SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ BA

Phẩm 8: ĐỒNG CHÂN

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bậc Bồ-tát thứ tám làm thế nào mà trụ vào quả vị thứ tám để tu hành thanh tịnh?

Phật bảo Tối Thắng:

–Bậc Bồ-tát thứ tám thường xuyên bằng thần thông làm lợi ích chúng sinh tùy theo căn cơ, xem xét ý muốn của họ mà thị hiện, lại dùng thần thông đi khắp các cõi nước Phật, quán sát việc làm đặc biệt thù thắng của chư Phật, trở về tự trang nghiêm cõi nước Phật của mình đích thân đến hầu hạ kính lễ các Đức Phật, quán thân tướng của Phật là không, không thật có. Tu tập hiểu biết các nhẫn, phân biệt các căn, thường nhập định Tam-muội như huyễn biết nó vốn là không, theo công đức đã làm được không có sự mong cầu, không có hình tướng, vượt khỏi ba cõi, hoàn toàn không còn bị trói buộc, Tuệ không bằng ý niệm, không có sinh diệt, vì không có sự sinh nên gọi là Tuệ. Làm không thấy làm, cũng không thấy có người tạo tác nên gọi là Tuệ. Không có ranh giới, khoảng giữa, đều không dừng lại cũng không lõm xuống. Tuệ là thanh tịnh không lệ thuộc vào thức. Vì sao? Do không tưởng niệm nên Tuệ vô hạn, bằng diệu lực phương tiện không bị lệ thuộc vào tham dục, cũng chẳng trụ nơi sắc hoặc vô sắc, tuy cũng ở nơi ô nhiễm mà không bị đắm trước. Thế nên Tối Thắng, Đây được gọi là Đại Trí. Xa lìa tham dục, sân giận, ngu si, không ở chỗ ngu tối, hoàn toàn không còn chướng ngại, không dính mắc, đoạn tuyệt. Bỏ mười hai nhân duyên mà căn bản là vô minh nên không còn thấy ta và người. Vô ngã thì không có ngã, không trụ tham dục, rõ nó chỉ là một,

không cầu sắc tưởng lại không nghĩ ở trong các sắc. Nên gọi là Tuệ nghiệp của Bồ-tát thứ tám.

Hoàn toàn không còn lệ thuộc theo duyên, không bị các tai họa phiền não, không hợp với nghi, cũng không hữu vi, chẳng phải không hữu vi. Không cầu phước chẳng phải không có công đức, vượt qua các việc ác phi pháp. Vì sao? Vì không thấy pháp tánh thường tồn nên kẻ ngu làm việc phi pháp, không thấy thân tâm bị phiền não quấy rối, ý không bị vọng tưởng. Thế nên Tối Thắng, đó gọi là Tuệ. Phân biệt không quán, biết rõ vô sinh, không cho tăng trưởng, đoạn diệt chấp thường, khống chế sáu giác quan, hoàn toàn không nhìn sai lạc, thệ nguyện sâu xa không có giới hạn. Đồng Chân tu hành, giữ gìn cấm giới, không vượt thứ tự. Nếu thấy người thoái lui rơi vào quả vị thấp, thường khuyến khích, dẫn dắt họ được ở quả vị cao. Tùy thuận phụng sự pháp, không bỏ tu luật nghi của chư Phật, thân tâm vui vẽ vô cùng, tăng thêm sự an lạc nơi đạo, gìn giữ Pháp thân, không dứt đoạn dòng Thánh, giải thoát không còn trói buộc, tu tập pháp thế gian và xuất thế gian. Nhờ pháp tánh nên không bỏ các học xứ, giữ gìn giới cấm, nên được thanh tịnh không cùng tận. Ở trong sinh tử đến đây đã chấm dứt. Sự qua lại khắp cả năm đường cũng phải dừng nghỉ, chỗ ở vô thường cũng diệt tận. Các học phái khác chứng được ngũ thông nhưng không xa lìa trí thế gian. Cầu được sống lâu, về sau bị mất thần túc, chết rơi vào sinh tử. Chúng sinh nào siêng năng tu hành ngũ giới, thập thiện thì sẽ sinh vào cõi trời, người. Siêng tu năm giới trong cõi trời dục, thì được hưởng đầy đủ công đức. Nếu có chúng sinh tu tập Định, không ở cõi Sắc, dùng sự hỷ lạc làm thức ăn, tịch tĩnh vô tưởng làm Niết-bàn thì đây là tự mình khống chế mình chứ không phải đạt đến chỗ diệt độ hoàn toàn. Bậc Bồ-tát thứ tám quán sát rõ nơi đómà không bị nhiễm chấp, thường diễn giảng pháp, khuyên người siêng năng tu học xa lìa nơi ấy. Tối Thắng nên biết, việc làm của Đồng chân cũng xa lìa con đường Nhị thừa. Từ Tu-đà-hoàn đến Bích-chi-phật đều còn lỗi lầm. Bồ-tát hoàn toàn không còn nghĩ đến pháp A-la-hán. Vì sao? Vì tâm của A-la-hán còn lệ thuộc nơi đạo Niết-bàn. Bồ-tát không học cách tu của Duyên giác, bởi vì Duyên giác không phát khởi tâm Từ thương xót rộng lớn. Người tu học theo đây đều chẳng phải là chân chánh. Nếu có Bồ-tát tu học muốn được biển trí tuệ hoàn toàn, đến tận nguồn gốc mà chưa thể đạt được, lập nguyện không bỏ tất cả chúng sinh, tu pháp của Như Lai vì tánh bất diệt. Tuệ vô cùng cực nên không thể thấy được, diễn giảng đạo quả liền được thành tựu, Bồ-tát nói lời chân thật, phát khởi thệ nguyện rộng lớn. Mười lực vô úy, mười tám pháp Bất cộng thù thắng cũng không thể nghĩ bàn, không thể cùng tận.

