LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 27

Chương 2: KIỀN ĐỘ SỬ

Phẩm thứ 1: BẤT THIỆN, phần 3

* Năm kiết: (1) Kiết ái. (2) Kiết giận. (3) Kiết mạn. (4) Kiết tật (ganh ghét). (5) Kiết xan (keo kiệt).

Hỏi: Thể tánh của năm kiết này là gì?

Đáp: Có ba mươi bảy thứ: Kiết ái nơi ba cõi có mười lăm thứ. Kiết mạn cũng như thế. Kiết giận có năm thứ. Kiết tật, kiết xan nơi cõi dục do tu đạo đoạn có hai thứ. Ba mươi bảy thứ này là Thể của năm kiết, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh của kiết. Về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nói rộng như nơi xứ ba kiết.

* Năm kiết phần dưới: (1) Kiết dục ái. (2) Kiết giận. (3) Kiết thân kiến. (4) Kiết giới thủ. (5) Kiết nghi.

Hỏi: Thể tánh của năm kiết phần dưới là gì?

Đáp: Có ba mươi mốt thứ: Kiết dục ái có năm thứ, chung nơi sáu thức thân. Kiết giận có năm thứ, chung nơi sáu thức thân. Kiết thân kiến nơi ba cõi do kiến khổ đoạn có ba thứ. Kiết giới thủ nơi ba cõi do kiến khổ, kiến đạo đoạn có sáu thứ. Kiết nghi nơi ba cõi do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn có mười hai thứ. Ba mươi mốt thứ này là Thể của năm kiết phần dưới, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh của năm kiết phần dưới. Về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì lý do gì gọi là kiết phần dưới? Kiết phần dưới có nghĩa gì?

Đáp: Do là đối tượng hành của cõi dưới, nên gọi là dưới.

Lại nữa, là kiết do cõi dưới đoạn trừ, do cõi dưới sinh khởi nối tiếp, có thể sinh ra quả y (quả đẳng lưu), quả báo (quả dị thục) của cõi dưới. Do sự việc này nên gọi là kiết phần dưới. Cõi dưới là cõi dục.

Hỏi: Nếu như vậy, tất cả phiền não đều là đối tượng hành của cõi dưới. Sáu mươi bốn sử là do cõi dưới đoạn. Ba mươi sáu thứ là hệ thuộc cõi dục. Hai mươi tám thứ là hệ thuộc xứ phi tưởng phi phi tưởng. Ba mươi sáu thứ sử kia nối tiếp sinh khởi nơi cõi dưới. Ba mươi bốn thứ sử có thể sinh quả báo, quả y của cõi dưới. Hai thứ chỉ sinh quả y. Các phiền não như thế đều có nghĩa phần dưới. Vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói năm kiết là kiết phần dưới?

Đáp: Tôn giả Ba-xa nói: Đức Phật – Thế Tôn nhận biết rõ quyết định về pháp tướng, cũng nhận biết rõ về thế dụng của chúng, cho đến nói rộng.

Tôn giả Cù-sa cho: Đức Phật đã nhận biết năm kiết phần dưới này là nhanh chóng, riêng trọng, gần gũi với đối tượng hành của cõi dưới, được đoạn trừ trong cõi dưới, sinh khởi nối tiếp nơi cõi dưới, có thể sinh ra quả báo, quả y của cõi dưới, chẳng phải là phiền não khác. Thế nên nói là kiết phần dưới.

Lại nữa, có hai thứ dưới: (1) Cõi dưới. (2) Chúng sinh dưới. Cõi dưới là cõi dục. Chúng sinh dưới là phần phàm phu. Chúng sinh sở dĩ không thể ra khỏi cõi dưới là do lỗi gì? Đều do lỗi của kiết dục ái, kiết giận dữ. Chúng sinh sở dĩ không thể vượt qua phần phàm phu dưới đều là lỗi của kiết thân kiến, kiết giới thủ và kiết nghi. Như nói cõi dưới, thì địa dưới cũng như thế.

Lại nữa, năm kiết phần dưới này, đối với chúng sinh nơi cõi dục, cũng như lính giữ ngục, người rình bắt. Kiết dục ái, kiết giận dữ cũng như lính giữ ngục. Các kiết thân kiến, giới thủ, nghi cũng như người rình bắt. Ví như có người bị giam trong ngục, khiến hai người canh giữ, không cho người bị giam kia ra khỏi, cùng sai ba người rình bắt. Người bị giam kia hoặc được bạn thân, hoặc do bà con, hoặc do tiền của, hoặc vì gây tổn hại cho lính giữ ngục nên chạy thoát ra ngoài, cho đến đã đi xa. Ba người rình bắt tất phải tìm bắt đem về giam lại trong ngục. Ngục như cõi dục. Người bị giam như phàm phu. Hai lính giữ ngục như kiết dục ái, kiết giận dữ. Các kiết thân kiến, giới thủ, nghi như ba người rình bắt.

Hoặc có chúng sinh dùng quán bất tịnh gây tổn hại cho kiết dục ái, dùng quán từ gây tổn cho kiết giận dữ, lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, sinh nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì ba kiết thân kiến, giới thủ, nghi trở lại dẫn đến giam trong ngục cõi dục.

Thế nên, Tôn giả Cù-sa tạo ra thuyết này: Nếu không đoạn trừ hai pháp thì không ra khỏi cõi dục. Không đoạn trừ ba pháp, tức trở lại sinh nơi cõi dục.

Tôn giả Bà-ma-lặc nói: Vì bị hai thứ kiết trói buộc, nên không ra khỏi cõi dục. Vì không dứt trừ ba kiết, nên phải trở lại sinh nơi cõi dục.

Lại nữa, đây là hiện bày về môn, về tóm lược, về mới nhập. Các phiền não này hoặc do một thứ đoạn, hoặc do hai thứ đoạn, hoặc do bốn thứ đoạn, hoặc do năm thứ đoạn. Nếu nói thân kiến, nên biết là đã nói về một thứ đoạn. Nếu nói giới thủ, nên biết là đã nói về hai thứ đoạn. Nếu nói nghi, nên biết là đã nói về bốn thứ đoạn. Nếu nói ái, giận, nên biết là đã nói về năm thứ đoạn. Nếu hỏi ái, giận, vì sao được lập trong kiết phần dưới, nên đáp như trong phần căn bất thiện. Nếu hỏi vì sao ba kiết được lập trong kiết phần dưới, nên đáp như trong phần ba kiết.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Các ông có thọ trì năm kiết phần dưới Ta đã giảng nói chăng?

Bấy giờ, Trưởng lão Ma-lặc-ca-tử, đang ở trong chúng hội, liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, chấp tay hướng về Phật, bạch Phật: Con xin thọ trì năm kiết phần dưới do Đức Thế Tôn đã giảng nói.

Đức Phật hỏi Ma-lặc-ca-tử: Ông thọ trì năm kiết phần dưới do Ta đã giảng nói như thế nào?

Ma-lặc-ca-tử đáp: Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn đã nói dục ái là kiết phần dưới, con xin thọ trì. Đức Thế Tôn đã nói kiết giận dữ, kiết thân kiến, kiết giới thủ, kiết nghi, là kiết phần dưới, con xin thọ trì.

Đức Phật bảo: Ông là người ngu tối. Nếu ông thọ trì điều Ta đã giảng nói như thế, thì đám dị học – ngoại đạo sẽ quở trách ông như hài nhi, con trẻ nằm ngửa nơi giường, hãy còn không có tâm dục, huống chi là bị cái dục ái che lấp. Tuy không bị che lấp do cái dục ái, nhưng cũng không được nói là không bị sử dục sai khiến. Nói rộng như kinh.

