đến làm sao giải thoát nợ nần, nghĩ đến thân tộc, tội lỗi của tự thân, không nên tác ý gây hiện nghiệp, tự tính các căn là niệm diệt, biết niệm diệt nên phải quán không. Cho nên tiếp nhận phương tiện nầy.

Người kia dầu giận dữ, nhưng nếu có đến hỏi xin điều gì cũng nên tùy nghi thí cho. Hoặc nếu người kia có cho mình thứ gì cũng nên tùy nghi nhận lấy, thường cùng nhau nói năng hòa hảo. Người kia có làm việc gì, mình cũng thuận theo. Giao tiếp như vậy thì sự hờn giận cũng sẽ hết.

Về công đức, nếu thấy người kia có công đức gì, người tu thiền phải nghĩ đến công đức đó, chớ cho là phi công đức. Như nước có bèo, cứ vẹt bèo mà múc nước. Nếu người kia thật sự không có công đức, thì nên khởi tâm từ, thương cho y là kẻ không công đức sẽ đến các nẻo dữ.

Về ơn, nên nghĩ đến ơn của người ấy. Nếu người ấy không ái kính, nên khiến cho y nghĩ đến ơn. Nếu người ấy đã làm điều không ái kính, thì nên khiến y tạo công đức.

Lại nữa, đã khiến diệt bất thiện, tức hướng đến nẻo thiện. Như vậy có thể biết là oán trở thành ơn.

Về tự nghiệp đã làm, là người nào đã tạo điều ác, thì chính tự thân người ấy là nơi sinh khởi sự sân giận. Ác nghiệp sẽ sinh ra nơi người ấy.

Quán về sự giải thoát nợ nần, là nếu có người mắng nhiếc ta, làm hại ta, đó là do nghiệp trước, người kia giải thoát nợ cũ cho ta. Ta nay đã chứng nên quán như thế mà hoan hỷ.

Suy nghĩ về thân tộc, là trong sinh tử nối tiếp nhau tất cả chúng sinh đều là họ hàng thân tộc của ta. Nhớ như vậy khiến khởi tưởng về thân tộc.

Về tội lỗi của tự thân, nên quán tội lỗi là ta làm, giận dữ do ta mà sinh. Tội lỗi này, sự giận dữ này làm cho ta không được công đức.

Nhớ như vậy khiến khởi tướng biết về tội lỗi chính mình.

Về không tác ý, không tác ý là tướng của sự không giận hờn. Cũng như người không muốn nhìn đến sắc không vừa ý thì nhắm mắt lại.

Về khổ, ở đây nói khổ tức là tự làm khổ mình. Đối với người tu hành không nên tạo thành chướng ngại. Nên khiến khởi tướng như thế nào ? Như người ngu do dùng tâm không đúng, nhớ nghĩ những cái khổ chính mình làm do đó sinh khổ tâm. Chỉ cần nhận thức đúng đắn mà quán tưởng có thể biết rõ. Nơi đang có kẻ thù oán ở, nên tránh xa, tìm nơi nào không nghe, không thấy mà ở.

Về tự tính của các căn, là các căn thường hay thủ lấy các cảnh giới khả ái và không khả ái. Đó là nguyên nhân gây nên sự sân giận, vì không ức niệm đúng đắn. Chỉ cần nhận thức quán tưởng như vậy là có thể hiểu rõ.

Về niệm diệt, là người ấy khổ vì sinh ra, nên người ấy chịu khổ. Tất cả pháp này trong tâm diệt từng sát-na, tại sao với chỗ không phải sân giận kia, mà ta lại nổi giận ? Nên quán tưởng như vậy.

Về hòa hợp, nếu tâm trong ngoài không nhất trí, không hoà hợp, do đó khổ sẽ sinh khởi, tâm ta ở nơi nhất trí, ở nơi hòa hợp, do đó tâm giận dữ không nên sinh khởi. Nên nhận thức và quán tưởng như vậy.

Về quán không, là khi người nào gây nghiệp khổ, thì người ấy chịu khổ. Nhưng theo đệ nhất nghiã về không, thì điều đó không thể được, vì thân nầy do nhân duyên sinh, không có chúng sinh, không có ngã, cũng không do giới tụ mà thành. Nên nhận thức và quán tưởng như vậy.

Cho nên Thế Tôn có nói kệ như sau:

Ở trong làng trong rừng,

Thường chạm phải khổ vui.

Không người không mình quấy,

Do phiền não mà ra.

Nếu tâm không phiền não,

Thì ai quấy được ta ?

Người tu thiền đó đã diệt trừ sân giận như vậy, hiểu rõ các phương tiện, đối với bạn bè, người dưng, oan gia, đã phân biệt tu tưởng tâm từ vô lượng, đã được tự tại. Sau khi tâm được tự tại tiếp theo thứ lớp mà khởi tưởng tâm từ:

Quán tưởng tu hành tự tại trong chúng Tì-kheo.

Quán tưởng tu hành tự tại trong Tăng chúng.

Quán tưởng tu hành tự tại trong chư thiên, nhân.

Quán tưởng tu hành tự tại trong tất cả chúng sinh..

Quán tưởng tu hành tự tại trong ngoài làng xóm, làng này đến làng khác, nước này đến nước khác. Rồi kế tiếp quán tưởng dùng tâm từ quán tưởng đến một phương. Sau khi viên mãn rồi tiếp tục quán tưởng đến phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Sau đến 4 phương bàng và trên dười, đem tâm từ phát tán đến tất cả chúng sinh.

Trong tất cả thế gian, quán tâm từ vô cùng rộng lớn, không oán, không giận, người ngồi thiền nên làm viên mãn tâm từ.

Người tu thiền tu hành quán tâm từ như vậy, dùng 3 thứ tâm để cho thiền từ an trụ, bao quát tất cả chúng sinh, bao quát tất cả thôn làng, bao quát tất cả các phương hướng.

Người tu thiền như vậy, dùng quán tưởng 1 chúng sinh khiến thiền từ an trụ, rồi như vậy quán tưởng đến 2, 3 chúng sinh, cho đến nhiều chúng sinh khiến thiền từ an trụ.

Người tu thiền như vậy, dùng quán tưởng chúng sinh 1 thôn làng khiến thiền từ an trụ, và cũng như vậy dùng quán tưởng chúng sinh 2, 3 thôn làng cho đến chúng sinh nhiều thôn làng khiến thiền từ an trụ.

Người tu thiền như vậy, dùng quán tưởng chúng sinh 1 phương hướng khiến thiền từ an trụ, và cũng như vậy dùng quán tưởng chúng sinh 2, 3, 4 phương cho đến 4 phương bàng và phương trên phương dưới khiến thiền từ an trụ.

Như vậy, nếu dựa vào 1 chúng sinh tu tâm từ, nếu chúng sinh đó chết, thì đối tượng để tu hành tâm từ bị mất, mất thì không thể khởi tâm từ được. Cho nên, tu tâm từ phải mở rộng, bấy giờ sự tu hành mới thành diệu dụng, được quả báo lớn, được công đức lớn.

Hỏi: Từ là gì ? Căn, xứ, sự đầy đủ không đầy đủ, đối tượng của từ là gì ?

Đáp: Tâm từ lấy không tham làm căn, lấy không sân làm căn, lấy không si làm căn, lấy dục làm căn, lấy tác ý chân chính làm căn của tâm từ.

Khởi như thế nào ? Là các căn đó khiến căn của tâm từ sinh khởi.

