LUẬN GIẢI THOÁT ĐẠO 
(Con đường giải thoát)
A-la-hán Ưu-ba-để-sa tạo luận
Tam tạng Tăng-già-bà-la dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 7

Phẩm 8: HÀNH MÔN 4

Hỏi: Thế nào là niệm An-ban ? Niệm An-ban thì tu, tướng, vị, xứ, công đức như thế nào ? Tu hành như thế nào ?

Đáp: An là nhập. Ban là xuất. Niệm An-ban là quán niệm hơi thở ra vào. Nơi tướng ra vào đó tùy niệm, chính niệm, gọi là niệm An-ban.

Tâm trụ không loạn, là tu.

Khởi tưởng An-ban, là tướng.

Xúc tư duy, là vị.

Đoạn giác, là hành xứ.

Công đức như thế nào ?

Người tu hành niệm An-ban được tịch tịch, thắng diệu, trang nghiêm, khả ái và tự có niềm vui. Nếu tâm khởi lên nhiều pháp bất thiện thì niệm trừ dứt, thân không lười biếng, mắt cũng không lười biếng, thân không loạn động, tâm không dao động, khiến viên mãn 4 niệm xứ, viên mãn 7 giác ý và viên mãn giải thoát. Được Thế tôn khen ngợi là nơi các Thánh trụ, là nơi các Phạm hạnh trụ, là nơi Như Lai thường an trụ.

Tu niệm hơi thở như thế nào ?

Người mới tập ngồi thiền đến nơi A-lan-nhã, hoặc dưới gốc cây, hoặc nơi yên tĩnh, ngồi kết già, thân ngay ngắn. Người ngồi thiền niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra:

Khi hơi thở ra dài, biết rõ ta thở ra dài.

Khi hơi thở vào dài, biết rõ ta thở vào dài.

Khi hơi thở vào ngắn, biết rõ ta thở vào ngắn.

Khi hơi thở ra ngắn, biết rõ ta thở ra ngắn.

Biết mừng, biết vui, biết các tâm hành và khiến diệt tâm hành, khiến tâm hoan hỷ, khiến tâm giáo hoá, khiến tâm được giải thoát, thấy vô thường, thấy không ham muốn, thấy diệt, thấy xuất ly. Cũng như vậy, biết hơi thở ra vào của ta. Cũng như vậy từ hơi thở ra vào của ta biết thấy sự xuất ly.

Nơi cái biết về xuất ly này, người học tập được an. Có nghiã là người học tập buộc niệm, trụ nơi chót mũi, hoặc ở đầu môi, đó là nơi sở duyên của hơi thở ra vào. Người ngồi thiền lấy an niệm nơi đây, nơi hơi thở ra vào ở chót mũi hay đầu môi, dùng niệm quán xúc, hoặc hiện niệm khiến hơi thở vào, hiện niệm khiến hơi thở ra.

Khi hơi vào không tác ý, khi hơi ra cũng không tác ý. Hơi thở vào ra chạm xúc nơi chót mũi hay đầu môi, dùng quán niệm mà biết xúc. Hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, cũng như người cưa gỗ ngó theo cây cưa mà không khởi ý tưởng lưỡi cưa đang chạy tới lui. Cũng vậy, người ngồi thiền khi thở ra, thở vào, cũng không tác ý về hơi thở vào ra chạm xúc chót mũi đầu môi, mà dùng quán niệm biết hiện niệm hơi thở ra vào. Nếu người ngồi thiền tác ý hơi thở ra vào thì tâm loạn động. Nếu loạn động, thì thân giải đãi, tâm dao động, đó là một lỗi lầm.

Khi thở hơi thật dài, hoặc hơi thật ngắn, cũng không nên tác ý. Nếu cố ý thở thật dài, hoặc thở thật ngắn, thân cũng trở nên giải đãi và tâm thành dao động, đó cũng là một lỗi lầm. Do đó, đối với mỗi loại tướng của hơi thở, không nên để cho ý dính mắc vào. Nếu để dính mắc, tâm sẽ chạy theo các duyên khác mà trở nên loạn động. Nếu tâm loạn, thì thân và tâm đều thành giải đãi, dao động, sẽ tạo thành lỗi lầm vô biên. Hơi thở ra vào khởi lên, do xúc chạm vô biên nên có tưởng như vậy tâm không loạn.

Khi tâm chậm lụt, hay nhanh nhạy, không nên khởi tinh tiến, vì khi chậm lụt mà khởi tinh tiến thì thân giải đãi, buồn ngủ, còn khi nhanh nhạy mà khởi tinh tiến, tâm thành xao động.

Nếu người ngồi thiền để cho tâm với sự giải đãi, buồn ngủ cùng khởi, hoặc với dao động cùng khởi, thì thân và tâm sẽ thành lười biếng, thành dao động, đó cũng là lỗi lầm.

Người ngồi thiền tâm thanh tịnh 9 phiền não nhỏ, hiện niệm hơi thở ra vào, tướng hơi thở ra vào sở duyên ấy nhân đó được khởi, đó gọi là tướng niệm hơi thở.

Nói tướng của nó là như lụa, như gấm chạm xúc vào thân tạo nên cảm xúc ưa thích, như làn gió mát thoảng trên thân, tạo nên cảm giác ưa thích. Hơi thở ra vào chạm vào chót mũi đầu môi cũng như vậy, lấy niệm khởi ý tưởng về gió, mà không lấy hình sắc tác tưởng về gió, đó gọi là tướng của niệm hơi thở.

Nếu người ngồi thiền tu niệm nhiều, khiến tướng gió tăng trưởng, lan rộng khoảng giữa 2 chân mày, khắp trán, đầu, ở nhiều chỗ, từ đó khiến tăng trưởng đến toàn thân tràn đầy niềm an lạc, đó gọi là đầy đủ.

Lại nữa, có người ngồi thiền ngay buổi đầu tu tập niệm An-ban thấy những tướng kỳ lạ như khói, như sương mù, như bụi bặm, như kim chích, như kiến cắn, các màu sắc khác thường, những lúc như vậy nếu người ngồi thiền không đủ sáng suốt để hiểu rõ các dị tướng đó mà có tư tưởng kỳ dị nổi lên thì thành điên đảo, không thể thành tựu tưởng hơi thở ra vào. Nếu người ngồi thiền đủ sáng suốt hiểu rõ, không khởi tưởng kỳ lạ, buộc niệm nơi hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, đem tất cả các tưởng tác ý xuất ly thì các tướng kỳ dị tự tiêu diệt.

Người ngồi thiền từ niệm An-ban được tướng vi diệu, tâm không phóng dật. Người ngồi thiền buộc niệm vào hiện hơi thở vào, hơi thở ra, qua sở duyên niệm An-ban đó mà được tướng tự tại.

Người ngồi thiền nhờ tướng tự tại mà khởi ý muốn tu hành.

Người ngồi thiền do ý muốn tu được tự tại rồi, buộc niệm vào hơi thở vào, hơi thở ra, qua niệm An-ban sở duyên kia mà tâm hỷ thành khởi.

Người ngồi thiền đã được hỷ tự tại, và dục tự tại, buộc niệm vào hiện hơi thở vào, hiện hơi thở ra, qua niệm An-ban sở duyên kia mà tâm xả thành khởi.