Hài nhi, trẻ con kia đối với sắc không nhận biết về tâm dục, cho đến không nhận biết pháp, có thể nói là không có sử chăng?

Hỏi: Kinh Phật nói năm kiết phần dưới, Trưởng lão Ma-lặc-catử kia cũng thọ trì như thế, vì sao Đức Phật lại quở trách ông ta?

Đáp: Không do văn, do không hiểu nghĩa, nên Đức Phật quở trách về nghĩa, không trách cứ về văn. Trưởng lão Ma-lặc-ca-tử nói như thế này: Phiền não nếu hiện hành là kiết phần dưới, phiền não nếu không hiện hành thì không phải là kiết phần dưới. Đức Thế Tôn nói: Sử nếu không đoạn trừ là kiết phần dưới, bất tất hiện hành và không hiện hành.

Lại nữa, Trưởng lão Ma-lặc-ca-tử nói: Nếu sử hành tác hiện ở trước là năm kiết phần dưới. Đức Phật nói: Nếu tạo thành, tức chúng có nơi ba đời, bất tất trong hiện tại.

Lại nữa, Trưởng lão Ma-lặc-ca-tử nói: Sử chìm lặn nơi tâm là kiết. Đức Phật nói: Có các sử đạt được là kiết. Như nói: Nếu không khéo tri kiến đoạn trừ xứ đã khởi dục ái, thì không gọi là không có sử giận. Cho đến nghi nói cũng như thế.

* Năm kiết phần trên: (1) Kiết sắc ái. (2) Kiết vô sắc ái. (3) Kiết trạo cử. (4) Kiết mạn. (5) Kiết vô minh.

Hỏi: Thể tánh của năm kiết phần trên là gì?

Đáp: Có tám thứ: Kiết sắc ái nơi cõi sắc do tu đạo đoạn có một thứ. Kiết vô sắc ái nơi cõi vô sắc do tu đạo có một thứ. Các kiết trạo cử, mạn, vô minh nơi cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn có sáu thứ. Tám thứ này là thể tánh của năm kiết phần trên, cho đến nói rộng.

Đã nói về thể tánh của năm kiết phần trên. Về lý do nay sẽ nói: Hỏi: Vì lý do gì gọi là kiết phần trên? Kiết phần trên có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa dấy khởi lên trên là nghĩa của kiết phần trên. Nghĩa hướng lên trên là nghĩa của kiết phần trên. Nghĩa khiến nối tiếp sinh lên cõi trên là nghĩa của kiết phần trên.

Hỏi: Nếu nghĩa dấy khởi lên trên, nghĩa hướng lên trên, nghĩa khiến nối tiếp sinh lên cõi trên là nghĩa của kiết phần trên, thì các phiền não kia không nên lập là lưu. Vì sao? Vì nghĩa trôi nổi, nghĩa chảy xuống là nghĩa của lưu. Tức các chúng sinh trôi nổi nơi các cõi, các nẻo, các loài sinh trong sinh tử.

Đáp: Nghĩa của lưu khác, nghĩa của kiết phần trên khác. Cũng do cõi nên lập kiết phần trên. Các phiền não này khiến chúng sinh khởi lên trên, hướng lên trên, khiến nối tiếp sinh lên trên. Vì không có pháp thiện của Thánh đạo vô lậu, chánh trí giải thoát nên lập lưu. Các phiền não ấy khiến chúng sinh tuy sinh nơi cõi Hữu đảnh, nhưng vẫn bị trôi nổi theo dòng chảy, không đến trong pháp thiện của Thánh đạo vô lậu, chánh trí giải thoát.

Thế nên, Tôn giả Cù-sa nói như thế này: Chúng sinh tuy đã sinh lâu nơi cõi trên, nhưng cũng bị lưu làm cho trôi nổi.

Hỏi: Vì sao ái được lập hai kiết phần trên, còn trạo, mạn, vô minh, mỗi thứ đều lập một kiết?

Đáp: Trạo, mạn, vô minh cũng nên nói như ái, lập hai kiết phần trên. Nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì muốn dùng các thứ văn, các thứ ngôn thuyết nhằm tô điểm cho nghĩa, thì nghĩa dễ hiểu.

Lại nữa, vì muốn hiện bày về hai thứ môn. Như ái lập hai thứ, thì trạo, mạn, vô minh cũng nên lập hai thứ. Như trạo, mạn, vô minh lập một thứ, thì ái cũng nên nói một thứ.

Như thế, thể của kiết phần trên hoặc là bốn, hoặc là tám.

Như hai môn thì hai thứ cùng chung cũng như thế.

Lại nữa, do ái nên giới riêng khác, địa riêng khác, chủng riêng khác, có thể sinh các phiền não. Nói rộng như nơi xứ ái đã giải thích.

Kiết phần trên này là do tu đạo đoạn.

Hỏi: Vì sao kiết phần trên chỉ do tu đạo đoạn?

Đáp: Vì kiết phần trên có thể khiến cho chúng sinh hướng lên trên, không rơi xuống dưới. Còn phiền não do kiến đạo đoạn có thể khiến chúng sinh hướng lên trên, cũng khiến rơi xuống dưới.

Lại nữa, kiết phần trên là đối tượng hành của Thánh nhân, không phải là đối tượng hành của phàm phu. Trong Thánh nhân là đối tượng hành của A-na-hàm, không phải là đối tượng hành của Tưđà-hàm, Tu-đà-hoàn.

Như thế nhân luận sinh luận: Hỏi: Vì sao kiết phần trên là đối tượng hành của A-na-hàm, không phải là đối tượng hành của Tư-đàhàm, Tu-đà-hoàn?

Đáp: Vì A-na-hàm hoàn toàn sinh lên cõi trên, còn Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn cũng sinh lên cõi trên, cũng sinh xuống cõi dưới.

Lại nữa, nếu là người đã ra khỏi cõi đắc quả thì trong thân này tức hành nơi kiết phần trên. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy đắc quả nhưng không ra khỏi cõi.

Lại nữa, nếu là người đã ra khỏi cõi, vĩnh viễn đoạn trừ kiết bất thiện, thì hành nơi kiết phần trên. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm không ra khỏi cõi, cũng không vĩnh viễn đoạn trừ kiết bất thiện.

Lại nữa, nếu là người đã ra khỏi cõi, vĩnh viễn đoạn trừ kiết phần dưới, thì trong thân kia tức hành nơi kiết phần trên. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm không ra khỏi cõi, cũng không vĩnh viễn đoạn trừ kiết phần dưới.

Lại nữa, phiền não này được lập, mỗi mỗi đều dị biệt. Nếu trong thân lập kiết phần trên, thì không lập kiết phần dưới. Nếu trong thân lập kiết phần dưới, thì không lập kiết phần trên.

Lại nữa, vì không còn hành pháp phàm phu đã hành nữa, nên lập kiết phần trên. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng còn hành pháp phàm phu đã hành. Pháp đã hành của phàm phu nghĩa là nam, nữ đồng ngủ chung một giường, mặc áo Kiêu-xa-da, đeo tràng hoa, dùng các thứ hương chiên đàn thoa vào thân, chứa vàng bạc, thọ dụng các vật dụng bằng vàng bạc, sai khiến nô tỳ, tôi tớ, cũng dùng tay đập vào đỉnh đầu, dùng dây xích, roi đánh người. Khởi các thân nghiệp v.v… như thế, ngủ qua đêm với thê thiếp, tiếp xúc nơi thân người, sinh tưởng về xúc chạm như thế là pháp đã hành của phàm phu.