Sao gọi là đầy đủ ? Là nếu tu hành tâm từ thành tựu, diệt trừ sân giận, trừ sự yêu thích việc bất thiện, khiến 3 nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh. Đó là đầy đủ.

Sao gọi là tu tâm từ chưa đầy đủ ? Là do 2 nhân làm mất tâm từ là còn giận hờn người thân, và còn ưa thích điều bất thiện. Vì đối trị mà sinh oán, vì khởi sân giận nên đó gọi là tâm từ chưa đầy đủ.

Đối tượng của tâm từ là chúng sinh. Lấy chúng sinh làm đối tượng.

Hỏi: Nói thế không đúng. Theo đệ nhất nghiã thì chúng sinh là không thể có được. Vậy làm sao có thể lấy chúng sinh làm đối tượng cho tâm từ ?

Đáp: Vì y theo chủng loại các căn mà tạm gọi là thế gian chúng sinh. Bấy giờ Bồ-tát Ma-ha-tát tu tâm từ trải khắp tất cả chúng sinh đầy đủ 10 Ba-la-mật.

Hỏi: Vì sao như vậy ?

Đáp: Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích nhiếp thụ chúng sinh, bố thí sự không lo sợ, như vậy thành tựu đầy đủ Đàn Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, thành tựu sự không não hại, sự không mất công dụng của pháp, như cha đối với con, như vậy thành tựu đầy đủ Giới Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, thành tựu ý không tham, lìa bỏ việc không lợi ích, hướng đến thiền, hướng đến sự xuất gia, như vậy thành tựu đầy đủ Xuất ly Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, thành tựu nhiều tư duy về lợi ích, không lợi ích, nói đúng nghiã rõ ràng các phương tịện trừ ác được thiện, như vậy thành tựu đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, giữ tinh tiến không bỏ, tất cả mọi thời đều kiên trì tinh tiến, như vậy thành tựu đầy đủ Tinh tiến Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, nhận chịu lời thô ác mắng nhiếc của chúng sinh mà không uất giận, như vậy thành tựu đầy đủ Nhẫn nhục Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, vì chúng sinh mà dùng lời chân thật nói sự thật, an trú nơi sự thật, giữ gìn sự thật, như vậy thành tựu đầy đủ Thật đế Bala-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, vì chúng sinh cho đến mất thân mạng cũng không bỏ thệ nguyện, thụ trì vững chắc, như vậy thành tựu đầy đủ Thụ trì Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, làm lợi ích chúng sinh, xem tất cả chúng sinh như bản thân mình, như vậy là thành tựu đầy đủ Từ Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát trải tâm từ đến tất cả chúng sinh, bình đẳng xem người thân, người dưng, kẻ thù đều như nhau, tâm lià hờn giận yêu thương, như vậy là thành tựu đầy đủ Xả Ba-la-mật.

Bồ-tát Ma-ha-tát tu tâm từ như vậy thành tựu viên mãn 10 Bala-mật, khiến cho 4 sự thụ trì tâm từ được thành tựu.

Bốn pháp thụ trì là:

  1. Đế thụ trì.
  2. Thí thụ trì.
  3. Tịch tịch thụ trì.
  4. Tuệ thụ trì.

Bồ-tát Ma-ha-tát lấy Đế Ba-la-mật, Thụ trì Ba-la-mật, Tinh tiến Ba-la-mật làm cho Đế thụ trì viên mãn.

Bồ-tát Ma-ha-tát lấy Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Xuất ly Ba-la-mật làm cho Thí thụ trì viên mãn.

Bồ-tát Ma-ha-tát lấy Nhẫn nhục Ba-la-mật, Từ Ba-la-mật, Xả Ba-la-mật làm cho Tịch tịch thụ trì viên mãn.

Bồ-tát Ma-ha-tát lấy Tuệ Ba-la-mật làm cho Tuệ thụ trì viên mãn.

Như vậy, Bồ-tát Ma-ha-tát đã tu tâm từ đầy khắp, đầy đủ 10 Ba-la-mật, đầy đủ 4 Thụ trì, sẽ làm cho 2 pháp được viên mãn. Đó là pháp Xa-ma-tha và pháp Tì-bà-xá-na.

Bấy giờ Bồ-tát Ma-ha-tát, với Đế thụ trì, Thí thụ trì, Tịch tịch thụ trì làm viên mãn Xa-ma-tha, với Tuệ thụ trì làm viên mãn Tì-bàxá-na.

Do đầy đủ Xa-ma-tha mà thành tựu được tất cả thiền, giải thoát, định, chính thụ, khiến khởi song biến định và đại bi định.

Do đầy đủ Tì-bà-xá-na mà thành tựu được tất cả thần thông, có sức biện luận không sợ sệt, khiến khởi tự nhiên trí và nhất thiết trí.

Như vậy là Bồ-tát Ma-ha-tát theo thứ tự tu hành tâm từ khiến thành tựu Phật Địa.

( Xong phần nói về Từ vô lượng tâm )

Hỏi: Thế nào là Bi vô lượng tâm ? Bi vô lượng tâm thì tu, tướng, vị, khởi, công đức như thế nào ? Làm sao tu ?

Đáp: Như cha mẹ có đứa con một, lòng thương con, thấy con khổ, tâm khởi buồn rầu đau khổ. Cũng như vậy, đối với tất cả chúng sinh khởi lòng từ thương yêu, đó gọi là Bi vô lượng tâm.

Tâm trụ không loạn là tu. Không để cho sự không lợi ích xảy ra, đó là tướng. Niềm vui là vị. Không làm tổn hại là khởi. Tâm bi có đồng các công đức như tâm từ.

Tu hành tâm bi như thế nào ?

Người mới tập thiền đến nơi yên tĩnh, thâu nhiếp tất cả tâm ý, dùng tâm không loạn thấy chúng sinh sở duyên kia bệnh tật, già yếu, nghèo khổ, thấy, nghe các tướng khổ như vậy thì tự hỏi phải dùng phương tiện gì giúp chúng giải thoát khỏi khổ.

Lại nữa, khi thấy chúng sinh điên đảo, hoặc bị phiền não trói buộc vào vô minh, hoặc người có công đức mà không chịu tu học, thấy, nghe như vậy thì khởi ý nghĩ rằng các chúng sinh ấy đang bị khổ sẽ sinh vào nẻo dữ, làm sao có phương tiện giúp chúng giải thoát khỏi khổ.

Lại nữa, nếu thấy chúng sinh theo pháp bất thiện và không theo pháp thiện, theo pháp không khả ái mà không theo pháp khả ái, thấy nghe các tướng khổ như vậy thì khởi ý nghĩ rằng chúng sinh ấy bị khổ sẽ sinh vào nẻo dữ, làm sao có phương tiện giải thoát chúng khỏi khổ.

Người tu thiền theo pháp môn nầy tu tâm bi vô lượng. Nếu đã tu lại phải tu nhiều cho tâm thành điều hòa nhuần nhuyễn, mới có thể thụ trì tâm bi vô lượng.

Người tu thiền theo thứ lớp tu hành tâm bi vô lượng, với thân tộc, với người dưng kẻ lạ, rồi đến kẻ oán thù, cho đến tất cả chúng sinh đầy khắp 4 phương, như trước đã nói rộng.

Hỏi: Thế nào là đầy đủ tâm bi, thế nào là không đầy đủ ?

Đáp: Nếu tu tâm bi thành tựu thì trừ được tâm ưa sát hại, không khởi ưu não, không ưa việc bất thiện.