Bậc Bồ-tát thứ tám hóa độ khắp nơi, giữ tâm thực hành hạnh nhẫn nhục không thể nghĩ bàn, tâm không nghĩ trái, không làm các việc ác, không tăng thêm sự giận dữ sân hận đối với chúng sinh, lại không có ý tranh đua với người khác, không dẫn dắt họ đi đến sự lỗi lầm. Cẩn thận giữ gìn thân không phạm tội, miệng không nói dối, đem những hành động của mình che chở chúng sinh, không theo việc tà, suy nghĩ về việc làm thiện, ý không tham dục, có thể trang nghiêm thân như thân tưởng Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: “Bồ-tát đồng chân thường phải học về ngôn ngữ, ý nghĩa âm thanh”. Thế nào là Bồ-tát học về ý nghĩa âm thanh? Đó là Bồ-tát biết các pháp không, chẳng nhiễm chấp kíên chấp, tư duy vô tướng nên không loạn niệm, phân biệt, vô nguyện xa lìa hẳn ba cõi, pháp không dâm dục, tánh vốn thanh tịnh, không còn sinh khởi phiền não, thấu rõ vô minh không còn ngu tối. Nên suy nghĩ về các pháp của quá khứ, hiện tại, vị lai. Các pháp tự nhiên hoàn toàn không có chỗ sinh, không thấy khởi diệt, sinh tử, không bị báo ứng. Tin thật có quả báo của việc làm thiện ác, miệng thanh tịnh không nói dối. Tâm vị ấy sáng suốt, hạnh không ô nhiễm. Càng tăng trưởng việc làm thù thắng, không bỏ tất cả chúng sinh. Thường tự xem pháp như mộng huyễn. Giả như có ý niệm tà liền tự biết được. Tánh thường hòa nhã giữ gìn tâm mình khiến không sinh điều ác, thường sinh ở cõi thanh tịnh chân chánh. Nếu ở nhân gian thì đầy đủ các đức, tám mươi tướng tốt, giọng nói trong trẻo như tiếng chim loan, hoặc nói tiếng rất hay như Phạm thiên không hề nói phù phiếm, bỏ dâm dục, giận dữ, ngu si không còn lo buồn, hoàn toàn không đem đến cho người thái độ xấu và tâm thù hận, công đức đã tạo chưa từng bị mất, tùy theo căn cơ của họ làm cho được an lạc, thường nói pháp khuyến khích cho tất cả, thâu phục ngoại đạo và các học phái khác, xa lìa khổ não không còn ách nạn. Đầy đủ các pháp của chư Phật, thường nhẫn nhục đối với người, thân tâm đạt đến sự tĩnh lặng, dù phải chịu sự mắng chửi vẫn im lặng không đáp trả. Nếu bị chúng sinh đánh đập không nghĩ đến oán thù, cũng như đất chấp nhận tất cả vạn vật, hoàn toàn không còn tâm phân biệt và ý nghĩ thêm bớt. Vì sao? Vì pháp tánh xưa nay vốn không. Nếu bị sân hận hoàn toàn không oán thù, xem thái độ giận dữ ấy như huyễn, nên phát khởi ý tốt không đem tâm chống trái. Đối với người có ý niệm ác nên xem như không biết, tự suy nghĩ: “Ta đã biết rõ nó là không, nên phải xa lìa không nên gần gũi với họ. Đối với người tức giận ta nên cẩn thận. Giả sử có người đến khen ngợi thì ta chẳng vui mừng, hoặc bị người đánh đập cũng không nên buồn khổ. Vì sao? Vì thấy thân mình và sự đau đớn bị đánh đều do những nghiệp cũ, để chế phục tâm. ở nơi vắng lặng suy xét trong thân có đủ thứ sinh, già, bệnh, chết, vô thường, thống khổ, lo buồn, sợ hãi, đói khát, nóng lạnh. Lại quán sát thân này hư hoại, là pháp vô thường, thân này là vật chứa các khổ, là nơi tập họp các bệnh, trống rỗng chỉ là bốn đại, thân này không ngã, không sinh, không diệt. Chúng sinh nơi ba cõi bị trôi nổi trong vòng ái dục, chìm đắm lưu chuyển không dứt, nên trước tiên phải kềm chế tâm không cho tăng trưởng, lại nghĩ đến nguồn gốc của dòng lưu chuyển, ở trong ba cõi phải chịu sinh tử, thọ thân không ngừng. Cũng nên suy nghĩ về dòng tà kiến, chúng sinh ngu si điên đảo bị lệ thuộc sáu mươi hai tà kiến, nên mê muội theo dòng đời. Chúng sinh nơi ba cõi lưu chuyển trong vô minh, bị mê mờ ngu si không biết đường chân chánh, lấy bất tịnh làm tịnh, rơi lại trong dòng dục, lấy khổ làm vui, lấy vô thường làm thường, lấy chẳng phải thân làm thân, cũng không nghĩ từ bỏ tham muốn ô uế, tự hại mình, mãi mãi không lo tu tập, già rồi dâm dục không dứt, có của cải không bố thí, không tiếp nhận lời Phật dạy. Đó là bốn thứ ngăn che làm tăng trưởng gốc ái do ý niệm cùng với hành động của thân tiếp xúc cùng nhau.

Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát vào sâu Thiền định quán sát, trừ bỏ ác dục và tư tưởng xấu. Ở trong thân này, nhớ nghĩ đến Tam bảo, quán xét vô thường, khổ, không, vô ngã, theo lời dạy của bậc Hiền, Thánh tâm không còn khổ, vui. Tu tập bốn Thánh đế, xét thấu đáo nghĩa ấy, sinh là khổ đế, ái là Tập đế, thanh tịnh là diệt đế, thoát khỏi là đạo đế. Nhàm chán thân hình này không một chút đáng tham, nghĩ kỹ nguồn gốc từ đâu sinh ra, theo tánh quán sát mới biết gốc khổ là từ thân sinh ra. Tập nhân do ái sinh, ái diệt khổ diệt, không còn ái dục thì chứng được đạo. Thường theo tâm Từ, không có ý hại, nuôi dưỡng giáo hóa, thương xót chúng sinh, cần phải cứu vớt khổ sinh tử cho họ, hòa nhã niềm nở đối với mọi người, khuyến khích giáo hóa họ phát khởi đạo tâm, bằng lời nói thông suốt biết rõ tướng chân thật của các pháp, thông hiểu các pháp, tùy lúc thể nhập vào, hỏi thì trả lời ngay, đối ứng không trở ngại, lời nói đúng lúc, văn từ không nhầm lẫn. Bồ-tát bằng tâm “Từ” thương xót tất cả, nghĩ đến khắp chúng sinh, những loại có thân hình không tránh khỏi sự đau đớn, bệnh tật, già chết, nên dùng phương tiện làm ra cho chúng được giải thoát; lại khởi tâm “Bi” thương xót tất cả các loài bị các khổ về đói khát, nóng lạnh, được mất, lầm lỗi, gian nan, nghĩ đến phương tiện khiến cho họ được an vui; lại bằng tâm “Hỷ” nghĩ đến thế gian đều có các hoạn nạn, lo khổ, sợ hãi nên ta phải dùng phương tiện thích hợp làm cho họ được an ổn lâu dài. Thường bằng tâm che chở, Bồ-tát nguyện độ các chúng sinh đang bị tám nạn trong ba cõi đối với người ngu si mê muội không thấy đạo chân chánh, muốn cứu giúp họ đạt đến vô vi, thương xót chúng sinh tâm không thay đổi. Tuy thực hành những pháp này tâm không nhiễm chấp, không vì sự lao khổ mà sinh tâm thoái lui, khát ngưỡng đạo chân chánh vô thượng đối với các thông tuệ không nhàm chán. Dù được tiếp xúc năm thứ, ca, nhạc, múa, hát cũng không vui thích, hiểu rõ thế gian đều là huyễn hóa, tất cả vạn vật đều trở về vô thường, không bị tám pháp làm lay động, thường xa lìa như tránh kiếp lửa, không ở trong đó bị người gây phiền não. Nếu người khác muốn đem sự sân giận đến với mình, thì hoàn toàn không đáp trả lại dầu chỉ bằng đầu sợi tóc, được cung kính cũng không dám xâm phạm đến người. Giả sử có người muốn hại Bồ-tát, cắt thân ra từng phần bỏ khắp nơi, đều có thể nhẫn nhịn không sinh loạn tưởng. Vì muốn đầy đủ phạm hạnh nên Bồ-tát lại quán pháp của thân và tâm hợp, thành, tan, diệt có gì đáng để tham muốn mà cho là quý báu. Nhờ kết quả này, chắc chắn được thân Phật, thành tựu đầy đủ kho tàng bí mật của Như Lai, lập chí nguyện lớn, suy xét nguồn gốc của đạo. Bồ-tát thực hành phương tiện biến hóa vô cùng, ở trong hàng ngoại đạo và các học phái khác, hiện thân vào trong lửa, nằm ngồi tự do, từ trong lửa ấy ra mà không bị tổn hại, hướng dẫn mọi người biết đạo chân thật, sửa đổi tâm mình, tu hành thanh tịnh, giáo hóa người ngu khiến tâm họ được trở về chân chánh, nhờ đó sinh lên cõi trời, diễn giảng pháp, hiểu rõ địa vị ở cõi trời cũng bị suy tán. Bồ-tát dùng phương tiện vào khắp mọi nơi, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đều quy y mà đãnh lễ. Nhờ vào sự tích chứa công đức thù thắng, chẳng phải là chỗ của Nhị thừa đạt đến, trí tuệ thần thông, phạm hạnh cũng vô biên. Tâm rộng lớn không bờ mé, cũng không có hạn lượng, lời nói lợi ích không làm tổn hại đến mảnh lông. Vì thế nên Tuệ không cùng tận, phân biệt mỗi pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tâm, biết rõ đều không, không thật có, đạt đến nhẫn tuệ, chứng đắc các trí, không nghĩ tất cả là thường, ngay đó liền được trí tuệ tột bậc. Với người, nếu nói lời gì thì nghĩ về lời dạy ấy như âm vang trong núi, hiểu được điều này gọi là quyền tuệ. Lại xét về tánh không của các pháp hữu vi, vô vi, sự thật là vắng lặng, chỉ có tên gọi mà thôi, không nghĩ mình đã chứng đạo quả, những kẻ khác thì thua kém không bằng mình. Lại không tự nghĩ mình tu hành giới luật, tôn trọng giáo pháp, hoàn toàn không sinh ra những ý niệm ấy. Đó là quyền tuệ phạm hạnh vô biên. Nếu có Bồ-tát thực hành nhẫn hòa, nhẫn không, nhẫn đãnh, nhẫn không thoái chuyển, quán sát như thật không có hư vọng. Tu ba phạm trú không, không có nguồn gốc, không ý niệm chắc thật, không quán tư tưởng mà cũng không nghĩ có tưởng. Cũng không mong cầu để sinh tưởng nguyện. Pháp giới chỉ một tướng, không có hình dáng, nghĩ đến sinh tử không có đầu mối kết thúc, không có người bố thí, chẳng có vật bố thật, không thấy quá khứ, hiện tại, vị lai, xoay vần qua lại đều không chân thật. Quá khứ đã diệt, hiện tại không trú, vị lai không sinh, có đức không thấy vô đức, vô đức không thấy có đức, không phải có đức, chẳng phải