Người ngồi thiền đã được xả tự tại, hỷ tự tại, dục tự tại, buộc niệm vào hiện hơi thở vào, hiện hơi thở ra, qua niệm An-ban sở duyên kia mà mà tâm không loạn.

Người ngồi thiền tâm đã không loạn thì các triền cái đều diệt, các thiền phần nhân đó được khởi.

Bấy giờ người ngồi thiền ấy đã được nhập vào 4 thiền định tịch diệt thù thắng.

Ngoài ra như trước đã nói rộng.

Lại nữa, Tiên Sư có dạy 4 pháp môn tu hành về niệm An-ban là:

toán, tùy trục, an trí, và tùy quán.

Hỏi: Sao gọi là toán ?

Đáp: Người mới tập thiền đếm từ 1 đến 10, kể từ hơi thở ra đầu tiên cho đến hơi thở vào thứ 10, quá 10 không đếm.

Lại nữa có thuyết dạy chỉ đếm đến 5, quá 5 không đếm. Không được đếm nhầm, nếu nhầm ngưng đếm tiếp và trở lại hơi thở đầu.

Theo ra vào của hơi thở mà niệm trụ, gọi là toán tức là đếm.

Tùy trục là theo đuổi, có nghiã là chuyên chú đếm theo hơi thở ra vào không gián đoạn, gọi là tùy trục.

An trí, là hoặc đặt tại chót mũi, hoặc ở đầu môi là điểm chạm xúc của hơi thở ra vào, tại nơi đó khởi tưởng gió khiến niệm trụ yên, gọi là an trí.

Tùy quán, là do xúc được tự tại, nên nơi đó khởi các pháp hỷ lạc nên phải tùy theo quán sát tướng ấy, đó gọi là tùy quán.

Phương pháp toán, tức đếm, là vì giác diệt, khiến được xuất ly giác.

Phương pháp tuỳ trục, tức theo đuổi, là diệt thô giác, nơi hơi thở ra vào, khiến niệm niệm không gián đoạn.

Phương pháp an trí, tức trụ yên, là dứt loạn tưởng, khiến bất động.

Phương pháp tùy quán, tức quán sát theo, là thụ trì tưởng là biết rõ thắng pháp.

Người ngồi thiền quán tưởng hơi thở ra dài, hơi thở vào dài, hơi thở ra ngắn, hơi thở vào ngắn, cách học tập như vậy chẳng qua chỉ là phương tiện làm tăng trưởng và siêu việt tự tính. Đó gọi là trường tính là hiện trí. Thứ trí này là để hiện khởi sự không ngu si.

Hỏi: Thế nào là sự không ngu si ?

Đáp: Người mới tập ngồi thiền được thân tâm khinh an do niệm hơi thở ra vào hiện tác niệm trụ, bấy giờ hơi thở ra vào trở thành vi tế. Hơi thở ra vào vi tế nên không thể thủ. Bấy giờ người ngồi thiền nếu thở hơi dài, thì tùy quán là hơi dài, cho đến khi tướng hơi thở khởi trụ. Khi tướng hơi thở đã khởi trụ, thì tự tính tương ưng tác ý, đó gọi là sự không ngu si.

Lại nữa, khi tâm tiêu hơi thở thì hơi thở ra vào có khi dài, có khi ngắn. Trong tình huống đó lại phải tinh tiến tu tập.

Lại nữa, người ngồi thiền, cần phải nơi tác sự của mình phải sinh khởi tướng rõ ràng, và phải thêm tinh tiến tu tập.

Người ngồi thiền tu niệm An-ban biết hơi thở ra vào của tất cả thân, của ta. Đó là 2 thứ hạnh để biết tất cả thân. Hai thứ hạnh đó là:

1. Không ngu si. 2. Sự nghiệp hạnh.

Hỏi: Thế nào là biết tất cả thân không ngu si ?

Đáp: Nếu người ngồi thiền niệm An-ban định, thân tâm xúc hỷ lạc tràn đầy. Do hỷ lạc xúc tràn đầy, nên tất cả thân thành không ngu si.

Hỏi: Làm thế nào lấy sự mà biết tất cả thân ?

Đáp: Buộc niệm nơi hơi thở ra vào, đó là nơi trụ lại của sắc thân và sự kiện hơi thở ra vào. Tâm và tâm số pháp gọi là thân và sắc thân cũng gọi là thân. Cho nên gọi là tất cả thân.

Người ngồi thiền lấy đó mà biết tất cả thân. Tuy nhiên có thân đó, nhưng không có chúng sinh, không có mạng sống.

Cái học như vậy gọi là 3 môn học:

  1. Tăng thượng giới học.
  2. Tăng thượng tâm học.
  3. Tăng thượng tuệ học.

Như thật giới, là tăng thượng giới học.

Như thật định, là tăng thượng tâm học.

Như thật tuệ, là tăng thượng tuệ học.

Người ngồi thiền dùng 3 môn học đó vào đối tượng sở duyên lấy niệm tác ý mà tu tập. Tu tập nhiều lần cho thuần thục, là học tập.

Khiến thân hành này, khiến hơi thở ra vào của ta thành diệt, là học tập.

Thế nào là thân hành ?

Tu tập hơi thở ra vào là thân hành. Thân hình co duỗi, nhảy nhót lay động, là thân hành. Các thân hành như vậy hiện khiến tịch diệt.

Lại nữa, với các thân hành thô, thì khiến hơi thở ra vào làm cho tịch diệt. Lấy thân hành vi tế tu hành Sơ thiền.

Từ thân hành Sơ thiền đến thân hành vi tế hơn nữa, thì tu Đệ Nhị thiền.

Từ thân hành Đệ Nhị thiền càng vi tế hơn nữa, thì tu Đệ Tam thiền.

Từ thân hành Đệ Tam thiền khiến diệt hết các thân hành không còn sót, thì tu Đệ Tứ thiền.

Hỏi: Nếu người ngồi thiền diệt hết mọi thân hành còn lại của hơi thở vào ra, thì làm sao ngưòi ấy tu hành niệm An-ban được ?

Đáp: Vì khéo giữ tướng ban đầu nên khi diệt hơi thở ra vào, tướng ấy vẫn khởi được thành tướng tu hành. Bởi vì sao ? Vì biết hỷ và hơi thở ra vào của ta.

Người ngồi thiền đối với các thiền tướng, lấy biết hỷ làm sự.

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, khởi hỷ tại Đệ Nhị thiền. Cái hỷ sở duyên kia do 2 hành mà biết được hỷ và hơi thở ra vào của ta.

Hai hành đó tức là: Hành không ngu si, và Hành sự nghiệp.

Như vậy, khi nhập định, người ngồi thiền biết hỷ, vì quán mà không ngu si, vì đối trị, vì sự nghiệp hành mà thành biết lạc và hơi thở ra vào của ta.

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, nơi Đệ Tam thiền khởi lạc. Cái lạc sở duyên kia do 2 hành mà biết được lạc và hơi thở ra vào của ta. Hai hành đó tức là: Hành không ngu si, và Hành sự nghiệp.

Ngoài ra, như trước đã nói.

Biết tâm hành và hơi thở ra vào của ta, về mặt tu học mà nói thì tâm hành, tâm thụ, tâm tưởng hoàn toàn giống nhau. Người ngồi thiền nơi Đệ Tứ thiền khởi các tâm hành kia và do 2 hành mà biết tâm hành và hơi thở ra vào của ta. Hai hành đó tức là: Hành không ngu si, và Hành sự nghiệp.