Lại nữa, lại không vào thai mẹ, sinh trong dòng máu, không trụ trong sinh tạng, thục tạng, trong thân như thế thì lập kiết phần trên. Như kinh nói: Cư sĩ Chất Đa nói với các người bà con: Các ông nên biết! Ta không vào thai mẹ nữa, nói rộng như trên. Thế nên, Tôn giả Cù-sa nói: Nếu giải thoát dục, giận thì giải thoát khỏi việc vào thai mẹ.

Hỏi: Trong kiết phần trên, thể của trạo cử là kiết hay là không phải kiết?

Nếu là kiết, thì như nơi Luận Ba-già-la-na đã nói làm sao thông? Như nói: Thế nào là pháp kiết? Đáp: Là chín kiết. Thế nào là pháp không phải kiết? Đáp: Là trừ chín kiết, các pháp còn lại là pháp không phải kiết.

Nếu không phải là kiết, thì như Luận này nói làm sao thông? Như nói: Thế nào là kiết phần trên? Là sắc ái, vô sắc ái, trạo, mạn, vô minh.

Đáp: Nên nói như thế này: Là kiết.

Hỏi: Nếu như vậy thì khéo thông nơi Luận này, còn như nơi Luận Ba-già-la-na (Luận Phẩm Loại Túc) đã nói làm sao thông?

Đáp: Sa-môn phương Tây trì tụng Luận Ba-già-la-na, đã nói như thế này: Thế nào là pháp kiết? Đáp: Là chín kiết và trạo cử trong năm kiết phần trên. Thế nào là pháp không phải kiết? Đáp: Là pháp còn lại, trừ chín kiết và trạo cử trong năm kiết phần trên.

Sa-môn nước Kế Tân không phải nói như thế.

Hỏi: Vì sao Sa-môn nước Kế Tân không phải nói như thế?

Đáp: Sa-môn nước Kế Tân nên nói như Sa-môn phương Tây đã nói. Nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Vì trạo cử là tướng hoại. Hoặc phần ít là kiết, phần ít không phải là kiết. Hoặc đối với một người là kiết, hoặc đối với một người khác không phải là kiết. Hoặc có khi là kiết, hoặc có khi không phải là kiết.

Hoặc phần ít là kiết, phần ít không phải là kiết: Như nơi cõi sắc, vô sắc là kiết, nơi cõi dục thì không phải là kiết.

Hoặc đối với một người là kiết, hoặc đối với một người khác không phải là kiết: Như đối với Thánh nhân là kiết, đối với người phàm phu không phải là kiết.

Hoặc có khi là kiết, hoặc có khi không phải là kiết: Như Thánh nhân chưa lìa dục nơi cõi dục, không phải là kiết, đã lìa dục nơi cõi dục, là kiết.

Vì trạo cử có tướng hoại như vậy, thế nên Sa-môn nước Kế Tân không nói.

Như thế, nhân luận sinh luận: Vì sao trạo cử của cõi sắc, vô sắc thì lập kiết, còn trạo cử của cõi dục không lập?

Đáp: Vì cõi dục là cõi không định, chẳng phải là địa tu, chẳng phải là địa lìa dục, trong ấy không có định như thế để bị trạo cử nhiễu loạn, thế nên trạo cử của cõi dục không lập làm kiết. Cõi sắc, vô sắc là cõi định, là địa tu, là địa lìa dục. Bốn chi, năm chi định trong các cõi đó đều bị trạo cử làm rối loạn, vì thế nên lập làm kiết. Như trong thôn xóm, nếu ở chỗ bên thôn xóm, tuy có âm thanh lớn, cũng không thể tạo ra tai hại. Còn nơi trụ xứ A-luyện-nhã, tuy là âm thanh nhỏ, cũng cho là tai hại. Trạo cử kia cũng như thế.

Lại nữa, cõi dục có nhiều các phiền não của tưởng phi pháp, như hận, não, cuống, siểm, kiêu, hại. Các phiền não v.v… như thế, ngăn che trạo cử khiến không được sáng rõ, thế nên trạo cử nơi cõi dục không lập làm kiết. Cõi sắc, vô sắc không có các phiền não của tưởng phi pháp, trạo cử trong các cõi ấy rất sáng rõ, thế nên lập làm kiết. Như chỗ ở bên cạnh thôn xóm, có nhiều Tỳ-kheo hành ác, nhưng không thể nhận biết. Nếu tới trụ xứ A-luyện-nhã, thì từ xa đến là có thể nhận biết.

Hỏi: Như trạo cử, thùy (hôn trầm) đều cùng ở nơi ba cõi, do năm thứ đoạn, chung nơi sáu thức thân, có thể hiện hữu trong tất cả tâm nhiễm ô. Vì sao lập trạo cử làm kiết phần trên mà không lập thùy?

Đáp: Vì trạo cử là lỗi lớn, tai hại nặng, gây nhiều lỗi lầm. Do vậy nên Đức Thế Tôn lập làm kiết phần trên. Luận Ba-già-la-na nói: Là đại địa bất thiện. Do trạo cử có nhiều lỗi lầm, nên Luận ấy nói: Thế nào là pháp kiết? Đáp: Là chín kiết và trạo cử trong năm kiết phần trên.

Vì nó có nhiều lỗi, nên Luận Ba-già-la-na lại nói thế này: Thế nào là vô minh không chung? Thế nào là triền, trạo không chung? Vì có nhiều lỗi lầm.

Luận Thi Thiết lại nói thế này: Nếu người phàm phu sinh khởi dục ái thì khởi năm pháp: (1) Dục ái. (2) Tướng sinh của dục ái. (3) Sử vô minh. (4) Tướng sinh của sử vô minh. (5) Trạo cử. Vì thùy (hôn trầm) không có nhiều lỗi lầm tai hại lớn như thế, nên không lập trong kiết phần trên.

Lại nữa, vì trạo cử là đối tượng hành của tuệ sáng, mạnh nhanh, có thể gây rối loạn cho bốn chi, năm chi định, nên lập trong kiết phần trên. Tánh của thùy thì ngu tối, không phải là tuệ sáng, mạnh nhanh, tùy thuận ở định, hiện hành giống như định. Nếu thùy ở nơi thân thì mau chóng có thể khởi định, thế nên không lập trong kiết phần trên.

Lại nữa, vì thùy bị vô minh che lấp, vô minh được lập làm kiết phần trên. Nếu như lập thùy làm kiết phần trên, thì bị vô minh che lấp.

* Năm kiến: (1) Thân kiến. (2) Biên kiến. (3) Tà kiến. (4) Kiến thủ. (5) Giới thủ.

Hỏi: Thể tánh của năm kiến là gì?

Đáp: Có ba mươi sáu thứ: Thân kiến ở nơi ba cõi do kiến khổ đoạn có ba thứ. Biên kiến cũng như vậy. Tà kiến ở nơi ba cõi do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn có mười hai thứ. Kiến thủ cũng như vậy. Giới thủ ở nơi ba cõi do kiến khổ, kiến đạo đoạn có sáu thứ. Ba mươi sáu sử này là Thể của năm kiến, cho đến nói rộng.

Đã nói về thể tánh, về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì lý do gì gọi là kiến? Kiến là nghĩa gì?

Đáp: Do bốn sự việc nên gọi là kiến: (1) Có thể nhìn thấy. (2) Chuyển hành. (3) Đối tượng chấp giữ vững chắc. (4) Nhập trong duyên mạnh nhanh.

Nhìn thấy là có thể xem:

Hỏi: Đây là tà kiến, đối tượng nhìn thấy là điên đảo, vậy có thể xem gì?

Đáp: Đối tượng nhìn thấy tuy là tà, điên đảo, nhưng tánh là tuệ. Do tánh là tuệ, nên có thể xem. Như người tuy xem, nhưng không sáng rõ, cũng lại gọi là kiến.