Có 2 nhân duyên khiến mất tâm bi:

  1. Vì các thứ lo rầu khiến người thân thành oan gia.
  2. Vì đối trị mà phẫn hận sinh khủng bố.

Đó gọi là không đầy đủ.

Hỏi: Không phải tất cả chúng sinh đều khổ, không phải mọi thời đều khổ, thế thì sao phải tu tâm bi với tất cả chúng sinh ?

Đáp: Chúng sinh nào cũng có thời chịu khổ, nên khéo giữ tướng khổ. Đã giữ tướng đó mà thành tu tâm bi đến tất cả mọi nơi.

Lại nữa, sự sinh và sự chết là những nỗi khổ chung của mọi chúng sinh, do đó tu hành tâm bi là tu khắp mọi nơi.

( Xong phần nói về Bi vô lượng tâm )

Hỏi: Thế nào là Hỷ vô lượng tâm ? Hỷ vô lượng tâm thì tu, tướng, vị, khởi, công đức như thế nào ? Làm sao tu ?

Đáp: Như cha mẹ có đứa con một, lòng thương thấy con được vui, khiến tâm sinh hoan hỷ. Hay thay ! Cũng như vậy, lấy tâm hoan hỷ đó đối với tất cả chúng sinh, đó gọi là tâm hỷ vô lượng. Tâm trụ không loạn, là tu. Vui tươi là tướng. Không lo sợ là vị. Trừ bỏ sự không vui là hỷ. Tâm hỷ có đồng các công đức như tâm từ.

Làm sao tu tâm hỷ vô lượng ?

Người mới tập thiền đến nơi yên tĩnh, ngồi thâu nhiếp tất cả tâm ý, tâm không loạn, được người kính trọng, thấy được an lạc, tâm sinh hoan hỷ. Nếu nghe, nếu thấy như vậy, tâm khởi lên ý vui mừng rằng: Hay thay! Hay thay! Nguyện chúng sinh kia được hoan hỷ lâu dài.

Lại nữa, nếu thấy chúng sinh không theo pháp bất thiện, theo pháp thiện, không theo pháp không khả ái, theo pháp khả ái, thì khởi ý rằng: Hay thay ! Hay thay ! Nguyện chúng sinh kia được hoan hỷ lâu dài.

Người tu thiền theo pháp môn nầy tu tâm hỷ, tu đã nhiều lần, khiến tâm điều hoà nhuần nhuyễn, có thể kham được việc thụ trì. Rồi từ đó tuần tự tu hành đối với người thân, đến người dưng, đến kẻ thù, khiến cho lan rộng ra, trùm khắp cả 4 phương.

Thế nào là đầy đủ tâm hỷ, thế nào là không đầy đủ ?

Nếu tu tâm hỷ thành tựu thì diệt trừ sự không vui, không khởi ý thích điều bất thiện, diệt trừ lối nói thêu dệt.

Có 2 nguyên nhân khiến mất tâm hỷ:

  1. Vì đùa cợt khiến người thân thành oán.
  2. Vì đối trị oán, khiến sinh không vui.Ngoải ra như trước đã nói rộng.

( Xong phần nói về Hỷ vô lượng tâm )

Hỏi: Thế nào là Xả vô lượng tâm ? Xả vô lượng tâm thì tu, tướng, vị, khởi, công đức như thế nào ? Làm sao tu tâm xả ?

Đáp: Như cha mẹ đối với con cái, tâm hoàn toàn vô tư bình đẳng là xả. Cũng như vậy bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, đó gọi là xả. Niệm xả trụ không loạn là tu. Không chấp trước là tướng. Bình đẳng là vị. Khắc phục giận ghét yêu thương là khởi. Tâm xả có đồng công đức với tâm từ.

Hỏi: Làm sao tu tâm xả vô lượng ?

Đáp: Người tu thiền khi bắt đầu tu 4 vô lượng tâm cùng khởi với tâm từ, cùng khởi với tâm bi, cùng khởi với tâm hỷ, là đã khởi Đệ Tam thiền. Khi người tu thiền đã được Đệ Tam thiền, tự tại trong Tam thiền rồi, người ấy bắt đầu quán thấy các lỗi lầm trong từ, bi và hỷ. Vì chúng gần với yêu và giận, nên cùng khởi với mừng vui, cùng khởi với hoan hỷ phấn chấn.

Người tu thiền khi biết các lỗi lầm, sinh tâm đối trị thấy các công đức của tâm xả, đối với ban đầu đã tu niệm chẳng phải khả ái, niệm chẳng phải không khả ái, với xả cùng khởi niệm khiến tâm đầy đủ, tâm xả tăng trưởng.

Người tu thiền y theo pháp môn này tu hành Xả vô lượng tâm. Tu như vậy, tu nhiều lần cho đến khi tâm điều hòa nhuần nhuyễn, có thể thụ trì niệm xả, rồi theo thứ lớp tu tâm xả với người thân thích, với người dưng, rồi với người thù oán, cho đến khắp 4 phương. Ngoài ra, như trước đã nói rộng.

Như vậy, người tu thiền tu hành Xả vô lượng tâm, cùng với tâm xả khởi Đệ Tứ thiền, do 3 thứ hành pháp làm cho Đệ Tứ thiền an trụ.

Ba thứ hành pháp đó là:

  1. Do bao quát chúng sinh.
  2. Do bao quát xóm làng.
  3. Do bao quát các phương.

Hỏi: Người tu thiền khi tu hành Xả vô lượng tâm, đối với tất cả chúng sinh, phải tác ý như thế nào ?

Đáp: Nên tác ý như vầy: Với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, người tu thiền đối với tất cả chúng sinh mà nói thì nên trừ diệt tác hoan hỷ và hành hoan hỉ. Như vậy mới có thể tác ý vui bình đẳng.

Như một người khi gặp được người thân sau bao năm xa cách thì vui mừng khoản đãi, cùng ở với nhau rồi sau đó trở thành bình thường. Cũng như vậy, trụ ở tâm từ, bi, hỷ lâu, rồi thành xả nhiếp thụ. Cũng như vậy tác ý mà tu hành Xả vô lượng tâm.

Lại có người nói tác ý nơi tất cả chúng sinh sẽ sinh khởi tất cả tâm, tâm số pháp. Đó cũng đồng một phương pháp tác ý.

Thế nào là đầy đủ tâm xả, thế nào là còn chưa đủ ?

Nếu tâm xả thành tựu, thì trừ được sự giận hờn, yêu ghét, không khởi vô minh.

Có 2 nguyên nhân khiến mất tâm xả:

  1. Do khởi vô minh mà sinh oán với người thân.
  2. Do đối trị sinh oán mà khởi sân ái.

( Xong phần nói về Xả vô lượng tâm )

Các vấn đề bổ sung về 4 vô lượng tâm:

Tu hành 4 vô lượng tâm bắt đầu từ 1 chúng sinh khởi tu hành, rồi sau trải rộng đến các hành xứ khác. Như người mẹ đối với các giai đoạn trưởng thành của đứa con.

Cũng như vậy, tu hành 4 vô lượng tâm có thể lấy nhiều đối tượng khác nhau như nơi súc sinh, nơi người phạm giới, nơi người đầy đủ giới, nơi người chán ghét tham dục, nơi người Thanh Văn, nơi bậc Duyên giác, nơi bậc Chính biến tri.

Quy y nơi thắng xứ thì biết sẽ thành tựu tối thắng vô lượng.