Ngoài ra, như trước đã nói.

Khiến cho tâm hành được tịch diệt, ta thở vào, như vậy mà luyện tập. Nói tâm hành là nói đến thụ, tưởng nơi tâm hành còn thô, nay tu tập cho tâm hành thô đó trở nên được tịch diệt.

Ngoài ra như trước đã nói.

Để biết tâm, ta thở vào, cứ như vậy mà luyện tập. Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, tâm đó theo sự ra vào qua 2 hành mà biết được. Hai hành đó tức là: Hành không ngu si, và Hành sự nghiệp.

Ngoài ra, như trước đã nói.

Khiến tâm hoan hỉ, ta thở ra vào, và như thế mà luyện tập. Người ngồi thiền làm cho tâm hoan hỷ là nơi Đệ Nhị thiền, dùng hỷ khiến tâm phấn chấn mà mà học tập.

Ngoài ra, như trước đã nói.

Khiến giáo hoá tâm, ta thở ra vào.

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, dùng niệm và tác ý lên tâm sở duyên khiến hơi thở ra vào an trụ và khiến tâm chuyên nhất được giáo hoá phải học tập như thế nào cho tâm an trụ.

Khiến giải thoát tâm, ta thở ra vào.

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra. Nếu tâm lơi lỏng thì phải tập như thế nào cho thoát khỏi sự giải đãi. Nếu tâm nhanh nhạy thì phải tập như thế nào cho thoát khỏi sự vọng động. Nếu tâm cao ngạo thì phải tập như thế nào cho thoát khỏi sự nhiễm trước. Nếu tâm hạ liệt thì phải tập làm sao cho thoát khỏi sự giận hờn. Nếu tâm ô uế thì phải tập làm sao cho thoát khỏi các tiểu phiền não.

Lại nữa, đối với sự mà nói, cần phải học tập làm sao khiến tâm không chấp đắm vào lạc.

Thường thấy vô thường, ta thở ra vào

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra biết mình tu tập hơi thở vào, hơi thở ra, và với việc hơi thở ra vào là tâm tâm số pháp để học tập thấy sự sinh diệt của tâm.

Thường thấy vô dục, ta thở vào, thở ra.

Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra biết pháp An-ban sở duyên kia là pháp vô thường, chỉ thấy pháp Anban sở duyên kia vô dục mới có thể chứng đắc Nê-hoàn nên học tập niệm diệt hơi thở ra vào

Thường thấy tịch diệt, ta thở ra vào.

Người ngồi thiền biết pháp An-ban sở duyên kia là pháp vô thường, thấy như thật lỗi lầm, chỉ khiến sở duyên kia ta được diệt mới có thể chứng đắc Nê-hoàn, dùng kiến tịch diệt mà học tập.

Thường thấy xuất ly, ta thở ra vào.

Người ngồi thiền biết pháp An-ban sở duyên kia là pháp vô thường, thấy như thật lỗi lầm, với lỗi lầm sở duyên đó hiện khởi tâm xả, an trú trong Nê-hoàn tịch diệt, khiến tâm an lạc, nên như vậy mà học tập.

Với 16 xứ này được nhập tịch tịch là rất vi diệu. Đó gọi là tất cả hành tịch tịch, tất cả phiền não đều xuất ly, diệt được sự tham ái, không còn ham muốn, được tịch diệt Nê-hoàn.

Trong 16 xứ này 12 xứ đầu thành tựu Sa-ma-tha và Tỳ-bà-xána, thấy được vô thường, 4 xứ sau chỉ thành tựu Tỳ-bà-xá-na. Như vậy, lấy Sa-ma-tha và Tì-bà-xá-na có thể biết.

Lại nữa, trong tất cả 16 xứ đó có thể chia thành 4 thứ. Đó là: 1. Tu. 2. Khiến khởi. 3. Quán chiếu đầy đủ. 4. Có khi thấy.

  1. Người ngồi thiền hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, đó gọi là tu.
  2. Biết hơi thỏ ra vào dài ngắn khiến thân hành thành diệt, khiến tâm hành thành diệt, khiến tâm khởi hoan hỷ, khiến khởi tâm giáo hoá, khiến khởi tâm giải thoát tâm. Đó gọi là khiến khởi.
  3. Biết tất cả thân, biết lạc, biết tâm hành, biết tâm. Đó gọi là quán đầy đủ.
  4. Thường thấy vô thường 4 hành đầu tiên. Đó gọi là có khi thấy.

Lại nữa, người ngồi thiền tu là lấy bậc niệm An-ban mà thụ trì là tu.

Biết bậc tu thụ trì niệm An-ban là có giác có quán. Sở duyên có quán có quán là bậc có giác có quán, tức bậc Sơ thiền.

Biết hỷ là bậc Đệ Nhị thiền.

Biết lạc là bậc Đệ Tam thiền.

Biết tâm là bậc Đệ Tứ thiền.

Lại nữa, trong tất cả 16 xứ đó có thể chia thành 2 thứ là: tu và thành mãn.

Tu, là tên gọi của 16 pháp này duy nhất chỉ có tác dụng tu hành.

Thành mãn, là 16 pháp này tu hành không dứt gọi là thành mãn.

Tu là nhân gieo trồng công đức.

Thành mãn là khai hoa kết quả.

Trên đây nói xuất xứ các pháp hoàn toàn tương tự. Căn cứ các pháp trên tu hành niệm An-ban, có thể khiến 4 niệm xứ thành mãn.

Tu hành 4 niệm xứ có thể khiến thành mãn 7 Bồ-đề giác phần.

Tu hành 7 Bồ-đề giác phần có thể thành mãn minh giải thoát.

Hỏi: Làm sao tu niệm An-ban có thể khiến 4 niệm xứ được thành mãn ?

Đáp: Người ngồi thiền tu hành khi thở hơi thở ra vào dài, buộc niệm vào 4 chỗ là mũi miệng trán và đầu, đó là thân niệm xứ.

Chỗ bắt đầu biết được hỉ, lạc đó là thụ niệm xứ. Khi biết tất cả xúc sinh khởi, đó là thụ niệm xứ.

Khi biết tâm không loạn, đó là tâm niệm xứ.

Khi thấy vô thường, đó là pháp niệm xứ.

Như vậy, tu niệm An-ban thì khiến thành mãn được 4 niệm xứ.

Hỏi: Thế nào là tu 4 niệm xứ có thể làm thành mãn được 7 Bồđề giác phần ?

Đáp: Người ngồi thiền khi tu niệm xứ, do niệm trụ được thành không ngu si. Đó gọi là niệm Bồ-đề giác phần.

Người ngồi thiền khi tu 4 niệm xứ, do niệm trụ biết lựa chọn khổ, vô thường. Đó gọi là trạch pháp Bồ-đề giác phần.

Người ngồi thiền khi tu 4 niệm xứ, do niệm trụ do hiện trạch pháp, tu hành tinh tiến không lơi lỏng. Đó gọi là tinh tiến Bồ-đề giác phần.

Người ngồi thiền khi tu 4 niệm xứ, do niệm trụ, do tu hành tinh tiến khởi tâm hỷ, không phiền não. Đó gọi là hỷ Bồ-đề giác phần.

Người ngồi thiền khi tu 4 niệm xứ, do niệm trụ, do tâm hoan hỷ khiến thân tâm khinh an. Đó gọi là khinh an Bồ-đề giác phần.