Chuyển hành:

Hỏi: Trong khoảnh khắc một sát-na có chuyển hành nào?

Đáp: Do tánh của kiến mạnh nhanh, nên gọi là chuyển hành.

Đối tượng chấp giữ vững chắc: Các kiến này đối với duyên vọng chấp giữ bền chắc, nếu không phải là sức của đạo vô lậu, thì không do đâu có thể đoạn trừ. Nếu Phật, đệ tử Phật xuất thế, dùng sức của đạo vô lậu mới có thể dứt trừ hẳn các kiến. Răng như loại trùng trong biển cả, tên là Thất-thú-ma-la. Hoặc cây cỏ, hoặc gỗ bị nó cắn, nếu không phải dao bén thì không thể gỡ bỏ. Kiến kia cũng như thế. Như kệ nói:

Người ngu đã nhận giữ

Vật bị cá kình ngậm

Thất-thú-ma-la cắn

Không búa không thể gỡ.

Nhập trong duyên mạnh nhanh: Các kiến nhập nơi duyên mạnh nhanh như cây kim rơi trong bùn.

Lại nữa, do hai sự việc nên gọi là kiến: (1) Do có thể xem. (2) Do chuyển hành.

Lại nữa, do ba sự việc nên gọi là kiến: (1) Cùng với tướng tương ưng. (2) Làm thành sự việc kia. (3) Không hại đối tượng duyên.

Lại nữa, do ba sự việc nên gọi là kiến: (1) Có tâm trông mong. (2) Chấp trước kiên cố. (3) Chuyển hành.

Lại nữa, do ba sự việc nên gọi là kiến: (1) Do tâm trông mong. (2) Do phương tiện. (3) Do không biết.

Tâm trông mong: Làm hoại tâm trông mong. Phương tiện: Hủy hoại phương tiện. Không biết: Làm hoại tâm trông mong và phương tiện.

Lại nữa, làm hoại tâm trông mong: Là phá hoại người hành định. Làm hoại phương tiện: Là phá hoại người hành tuệ. Không biết: Là được nghe từ bên người khác, nhận thức sai lầm về pháp tướng.

Đã nói chung về lý do của các kiến. Nay sẽ nói riêng về lý do của mỗi mỗi thứ.

Vì sao gọi là thân kiến?

Đáp: Vì từ nơi tự thân sinh, cũng từ nơi có thân sinh, nên gọi là thân kiến.

Hỏi: Kiến khác cũng đều từ nơi tự thân sinh nên có thể là thân kiến chăng?

Đáp: Nếu kiến từ nơi tự thân sinh, không từ nơi tha thân sinh, không từ nơi không có thân sinh, thì kiến này là thân kiến. Kiến khác hoặc từ nơi tự thân sinh, hoặc từ nơi tha thân sinh, hoặc từ nơi không có thân sinh.

Từ nơi tự thân sinh: Là duyên nơi tự giới. Từ tha thân sinh: Là duyên nơi giới khác. Không có thân sinh: Là duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Như biên kiến, không từ nơi tha thân sinh, cũng không từ nơi không có thân sinh, vì sao không gọi là thân kiến?

Đáp: Thân kiến do trước đã nhận tên, lại do sự việc khác, nên lập tên biên kiến, là do kiến chấp hai biên.

Lại nữa, nếu kiến từ nơi tự thân sinh, nhiễm chấp nơi ngã, ngã sở, thì nói là thân kiến. Kiến khác tuy có từ nơi tự thân sinh, nhưng không nhiễm chấp nơi ngã, ngã sở. Như ngã kiến, ngã sở kiến, thì kỷ kiến, kỷ sở kiến cũng như thế.

Lại nữa, nếu kiến từ nơi tự thân sinh, không trái với việc tu thí, giới, thì nói là thân kiến. Kiến khác tuy từ nơi tự thân sinh, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, nếu kiến từ nơi tự thân sinh, tin nhận điều đã làm là thân kiến. Kiến khác tuy từ nơi tự thân sinh nhưng không có sự việc ấy.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Tự thân gọi là năm thọ ấm, vì kiến này từ nơi tự thân sinh, nên gọi là thân kiến.

Hỏi: Vì sao nói năm thọ ấm gọi là thân mình?

Đáp: Là do tự tạo. Lại nữa, vì tự tạo nên cũng là quả nơi nghiệp phiền não của mình.

Vì sao gọi là biên kiến?

Đáp: Kiến này thọ nhận hai biên, hoặc đoạn, hoặc thường, nên gọi là biên kiến. Như kinh nói: Này Ca-chiên-diên! Nếu dùng chánh trí, thấy biết như thật về tập của thế gian, thì không nói là không có thế gian. Nói không có thế gian là đoạn kiến. Nếu thấy ấm vị lai sinh, khởi suy nghĩ: Chúng sinh này chết ở nơi đây, sinh ở nơi kia là không dứt. Nếu dùng chánh trí thấy biết như thật về diệt của thế gian, thì không nói là có thế gian. Nói có thế gian là thường kiến. Nếu thấy ấm, giới, nhập nối tiếp sinh, người kia khởi suy nghĩ: Đây là pháp diệt, chẳng phải là thường.

Lại nữa, vì đây là biên của ngoại đạo, nên nói là biên kiến. Ngoại đạo chấp ngã là pháp thấp kém đáng quở trách, huống chi lại chấp ngã là đoạn, là thường, mà không là pháp thấp kém của biên chăng?

Lại nữa, ngoại đạo chấp ngã, đó gọi là chấp giữ biên, gọi là vọng chấp giữ về duyên, gọi là đối tượng chấp giữ ngu si, huống chi là chấp ngã có đoạn, có thường, mà không phải là biên chăng?

Lại nữa, vì kiến này hành theo hai hành đoạn thường nên gọi là biên kiến.

Kinh Phật nói: Tỳ-kheo nên biết! Ta không cùng với thế gian tranh mà thế gian lại cùng với Ta tranh.

Hỏi: Vì sao Đức Phật không cùng với thế gian tranh?

Đáp: Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Vì Đức Phật giảng nói có nhân quả. Nếu cùng với ngoại đạo thường kiến tập hợp tại một nơi, ngoại đạo chấp có quả, không nhân. Vì sao? Vì không nhân nên thường. Đức Phật tạo ra thuyết này: Các ông nói có. Ta cũng nói có. Ông nói không có là ngu si. Nếu cùng với ngoại đạo đoạn kiến tập hợp tại một nơi, ngoại đạo đoạn kiến kia nói có nhân, không có quả. Vì sao? Vì đoạn quả.

Đức Phật tạo ra thuyết này: Các ông nói có. Ta cũng nói có. Ông nói không có là ngu si. Đức Phật đối với trường hợp chấp giữ nhân của một biên, đối với trường hợp chấp giữ quả của một biên, lìa cả đoạn thường để nói trung đạo. Do sự việc này, nên Đức Phật không cùng với thế gian tranh, chỉ thế gian cùng với Phật tranh.

Lại nữa, Đức Phật là luận pháp. Thế gian là luận phi pháp. Người luận pháp không cùng với người luận phi pháp tranh biện.

Lại nữa, Đức Phật do tùy thuận thế gian để chế pháp. Thế gian cho là pháp thật, không tùy thuận nơi Đức Phật.

Lại nữa, Đức Phật là người khéo dứt trừ cội rễ của sự tranh chấp. Ái, kiến là cội rễ của sự tranh chấp, Đức Phật đã khéo loại trừ chúng. Người thế gian không trừ bỏ. Thế nên nói: Ta không cùng với thế gian tranh chấp, chỉ thế gian là cùng với Ta tranh chấp.