Hỏi: Vì sao từ, bi, hỷ, khởi ở Tam thiền mà không khởi ở Đệ Tứ thiền ?

Đáp: Chúng sinh đầy ưu não, do ưu não khởi giận dữ, tổn hại, không vui. Người tu thiền phải dùng tâm hỷ cùng sinh để đối trị tất cả ưu não này. Do đó tu hành các tâm từ, bi, hỷ chỉ có thể sinh khởi ở Đệ Tam thiền, mà không ở Đệ Tứ thiền.

Lại nữa, Đệ Tứ thiền là xả địa, thành tựu do 2 thứ xả: tức thụ trì xả và pháp trung xả.

Tất cả chúng sinh đều ở trong tướng Địa nhất thiết nhập, lấy nhiêu ích mà thành xả. Do đó từ, bi, hỷ chỉ có thể sinh khởi Đệ Tam thiền mà không là Đệ Tứ thiền.

Lại có thuyết cho rằng 4 vô lượng tâm tuần tự với 4 cấp thiền tương ứng sinh khởi.

Như Thế Tôn nói: Các Tì-kheo nên tu 4 tâm vô lượng. Các vị nên tu Định có giác có quán, nên tu Định có giác không có quán, nên tu Định không giác không quán, nên tu Định có hỷ cùng sinh, nên tu Định có lạc cùng sinh, nên tu Định có xả cùng sinh.

Hỏi: Sao nói có 4 vô lượng tâm, mà không nói 3 hay 5 vô lượng tâm ?

Đáp: Nếu nói có 3 hay 5 vô lượng tâm thì cũng gặp nghi vấn tương tự.

Lại nữa, 4 vô lượng tâm là để đối trị với giận hờn, não hại, không vui, và thương ghét.

Lại có thuyết cho rằng, trong 4 vô lượng tâm, chỉ có từ vô lượng tâm là trừ diệt sân giận, não hại v.v… các phiển não thường sinh khởi trong chúng ta, nên mới hình thành 4 pháp môn thù thắng này.

Về tâm xả, là khi từ, bi, hỷ được thanh tịnh rồi thì xả sinh khởi, vì tâm xả đối trị được với sự thương ghét.

Do đó, 4 vô lượng tâm tuy tướng khác nhau từng loại nhưng cùng chung một tính.

Như thế, vì cùng đối trị được các lỗi lầm, vì cùng lấy chúng sinh làm đối tượng, vì cùng làm lợi ích cho chúng sinh, nên 4 vô lượng tâm cùng chung một tướng.

Lại còn có thuyết nữa cho rằng, nếu kể về sự đối trị thù thắng, sự nắm giữ đối tượng thù thắng, sự làm lợi ích thù thắng cho chúng sinh, mà hình thành các hình tướng sai biệt.

Như trong Kinh Hoàng Y, Thế Tôn nói: Nơi thanh tịnh xứ, từ là bậc nhất. Nơi hư không xứ, bi là bậc nhất. Nơi thức xứ, hỷ là bậc nhất. Nơi vô sở hữu xứ, xả là bậc nhất.

Hỏi: Làm sao biết ?

Đáp: Do quá tiếp cận với ý nghĩa của 4 thứ tâm mà biết được.

Hỏi: Thế là thế nào ?

Đáp: Người tu thiền tuỳ theo ý nguyện của mình đối với tất cả chúng sinh tu hành tâm từ vô lượng. Thường tùy theo các nhất thiết nhập như Xanh, Vàng, mà tác ý, dùng phương tiện nhỏ khiến tâm được an. Đó là với các loại chúng sinh phóng ý vào nhất thiết nhập, thành tựu Sắc giới thanh tịnh.

Người tu thiền bấy giờ được Sắc giới Đệ Tứ Thiền. Cho nên nói nơi thanh tịnh xứ tâm từ là bậc nhất. Người tu thiền khi y vào Sắc giới Đệ Tứ thiền tu hành tâm từ vô lượng mà vượt qua khỏi Sắc giới.

Hỏi: Nghiã nầy như thế nào ?

Đáp: Vì tu tâm từ nên tâm biết các lỗi lầm của Sắc giới.

Vì sao ?

Người tu thiền khi thấy chúng sinh biết là vì sắc mà chịu khổ. Do đấy biết được các lỗi lầm của Sắc giới, liền hiện tác ý muốn xuất ly ra khỏi Sắc giới, nơi hư không xứ dùng phương tiện nhỏ khiến tâm được an. Cho nên nói nơi hư không xứ tâm bi là bậc nhất.

Hỏi: Người tu thiền ấy dựa vào hỷ vượt qua hư không xứ, nghiã nầy như thế nào ?

Đáp: Do đã tu hỷ nên tâm không chấp trước, thường giữ lấy vô biên thức. Vì sao vậy ? Vì hỷ nầy không đắm trước, an trụ chúng sinh nơi vô biên thức xứ. Từ nơi tâm không chấp trước đó thường giữ đối tượng vô biên thức, lià sự ràng buộc của Sắc giới. Nơi hư không vô biên thức, hiện khởi tác ý, dùng phương tiện nhỏ làm tâm được an. Cho nên nói, nơi thức xứ, hỷ là bậc nhất.

Hỏi: Người tu thiền nương theo xả, vượt qua thức xứ, nghiã nầy như thế nào ?

Đáp: Do đã tu xả, nên tâm lià chấp trước. Vì sao ? Vì chúng sinh do không tu tâm xả, nên chấp trước, do tâm mừng, vui mà thành có khổ có vui.

Người tu thiền tu hành Xả vô lượng tâm, dùng tâm xả lìa bỏ chấp trước, do tâm không chấp trước khiến tâm hoan hỷ, nơi vô sở hữu xứ dùng phương tiện nhỏ mà tâm được an không chấp trước các thứ.

Vì sao vậy ? Vì nơi vô sở hữu xứ, không còn chấp trước vào thức, hoặc vào vô biên nữa. Cho nên nói, nơi vô sở hữu xứ, xả là bậc nhất.

( Xong phần bổ sung về 4 vô lượng tâm )

Hỏi: Thế nào là quán 4 đại ? Quán 4 đại thì tu, tướng, vị, khởi, công đức như thế nào ? Làm sao tu quán 4 đại ?

Đáp: Vì trí tuệ có tính lựa chọn giải thích tự tướng bên trong của 4 đại: đất, nước, gió, lửa. Đó gọi là quán 4 đại. Tâm trụ không loạn vào sở duyên 4 đại đó, gọi là tu. Tùy quán theo 4 đại, đó là tướng. Thông đạt tính không, đó là vị. Trừ tưởng về chúng sinh, đó là khởi.

Tu quán 4 đại thành tựu được 8 công đức:

  1. Có thể chịu được sự khủng bố.
  2. Đối với tất cả việc không vui, có thể khởi tâm vui.
  3. Tâm bình đẳng đối với khả ái hay không khả ái.
  4. Dẹp bỏ ý phân biệt nam nữ.
  5. Thành đạt đại trí tuệ.
  6. Hướng đến nẻo thiện.
  7. Hướng về Đề hồ.
  8. Hiểu tất cả pháp có 4 đại, khiến người tu hành thành tựu viên mãn tất cả việc tu hành.

Làm sao tu quán 4 đại ?

Người mới tập thiền dùng 2 hành pháp nắm giữ các đại. Đó là sơ lược và rộng rãi.

Hỏi: Thế nào là sơ lược nắm giữ các đại ?