Người ngồi thiền khi tu 4 niệm xứ, do niệm trụ, do tâm định thành xả. Đó gọi là xả Bồ-đề giác phần.

Như vậy là do tu 4 niệm xứ mà thành mãn 7 Bồ-đề giác phần.

Hỏi: Thế nào là tu 7 giác phần có thể thành mãn minh giải thoát ?

Đáp: Người ngồi thiền do tu nhiều 7 Bồ-đề giác phần, trong sát-na được đạo, được minh thành mãn, trong sát-na được quả, được giải thoát thành mãn.

Như vậy là tu 7 Bồ-đề giác phần khiến minh giải thoát thành mãn.

Hỏi: Tất cả các hành đều tùy theo bậc, mà có giác, không có giác, như vậy niệm An-ban cũng không ngoại lệ, vì sao niệm An-ban chỉ trừ giác mà không nói trừ các thứ khác ?

Đáp: Không phải nói theo nghiã đó. Phải biết giác không trừ sẽ thành chướng ngại cho thiền, bởi thế nên phải trừ bỏ giác. Cho nên nói trừ giác là y nơi nghĩa này.

Vì sao gió là một cảm xúc ưa thích ? Vì gió làm tâm ưa thích, giống như giác, như vì giác mà biết tiếng nhạc của Càn-thát-bà và sinh chấp trước. Do đó phải đoạn giác.

Lại nữa, cũng như đi bộ trên bờ hồ, do tâm chuyên niệm mà thành an ổn, tâm không động. Cho nên nói niệm An-ban là để trừ bỏ giác.

( Xong phần niệm An-ban. )

Hỏi: Thế nào là niệm tử ? Niệm tử thì tu, tướng, vị, xứ, công đức như thế nào ? Làm sao tu ?

Đáp: Thọ mạng dứt, gọi là tử, tức là chết.

Niệm ấy trụ không loạn, là tu.

Thọ mạng mình dứt là tướng.

Chán ghét là vị.

Không khó khăn là hành xứ.

Về công đức, người tu hành niệm tử, được 10 thứ công đức:

  1. Không phóng dật đối với pháp thượng thiện.
  2. Chán ghét pháp bất thiện.
  3. Đối với các thứ ăn mặc không nhận nhiều không tích trữ.
  4. Tâm không bỏn sẻn.
  5. Thấy thân thọ mạng.
  6. Tâm không tham trước.
  7. Các tưởng vô thường, khổ, vô ngã, đều khiến thành mãn.
  8. Hướng về nẻo thiện.
  9. Hướng đến Đề hồ.
  10. Khi lâm chung, tâm không mê mờ lầm lẫn.

Làm sao tu ?

Người ngồi thiền đến nơi yên tĩnh, thâu nhiếp tất cả tâm ý, dùng tâm không loạn, khởi chính niệm về sự sinh tử. Tất cả chúng sinh đều chết, ta cũng sẽ chết. Hướng đến cõi chết, chẳng qua là chấm dứt pháp chết.

Như trong Kinh Niết-để-lí-ba-đà có nói: Nếu ai muốn quán niệm tử, nên quán người bị giết, thấy nhân duyên cái chết.

Niệm tử có 4 thứ:

  1. Tương ứng với lo âu.
  2. Tương ứng với kinh hãi.
  3. Tương ứng với thờ ơ.
  4. Tương ứng với trí tuệ.

Như tâm niệm khi mất đứa con yêu thương, là tương ứng với sự lo âu.

Như tâm niệm khi đứa con nhỏ của mình chết thình lình, là tương ứng với sự kinh hãi.

Như tâm niệm của người hành nghề thiêu xác chết, là tương ứng với sự thờ ơ.

Như tâm niệm thường quán thế gian tâm sinh chán ghét, là tương ứng với trí tuệ.

Người ngồi thiền không nên tu hành niệm tử tương ứng với lo âu, kinh hãi và thờ ơ.

Vì sao vậy ?

Vì các niệm ấy không diệt trừ được lỗi lầm. Chỉ có niệm tử tương ứng với trí tuệ mới có khả năng trừ được lỗi lầm mà thôi.

Chết có 3 thứ: 1. Đẳng tử. 2. Đoạn tử. 3. Niệm niệm tử.

Đẳng tử là cái chết thông thường của mọi chúng sinh.

Đoạn tử là nói các bậc A-la-hán đã đoạn diệt hết tất cả phiền não.

Niệm niệm tử là nói đến tất cả các hành đều diệt trong từng mỗi niệm.

Lại nữa, có 2 thứ chết: chết không đúng thời, và chết đúng thời. Như tự sát, hoặc bị giết, bị bệnh, hay không có nhân duyên gì rõ trước khi chết, đó gọi là chết không đúng thời. Khi thọ mạng đã hết, cho đến cảnh già lão, đó là chết đúng thời. Người ngồi thiền phải nên niệm tử về 2 thứ chết nầy.

Lại nữa, Tiên Sư có dạy 8 thứ hành pháp về tu niệm tử:

  1. Do bị kẻ hung ác rượt đuổi mà tu hành niệm tử.
  2. Do không có nhân duyên mà tu hành niệm tử.
  3. Do bản thủ mà tu hành niệm tử.
  4. Do thân nhiều lệ thuộc mà tu hành niệm tử.
  5. Do thọ mạng bất lực mà tu hành niệm tử.
  6. Do phân biệt từ xa xưa mà tu hành niệm tử.
  7. Do vô tướng mà tu hành niệm tử.
  8. Do sát-na mà tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do bị kẻ hung ác rượt đuổi mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Như bị kẻ hung ác theo sau vung đao dẫn đến chỗ hành hình, người sắp bị giết nghĩ rằng, ta sẽ chết lúc nào, ta bước tới từng bước rồi đến bước nào sẽ chết, ta đi cũng chết, ta dừng lại cũng chết, ta ngồi xuống cũng chết, ta nằm cũng phải chết. Người ngồi thiền nghĩ đến việc bị kẻ hung ác rượt đuổi như vậy mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do không có nhân duyên mà tu niệm tử ?

Đáp: Là nói không có nhân duyên nào, không có phương tiện nào có thể làm cho đã sinh mà không chết. Như mặt trời, mặt trăng khi đã mọc lên rồi, thì không có nhân duyên hay phương tiện nào có thể làm cho chúng không lặn được. Như vậy là do không nhân duyên, mà tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do bản thủ mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Là chính niệm về các bậc vua chúa giàu của cải, xe cộ, quyền lực to tát, như Đại Thiện Kiến vương, Đỉnh sinh vương rồi cũng chết.

Lại nữa, các vị tiên nhân có đại thần thông, đại thần lực như Tỳsa-mật-đa, Xà-ma-đạt-lê, thân xuất ra nước lửa, rồi cũng chết.

Lại nữa, các Thanh Văn, có đại trí tuệ, có đại thần thông, có đại thần lực như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v… rồi cũng chết.

Lại nữa, các bậc Duyên Giác, từ sinh ra không có thầy mà thành tựu tất cả công đức, rồi cũng chết.