vô đức, chẳng phải không có đức, chẳng phải không, không có đức. Biết rõ có đức hay vô đức đều vắng lặng không tịch, không có tên gọi sinh, diệt, thường, đoạn. Lại quán vô sinh không thấy chỗ sinh, không thấy vô sinh, phân biệt hữu sinh cùng vô sinh đều hư huyễn không thật, chỉ một chẳng phải hai, không thấy độ thoát thế gian chứng được đạo quả, lại cũng không thấy trước sau, khoảng giữa. Đối với văn tự lời dạy không thấy phân tán, không hợp với đời, lại không thấy nhóm họp mà cùng lưu chuyển. Như vậy, này Tối Thắng! Tu tập Phạm hạnh sâu xa khó lường, không thể nghĩ bàn, không ai sánh kịp, không thấy Đạo nhẫn cùng Trí nhẫn hòa hợp, cũng chẳng thấy Trí nhẫn cùng Đạo nhẫn hòa hợp cũng không phải không hòa hợp. Không thấy vô đạo cùng với vô trí hòa hợp, không thấy vô trí cùng với vô đạo hòa hợp, đạo nhẫn và đạo tự nó không cùng hòa hợp, chẳng phải không có hòa hợp, cũng chẳng không, không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh của nó là không. Tối Thắng nên biết, Thế gian có hai pháp khiến người mới học có sự nghi ngờ. Thế nào là hai pháp sinh ra sự nghi ngờ? Ở đây, có Bồ-tát tu trăm ngàn pháp, chấp trước Niết-bàn, cho là giải thoát. Người nào tu hành như vậy sẽ bị tổn giảm. Hoặc có Bồ-tát biết tánh Niết-bàn là hoàn toàn giải thoát nên không sinh nhiễm chấp, tuy có lập ra sinh tử nhưng không theo, không bỏ, biết rõ chỉ là một, không có tên gọi khác nhau. Bồ-tát có tuệ nhẫn hoàn toàn không sinh tâm phân biệt, bình đẳng đối với Đại thừa, hiểu rõ tuệ không, không chấp trước, không đoạn diệt không bị nhiễm ô mới gọi là bình đẳng, quán rõ tánh bình đẳng không trói buộc, không giải thoát, không tạo tác nên không có chỗ sinh, không thấy tự nhiên mà có sinh diệt, người giải thoát như vậy mới gọi là tự nhiên. Không thấy có tự nhiên, không thấy không có tự nhiên, biết rõ tự nhiên đều không thật có, đó là thanh tịnh, đó là diệt tận. Như vậy, này Tối Thắng! Bồtát từ lâu đã thành tựu tuệ vô cùng cực, hành tuệ vô sinh không thể cùng tận. Ban đầu mới tu học cho đến lúc ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng, thâu phục ma oán, thánh đạo Vô thượng, trước phải nhập vào những tuệ Định ý này sau đó mới đi vào Định Sư tử Vấn Tấn Độc Bộ, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, người thấy ánh sáng này đều do tuệ nhẫn, thấy rõ hào quang bao quanh, ý thức nhu hòa, tâm không hung bạo. Thường bằng tâm Từ bi hộ trì thân, miệng, ý lời nói thanh tịnh trước sau đều không tổn giảm, tùy theo vô vi tôn sùng Phật đạo, ở trong Tam-muội tâm không loạn tưởng. Đối với người khiêm tốn không khinh miệt, công đức đạo quả ngày càng tăng trưởng, sự trói buộc oán ác không còn mầm móng, có thể đến các cõi Phật khác, biết rõ ánh sáng và sự thần thông cảm ứng, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, độ thoát tất cả. Suy tìm ánh sáng đó rõ là không thật có, lại phân biệt rõ các tướng cũng không chân thật, nên phân biệt tướng trạng sinh khởi của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Thế nào để quán sát rõ tướng của năm ấm? Người thấy có ánh sáng cho là sắc, phần vật chất của thân hình cũng cho là sắc, nhận lấy đem cho cũng là sắc, giữ gìn thân mình cũng là sắc, nếu cùng với người khác cũng gọi là sắc. Thứ đến phải biết sự sinh diệt của thọ. Do những gì mà có thọ này? Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ, thường nhớ nghĩ phân biệt mà không có khổ, vui làm sao lại có thọ. Việc này không đúng, người hiểu rõ đây là tướng thọ. Ghi nhận cho đến trôi chảy mãi không dừng, nhớ đến quá khứ hiện tại, vị lai, hoặc nam hoặc nữ và vô số biên ý niệm khác. Không có hạn lượng gọi là tư tưởng, hiểu rõ tướng này không đến không đi cũng không nơ chốn, giả dối không thật, cũng không có tên nên gọi là tư tưởng. Bồ-tát thấy rõ các pháp thiện, ác, hữu ký, vô ký, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi nên có sự tạo tác mà không bị chướng ngại. Có khi Bồ-tát thấy người làm việc thiện không làm việc ác, thấy người làm ác không làm điều thiện, hoặc có lúc không làm thiện cũng không làm ác thì phân biệt ngay trong niệm đó, không thấy thiện cũng không thấy ác, Này Tối Thắng! Đó gọi là Hành. Lại nữa nên hiểu rõ do nhân gì mà có Thức. Thức chẳng phải một tướng, Pháp của nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng gọi là thức. Pháp của sắc, thanh, hương, vị, xúc, căn cũng gọi là Thức. Lại biết rõ pháp khổ, vui, thịnh, suy cũng gọi là thức, ngay trong tư tưởng cũng gọi là Thức, lìa tư tưởng cũng gọi là thức, có thiện có ác cũng gọi là thức, không thiện không ác cũng gọi là thức. Chẳng phải có thiện, chẳng phải có ác, cũng gọi là thức. Hiểu rõ thức này từ đâu sinh, từ đâu diệt, biết rõ không sinh cũng không diệt, thông suốt như vậy là Thức.

Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát Phạm hạnh bỏ thân thọ hình thì thân, căn, ý, thức không bao giờ tán loạn, không nhận lấy thân trung ấm nên không có chướng ngại. Chúng sinh bỏ thân thì thần thức ở trung ấm, tùy theo nghiệp nặng nhẹ mà có chướng ngại. Bồ-tát Đại sĩ ngay trong ý nghĩ, tùy theo ý muốn liền được thọ thân không bị chướng ngại.

Tối Thắng nên biết, Bồ-tát Đồng chân thường làm bạn với Bồtát Nhất sinh bổ xứ cùng nhau xem xét sự thanh tịnh của cõi Phật, lựa chọn cõi Phật tốt đẹp tối thắng nhất, giữ lại những hình ảnh tốt đẹp đó để làm Phật sự. Bậc Bồ-tát thứ tám chứng được tự tại, tùy duyên hóa độ chúng sinh khắp nơi, thuyết giảng đạo pháp không cùng tận, thường dùng pháp lành giáo hóa làm cho chúng sinh ưa thích.

Lúc ấy, trong hội chúng, các Bồ-tát đều suy nghĩ: “Hôm nay Đức Như Lai tuyên thuyết tuệ nghiệp khen ngợi hạnh Đồng chân, công đức quả báo không gì sánh bằng. Nay thấy sự tu hành của bậc Đại sĩ Tối Thắng thực hành theo hạnh nghiệp của Đồng chân, không sai khác. Nếu Bồ-tát Tối Thắng thành đạo chánh giác vô thượng, khi được thành Phật thì tên hiệu là gì? Cõi nước Phật đó được công đức trang nghiêm thanh tịnh như thế nào? Các Bồ-tát thành tựu những gì, giữ gìn pháp luật có sai khác không?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm của đại chúng trong hội, nên mỉm cười. Có vô số ức trăm ngàn ánh sáng từ miệng Đức Phật phát ra, chiếu đến vô số thế giới khắp mười phương, che lấp cả ánh sáng mặt trăng, mắt trời và cung điện của ma, ánh sáng xoay lại chiếu quanh Đức Phật vô số vòng rồi đi vào trên đầu.

Lúc ấy, các Bồ-tát ở trong hội từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bên phải chắp tay lễ Phật thưa hỏi về ý nghĩa mỉm cười: Thế Tôn không mỉm cười vô cớ, xin được nghe ý đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại chúng: Các ông thấy Bồ-tát Tối Thắng này không?

Đáp: “Thưa, chúng con thấy.”

Đức Phật bảo những Bồ-tát trong hội: trong tiền kiếp này, trở về quá khứ một trăm Đức Phật, có Đức Phật ra đời hiệu là Sư Tư Oai Như Lai, xuất hiện ở đời là bậc Chí chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thượng Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn. Tên cõi nước ấy như nay không khác. Cõi nước ấy rất xinh đẹp, năm loại ngũ cốc tự nhiên, có rất nhiều như, nhân dân phồn thịnh, thành quách nghiêm chỉnh đều được làm bằng bảy báu, vàng bạc lưu ly, thủy tinh, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách và ngọc báu ma-ni. Cõi Phật đó bằng phẳng, có tám đường thông nhau do vật báu làm thành, mặt đất mềm mại giống như vải lụa trời, như cõi trời Đâu-suất, y phục, thức ăn, cung điện, nhà cửa, vườn hoa, ao tắm lầu gác nguy nga đẹp đẽ, cõi nước của Phật ấy uy đức như vậy. Chu Thiên, loài người tự nhiên hiện ra, trổi các âm nhạc, treo các phướn lụa, dựng cờ, lọng, đốt các hương thơm mưa những hoa báu đẹp, giữ gìn chánh pháp không cho gián đoạn, hướng dẫn làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh.

Bồ-tát Tối Thắng bỏ thân nơi cõi ấy, sẽ sinh vào thế giới Cực Lạc của cõi Phật Vô Nộ. Lúc Tối Thắng sinh vào cõi đó, Đức Phật Vô Nộ thuyết ra tám ngàn bốn trăm pháp môn khác nhau cho các Bồ-tát, tuyên dương giáo Pháp nhưng đồng một ý nghĩa, thuyết pháp không gián đoạn Tam bảo, làm cho chúng sinh được vào quả vị Không thoái chuyển. Khi thuyết giảng như vậy, mọi người ở trong hội đều khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Bậc Đại sĩ Tối Thắng được thọ ký thành Phật thật là nhanh, nguyện đời vị lai được sinh vào nước này, gặp lúc Đức Như Lai Sư Tử Oai xuất hiện trong đời, mong gặp được đạo pháp của Phật, tu hạnh Đồng chân như Bồ-tát Tối Thắng”.

Khi ấy các Bồ-tát trong hội chúng lại nghĩ: “Làm thế nào khiến cho chúng sinh đều được pháp Tuệ nhẫn trí như hiện nay”.

Ai nghe được lời này thì không còn sợ hãi do dự.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Bồ-tát thực hành đầy đủ các đức, trình bày vô lượng lời dạy đặc biệt, tùy thời thị hiện đến khắp mọi nơi. Hoặc làm phàm phu thân già cô độc, hoặc làm trẻ con, lại dùng phương tiện vào bốn đạo, cùng làm bạn với bậc chứng quả Tu-đà-hoàn, liền nói pháp cao hơn làm cho họ không biếng nhác. Nương phương tiện vào quả vị Tư-đà-hoàn, khuyến khích đoạn trừ nguy hiểm của năm tai họa, khiến được không còn bảy lần trở lại sinh tử. Hoặc ở cõi trời diễn giảng pháp cam lồ, hành giả ấy hoàn toàn không trở lại thế gian, cũng ở với bậc thánh không còn cấu nhiễm, vì họ giảng nói sáu mươi tám pháp khổ của thân, chê trách các pháp cấu uế đó làm chướng ngại đạo Vô thượng, làm mất trí tuệ sáng suốt, tổn hại giáo pháp. Hoặc hiện đạo Duyên giác của chư Phật, hiển bày mười tám pháp thần túc biến hóa, bằng sự giáo hóa im lặng khiến cho người thấy được giải thoát, dùng trí tuệ quyền xảo bên trong thích ứng tâm người, tùy bệnh cho thuốc khiến được thuyên giảm. Hoặc cùng với hàng mới học, ban đầu phát tâm nhập định thanh tịnh, khiến các chúng sinh thấy rõ sắc thân, thấy tam thiên đại thiên cõi Phật như tâm bàn tay, cùng nhau cúng dường, qua lại trong đó mà không tăng không giảm, khiến họ phát tâm chân chánh nơi đạo Vô thượng.

Lúc đó, có Bồ-tát tên là Cứu Sướng, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay trước Phật thưa: Bạch Thế Tôn! định Tam-muội này có tên là gì? Mà làm cho thấy được tam thiên đại thiên cõi nước, cảnh giới khắp mười phương như ở trong tâm bàn tay. Chúng sinh ở trong đó đều cung kính cúng dường mà không thấy tăng giảm?