Đáp: Người tu thiền đến nơi yên tĩnh, thâu nhiếp tất cả tâm ý, dùng tâm không loạn, quán tưởng thân nầy đúng là do 4 đại. Nơi thân nầy tất cả những gì có tính cứng chắc là thuộc địa giới, những gì có tính ẩm ướt là thuộc thủy giới, những gì có tính nóng là thuộc hỏa giới, những gì có tính động là thuộc phong giới. Quán tưởng như vậy thì thân nầy tuy có các giới, nhưng không có chúng sinh cũng không có mạng. Đó là cách sơ lược nắm giữ các giới.

Lại có thuyết cho rằng, người tập thiền sơ lược nắm giữ các giới của 4 đại bằng 4 cách nầy là:

1. Quán thân này dựa vào các lớp mạc mà phân biệt. Người tu thiền có thể đối hình sắc các lớp mạc mà phân biệt rõ. Đó là đã sơ lược nắm giữ 4 giới, dựa vào mạc đã phân biệt tất cả tính của thân.

2. Quán thân này dựa vào các thớ thịt mà phân biệt. Người tu thiền có thể đối hình sắc của thớ thịt mà phân biệt rõ. Đó là đã sơ lược nắm giữ 4 giới, dựa vào các thớ thịt đã phân biệt tất cả tính của thân.

3. Quán thân này dựa vào các mạch mà phân biệt. Người tu thiền có thể đối hình sắc của mạch mà phân biệt rõ. Đó là đã sơ lược nắm giữ 4 giới, dựa vào các mạch đã phân biệt tất cả tính của thân.

4. Quán thân này dựa vào xương mà phân biệt. Người tu thiền có thể đối hình sắc của xương mà phân biệt rõ. Đó là đã sơ lược nắm giữ 4 giới, dựa vào xương đã phân biệt tất cả tính của thân.

Người tu thiền, nơi 4 hành pháp này là dùng sắc, hình, nơi, sự phân biệt. Do 4 hành pháp này khắc phục tâm khiến tâm điều hòa nhu nhuyến, khiến tâm thụ trì.

Người tu thiền đã tu tập 4 hành pháp này, lấy 4 hành pháp hàng phục tâm, tâm đã điều hòa nhu nhuyến, đã thụ trì, hiểu rõ ràng nơi 4 hành pháp này thì có tính cứng, biết tính cứng là địa giới. Có tính ướt, biết tính ướt là thủy giới. Có tính nóng, biết tính nóng là hỏa giới. Có tính động, biết tính động là phong giới.

Người tu thiền do 4 hành pháp mà phân biệt rõ, nơi thân thể nầy, chỉ có giới, không có chúng sinh, không có mạng. Lấy đó so với các cách khác mà tâm thành an trụ.

Như vậy là cách nắm giữ sơ lược các giới của 4 đại.

Hỏi: Thế nào là nắm giữ rộng rãi các giới ?

Đáp: Có 20 hành pháp nắm giữ rộng rãi địa giới. Đó là nơi thân nầy: 1. Tóc. 2. Lông. 3. Móng. 4. Răng. 5. Da. 6. Thịt. 7. Gân. 8. Mạch. 9. Xương. 10. Tủy. 11. Thận. 12. Tim. 13. Gan. 14. Phổi. 15. Lá lách. 16. Dạ dày. 17. Ruột non. 18. Ruột già. 19. Bàng quang. 20. Não.

Có 12 hành pháp nắm giữ rộng rãi thủy giới. Đó là nơi thân nầy: 1. Mật. 2. Nước miếng. 3. Mủ. 4. Máu. 5. Mồ hôi. 6. Mỡ đặc. 7. Nước mắt. 8. Mỡ lỏng. 9. Nước bọt. 10. Nước mũi. 11. Nước dãi.

12. Nước tiểu.

Có 4 hành pháp nắm giữ rộng rãi hoả giới: 1. Nóng. 2. Ấm. 3. Nong nóng. 4. Bình thường tiêu hoá thức ăn trong người, đó là hoả giới.

Có 6 hành pháp nắm giữ rộng rãi phong giới: 1. Hơi lên. 2. Hơi xuống. 3. Hơi trong bụng. 4. Hơi nơi lưng. 5. Hơi nơi tay chân. 6. Hơi thở ra, và hơi thở vào.

Như vậy là dùng 42 hành pháp để thấy thân nầy chỉ có giới, mà không có chúng sinh, không có mạng. Đó là cách quán để nắm giữ rộng rãi các giới.

Lại nữa, Đức Bản Sư có nói, dùng 10 hành pháp mà quán 4 đại. Đó là:

  1. Dùng nghiã của ngôn ngữ.
  2. Dùng sự.
  3. Dùng tụ.
  4. Dùng tán.
  5. Dùng không chỗ đeo bám.
  6. Dùng duyên.
  7. Dùng tướng.
  8. Dùng chủng loại và không phải chủng loại.
  9. Dùng 1 nghĩa nhiều nghĩa.
  10. Dùng giới giải thích Đệ nhất.

Hỏi: Thế nào là dùng nghiã ngôn ngữ để phân biệt các giới của 4 đại ?

Đáp: Có 2 loại ngôn ngữ là đồng ngôn và thắng ngôn. Như nói 4 đại là đồng ngôn. Địa giới, thủy giới, hoả giới, phong giới là thắng ngôn.

Hỏi: Bốn đại đó, nghiã như thế nào ?

Đáp: Đại sinh gọi là đại. Có đại chẳng phải thật nghĩa, mà làm cho hiện thật nghĩa. Cho nên gọi là đại. Đại, là giống như hình qủy, gọi là đại.

Sao đại sinh gọi là đại ?

Vì các giới do đại sinh, nên gọi là đại. Như Thế Tôn có nói kệ:

Lược nói tướng địa,

Có 20 vạn,

4 Na-dữu-tha. Thủy 40 vạn,

8 Na-dữu-tha.

Phong trụ hư không,

Có 90 vạn,

6 Na-dữu-tha.

Thế giới trụ được,

Cũng do hỏa thành.

Ở trong thế giới,

Có ngọn lửa sáng,

Đến trời Phạm Thế,

Cho đến 7 ngày,

Thế rồi đại sinh, Nên gọi là đại.

Hỏi: Sao gọi là đại không thật nghĩa mà làm hiện thật nghĩa ?

Đáp: Gọi là đại, tức là giới, không phải nam, không phải nữ, nhưng lại nhìn thấy dưới sắc tướng nam nữ. Giới, là không dài không ngắn, nhưng lại nhìn thấy dưới hình tướng dài ngắn. Giới, là không phải cây cối, không phải núi non, nhưng lại nhìn thấy dưới hình sắc núi non, cây cối.

Như vậy, đại là phi thật nghiã mà làm cho hiện ra thật nghiã, nên gọi là đại.

Hỏi: Sao gọi là hình dạng dị kỳ giống như qủy ?

Đáp: Hình dạng kỳ dị như qủy nhập vào thân người, lấy đó làm thân mình. Do mang hình giống như qủy thành ra thân ấy khởi lên 4 hành vi: 1. Cứng. 2. Chảy. 3. Nóng. 4. Nhẹ động.

Như vậy, nơi thân ấy lấy hoả giới hoà hợp mà thành, khởi lên 4 hành vi. Do địa giới hòa hợp thành cứng. Do thủy giới hoà hợp thành chảy. Do hoả giới hoà hợp thành có sức nóng. Do phong giới hoà hợp thành nhẹ động.