Lại nữa, các bậc Như Lai, Ứng cúng, Chính giác vô lượng vô thượng, Minh hạnh cụ túc, công đức đến bờ kia, rồi cũng vào tử pháp. Huống chi là ta, với thọ mạng ngắn ngủi, lại không đi vào cõi chết sao ? So sánh với người trước như vậy mà tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do thân lệ thuộc nhiều, mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Do gió và đàm nhớt hoà hợp mà thành tử pháp. Hoặc do các loài trùng họp nhau, hoặc do ăn uống không điều độ mà vào tử pháp. Hoặc do rắn độc, rết, chuột cắn mà chết. Hoặc bị sư tử, hổ, báo mãnh thú v.v… mà chết. Hoặc bị người hay loài phi nhân giết mà chết. Thân nầy bị lệ thuộc nhiều như vậy, cho nên tu hành pháp niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do thọ mạng bất lực mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Thọ mạng bất lực vì 2 lẽ: 1. Vì nơi bất lực. 2. Vì nương tựa bất lực.

Sao gọi thân là nơi bất lực ? Là vì thân nầy không có tự tính, như cây chuối, như bọt nước, không có gì là chân thật, vì lìa xa chân thật, thành ra thọ mạng trở nên bất lực.

Sao gọi là thân nầy nương vào bất lực ? Vì ràng buộc vào hơi thở, vào 4 đại, vào ăn uống, vào 4 oai nghi, vào sự lạnh nóng. Như thế, làm cho thọ mạng thành bất lực.

Do nơi bất lực, nương tựa bất lực khiến thọ mạng bất lực. Do thọ mạng bất lực đó mà tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do phân biệt xa xưa, mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Từ xa xưa cho đến hiện tại, ai cũng sống không quá trăm năm rồi đều vào cõi chết. Đó gọi là phân biệt từ xa xưa mà tu hành niệm tử.

Lại nữa, nên tu niệm như vầy: Trong một ngày một đêm, không biết ta còn sống chăng, nên ngày đêm nghĩ đến giáo pháp của Thế tôn, ta được ơn đức rất lớn. Cũng như vậy một ngày, nửa ngày, hay trong một thời gian ngắn, thòi gian một bữa ăn, nửa bữa ăn, hay 4, 5 miếng ăn, hoặc trong hơi thở vào liệu có thể thở ra chăng, hoặc khi thở ra liệu có thở vào chăng ? Đó là do nghĩ tưởng đến sự phân biệt mà tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do vô tướng mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Vì không có tướng, cũng không có báo hiệu thời điểm cái chết đến. Vì không có tướng nên tu hành niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do sát-na mà tu hành niệm tử ?

Đáp: Bởi không kể quá khứ vị lai, chỉ kể hiện tại thì thọ mạng của chúng sinh chỉ trụ trong một niệm. Từ niệm đó không trụ niệm thứ hai. Tất cả chúng sinh, tâm diệt trong từng sát-na. Như trong A-tì-đàm nói: Nơi tâm quá khứ, không có đã sinh, không có sẽ sinh, không có đang sinh. Nơi tâm vị lai, không có đã sinh, không có đang sinh, không có sẽ sinh. Nơi tâm hiện tại, không có đã sinh, không có sẽ sinh, mà chỉ có đang sinh.

Lại nữa, như có kệ rằng:

Thọ mạng và thân tính,

Khổ, vui, và sở hữu,

Tương ứng với một tâm,

Sinh khởi trong sát-na.

Ở vị lai, không sinh,

Ở hiện tại, có sinh.

Tâm dứt, thì mạng chết.

Đó là thọ mạng hết.

Như vậy là do sát-na mà tu hành niệm tử.

Người ngồi thiền theo pháp môn nầy mà tu hành, hiện tu hành pháp niệm tử, sinh khởi chán ngán đối với mạng sống. Do chán ngán nên được tự tại. Do niệm được tự tại, nên thành tựu tâm không loạn. Dùng tâm không loạn đó diệt các triền cái, khởi các thiền phần, thành trụ được thiền ngoại hành.

Hỏi: Tưởng vô thường với niệm tử, khác nhau thế nào ?

Đáp: Sự sinh diệt của các ấm gọi là tưởng vô thường. Niệm các căn hoại gọi là niệm tử. Tu tướng vô thường, tu tướng vô ngã, trừ được kiêu mạn. Tu niệm tử thì trụ nơi tướng vô thường và tướng khổ. Thọ mạng dứt và tâm diệt, đó là chỗ khác nhau.

( Xong phần niệm tử )

Hỏi: Thế nào là niệm thân ? Niệm thân thì tu, tướng, vị, công đức như thế nào ? Làm sao tu ?

Đáp: Tu niệm thân là niệm về thân tính, tức là bản tính của thân. Niệm đó tùy niệm, chính niệm, hiện niệm tu hành vào thân tính của chính mình, đó gọi là niệm thân.

Tâm trụ không loạn là tu.

Khiến khởi thân tính là tướng.

Thấy thân nầy không thật, là khởi.

Tu niệm thân được các công đức nầy: Nhờ tu niệm thân mà nhẫn nại, kham chịu sự sợ hãi, chịu đựng được sự nóng, lạnh v.v…

Người ngồi thiền tu hành niệm thân, do tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng lỗi lầm, khiến các tưởng nầy được thành mãn, được tùy ý, khiến 4 thiền phân biệt rõ ràng, khiến các pháp tu hành đầy đủ, khiến hướng đến nẻo thiện, hướng đến Đề hồ.

Làm sao tu hành niệm thân ?

Người ngồi thiền đến nơi yên tĩnh, thâu nhiếp tất cả tâm ý, dùng tâm không loạn chỉ tu về thân tính

Thế nào là chỉ tu về thân tính ?

Chúng ta gọi thân, tức một tổ hợp tạo thành bởi 32 vật bất tịnh như sau: 1. Tóc. 2. Lông. 3. Móng. 4. Răng. 5. Da. 6. Thịt. 7. Gân. 8. Xương. 9. Tủy. 10. Não. 11. Gan. 12. Tim. 13. Lá lách. 14. Phổi. 15. Mật. 16. Dạ dày. 17. Mô màng. 18. Mỡ. 19. Màng não. 20. Ruột già.

21. Ruột non. 22. Phân. 23. Nước tiểu. 24. Mủ. 25. Máu. 26. Đàm. 27. Mồ hôi. 28. Nước dãi. 29. Nước mắt. 30. Nước mũi. 31. Nước bọt. 32. Chất nhầy.

Người ngồi thiền hiện niệm 32 hành đó bắt đầu từ dưới lên, rồi từ trên xuống, thường niệm thường quán:

Hay thay ! Do miệng thường nói bằng ngôn ngữ. Do tâm nên thường quán.

Hay thay ! Người ngồi thiền chỉ dùng tâm, giác biết bằng sắc, thường quán vào ngôn ngữ của miệng.

Những lúc ấy người ngồi thiền dùng 4 hành pháp:

  1. Theo màu sắc.
  2. Theo hành.
  3. Theo hình.
  4. Theo xứ.

Dùng phân biệt khởi tướng thô, hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều, khéo nắm giữ các tướng tương ứng ấy.

Người ngồi thiền như vậy dùng 3 thứ giác thành khởi :

  1. Dùng sắc.
  2. Dùng sự chán ghét.
  3. Dùng hư không.

Người ngồi thiền nếu dùng sắc khởi tướng, người ấy phải tác ý làm sao khiến sắc nhất thiết nhập được tự tại.

Người ngồi thiền nếu dùng sự chán ghét khởi tướng, người ấy phải tác ý tưởng tất cả bất tịnh.