Đức Phật bảo Bồ-tát Cứu Sướng: Định Tam-muội ấy gọi là thanh tịnh, sắc thân hiện khắp hiển bày dung chứa khắp nơi mà cảnh giới, cõi nước vẫn như thế không thêm bớt. Giả sử tam thiên đại thiên cõi nước và vô lượng hằng hà sa cõi nước chư Phật ở trong tâm bàn tay, cùng làm việc bố thí tạo các phước đức, nằm, ngồi, kinh hành tùy ý vui vẻ thì chúng sinh trong đó đều không biết nhau, thân ta ở đâu và thân thể không bị xúc chạm, Cứu Sướng nên biết. Đó là việc làm do oai thần của Bồ-tát Đồng Chân, ngay nơi sự hóa hiện ấy cũng không thấy thân mình, dầu ở chỗ nào vẫn làm cho chúng sinh không có tâm tăng giảm. Bấy giờ, trên tòa những người đến trong hội như: Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Mahưu-nặc, người và phi nhân đều có ý nghĩ muốn Bồ-tát Tối Thắng thị hiện thần biến Định ý thanh tịnh.

Thế Tôn biết tâm niệm chúng hội đều có ý nghĩ như vậy, liền bảo Bồ-tát Tối Thắng: Này Tối Thắng! Ông nên vì tất cả chúng sinh và những người đến trong hội này mà thị hiện Tam-muội Định ý thanh tịnh để họ càng thêm tâm tin.

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng nương theo oai thần của Phật cung kính vâng lời Phật dạy liền nhập Tam-muội chánh định ở trên tòa, khiến cho hằng sa cõi nước khắp mười phương, Trời, Rồng, loài người, Quỷ thần, vua cùng quyến thuộc tôn quý của trời và Bồ-tát khác ở trong hội đều hiện rõ trong tâm bàn tay. Hoặc người thiền định, hoặc người kinh hành, hoặc người làm Phật sự có nhiều công đức, hiện ra những việc đặc biệt kỳ lạ khó ví dụ được, hiện thần túc rồi, tất cả chúng hội trong mười phương đến đây đều trở về chỗ của mình. Bồ-tát Tối Thắng cũng ngồi chỗ cũ, mặc y phục trang nghiêm, đầy đủ oai nghi.

Khi ấy, Bồ-tát Cứu Sướng bảo Bồ-tát Tối Thắng: Nhân giả đã hiện oai thần Tam-muội, công đức ấy siêu việt vô cùng không có giới hạn, oai thần hiện rõ thật không ai bằng, mới có thể dung chứa thế giới trong mười phương, ở trên bàn tay phải của vị ấy mà không tăng giảm. Để đạt được hạnh của Bồ-tát Đồng chân chúng ta cần phải tạo thêm công đức, tinh tấn tu pháp định ý thanh tịnh, thực hành hạnh của Bồ-tát Đồng chân.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Nếu có các Bồ-tát mới phát tâm, muốn tu tập pháp Đồng chân, phải suy nghĩ siêng năng thành tựu đạo quả, khiến không còn thoái lui. Bồ-tát tinh cần có hai mươi việc nên thực hành, tăng trưởng ủng hộ không để thiếu sót. Hai mươi pháp không tổn giảm là gì? Đó là đối với Bồ-tát tu hạnh Đồng chân phát nguyện rộng lớn, tâm không giới hạn, muốn cứu vớt mọi ách nạn nguy hiểm, gọi là tinh tấn không còn thoái lui.

Lại nữa, Bồ-tát tập họp đồ chúng để giáo huấn đạo lý không có hình tướng, thường nói về âm thanh không, vô, hư tịch. Đó là hạnh Đồng chân không còn thoái lui.

Lại nữa, Bồ-tát ban bố công đức khiến cho người thấp kém đang bị ràng buộc trong tối tăm, trước tiên diệt trừ ý tham không còn tưởng niệm sau đó hướng dẫn họ thực hành bố thí.

Lại nữa Bồ-tát thấy có người bị tai nạn liền đích thân đến giáo hóa, an ủi làm cho họ không còn khổ nữa. Thường tăng trưởng niệm lành, tâm không biến đổi.

Lại nữa, Bồ-tát thực hành việc khó làm trải qua vô số kiếp khó tìm cầu được bậc thầy sáng suốt để hỏi về giới luật, giữ gìn tu tập chánh pháp, thường nghĩ đến việc khống chế sáu trần.

Lại nữa, Bồ-tát cầu đạo Vô thượng, tâm không lệ thuộc vào sự ô nhiễm, thường xuyên tu tập các thần thông trí tuệ, thực hành chỉ quán bỏ tâm tham ái. Lại nữa Bồ-tát tùy thời thích hợp hiểu rõ những người chưa giác ngộ, dạy bảo họ không còn tâm si được thông suốt, sau đó mới dạy về các phương tiện.

Lại nữa, Bồ-tát phát tâm thệ nguyện, đầy đủ tướng tốt trang nghiêm, làm thanh tịnh cõi nước đó thành màu hoàng kim, dẫn dắt quyến thuộc cũng đều như vậy.

Lại nữa Bồ-tát phát nguyện cứu độ rộng lớn, không có khiếp nhược, không bị trở ngại, tuy ở chốn sinh tử không từ nan khổ nhọc, quyết chí kiên cố điều phục ngoại đạo.

Lại nữa Bồ-tát tạo vô số công đức, thường nghĩ đến chúng sinh đang bị trói buộc, không có tâm nghĩ đến mình, nghĩ về Tứ đế hiểu rõ bằng Tuệ quán. Lại nữa, Bồ-tát mặc áo giáp đồng, thệ nguyện suốt vô số kiếp cầu đạo Vô thượng, hoàn toàn không nghĩ Ta đã thực hành đạo chân thật, người không thực hành như vậy sẽ bị tổn giảm.

Lại nữa, Bồ-tát có tâm bao dung đối với phàm phu, người đến quy y, dạy cho đạo vi diệu, chỉ dẫn con đường cho họ hướng đến, xét khả năng của người đó dạy cho pháp cam lồ.