Có những hình dạng như quỷ, nên gọi là đại.

Nói đại là theo nghiã của ngôn ngữ.

Hỏi: Thế nào là nghiã của địa giới, thủy giới, hoả giới, phong giới ?

Đáp: Rộng lớn là nghiã của địa. Có thể uống được, có thể giữ gìn là nghiã của thủy. Làm cho sáng sủa là nghiã của hoả. Đến đi được là nghiã của phong.

Giới, nghiã là gì ? Giới có nghiã là giữ gìn tướng của chính nó.

Lại nữa, tự tính của đất là địa giới, tự tính của nước là thủy giới, tự tính của lửa là hoả giới, tự tính của gió là phong giới.

Tự tính của đất là gì ?

Là tính cứng chắc, tính mạnh, tính bền, tính không động, tính ở yên, tính gìn giữ, đó là địa tính.

Tự tính của nước là gì ?

Là tính ẩm ướt, tính thấm nhuần, tính trôi chảy, tính nhỏ giọt, tính tràn đầy, tính tăng trưởng, tính gây vui, tính bám dính, đó gọi là thủy tính.

Tự tính của lửa là gì ?

Là tính nóng, tính ấm, tính làm bốc hơi, tính làm chín, tính thiêu đốt, tính đoạt lấy, đó gọi là hoả tính.

Tự tính của gió là gì ?

Là tính mang theo, tính lạnh, tính qua lại, tính nhẹ động, tính thấp, tính đoạt lấy, đó gọi là phong tính.

Trên đây là ý nghiã của ngôn ngữ. Như vậy là người tu thiền dùng nghĩa của ngôn ngữ mà quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là lấy sự mà quán 4 giới ?

Đáp: Địa giới lấy gìn giữ làm sự. Thuỷ giới lấy bám dính làm sự. Hoả giới lấy tạo sức nóng làm sự. Phong giới lấy sự ngăn chận làm sự.

Lại nữa, địa giới dựng đứng lên là sự. Thủy giới chảy xuống là sự. Hoả giới bốc lên là sự. Phong giới chuyển động là sự.

Lại nữa, khi 2 giới gần nhau thì tạo thành chân trước bước rồi chân sau bước, khi 2 giới gần nhau thì tạo thành ngồi nằm rồi đứng đi, khi 2 giới gần nhau thì tạo thành lười biếng buồn ngủ, rồi sau khởi dũng mãnh tinh tiến, khi 2 giới gần nhau thì tạo thành trước cảm thấy thân nặng nề, sau thấy nhẹ nhàng. Như vậy là người tu thiền lấy sự mà quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là lấy tụ mà quán 4 đại ?

Đáp: Tụ, là khi địa giới, thuỷ giới, hoả giới, phong giới nương vào giới này thành sắc, hương, vị, xúc. Tám pháp này hoặc phần nhiều cùng sinh trụ, không rời nhau. Sự hòa hợp này gọi là tụ.

Lại có 4 loại tụ: Địa tụ, thủy tụ, hoả tụ và phong tụ.

Nơi địa tụ, địa giới chiếm tối đa, thủy giới, hoả giới, phong giới lần lượt thành tối thiểu.

Nơi thủy tụ, thì thủy giới tối đa, địa giới, phong giới, hỏa giới lần lượt thành tối thiểu.

Nơi hỏa tụ, thì hỏa giới chiếm tối đa, địa giới, phong giới, thủy giới lần lượt thành tối thiểu.

Nơi phong tụ thì phong giới chiếm tối đa, hỏa giới, thủy giới, địa giới lần lượt thành tối thiểu.

Như vậy, người tu thiền lấy tụ mà quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là lấy tán mà quán 4 đại ?

Đáp: Quán về địa giới, từ chỗ hết sức vi tế là một hạt bụi thật nhỏ gần bằng không, đất này được hoà với nước mà không tan, đất này bị lửa nung đốt mà không hôi thối, đất này được gió mang đi mà thành chuyển động. Người tu thiền dùng tán như vậy mà quán 4 giới.

Lại nữa, Đức Bản Sư có nói, địa giới trong thân thể một người bình thường, tán nhỏ thành bụi được 1 hộc 2 thăng, dùng nước hoà hợp thành 6 thăng 2 hợp, dùng lửa nấu chín, rồi theo gió mà quay tròn.

Người tu thiền dùng phép tán như vậy mà quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là dùng sự không tách rời nhau mà quán 4 đại ?

Đáp: Địa giới được nước giữ, được lửa nung nấu, được gió mang đi. Do đó địa giới được thủy, hỏa, phong 3 giới hoà hợp lại.

Thửy giới ở trong đất, được lửa nung nấu chín, được gió mang đi. Do đó thủy giới bao gồm địa, hỏa, phong 3 giới.

Hoả giới ở trong đất, được nước nhiếp giữ, được gió mang đi.

Do đó hỏa giới nung nấu chín địa, thủy, phong 3 giới.

Phong giới ở trong đất, được nước nhiếp giữ, được lửa nung nấu. Do đó phong giới mang đi là địa, thủy, hỏa 3 giới.

Nơi đất, 3 giới thủy, hỏa, phong hòa hợp. Nơi nước, nhiếp giữ địa, hỏa, phong 3 giới nên không tán. Nơi lửa, nung nấu chín đia, thủy, phong 3 giới nên không có mùi hôi. Nơi gió, mang đi địa, thủy, hỏa thành ra chuyển động mà không bị tan. Như vậy, 4 giới nương nhau chuyển lần lượt mà thành trụ không lìa tan.

Người tu thiền dùng sự không tách rời nhau như vậy mà quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là dùng duyên mà quán các giới ?

Đáp: Người tu thiền dùng 4 thứ duyên khởi quán 4 giới. Bốn thứ duyên là: 1. Nghiệp. 2. Tâm. 3. Thời. 4. Thực.

Thế nào là nghiệp ?

Là từ nghiệp sinh 4 giới. Do 2 duyên thành duyên tức là:

  1. Do sinh duyên thành duyên.
  2. Do nghiệp duyên thành duyên. Các giới còn lại do y duyên thành duyên.

Thế nào là tâm ?

Là từ tâm sinh 4 giới. Do 6 duyên thành duyên tức là:

  1. Do sinh duyên thành duyên.
  2. Do cộng sinh duyên thành duyên.
  3. Do y duyên thành duyên.
  4. Do thực duyên thành duyên.
  5. Do căn duyên thành duyên.
  6. Do hữu duyên thành duyên.

Các giới còn lại thì do duyên, do y duyên, do hữu duyên thành duyên.

Lúc nhập thai, tâm các sắc do 7 duyên thành duyên, tức là: 1. Cộng sinh duyên. 2. Triển chuyển duyên. 3. Y duyên. 4. Thực duyên. 5. Căn duyên. 6. Báo duyên. 7. Hữu duyên.

Thời, tức là lúc, nghĩa là lúc tạo thành 4 đại do 2 duyên thành duyên, tức là: 1. Sinh duyên. 2. Hữu duyên.

Các giới còn lại do y duyên và hữu duyên thành duyên.

Thực, tức là ăn, nghĩa là do ăn mà tạo thành 4 đại , tức là: 1. Sinh duyên. 2. Thực duyên. 3. Hữu duyên.

Các giới còn lại do y duyên và hữu duyên thành duyên.