Tôn giả Phật Đề Bà nói: Đức Phật thì chánh luận. Thế gian thì không chánh luận. Người chánh luận thì không cùng với kẻ không chánh luận tranh chấp. Như một con ngựa đi vào nẻo đường cong vạy, nói là đi vào đường xấu. Như thế, vì ngoại đạo hành theo đạo tà, nên nói đi theo nẻo tranh chấp.

Lại nữa, Đức Phật thấy nghĩa, thấy pháp, thấy điều thiện, thấy điều tốt, thế nên Ngài không cùng với thế gian tranh chấp.

Vì sao gọi là tà kiến?

Đáp: Vì hành theo hành tà, nên gọi là tà kiến.

Hỏi: Năm kiến đều hành theo hành tà, nên đều là tà kiến chăng?

Đáp: Là do danh, do hành. Nếu năm kiến không lập danh, lập hành, thì năm kiến đều là tà kiến. Vì sao? Vì hành theo hành tà. Nếu năm kiến lập danh, lập hành, thì kiến này gọi là hành của kiến tà, hành không thực có. Đó gọi là tà kiến.

Lại nữa, hành theo hành tà, hủy hoại pháp trước, đó gọi là tà kiến. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, nếu hành tà, hủy báng tất cả nhân quả, là tà kiến. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, hành theo hành tà cùng với việc tu thí, giới trái nhau, là tà kiến. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, nếu hành theo hành tà, hủy báng đạo Đẳng chánh giác của quá khứ, vị lai, hiện tại và quy y Tam bảo, đó gọi là tà kiến. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, nếu hành theo hành tà, hủy báng hai thứ ân, nghĩa là ân pháp, ân chúng sinh. Hủy báng ân pháp: Là nói không có thí cho, không có cúng tế, không có quả báo của nghiệp thiện ác, không có đời này đời sau. Hủy báng ân chúng sinh: Là nói không có cha, không có mẹ, không có chúng sinh hóa sinh, nói là thế gian không có A-la-hán, không có hướng đến chánh đạo, cho đến nói rộng. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có các sự việc như thế.

Lại nữa, nếu hành theo hành tà, có thể khởi hai thứ không có ân, nghĩa là không có ân của pháp, không có ân của chúng sinh. Khởi không có ân của pháp: Là nói không có thí cho, cho đến nói rộng. Khởi không có ân của chúng sinh: Là nói không có cha, cho đến nói rộng. Đó gọi là tà kiến. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có các sự việc như thế.

Lại nữa, tà kiến nếu hành theo hành tà là hủy hoại sự việc hiện thấy. Như người rơi vào hầm lửa, muốn cho người đời sinh tưởng hy hữu, nên nói thế này: Nay ta cảm thấy an lạc! Như thế, chúng sinh rơi vào trong ấm, giới, nhập cháy bùng, do tà kiến nên nói không có khổ. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có sự việc như thế.

Lại nữa, nếu hành theo hành tà, tức nói là ác. Như nói: Tỳ-kheo nên biết! Nếu người hành tà kiến thì các nghiệp thân miệng ý hiện có và pháp hồi chuyển, theo chỗ mong cầu đều sinh pháp không yêu, không thích, không tốt đẹp. Vì sao? Tỳ-kheo nên biết là do kiến ác. Kiến khác tuy hành theo hành tà, nhưng không có các sự việc như thế, nên không gọi là tà kiến.

Vì sao gọi là kiến thủ?

Đáp: Vì chấp giữ lấy kiến, nên gọi là kiến thủ.

Hỏi: Kiến này cũng chấp giữ năm ấm, vì sao chỉ nói là kiến thủ?

Đáp: Vì nhân nơi kiến nên chấp giữ năm ấm. Lại nữa, nếu chấp giữ lấy kiến, nếu chấp giữ năm ấm, cho là bậc nhất, đó gọi là kiến thủ.

Vì sao gọi là giới thủ?

Đáp: Vì kiến này chấp giữ lấy giới, nên gọi là giới thủ.

Hỏi: Ở đây đều chấp giữ năm ấm, vì sao chỉ nói chấp giữ lấy giới?

Đáp: Vì nhân nơi giới nên chấp giữ năm ấm. Lại nữa, do đối tượng hành, nên hoặc chấp giữ lấy giới, hoặc chấp giữ lấy ấm. Vì chấp đối tượng hành là tịnh, nên gọi là giới thủ.

Hỏi: Do đâu gọi là thủ?

Đáp: Vì nhận lấy kiến của người khác, nên gọi là thủ. Như thân kiến chấp ngã ngã sở, biên kiến chấp đoạn thường, tà kiến hủy báng, nói là không có. Kiến thủ chấp giữ các kiến này cho là bậc nhất. Giới thủ chấp giữ các kiến này cho là tịnh. Thế nên nhận lấy kiến chấp của người khác gọi là thủ.

* Sáu ái thân: (1) Mắt tiếp xúc sinh ái. (2) Tai tiếp xúc sinh ái. (3) Mũi tiếp xúc sinh ái. (4) Lưỡi tiếp xúc sinh ái. (5) Thân tiếp xúc sinh ái. (6) Ý tiếp xúc sinh ái.

Nên nói là một ái: Như ái của ba cõi trong chín kiết, được lập một kiết ái.

Nên nói là hai ái: Như ái của cõi dục trong bảy sử, nói là sử dục ái. Ái của cõi sắc, vô sắc được nói là sử hữu ái.

Nên nói là ba ái: Như kinh nói: Tỳ-kheo nên biết! Ái nói có ba là ái dục, ái sắc, ái vô sắc.

Nên nói là bốn ái: Như kinh nói: Ái từ bốn sự sinh. Nếu Tỳkheo, Tỳ-kheo ni, nhân nơi y phục sinh ái, sinh liền sinh, thành lập liền thành lập, thiện liền thiện. Nhân nơi ăn uống sinh ái. Nhân nơi dụng cụ nằm sinh ái. Nhân nơi hữu sinh ái. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni sinh khởi ái như thế, nói rộng như trên.

Nên nói là năm ái: Là ái nhân nơi khổ đoạn trừ, cho đến ái do tu đạo đoạn.

Nên nói là chín ái: Như ái thượng thượng, cho đến ái hạ hạ.

Nên nói là mười tám ái: Như nói mười tám hành ái.

Nên nói ba mươi sáu ái: Như nói ba mươi sáu hành ái.

Nên nói một trăm lẻ tám ái: Như nói một trăm lẻ tám hành ái.

Nếu lấy nơi thân, nếu lấy sát-na, thì có vô lượng vô biên ái.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nơi một ái rộng nói sáu ái, nơi vô lượng ái lược nói sáu ái thân?

Đáp: Do đối tượng nương dựa. Hoặc một, hoặc vô lượng ái đều dựa vào sáu thứ này, dựa vào sáu cõi, sáu nẻo, tương ưng với sáu thức thân mà sinh.

Hỏi: Vô minh, giận dữ cũng dựa vào sáu thứ này, cho đến cùng với sáu thức thân tương ưng sinh, vì sao chỉ nói sáu ái thân, không nói sáu giận dữ thân, sáu vô minh thân?

Đáp: Tức nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu nói ái thân, nên biết là cũng nói về giận dữ thân, vô minh thân.

Lại nữa, vì ái ở nơi ba cõi, chung nơi năm thức thân, có thể tự thành lập. Giận dữ tuy chung nơi năm thức thân, tự thành lập, nhưng không ở nơi ba cõi. Vô minh tuy ở nơi ba cõi, nhưng không chung nơi năm thức thân, tuy có thể tự thành lập.