Người ngồi thiền nếu dùng hư không khởi tướng, người ấy phải tác ý về cảnh giới.

Người ngồi thiền y theo nhất thiết nhập, tức sắc giác, mà tu hành thì có thể khởi Đệ Tứ thiền.

Người ngồi thiền y theo tướng bất tịnh, tức yếm giác mà tu hành thì có thể khởi Sơ thiền.

Người ngồi thiền y vào cảnh giới, tức không giác, mà tu hành thì có thể khởi thiền ngoại hành.

Như vậy nếu người nhiều giận hờn nên dùng sắc mà khởi tướng.

Người nhiều ham muốn nên lấy sự chán ghét mà khởi tướng.

Người có nhiều trí tuệ thì dùng cảnh giới mà khởi tướng.

Lại nữa, người nhiều giận hờn nên dùng sắc mà tác ý.

Người nhiều ham muốn nên lấy sự chán ghét mà tác ý.

Người trí tuệ thì theo các cảnh giới mà tác ý.

Lại nữa, niệm tự tính của thân còn có 13 hành pháp:

  1. Theo giống.
  2. Theo xứ.
  3. Theo duyên.
  4. Theo rỉ chảy.
  5. Theo thứ tự hình thành.
  6. Theo các loại trùng.
  7. Theo an xứ.
  8. Theo sự tụ lại.
  9. Theo sự chán ghét.
  10. Theo bất tịnh.
  11. Theo xứ.
  12. Theo sự không biết ơn.
  13. Theo chỗ có giới hạn.

Hỏi: Thế nào là theo giống mà niệm thân tính ?

Đáp: Là như giống độc sinh ra cây thù du, Câu-sa, Đa-kỷ. Cũng như vậy, thân thể nầy sinh ra từ bất tịnh của cha mẹ, nên thân thể cũng bất tịnh.

Như vậy là theo giống mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo xứ mà niệm thân tính ?

Đáp: Là thân nầy không phải do hoa Uất-đa-la, hoa Câu-mâuđà, hoa Phân-đà-lợi-ca sinh ra, mà do từ bụng mẹ sinh, nơi bất tịnh, hôi hám dồn ép nhau sinh ra, từ sinh thục 2 tạng sinh, từ 2 bên hông bọc bào thai quấn dựa vào xương sống. Những nơi không sạch đó tạo thành thân cũng không sạch. Như vậy là theo xứ mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo duyên mà niệm thân tính ?

Đáp: Là thân bất tịnh nầy không phải do vàng bạc, châu báu nuôi dưỡng mà lớn lên, cũng không do Chiên-đàn, Đa-già-la, trầm hương v.v… các duyên nuôi dưỡng. Thân này từ bụng mẹ sinh, những thức mẹ ăn vào lẫn lộn cùng nước bọt nước dãi, thai mẹ sinh chất dịch làm một thứ thức ăn hôi hám chảy khắp nuôi lớn. Từ nơi như vậy sinh ra rồi ăn cơm, sữa, đậu, hòa lẫn nước dãi, nước bọt, mà được nuôi dưỡng. Thân này lớn lên giữa nơi bất tịnh, hôi hám ấy.

Như vậy là do theo duyên mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo rỉ chảy mà niệm thân tính ?

Đáp: Là thân này như một cái bịch da chứa đầy phân, nước tiểu. Do có nhiều lỗ nên chất bất tịnh rỉ chảy ra. Nơi thân nầy, thức ăn uống hoà lẫn nước mắt, nước mũi, nước bọt, phân, nước tiểu hôi hám đủ loại mà thành các thứ bất tịnh. Các thứ bất tịnh này do chín lỗ mà thoát ra ngoài.

Như vậy là theo sự rỉ chảy mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo thứ tự hình thành mà niệm thân tính ?

Đáp: Là thân này, từ nghiệp ban đầu tuần tự mà hình thành thân thể như sau:

Bảy ngày đầu tiên thành Ca-la-la.

Bảy ngày thứ 2 thành A-phù-đà.

Bảy ngày thứ 3 thành Tì-thi.

Bảy ngày thứ 4 thành A-á-na.

Bảy ngày thứ 5 thành 5 đốt xương.

Bảy ngày thứ 6 thành 4 đốt xương.

Bảy ngày thứ 7 lại sinh 4 đốt xương.

Bảy ngày thứ 8 lại sinh 28 đốt xương.

Bảy ngày thứ 9 và 7 ngày thứ 10 lại sinh xương sống.

Bảy ngày thứ 11 lại sinh 300 cái xương.

Bảy ngày thứ 12 lại sinh 800 đốt xương.

Bảy ngày thứ 13 lại sinh 900 gân.

Bảy ngày thứ 14 lại sinh 100 thớ thịt.

Bảy ngày thứ 15 lại sinh máu huyết.

Bảy ngày thứ 16 sinh các mô.

Bảy ngày thứ 17 sinh da.

Bảy ngày thứ 18 sinh màu da.

Bảy ngày thứ 19 do nghiệp sinh ra gió khắp châu thân.

Bảy ngày thứ 20 thành 9 lỗ.

Bảy ngày thứ 25 sinh 1 vạn 7 ngàn thớ thịt.

Bảy ngày thứ 26 thành thân hình.

Bảy ngày thứ 27 có sức lực.

Bảy ngày thứ 28 sinh 9 vạn 9 ngàn lỗ chân lông.

Bảy ngày thứ 29 hoàn thành đầy đủ tất cả thân phần.

Lại nữa, có thuyết cho rằng vào 7 ngày lần thứ 7, thai nhi đã có hình thể. Dựa vào xương sống của mẹ, ngồi xổm quay đầu xuống vào 7 ngày thứ 42, do nghiệp sinh ra gió chuyển 2 chân ngược lên, đầu chúc xuống sản môn, hướng về phía sản môn và sinh ra đời vào lúc đó, được tạm gọi là người.

Như vậy là do theo thứ tự hình thành mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào do theo loại trùng mà niệm thân tính ?

Đáp: Thân thể bị 8 vạn loại trùng gặm nhấm.

Ở tóc có trùng gọi là phát thiết.

Ở sọ có trùng gọi là nhĩ thũng.

Ở óc có trùng gọi là điên cuồng. Trùng điên cuồng có 4 loại:

  1. Âu-câu-lâm-bà.
  2. Thấp-bà-la.
  3. Đà-la-ha.
  4. Đà-a-thi-la.

Ở mắt có trùng gọi là thị nhãn.

Ở tai có trùng gọi là thị nhĩ.

Ở mũi có trùng gọi là thị tỵ, Trùng thị tỵ có 3 loại:

  1. Lâu-khấu-mẫu-khả.
  2. A-lâu-khấu.
  3. Ma-na-lâu-mẫu-khả.

Ở lưỡi có trùng Vật-già.

Ở thiệt căn có trùng Mẫu-đản-đa.

Ở răng có trùng Cẩu-bà.

Ở xỉ căn có trùng Ưu-bà-câu-bà.

Ở họng có trùng A-bà-li-ha.

Ở cổ, có 2 loại trùng:

  1. Lỗ-ha-la.
  2. Tì-lỗ-ha-la.

Ở lông có trùng thị mao.

Ở móng tay chân có trùng thị trảo.

Ở da có 2 loại trùng:

  1. Đâu-na. 2
  2. Đâu-nan-đa.