Như vậy là có thể biết do duyên tâm sinh, do duyên thời sinh, do duyên ăn sinh 4 giới, với do từ nghiệp sinh 4 giới là đồng một đạo lý.

Địa giới vì là chỗ duyên của các giới khác, nên thành duyên.

Thủy giới vì làm duyên kết dính các giới khác, nên thành duyên.

Hoả giới vì duyên nung chín các giới khác, nên thành duyên.

Phong giới vì duyên mang theo các giới khác, nên thành duyên.

Như vậy là người tu thiền dùng duyên mà quán các giới.

Hỏi: Thế nào là dùng tướng mà quán các giới ?

Đáp: Tướng cứng chắc là địa giới. Tướng ẩm ướt là thuỷ giới. Tướng nóng là hỏa giới. Tướng lạnh là phong giới.

Như vậy là người tu thiền dùng tướng mà quán các giới.

Hỏi: Thế nào là dùng chủng loại và khác chủng loại mà quán các giới ?

Đáp: Địa giới và thủy giới cùng 1 chủng loại, vì có sức nặng.

Hoả giới và phong giới cùng 2 chủng loại, vì nhẹ.

Thủy giới và hoả giới khác loại nhau, vì thủy giới có thể diệt hoả giới, hoả giới có thể làm thủy giới khô ráo. Cho nên 2 giới không phải cùng 1 chủng loại.

Địa giới và phong giới khác loại nhau, vì địa giới thì ngăn chận lại, phong giới thì đi tới.

Phong giới có thể diệt địa giới. Cho nên 2 giới không cùng một chủng loại.

Lại nữa, 4 giới chủng loại xoay vần, vì xoay vần duyên với nhau. Hoặc xoay vần xem chúng khác chủng loại vì mỗi giới có tướng riêng.

Như vậy là người tu thiền dùng cùng loại, khác loại mà quán các giới.

Hỏi: Thế nào là dùng 1 tính, và nhiều tính khác nhau mà quán các giới ?

Đáp: Bốn giới từ nghiệp sinh. Vì 4 giới đều từ nghiệp sinh nên gọi là 1 tính.

Nhưng tuy đồng 1 tính mà mỗi mỗi tự có tướng riêng nên sinh khởi các tính khác nhau. Đó gọi là 1 tính và nhiều tính khác nhau.

Cũng như vậy, tính của 4 giới là một, do tâm, do thời, do ăn mà sinh ra.

Địa giới từ 4 duyên sinh, tuy vậy tướng không giống nhau. Về nhân mà nói thì đều thuộc 1 tính. Đó gọi là nhiều tướng khác nhau.

Cùng thế ấy mà xét đến thủy giới, hoả giới và phong giới, đều do 4 nhân duyên như nhau.

Bốn giới, do có 1 tính là giới, 1 tính là đại, 1 tính là pháp, 1 tính là khổ, 1 tính là vô ngã mà thành nhiều tính khác nhau.

Bốn giới do tướng có nhiều tính khác nhau, do sự có nhiều tính khác nhau, do nghiệp có nhiều tính khác nhau, do tâm mà có nhiều tính khác nhau, mà thành nhiều tính khác nhau.

Do thời có nhiều tính khác nhau, do ăn mà có nhiều tính khác nhau, thành ra có nhiều tính khác nhau.

Do khởi có nhiều tính khác nhau, mà thành có nhiều tính khác nhau.

Do sinh có nhiều tính khác nhau, mà thành có nhiều tính khác nhau.

Do thú hướng có nhiều tính khác nhau, mà thành có nhiều tính khác nhau.

Người tu thiền như vậy dùng 1 tính và nhiều tính khác nhau quán 4 giới.

Hỏi: Thế nào là dùng hình con rối gỗ mà quán các giới ?

Đáp: Như người thợ làm hình con rối gỗ dùng cây gỗ làm thân hình đủ tay chân, biết đi biết chạy theo sợi giây giật điều khiển bên trong. Bên ngoài dùng bùn đất tạo hình sắc như người, cho mặc quần áo trang sức thành người nam hay nữ. Do người điều khiển sợi dây mà con rối gỗ hoặc đi, hoặc múa, hoặc dựa, hoặc ngồi. Như vậy con rối gỗ ấy được gọi là thân người. Phiền não quá khứ chính là người thợ đã tạo nên thân người đầy đủ, dây buộc là gân, bùn đất là thịt, màu sơn là da, hư không là lỗ trống, áo quần trang sức làm người nam hay nữ. Con rối này do tâm, sự, làm phong giới điều khiển hoặc bước đi, hoặc đứng, hoặc tới, hoặc lui, hoặc duỗi, hoặc co, hoặc nói năng, hoặc trò chuyện.

Con rối gỗ đó cùng sinh với thức giới, do nhân duyên ưu não mà thành ưu, bi, khổ não, hoặc cười, hoặc giỡn, hoặc chạm vai nhau.

Ăn uống nuôi dưỡng cho con rối gỗ đó. Mạng căn duy trì đời sống con rối gỗ đó, đến khi chết thì thân hình con rối đó chia tan.

Nếu còn nghiệp báo phiền não thì lại sinh thành một con rối mới khác.

Con rối đó quá khứ đã sinh từ khi nào và sau này bao giờ mới chấm dứt, không thể biết được.

Như vậy là dùng hình con rối mà quán các giới.

Người tu thiền y theo pháp môn nầy tu hành, quán thân mình như thân con rối gỗ, nơi đó không có chúng sinh, không có thọ mạng.

Người tu thiền đã quán con rối gỗ xong, dùng thụ, tưởng, hành, thức, sinh tâm tâm số pháp mà quán nghiệp và hành xứ.

Người tu thiền đã quán danh sắc, từ danh và sắc đã quán tưởng biết được thế nào là khổ, từ tham ái đã quán tưởng biết được thế nào là khổ tập, từ tham ái diệt đã quán tưởng biết được thế nào là khổ diệt, từ chỗ quán tưởng Bát Chính đạo biết được thế nào là đầy đủ con đường diệt khổ.

Người tu thiền như vậy quán rộng pháp Tứ Đế. Bấy giờ do vô thường, khổ, vô ngã thấy được các lỗi lầm của khổ. Do tịch tịch, do diệu ly, thường tư duy không tán loạn và do trí tuệ mà thấy được các công đức của sự diệt khổ.

Người tu thiền hiện thấy rõ lỗi lầm của khổ, thấy công đức của sự diệt khổ như vậy mới được an trụ trong căn, lực và giác phần, từ hành tướng tâm khởi chứng Đề hồ giới.

( Xong phần nói về quán Tứ Đại )

Hỏi: Thế nào là tưởng chán ăn ? Tưởng chán ăn thì tu, tướng, vị, khởi, công đức như thế nào ? Làm sao tu tưởng chán ăn ?

Đáp: Tác ý về việc ăn uống các thực phẩm, thấy tất cả thức ăn uống đều bất tịnh, do đó sinh khởi chán ghét. Người tu thiền biết, biết đúng tưởng sở duyên về ăn uống mà sinh tưởng chán ăn. Đó gọi là tưởng chán ăn.

Tưởng đó trụ không loạn, gọi là tu. Đối với sự ăn uống lấy lỗi lầm làm tướng. Nhàm chán là vị. Khắc phục sự mê thích ăn uống là khởi.