Lại nữa, cõi của ái riêng, địa riêng, chủng riêng, nói rộng như đã giải thích nơi xứ ái.

Hỏi: Vì sao gọi là thân?

Đáp: Vì nhiều ái chứa nhóm nên nói là thân. Không phải do khoảnh khắc một sát-na, mắt tiếp xúc sinh ái gọi là thân, mà là do nhiều sát-na, mắt tiếp xúc sinh ái, gọi là thân. Như không do một con voi được gọi là quân voi, mà do nhiều voi nên gọi là quân voi. Quân xe, ngựa, bộ cũng lại như thế. Cho đến ý tiếp xúc sinh nhiều ái, gọi là ái thân.

* Bảy sử: (1) Sử dục ái. (2) Sử giận dữ. (3) Sử hữu ái. (4) Sử mạn. (5) Sử vô minh. (6) Sử kiến. (7) Sử nghi.

Hỏi: Thể tánh của bảy sử (tùy miên) là gì?

Đáp: Có chín mươi tám thứ.

Sử ái dục ở nơi cõi dục có năm thứ, chung nơi sáu thức thân.

Sử giận dữ có năm thứ, chung nơi sáu thức thân.

Sử hữu ái là ái của cõi sắc, vô sắc, có mười thứ.

Sử mạn ở nơi ba cõi, có mười lăm thứ, tại địa ý.

Sử vô minh ở nơi ba cõi, có mười lăm thứ.

Sử kiến ở nơi cõi dục có mười hai, cõi sắc có mười hai, cõi vô sắc có mười hai, hợp thành ba mươi sáu thứ.

Sử nghi ở nơi ba cõi do bốn thứ đoạn có mười hai thứ.

Chín mươi tám thứ này là thể của bảy sử, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh của sử. Về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì lý do gì gọi là sử? Sử là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa vi tế là nghĩa của sử. Nghĩa chấp trước kiên cố là nghĩa của sử. Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử.

Nghĩa vi tế là nghĩa của sử: Vi gọi là tế, như bảy vi trần thành một tế trần.

Nghĩa chấp trước kiên cố là nghĩa của sử: Cho đến khoảnh khắc một sát-na, một vi trần sử cũng sinh chấp trước.

Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử: Như pháp đuổi theo bóng của chúng sinh đi trong nước, đối với loài đi trên không. Đi trên không là chim, đi trong nước là loài vật ở trong nước. Chim dùng sức của đôi cánh, nhằm bay qua biển cả. Loài vật trong nước biển nhận lấy tướng chim bay xong, khởi suy nghĩ: Không có chim bay nào có thể bay qua biển cả, trừ vua chim Kim sí. Liền đuổi theo bóng chim kia. Vì quá mỏi mệt, chim kia rơi xuống nước, loài vật ở nước này bèn nuốt ngay.

Như thế, các sử nơi tất cả thời gian thường xuyên ở trong thân. Nếu không chánh tư duy tức sinh quả y, quả báo.

Lại nữa, vi tế là thể của sử, chấp trước là đối tượng tạo tác, cùng theo đuổi là đắc.

Lại nữa, vi tế là sử quá khứ, chấp trước là sử hiện tại, cùng theo đuổi là sử vị lai.

Lại nữa, nghĩa vi tế, nghĩa chấp trước là nghĩa của sử tương ưng. Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử không tương ưng với tâm.

Hỏi: Không có sử không tương ưng chăng?

Đáp: Ở đây nói đắc của sử là sử. Pháp sư nước ngoài nói sử có bốn thứ nghĩa: (1) Nghĩa vi tế là nghĩa của sử. (2) Nghĩa chấp trước là nghĩa của sử. (3) Nghĩa hiện bày khắp là nghĩa của sử. (4) Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử.

Nghĩa vi tế là nghĩa của sử: Tự tánh của sử này là vi tế. Đối tượng hành cũng vi tế.

Nghĩa chấp trước là nghĩa của sử: Sử kia đối với thân này luôn chấp trước kiên cố. Cũng như trẻ con giữ chặt lấy bầu sữa.

Nghĩa hiện bày khắp là nghĩa của sử: Sử kia hiện hữu khắp trong thân, như dầu ở trong hạt mè, chất béo ở trong nắm thịt.

Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử: Như pháp theo đuổi bóng của loài vật ở trong nước đối với loài chim bay trên không.

Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của sử: Là tự thể của sử. Nghĩa chấp trước là nghĩa của sử: Là đối tượng hành tác. Nghĩa hiện bày khắp là nghĩa của sử: Là tương ưng. Nghĩa cùng theo đuổi là nghĩa của sử: Là các đắc.

Nên do nơi ba sự để nhận biết sử: (1) Do nơi tự thể. (2) Do nơi quả. (3) Do nơi con người.

Do nơi thể: Sử dục ái như ăn miếng to, nhiều. Sử giận dữ như ăn hạt sâm đắng. Sử hữu ái như áo thấm nhiều sữa mẹ. Sử mạn như người kiêu mạn. Sử vô minh như người mù. Sử kiến như người đi lạc đường. Sử nghi như người đi đến nẻo đường rẽ.

Do nơi quả: Hành rộng khắp sử dục ái sinh trong loài chim sẻ, uyên ương, bồ câu. Hành rộng khắp sử giận dữ tức sinh trong loài rắn độc. Hành rộng khắp sử hữu ái sinh trong cõi sắc, vô sắc. Hành rộng khắp sử mạn sinh trong hạng thấp kém. Hành rộng khắp sử vô minh sinh trong cảnh mù lòa, tăm tối. Hành rộng khắp sử kiến sinh trong ngoại đạo. Hành rộng khắp sử nghi sinh vào chốn biên địa.

Do nơi con người: Sử dục ái lấy Nan-đà v.v… để nhận biết. Sử giận dữ lấy Khí hư, Chỉ man v.v… để nhận biết. Sử hữu ái lấy A-tưđà, A-la-trá, Ưu-đà-ca v.v… để nhận biết. Sử mạn lấy Ma-na-đáp-đà v.v… để nhận biết. Sử vô minh lấy Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp v.v… để nhận biết. Sử nghi lấy Ma-lặc-ca-tử v.v… để nhận biết.

Hỏi: Vì sao ganh ghét (Tật) keo kiệt (Xan) không lập làm sử?

Đáp: Vì không có tướng của sử, nên không lập sử.

Lại nữa, ganh ghét, keo kiệt là phiền não thô, sử thì vi tế. Tánh của ganh ghét, keo kiệt thì nặng, tánh của sử thì nhẹ. Tánh của hai thứ ấy thì chậm, tánh của sử thì nhanh.

Lại nữa, tập khí nơi tánh của hai thứ ấy không bền chắc. Tập khí nơi tánh của sử thì bền chắc. Tập khí bền chắc thì lập sử, không bền chắc thì không lập. Như nơi chốn đốt cỏ đốt ra khi lửa tắt, đất chỗ đó liền nguội. Tập khí của ganh ghét, keo kiệt cũng lại như thế. Như đốt gỗ Khư-đà-la, tuy lửa đã tắt lâu, nhưng đất chỗ đó vẫn còn nóng. Tập khí nơi tánh của sử, nên biết cũng như thế.

* Chín kiết: (1) Kiết ái. (2) Kiết giận dữ. (3) Kiết mạn. (4) Kiết vô minh. (5) Kiết kiến. (6) Kiết thủ. (7) Kiết nghi. (8) Kiết tật (ganh ghét). (9) Kiết xan (keo kiệt).

Hỏi: Thế tánh của chín kiết là gì?