Ở niêm mạc có 2 loại trùng:

  1. Tì-lam-bà.
  2. Ma-ha Tì-lam-bà.

Ở thịt có 2 loại trùng:

  1. A-la-bà.
  2. La-bà.

Ở máu có 2 loại trùng:

  1. Bà-la.
  2. Bà-đa-la.

Ở gân có 4 loại trùng:

  1. Lại-đa-lỗ.
  2. Hỉ-đa-bà.
  3. Bà-la-bà-đa-la.
  4. La-na-bà-la-na.

Ở mạch có trùng Giá-lật-hiệp-na.

Ở mạch căn có 2 loại trùng:

  1. Thi-bà-la.
  2. Ưu-bà thi-bà-la.

Ở xương có 4 loại trùng:

  1. Át-sỉ-tì-đà.
  2. An-na-tì-đà,
  3. Đãi-lí-đà-tì-đà.
  4. Át-sỉ-căng-khả-la.

Ở tủy có 2 loại trùng:

  1. Nhĩ-xã.
  2. Nhĩ-xã-thi-la.

Ở lá lách có 2 loại trùng:

  1. Ni-la.
  2. Tỉ-đa.

Ở tim có 2 loại trùng:

  1. Tử-tì-đa.
  2. Ưu-bát-đà-tử-ti-đa.

Ở tâm căn có 2 loại trùng:

  1. Mãn-khả.
  2. Thi-la.

Ở lớp mỡ có 2 loại trùng:

  1. Kha-la.
  2. Kha-la thi-la.

Ở bàng quang có 2 loại trùng:

  1. Nhị-kha-la.
  2. Ma-ha-kha-la.

Ở bàng quang căn có 2 loại trùng:

  1. Kha-la.
  2. Kha-la-thi-la.

Ở thai bào có 2 loại trùng:

  1. Sa-bà-la.
  2. Ma-ha sa-bà-la.

Ở thai bào căn có 2 loại trùng:

  1. Lại-đa.
  2. Ma-ha-lại-đa.

Ở ruột non có 2 loại trùng:

  1. Trửu-lại-đa.
  2. Ma-ha- lại-đa.

Ở gốc ruột có 2 loại trùng:

  1. Tử-ba.
  2. Ma-ha-tử-ba.

Ở gốc ruột già có 2 loại trùng:

  1. An-na-bà-ha.
  2. Bác-quả-bà-ha.

Ở dạ dày có 4 loại trùng:

  1. Ưu-thụ-kha.
  2. Ưu-xã-bà.
  3. Tri-xã-bà.
  4. Tiên-thị-bà.

Ở thục tạng có 4 loại trùng:

  1. Bà-ha-na.
  2. Ma-ha Bà-ha-na.
  3. Đà-na-bàn.
  4. Phấn-na-mẫu-khả.

Ở mật có trùng Tất-đa-li-ha.

Ở nước bọt có trùng Tiêm-ha.

Ở mồ hôi có trùng Tùy-đà-li-ha.

Ở chất mỡ có trùng Nhị-đà-li-ha.

Ở nước dãi có 2 loại trùng:

  1. Tẩu-bà-ha-mẫu.
  2. Xã-ma-khiết-đa.

Ở gốc nước dãi có 3 loại trùng:

  1. Xứ-ha-mẫu-kha.
  2. Đà-lỗ-ha-mẫu-kha.
  3. Sa-na-mẫu-kha.

Có 5 loại trùng ở phiá trước thân ăn thân trước, ở phiá sau thân ăn thân sau, ở bên trái thân ăn thân bên trái, ở bên phải thân ăn thân bên phải. Đó là các loại có tên Chiên-đà, Tử-la, Thần-ha-tử-la, Bấtthâu-la, và các loại khác.

Ở 2 lỗ dưới có 3 loại trùng:

  1. Câu-lâu-câu-la-duy-dụ.
  2. Giá-la-dụ.
  3. Hàn-đầu-ba-đà.

Như vậy là do theo các loại trùng, mà niệm về thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo an xứ mà niệm thân tính ?

Đáp: Nơi xương chân nối liền xương ống quyển. Xương ống quyển nối liền với xương đùi. Xương đùi nối liền với xương chậu. Xương chậu nối liền với xương sống. Xương sống nối liền với xương bả vai. Xương bả vai nối liền với xương tay. Xương tay nối liền với xương cổ. Xương cổ nối liền với xương đầu. Xương đầu nối liền với xương má. Xương má nối liền với xương răng. Như vậy thân này do sự an trụ giữa các xương được da bọc ngoài mà thành thân ô uế.

Thân ô uế đó do hành nghiệp sinh ra, không phải do ai tạo nên được.

Như vậy là theo sự an trú mà tu hành niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo sự tụ họp mà niệm thân tính ?

Đáp: Là 9 chín mảnh xương đầu, 2 miếng xương má, 32 xương răng, 7 xương cổ, 14 xương sườn, 24 xương hông, 18 đốt xương sống, 2 xương chậu, 64 xương tay, 64 xương chân, 64 xương sụn nơi thịt.

Ba trăm xương đó, cùng với 8 trăm đốt xương, 9 trăm dây gân quấn chằng chịt nhau. Lại có chín trăm thớ thịt, 1 vạn 7 ngàn thớ da, 8 trăm vạn sợi tóc, 9 vạn 9 ngàn sợi lông, 60 chỗ hở, 8 vạn loại trùng.

Mật, nước miếng và não, mỗi thứ nặng 1 Ba-lại-tha, theo tiếng nước Lương, là nặng bằng 4 lượng. Huyết thì nặng 1 A-tha, theo tiếng nước Lương là nặng bằng 3 đấu.

Tất cả những thứ đó, không thể tính kể bao nhiêu hình thức khác nhau, tụ họp lại chỉ là một đống phân, nước tiểu, được gọi đó là thân.

Như vậy là theo sự tu họp mà tu hành niệm về tự tính của thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự chán ghét mà niệm thân tính ?

Đáp: Con người qúi trọng sự thanh tịnh vào bậc nhất. Lại thích sự phục sức, dùng hương, hoa ướp vào mình, mặc y phục trang điểm, nằm ngồi trên giường nệm, chiếu chăn, gối, màn, trướng, thụ dụng thức ăn uống, cùng nơi cư trú. Ban đầu tâm sinh ái trọng, sau lại thành chán ghét.

Như vậy là do theo sự chán ghét mà tu hành niệm tự tính của thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự không sạch mà niệm thân tính ?

Đáp: Khi quần áo, vật trang sức các loại ấy đã không sạch sẽ, có thể giặt giũ làm cho sạch. Vì sao vậy ? Vì bản tính chúng vốn thanh tịnh. Nhưng với thân thể bất tịnh nầy, không thể làm cho sạch sẽ được.

Lại nữa, thân nầy dầu có xông ướp xức hương thơm, tắm rửa bằng dầu thơm, cũng không khiến cho tinh khiết được. Vì sao vậy ? Vì tự tính của thân là bất tịnh.

Như vậy là lấy sự không thanh tịnh mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo xứ mà niệm về tự tính của thân ?