Tu tưởng chán ăn có thể được 8 công đức:

  1. Biết tưởng của miếng ăn.
  2. Biết đầy đủ 5 dục.
  3. Biết được sắc ấm.
  4. Biết được tưởng bất tịnh.
  5. Nơi thân, niệm tu tập đầy đủ.
  6. Lià bỏ sự mê thích ăn uống.
  7. Hướng đến nẻo thiện.
  8. Hướng đến Đề hồ.

Làm sao tu tưởng chán ăn?

Người tu thiền đến nơi yên tĩnh, ngồi thâu nhiếp tất cả tâm ý khiến tâm không loạn, khởi tưởng chán ăn đối với thức ăn uống. Như trăm thứ thức ăn ngon được nấu nướng sạch sẽ, đầy đủ hương sắc được người quí trọng, xem là qúy lắm. Thế mà ăn vào thân rồi biến thành bất tịnh thật hôi thối, đáng ghét, không thể chịu nổi.

Tu tưởng chán ăn có 5 thứ hành pháp:

  1. Quán về kiếm ăn.
  2. Quán về tán dụng.
  3. Quán về nơi chứa đựng.
  4. Quán về lưu thông.
  5. Quán về sự tụ lại.

Hỏi: Thế nào là quán về việc kiếm ăn để tu tưởng chán ăn ?

Đáp: Người tu thiền quán thấy chúng sinh vì kiếm cái ăn mà tạo nhiều tội ác, hoặc giết hại, hoặc trộm cướp, lại thấy chúng sinh đó chịu đủ loại khổ vì bị sát hại, bị trói buộc. Lại thấy chúng sinh tạo các việc ác, hoặc đòi hỏi, hoặc dối gạt giả hiện tinh tiến.

Người tu thiền thấy như vậy mớí khởi nhàm chán việc ăn uống, thấy sự dơ bẩn của phân, nước tiểu là do ăn uống thực phẩm mà ra, thấy các ác nghiệp cũng do bởi ăn uống mà tạo ra.

Đồng thời người tu thiền thấy rằng người xuất gia ở nơi núi rừng yên tĩnh, có các thứ hoa thơm, có cầm thú kêu hót, đó đều do nghiệp thiện do người thiện tạo tác. Hoặc nơi đồng ruộng do người tạo lập trang nghiêm đầy đủ, có cây bóng mát, có dòng nước chảy, mặt đất bằng phẳng sạch sẽ không cao thấp khiến người phải sợ, không chút huyên náo, đó là nơi người xuất gia tu hành Bồ-đề, ngang với trụ xứ ở cõi trời Phạm Thiên. Nơi đó, lòng người không tham đắm, thường tu đọc tụng, hành thiền, làm việc thiện.

Rời nơi sơn dã đó, người xuất gia vì cầu thực phẩm, phải xông pha giữa thời tiết nóng lạnh, gió bụi mưa lầy, cầm bát vào nhà khất thực. Người tu thiền quán thấy như vậy, tâm sinh nhàm chán việc thác bát hóa duyên. Đồng thời tưởng đến thực phẩm không được tinh khiết, khi thoát ra ngoài là phân và nước tiểu. Do quán như thế nên xả bỏ mà theo đuổi việc tìm niềm vui cao cả hơn.

Lại nữa, quán thấy người xuất gia vì đi khất thực mà gặp phải ngựa, voi, thú dữ như chó sói, heo rừng, hoặc nơi kẻ ác, nơi nhơ bẩn giẫm đạp bùn lầy, đồ đại tiểu tiện, đến cửa nhà người đứng im lìm chờ đợi. Trong lòng hoài nghi phải chăng đây là cách thức tu hành cầu lấy miếng ăn ! Trông thấy thức ăn, nghĩ rằng phải chăng là đồ ăn dành cho chó. Do đó mà sinh tưởng chán ăn. Phương pháp kiếm ăn này thật là đáng ghét. Có đáng chi mà phải ra công khó tầm cầu. Đi xin nơi khác thôi.

Như vậy là người tu thiền lấy việc tìm cầu cái ăn mà quán tưởng chán ăn.

Hỏi: Thế nào là dùng tán thực quán tưởng mà chán ăn ?

Đáp: Người tu thiền quán thấy người xuất gia kia vừa xin được thức ăn rồi tìm đến một nơi ngồi xuống, dùng nước cá hoà nhuyễn thức ăn, dùng tay vò lại, dùng miệng làm cái cối, dùng môi gom lại, dùng răng nhai làm chày, dùng lưỡi để trộn, dùng nước dãi nước miếng hòa với nhau. Thật gớm ghiếc, khác nào đồ chó mửa, không ai dám nhìn.

Như vậy là dùng tán dụng quán tưởng mà chán ăn.

Hỏi: Thế nào là dùng quán tưởng chỗ chứa mà chán ăn ?

Đáp: Như vậy là các thức ăn được dồn vào bụng, cùng các chất bất tịnh khác hòa trộn chứa dựng. Rồi trong ruột, thức ăn vào được hàng trăm thứ vi trùng ăn, lại được thân nhiệt nung nóng cho chín nhừ để trở thành một thứ hết sức gớm, như thứ người ta ói mửa vào một cái đựng đồ dơ dáy.

Như vậy là dùng chỗ chứa đựng đồ ăn, quán tưởng mà chán ăn.

Hỏi: Thế nào là dùng sự lưu thông quán tưởng mà chán ăn ?

Đáp: Thức ăn đó được nhiệt độ làm chín nhừ, lại thứ bất tịnh mới hòa với thứ bất tịnh cũ, giống như rượu đựng trong một cái đồ dựng bị nứt rỉ chảy ra. Sự lưu thông trong cơ thể cũng vậy, xuyên qua các mạch, các thớ thịt đến tận mặt mày, chín lỗ, chín vạn chín ngàn lỗ chân lông đều lưu thông. Thức ăn lưu thông như vậy chia làm 5 phần: một phần bị các vi trùng ăn, một phần bị đốt làm nhiệt lượng, một phần để duy trì thân thể, một phần thành phân, nước tiểu, và một phần để tạo thành thân thể.

Như vậy là dùng sự lưu thông quán tưởng mà chán ăn.

Hỏi: Thế nào là dùng sự tụ lại, quán tưởng mà chán ăn ?

Đáp: Các thức ăn đó lưu chuyển tụ lại thành cơ thể như tóc, lông, móng v.v… tạo thành 101 phần khác của thân thể. Nếu không lưu thông thì sẽ xảy ra 101 thứ bệnh khổ.

Như vậy là dùng tụ lại quán tưởng mà chán ăn.

Người tu thiền dùng pháp môn này, dùng hành pháp này mà tu tưởng chán ăn. Khi tưởng chán ăn trụ thì chán sự ăn uống, khi sự chán ngán đã tự tại rồi thì tâm bất loạn. Nếu tâm không loạn, thì các triền cái diệt, các thiền phần khởi, được an trụ thiền ngoại hành.

( Xong phần tưởng chán ăn )

Vô sở hữu xứ và Phi phi tưởng xứ được nói rõ nơi Địa nhất thiết nhập ở trước.

Có kệ rằng:

Hành xứ người tu thiền,

Đây chỉ nói sơ lược.

Như người giỏi dẫn đường,

Đến Ba-lợi-phất-đa.

Lời nói, hiểu được sâu,

Hiểu rõ cả trước, sau.

Hằng quán như, phi như,

Nơi đây đã rộng nói.

Như vậy tướng đầy đủ,

Tất cả công đức kia,

Như pháp phải phân biệt

Con đường của Giải Thoát.

( Xong phần 48 hành phẩm )

QUYỂN 8 HẾT