Đáp: Có một trăm thứ. Kiết ái ở nơi ba cõi có mười lăm thứ. Kiết giận dữ có năm thứ. Kiết mạn ở nơi ba cõi có mười lăm thứ. Kiết vô minh ở nơi ba cõi có mười lăm thứ. Kiết kiến có mười tám thứ: Thân kiến ở nơi ba cõi có ba thứ. Biên kiến cũng thế. Tà kiến ở nơi ba cõi có mười hai thứ. Kiết thủ có mười tám thứ: Kiến thủ ở nơi ba cõi có mười hai thứ. Giới thủ ở nơi ba cõi có sáu thứ. Kiết nghi ở nơi ba cõi có mười hai thứ. Kiết tật, kiết xan ở nơi cõi dục do tu đạo đoạn có hai thứ. Một trăm thứ ấy là thể tánh của chín kiết.

Đã nói về thể tánh của kiết. Về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì lý do gì gọi là kiết? Kiết có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hợp với khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen tạp độc là nghĩa của kiết. Phần còn lại như nơi xứ ba kiết đã nói.

Đã nói tổng quát về lý do của chín kiết. Về lý do của mỗi mỗi thứ kiết nay sẽ nói.

Thế nào là kiết ái?

Đáp: Ái của ba cõi được lập là kiết ái: Ái của cõi dục lập sử dục ái. Ái của cõi sắc, vô sắc lập sử hữu ái.

Kinh nói có ba ái: Ái dục, ái sắc, ái vô sắc.

Hỏi: Ba thứ ái này có khác biệt gì?

Đáp: Người thọ nhận Phật hóa độ có ba hạng: Lợi căn, trung căn và độn căn. Vì người lợi căn nói kiết ái. Vì người trung căn nói sử dục ái, sử hữu ái. Vì người độn căn nói ba ái.

Như lợi căn, trung căn, độn căn, thì hành lâu, đã hành, mới hành, vui lược, vui rộng, vui lược rộng nói cũng như thế.

Lại nữa, vì đồng với nghĩa trói buộc của khổ. Ái của cõi dục cũng đồng với sự trói buộc của khổ. Ái của cõi sắc, vô sắc cũng đồng với sự trói buộc của khổ.

Thế nào là kiết giận dữ?

Đáp: Là hại chúng sinh.

Hỏi: Như ở trong pháp phi chúng sinh, cũng khởi tâm hại, vì sao chỉ nói hại chúng sinh?

Đáp: Vì ở trong pháp của số chúng sinh khởi giận dữ nhiều, đối với số phi chúng sinh khởi giận dữ ít.

Lại nữa, đối với số chúng sinh khởi giận dữ thì tội nặng, đối với số phi chúng sinh khởi giận dữ thì tội nhẹ.

Lại nữa, nhân nơi số chúng sinh giận dữ, cũng giận dữ đối với số phi chúng sinh.

Thế nào là kiết mạn?

Đáp: Có bảy thứ mạn là sử mạn: (1) Mạn. (2) Đại mạn (Quá mạn). (3) Mạn đại mạn (Mạn quá mạn). (4) Ngã mạn. (5) Tăng thượng mạn. (6) Bất như mạn (Ty mạn). (7) Tà mạn. Nói rộng như nơi chương Kiền Độ Tạp.

Thế nào là kiết vô minh?

Đáp: Ba cõi không nhận biết. Nói như thế là tốt. Nếu tạo ra thuyết này: Duyên nơi ba cõi không nhận biết thì không gồm thâu sử duyên nơi vô lậu.

Thế nào là kiết kiến?

Đáp: Là ba kiến: Thân kiến, biên kiến, tà kiến.

Thế nào là kiết thủ?

Đáp: Là hai thủ: Kiến thủ, giới thủ. Nói rộng như nơi Luận Bagià-la-na.

Hỏi: Vì sao trong năm kiến, ba kiến lập làm kiết kiến, còn hai kiến thì lập làm kiết thủ?

Đáp: Vì đồng với nghĩa trói buộc của khổ. Thân kiến gọi là tiếng của người nữ, là nghĩa trói buộc của khổ, không phải là vui. Như thân kiến, biên kiến, tà kiến cũng như thế. Kiến thủ, giới thủ, gọi là tiếng của người nam, là nghĩa trói buộc của khổ, không phải là vui (Theo pháp Thanh luận của Thiên Trúc có tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng chẳng phải nam, chẳng phải nữ).

Lại nữa, thể của hai kiết này là như nhau, gồm thâu sử cũng như nhau. Thể như nhau: Là thể của kiết kiến có mười tám, thể của kiết thủ cũng có mười tám. Gồm thâu sử cũng như thế.

Lại nữa, nếu kiến hành theo hành tà, không phải là giữ lấy, là kiết kiến. Nếu kiến hành theo hành tà, là giữ lấy, không phải là thấy biết, là kiết thủ.

Thế nào là kiết nghi? Là do dự đối với đế.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn cho ý nghi có được quyết định. Nếu từ xa thấy một vật cao, thì nghi là người hay là gốc cây? Nếu là người thì nghi là người nam hay là người nữ? Thấy hai con đường, nghi là đường cần đi tới hay không phải đường cần đi tới? Thấy hai y, hai bát, nghi là y bát của mình, hay không phải là của mình? Có người cho như thế là kiết nghi thật. Nhằm khiến cho nghĩa này được quyết định nên nay chỉ rõ: Nghi này chỉ là vô ký không ẩn mất của cõi dục, thể là trí tà. Nếu nghi là có khổ, tập, diệt, đạo, hay là không có khổ, tập, diệt, đạo? Đây là nghi thật, gọi là kiết nghi.

Thế nào là kiết tật?

Đáp: Là thấy sự tốt đẹp của người khác, tâm không chấp nhận.

Thế nào là kiết xan?

Đáp: Là tâm gắn chặt với keo kiệt.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn cho người nghi có được quyết định. Người thế gian đối với tật (ganh ghét) tạo ra tưởng xan (keo kiệt), đối với xan tạo ra tưởng tật. Nếu có người thấy người khác tốt đẹp, tâm sinh ganh ghét, người thế gian nói người này là keo kiệt. Đây không phải là keo kiệt mà là ganh ghét. Nếu có người thấy người khác giấu kín vợ mình, người thế gian nói người đó là ganh ghét, thật sự không phải là ganh ghét mà là keo kiệt. Vì muốn dứt bỏ sự lẫn lộn: ganh ghét tưởng là keo kiệt, keo kiệt tưởng là ganh ghét, cũng nêu rõ về tướng khác biệt của chúng, nên tạo ra phần Luận này.

Thế nào là kiết tật? Đáp: Là thấy việc tốt đẹp của người khác, tâm không chấp nhận. Vì dứt trừ sự ganh ghét như thế cho là ý keo kiệt. Kiết này là tướng không chấp nhận, không phải là tướng gắn chặt với keo kiệt. Nếu thấy người khác có vật tốt đẹp, liền sinh tâm ganh ghét: vật ấy ở nơi ta mới là tốt đẹp.

Thế nào là kiết xan? Đáp: Là tâm gắn chặt với keo kiệt. Tức tạo ra thuyết này: Đã dứt trừ keo kiệt tạo tưởng ganh ghét. Kiết này là tướng gắn chặt với keo kiệt, không phải là tướng không chấp nhận, vì khéo giữ vợ mình, không cho ra ngoài.

Hỏi: Vì sao ở trong mười triền, ganh ghét, keo kiệt là kiết, không phải là các triền khác?

Đáp: Do các triền kia không có tướng của kiết nên không lập. Có tướng của kiết thì lập.