Đáp: Như hoa mọc trong hồ ao, tuỳ theo hồ ao mà sinh trưởng. Quả trỗ trong vườn cây, tùy theo vườn cây mà ra quả. Cũng như vậy, thân nầy tùy nơi các loại phiền não mà bệnh hoạn sinh ra. Như vậy, đau mắt, đau tai, đau mũi, đau lưỡi, đau mình, đau đầu, đau miệng, đau răng, ho, hơi thở dồn dập, nóng, lạnh, đau bụng, đau tim, điên cuồng, bệnh phong, dịch tả, hủi lác, bướu cổ, ói máu, ghẻ lở, ung nhọt, hoa liễu, cảm lạnh, và các bệnh khác mà thân nầy mắc phải bao nhiêu thứ bệnh hoạn.

Như vậy là do theo xứ mà tu hành niệm về tự tính của thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự không biết ơn niệm về thân tính ?

Đáp: Con người lo chăm sóc tấm thân, nào ăn ngon mặc đẹp, tắm rửa thoa dầu thơm, nằm ngồi trên giường êm nệm ấm. Thế mà thân nầy như một thứ cây độc, phản phúc không biết ơn, cứ hướng tới cái già, bệnh tật, và cái chết, coi đó như thể là bạn thân, chẳng biết ơn gì đối với kẻ chăm sóc nó.

Như vậy là theo sự không biết ơn mà niệm thân tính.

Hỏi: Thế nào là theo chỗ có giới hạn mà niệm thân tính ?

Đáp: Thân nầy có thể bị hoả thiêu, hoặc bị ăn thịt, hoặc bị phá hoại, hoặc bị hủy diệt. Thân nầy là vật có giới hạn.

Như vậy là theo chỗ có giới hạn mà tu hành niệm tự tính của thân. Người ngồi thiền theo pháp môn nầy, theo hành nghiệp này mà niệm tự tính của thân. Khi niệm đã tự tại, tuệ đã tự tại, thì tâm không loạn. Do tâm không loạn mà các triền cái tiêu diệt, các thiền phần khởi, tùy theo chỗ thích mà đạt được thắng định.

( Xong phần niệm thân )

Hỏi: Thế nào là niệm tịch tịch ? Niệm tịch tịch thì tu, tướng, vị, xứ, công đức như thế nào ? Làm sao tu ?

Đáp: Tịch tịch, là diệt sự loạn động của thân tâm. Đã đè bẹp, đoạn dứt nên gọi là tịch tịch. Hiện niệm tịch tịch, niệm ấy tùy niệm, chính niệm. Đó gọi là niệm tịch tịch.

Niệm trụ không loạn, là tu.

Làm khởi công đức bất động, là tướng.

Không điều hòa là vị.

Được giải thoát vi diệu, là xứ.

Về công đức của niệm tịch tịch, là nếu tu hành niệm tịch tịch sẽ được công đức như sau: ngủ được yên giấc, thức được an ổn, tâm yên tĩnh, các căn vắng lặng, tâm nguyện được đầy đủ, trở nên khả ái, biết hổ thẹn, thường được người quý trọng, hướng đến các nẻo thiện, hướng về Đề hồ.

Làm sao tu ?

Người ngồi thiền đến nơi yên tĩnh, thâu nhiếp tất cả tâm ý, không khởi loạn tâm. Tì-kheo ngồi thiền, các căn tịch tĩnh, tâm tịch tĩnh, ưa thích một nơi yên tĩnh, tương ưng với tịch tĩnh mà an trụ. Tìkheo ngồi thiền nơi thân, miệng, ý, dầu thấy dầu nghe đều giữ niệm vắng lặng, công đức vắng lặng.

Như Thế Tôn nói: Tì-kheo tu hành niệm tịch tịch giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ. Nếu có Tì-kheo sơ học nào được trông thấy Tì-kheo đó, thì ta nói người ấy sẽ được ơn đức lớn. Nếu Tì-kheo nào nghe đến vị Ti-kheo đó, thì ta nói người ấy sẽ được ơn đức lớn. Nếu Ti-kheo nào đến viếng vị Tỳ-kheo đó, thì ta nói người ấy sẽ được ơn đức lớn. Nếu Tì-kheo nào cúng dường vị Tỳ-kheo đó, niệm tưởng đến vị Tì-kheo đó, xuất gia tu theo vị Tì-kheo đó, thì ta nói người ấy sẽ được ơn đức lớn.

Vì sao vậy ? Vì các Tì-kheo ấy đã được nghe vị Tì-kheo đó nói chính pháp, được lìa 2 sự náo động. Đó là lìa náo động của thân và lìa náo động của tâm.

Tì-kheo ngồi thiền khi được nhập Sơ thiền, dùng niệm tịch tịch diệt các triền cái.

Khi được nhập Đệ Nhị thiền, tùy niệm sở duyên Đệ Nhị thiền khiến diệt giác và quán.

Khi được nhập Đệ Tam thiền, tùy niệm sở duyên Đệ Tam thiền khiến hỷ diệt.

Khi được nhập Đệ Tứ thiền, tùy niệm sở duyên Đệ Tứ thiền khiến lạc diệt.

Khi được nhập niệm Hư không định, thì tưởng về sắc, tưởng giận dữ, và các tưởng khác diệt.

Khi được nhập niệm Thức định, thì khiến tưởng Hư không sở duyên kia diệt.

Khi được nhập niệm Vô sở hữu định, thì khiến tưởng Thức nhập sở duyên kia diệt.

Khi được nhập niệm Phi tưởng phi phi tưởng định, thì khiến tưởng Vô sở hữu sở duyên kia diệt.

Khi được nhập niệm Tưởng thụ diệt định, thì tưởng thụ sở duyên kia diệt.

Khi được nhập niệm quả Tu-đà-hoàn, thì kiến nhất xứ phiền não diệt.

Khi được nhập niệm quả Tư-đà-hàm, thì thô tham dục, thô sân hận, thô phiền não diệt.

Khi được nhập niệm quả A-na-hàm, thì vi tế phiền não, vi tế tham dục, vi tế sân nhuế diệt.

Khi được nhập niệm quả A-la-hán, thì tất cả phiền não sở duyên kia diệt.

Khi dùng niệm tịch tịch được nhập Nê-hoàn, thì tất cả đều diệt.

Người ngồi thiền y theo pháp môn này mà tu hành, chính niệm vào công đức tịch tịch, tâm sở duyên thành tín. Do lòng tín tự tại, niệm tự tại, khiến tâm không loạn. Do tâm không loạn, diệt các triền cái, thiền phần do đây được khởi, nhờ đó mà trụ được thiền ngoại hành.

( Xong phần niệm tịch tịch )

( Xong phần 10 niệm )

Dưới đây là những câu bổ sung cho phần tu tập 10 niệm:

Nếu niệm công đức các Phật quá khứ, vị lai, đó gọi là tu hành niệm Phật. Cũng vậy đối với niệm công đức các Duyên Giác.

Nếu niệm Thế Tôn khéo thuyết pháp, đó gọi là tu hành niệm Pháp.

Nếu niệm công đức tu hành của các Thanh Văn, đó gọi là tu hành niệm Tăng.

Niệm giới sở duyên, tức là tu hành niệm giới.

Niệm thí sở duyên, tức là tu hành niệm thí.

Nếu là mình thích mà niệm thí, người nhận là bậc có công đức, nên giữ tướng thụ nhận.

Nếu vật thí mà không đúng pháp thì cho dầu một nắm cơm cũng không được nhận.

Tu hành niệm thiên thành tựu được lòng tin. Tu hành niệm thiên có 5 pháp môn, người ngồi thiền nên tu niệm thiên.

( Xong phần các câu bổ sung )

QUYỂN 7 HẾT