Lại nữa, vì lấy sau để hiển bày trước. Tức trong mười triền, ganh ghét, keo kiệt là ở sau cùng nên nói sau là kiết tức làm rõ phần trước.

Lại nữa, hai thứ này có thể tự thành lập, không có hai tướng. Có thể tự thành lập, là do dụng của tự lực nên thành lập. Không có hai tướng, là hoàn toàn bất thiện. Triền phẫn, phú có thể tự thành lập, cũng không có hai tướng, nhưng Pháp sư nước ngoài nói: Hai thứ ấy là sử, không nói là triền, vì thế không nên hỏi.

Thùy, trạo cử không thể tự thành lập. Vì nhân nơi sức của người khác nên lập. Chẳng phải là không có hai tướng, do là bất thiện, vô ký. Miên, hối tuy có thể tự thành lập, nhưng cũng không phải là không có hai tướng, do miên có thiện, bất thiện, vô ký, hối có thiện, bất thiện. Không hổ, không thẹn, tuy chẳng phải là hai tướng, nhưng không tự thành lập, vì nhân nơi sức của người khác. Chỉ có ganh ghét (tật), keo kiệt (xan) không phải là hai tướng, cũng là có thể tự thành lập.

Lại nữa, hai kiết này là pháp thấp kém đáng quở trách.

Lại nữa, vì đây là đối tượng hành của kẻ thấp kém, xấu ác. Nếu người thế gian cúng dường cho người khác, vì sao lại sinh ganh ghét? Tuy có chứa nhóm trăm ngàn của cải vật báu, nhưng vẫn không thể cầm giữ năm tiền đi đến đời sau. Nếu nên thí cho người khác thì có lỗi gì?

Lại nữa, thế gian do hai kiết này, nên đã từng chịu nhiều sự hủy nhục. Người đời khinh chê hai pháp, cho là kẻ nghèo cùng, không có uy thế. Do hiện bày rộng khắp kiết ganh ghét, nên khiến không có oai thế. Hành rộng khắp kiết keo kiệt khiến người bần cùng. Nếu là người bần cùng, không uy thế, thì cha mẹ, anh em, thân thuộc, tôi tớ, cho đến vợ mình, đều bị xem thường.

Lại nữa, hai kiết này, đối với chúng sinh nơi cõi dục, có thể làm hai sự việc: (1) Như lính giữ ngục. (2) Như người giữ cổng.

Như người bị giam nơi lao ngục, do hai người canh giữ, không cho đi ra ngoài. Ví như tại vườn rừng thanh tịnh, trang nghiêm, dùng hai người gác cổng, không cho người đi vào. Nẻo ác nên biết như lao ngục. Ganh ghét, keo kiệt nên biết như lính giữ ngục. Chúng sinh sở dĩ không thể ra khỏi ngục nẻo ác là do ganh ghét, keo kiệt giữ chặt. Nẻo người, trời như vườn rừng trang nghiêm, thanh tịnh. Ganh ghét, keo kiệt như hai kẻ gác cổng. Chúng sinh sở dĩ không có được an vui trong nẻo người, trời, là do ganh ghét, keo kiệt canh giữ.

Do các sự việc ấy, nên ganh ghét, keo kiệt được lập làm kiết. Như kinh nói: Thích Đề Hoàn Nhân đi đến chỗ Đức Phật hỏi thế này: Bạch Thế Tôn! Hàng người, trời phần nhiều hành theo kiết gì? A-tula, Càn-thát-bà, cho đến nói rộng.

Đức Phật bảo: Này Kiều-thi-ca! Người, trời phần nhiều hành theo kiết ganh ghét, kiết keo kiệt. A-tu-la, rồng, Ca-lâu-la, Càn-thátbà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, các chúng sinh như thế v.v… phần nhiều cũng hành theo kiết ganh ghét, kiết keo kiệt.

Hỏi: Chúng sinh hoặc có chín kiết, hoặc có sáu kiết, hoặc có ba kiết, hoặc có không kiết.

Có chín kiết: Là hàng phàm phu bị trói buộc đủ.

Có sáu kiết: Là phàm phu lìa dục của cõi dục, Thánh nhân chưa lìa dục ái.

Có ba kiết: Là Thánh nhân đã lìa dục.

Không kiết: Là A-la-hán.

Không có chúng sinh tạo thành hai kiết, một kiết, vì sao Đức Thế Tôn nói: Người, trời, A-tu-la v.v… phần nhiều tạo thành hai kiết?

Đáp: Vì ganh ghét, keo kiệt là đối tượng hành của người giàu sang, Đế thích là bậc tôn quý trong hai trời.

Lại nữa, do hai kiết này, nên Trời, A-tu-la thường xuyên đánh nhau.

Chư thiên có thức ăn ngon, A-tu-la có gái đẹp. Chư thiên vì keo kiệt về thức ăn, không muốn đem đi nơi khác. Đối với các người nữ, sinh tâm ganh ghét nói: Ở với chúng ta mới tốt đẹp.

A-tu-la thì keo kiệt đối với người nữ, không muốn cho họ đi ra ngoài. Đối với thức ăn sinh tâm ganh ghét nói: Đối với chúng ta mới tốt đẹp.

Chư thiên vì người nữ, nên đi xuống thành của A-tu-la. A-tu-la vì thức ăn, nên lên đến thành cõi trời.

Do sự việc này, nên Trời và A-tu-la thường xuyên gây chiến với nhau.

Bấy giờ, Đế thích từ nơi trận chiến đi ra, tâm sợ hãi một hồi lâu rồi đi đến chỗ Phật, bạch Phật: Người, Trời, A-tu-la v.v…, do kiết nào mà thường xuyên gây chiến với nhau?

Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói như vầy: Đế thích nên biết! Do hai kiết ganh ghét, keo kiệt, đã tạo tai hại cho ông, phát sinh ách nạn sợ hãi, cũng như gánh nặng.

Vì sự việc này, hàng người, trời, A-tu-la v.v… do hai kiết ấy nên thường xuyên gây chiến với nhau.

* Chín mươi tám sử (chín mươi tám tùy miên):

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm dứt trừ ý của Sa-môn vướng mắc về văn tự. Tức có Sa-môn chấp trước nơi văn tự, nếu lìa chỗ giảng nói của kinh thì không dám nêu bày. Lại nói thế này: Đức Phật nói bảy sử, ai là người thông sáng hơn Đức Phật, nói chín mươi tám sử? Vì muốn dứt trừ ý của người đã nói như thế, cũng nhằm nói về phần thể tánh tướng của chín mươi tám sử. Vì sự việc ấy nên tạo ra phần Luận này.

Kinh Phật nói: Bảy sử, do cõi, do chủng, do hành, nên có chín mươi tám sử.

Trong bảy sử, sử dục ái có trong chín mươi tám sử, do chủng loại nên có năm. Sử giận dữ cũng như vậy.

Trong bảy sử, sử hữu ái có trong chín mươi tám sử, do cõi nên có hai, do chủng loại nên có năm, do cõi, do chủng loại nên có mười lăm.

Sử mạn nơi bảy sử có trong chín mươi tám sử, do cõi nên có ba, do chủng loại nên có năm. Do cõi, do chủng loại nên có mười lăm. Sử vô minh cũng như vậy.

Sử kiến nơi bảy sử có trong chín mươi tám sử, do cõi nên có ba, do hành nên có năm, do chủng loại nên có mười hai, do cõi, do chủng loại, do hành nên có ba mươi sáu.

Sử nghi nơi bảy sử có trong chín mươi tám sử, do cõi nên có ba, do chủng loại nên có bốn, do cõi, do chủng loại nên có mười hai.

HẾT – QUYỂN 27