Lại nữa, Bồ-tát quán sát phong tục thế gian đối với pháp luật nhà vua chế ra chớ nên chống lại, đối với việc thiện thì tuân theo, việc ác cần phải tránh xa, không tự cao ngạo hủy hoại phong tục. Bồ-tát phải học cách đi vào quần chúng, hoặc chúng Phạm chí, hoặc chúng Trưởng giả, chọn lựa lễ nghi nên đi thì đi, nên ngồi thì ngồi, nên nằm thì nằm, hợp với oai nghi, không bị sai lầm. Đó là Bồ-tát Đồng chân biết đi vào quần chúng.

Lại nữa Bồ-tát thường phải tu tập pháp Vô sinh nhẫn, tuệ không khởi diệt, đầy đủ tất cả Phật pháp, đi đến vô lượng cõi Phật khắp mười phương, muốn được đầy đủ các pháp môn trí tuệ, hiểu rõ trí tuệ không cùng tận, phải nhớ nghĩ tu tập hạnh đồng chân.

Lại nữa Bồ-tát giữ điều đúng, chế ngự cái sai không theo pháp tà, đấy đủ bố thí Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, phương tiện khéo léo, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, không vô tướng, vô nguyện. Tâm không còn chán nản, biếng nhác, hoàn toàn không quên thệ nguyện. Đó là tâm kiên cố của hạnh Đồng chân.

Bồ-tát tích chứa gốc công đức lành, ngay rơi thân triền phược này tu các tướng tốt để trang nghiêm mình, diệt trừ kiêu mạn, vô minh, tà kiến. Bồ-tát Đồng chân hoàn toàn thanh tịnh, không bị cấu nhiễm, không thấy cảnh giới có sạch có nhơ. Khi ấy đầy đủ công đức vô lượng tướng tốt phước đức thảy đều đầy đủ, không biếng nhác cũng không thoái lui. Vì sao? Vì Bồ-tát Đồng chân phát thệ nguyện rộng lớn không bỏ bản nguyện, ban bố tuệ nghiệp tinh tấn không biếng nhác. Đó là Bồ-tát tu hạnh Đồng chân.

Lại nữa, Bồ-tát phân biệt pháp huyễn hóa, dối trá, biết nó là hư tịch cũng không có hình thể để mà thấy được, trưỡng dưỡng tinh tấn chuyên tu bản nghiệp, đối với mười sáu phần không bỏ chút nào. Bồtát hành Từ bi luôn tự suy xét dục là đời sống của ta, từ đâu sinh ra, nên suy nghĩ kỹ để vượt ra khỏi sinh tử. Bởi vì người đời tự khởi thức tưởng, do ý nhiễm chấp, phát khởi lửa dục, thiêu đốt căn lành, đọa vào năm đường đều do vô minh, tham dục trói buộc. Nếu Bồ-tát nào phân biệt năm thứ tham dục đều không chân thật, siêng năng tư duy về dục thì hoàn toàn không bị nó chi phối. Ví như nghe ở nơi đồng trống, phương khác có người khổ hạnh đoạn dục, Bồ-tát liền dùng phương tiện dẫn dắt chúng sinh đến chỗ ấy, thấy người khổ hạnh đoạn dục, tâm ý mát mẻ không bị phiền não nóng bức, khiến chúng sinh ấy đều phát đạo tâm, từ bỏ năm dục, tuần tự hướng dẫn đến các cõi Phật lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Lại dẫn dắt họ vào pháp sâu xa, sau đó mới ban đủ ân đức bố thí, trì giới, nhẫn nhục và lập chí tinh tấn, chuyên tâm nhập định, ý niệm không tán loạn, tu tập nhiều trí tuệ không bờ bến.

Như vậy, này Cứu Sướng! Đó là sự tu tập của Bồ-tát Đồng chân, làm lợi ích khắp tất cả. Nếu có Bồ-tát mới tu học, đọc tụng, giảng giải bàn luận hai mươi hạnh nguyện sau đó mới phát nguyện làm theo việc làm của Bồ-tát Đồng chân. Lúc Bồ-tát Tối Thắng thuyết pháp này, có một vạn bảy ngàn người đều phát thệ nguyện rộng lớn không cùng tận, ưa thích tụ tập hai mươi hạnh nguyện của Bồ-tát Đồng chân, có mười ngàn Trời, người chứng được Pháp Vô sinh nhẫn, lại có vô số chúng sinh tăng thêm công đức không còn thoái lui.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: Lành thay Đại sĩ

đã làm được nhiều lợi ích độ thoát vô số chúng sinh. Nếu có Bồ-tát phát tâm rộng lớn tích chứa công đức không hề nhàm chán, tăng thêm sự khuyến khích hỗ trợ mà tu pháp bố thí, vì muốn giáo hóa chúng sinh, giải thoát đi vào Niết-bàn, mãi mãi không trở lại.

Thế nên, Tối Thắng, Bồ-tát Đồng chân đã tu tập công đức không thể lường, nếu có Bồ-tát mới phát tâm muốn học thường phải tu tập hai mươi hạnh nguyện, sau đó đi vào kho tàng pháp bảo sâu xa. Thế nên, Tối Thắng phải học như vậy. Người học như thế thì thuận theo đạo của Bồ-tát thứ tám.

 

Phẩm 9: ĐỊNH Ý

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Đức Phật:

–Bồ-tát Thường Tịnh trú địa vị thứ chín được thanh tịnh như thế nào?

Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Bồ-tát ở địa vị thứ chín tu tập pháp môn Định ý nhất tâm, hiểu rõ Tam-muội chánh định mà không bị hao tổn. Đối với tịnh hay bất tịnh thường nhất tâm. Tuy ở trong chốn trần lao, sân hận mà không khởi vọng tưởng sinh ra những ý niệm nào. Xét biết tâm, ý, thức đắm trước cửa chúng sinh, đều bị trói buộc trong kết sử khổ não, do quả báo đã làm nên đưa đến hoạn nạn, muốn cầu pháp phương tiện, nên dùng phuơng tiện khéo léo gì để diệt hết, hoàn toàn giải thoát. Bậc Đại sĩ Bồ-tát thứ chín nên nghĩ về các tưởng đắm trước đó, những tưởng không đúng với chánh pháp, do vô minh, hành, đưa đến kết quả ấy, nhất tâm nghĩ về đạo, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm hơi thở, niệm thân, niệm chết, hộ trì tất cả không còn phiền não nhiễu loạn, siêng năng tinh tấn như cứu nạn lửa, đầy đủ tất cả đạt được chí nguyện nơi đạo quả, thực hành các thông tuệ được trọn vẹn, thường nghĩ thương xót tất cả, do đâu mà chúng sinh bị các tai nạn khổ não. Tự suy xét thấy nguồn gốc đó đều do vô minh mà có hành, do hành mà sinh có thức. Thức đã có chỗ chứa nên gọi là Danh sắc, Danh sắc đã sinh đủ thành Sáu nhập, trong ngoài duyên nhau sinh ra Xúc, tâm đắm nhiễn sinh ra Thọ, hiểu rõ khổ vui sinh ra ái, ái đã sinh thì Thủ sinh cho đến sinh ra lão, bệnh, tử, sầu ưa khổ não, dần dần tăng trưởng kết quả ái dục.

Bồ-tát thứ chín quán sát suy nghĩ sâu xa về quả báo đó, sự trói buộc của tuần lao là hư dối không thật, xét kỹ duyên của quả báo vốn không thật, lại biết sự phân biệt của chúng sinh quả thật đều không thật có, ứng không có chỗ ứng, báo không có chỗ báo bằng sự thanh tịnh quán pháp chân thật, làm cho chúng sinh được thanh tịnh, thường nghĩ khuyến khích tu tập Định ý, trước dùng phương tiện quyền biến quán sát một cõi Phật có bao nhiêu chúng sinh lập thệ nguyện vững, tạo các công đức, tu tập cây Bồ-đề trang nghiêm vô thượng. Có bao nhiêu chúng sinh thiền tịch nhập định, biến hóa thần thông hóa hiện khắp nơi. Có bao nhiêu chúng sinh, gánh gánh nặng cho người, thay họ chịu khổ khiến không còn khổ não. Có bao nhiêu chúng sinh đoạn trừ ba thứ kết sử, chứng Tu-đà-hoàn. Có bao nhiêu chúng sinh ba độc đã giảm nhẹ, chứng được Tư-đà-hàm, hoàn toàn xa lìa khổ. Có bao nhiêu chúng sinh không còn nạn của năm hạ phần kết sử, không trở lại thế giới này nữa. Có bao nhiêu chúng sinh đoạn trừ năm thượng phần kết sử được tự tại giải thoát an vui. Bằng ngũ nhãn thần thông quán sát, đến tận những nơi tối tăm nhất. Vào thời không có pháp thì các hàng Duyên giác cư trú nơi núi rừng, tùy thời xuất hiện, ở nhân gian giáo hóa. Bồ-tát lại suy nghĩ về chỗ ấy nên gần gũi hay không nên gần gũi. Thế nào là bậc Thiện nam nhất tâm quán sát các loài chúng sinh trong một cảnh giới của Phật, lập nguyện vững chắc, tạo các công đức, siêng năng tu tập cây Bồ-đề trang nghiêm vô thượng. Đó là bậc Thiện nam, ở vào địa vị thứ chín thấy chúng sinh nào có tâm kiên cố, liền bày phương tiện quyền biến cùng làm Thiện tri thức, tùy thời giáo hóa càng thêm tinh tấn, tăng trưởng lợi ích, ủng hộ thành tựu chí nguyện vững chắc không bị hủy hoại. Dạy bảo khai thị khiến cho biết pháp thâm sâu, không lo nghĩ các hoạn nạn gần xa. Giả sử trước mặt có nạn lửa lớn thiêu đốt một cõi Phật tiêu tan cùng một lúc, nhưng trong có con đường đi đến cõi khác mà nghe ở cõi đó có Phật diễn giảng đạo pháp, pháp không sinh diệt, không già không chết, liền tiến tới quỳ xuống quy y nên thân không bị thiêu đốt, cũng không bị phiền não nóng bức, được thấy Đức Phật lễ bái cúng dường, tích tụ công đức và các pháp thù thắng khác, liền được thành tựu không còn thoái lui. Giả sử gặp biển lớn, nước đầy mênh mông như một cõi Phật trên dưới xung quanh đều như nhau ngay đó vị ấy lập thệ nguyện quy y, cũng không sợ khó, tạo lập công đức, chí nguyện vững chắc không thể lay động. Đó gọi là Bồ-tát thứ chín ở trong đại Từ bi, gồm không bỏ tất cả chúng sinh.

Bồ-tát thứ chín quán sát các chúng sinh đó thiền tịch nhập định, thần thông biến hóa thích ứng khắp nơi như thế nào? Bồ-tát này nếu thấy chúng sinh ở chỗ xa vắng hoặc núi sâu, chỗ không có người, nhiếp tâm tư duy vào tầng thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thứ tư của bốn tầng thiền. Lúc đó, Bồ-tát thấy chúng sinh ấy, lại từ tầng thiền thứ tư của bốn thiền trở lại thiền thứ ba, thứ hai, thứ nhất của bốn thiền. Bồ-tát lại thấy chúng sinh chỉ vào thiền thứ nhất mà không vào thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư, hoặc vào thiền thứ hai mà không vào thiền thứ nhất, thứ ba, thứ tư; hoặc vào thiền thứ ba mà không vào thiền thứ nhất, thứ hai, thứ tư; hoặc vào thiền thứ tư mà không vào thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Khi ấy Bồ-tát cũng thấy chúng sinh vào không xứ, thức xứ, bất dụng xứ, hoặc có khi Bồ-tát thấy chúng sinh chỉ vào không xứ mà không vào thức xứ và bất dụng xứ, hoặc riêng vào thức mà không vào không xứ, bất dụng xứ; hoặc riêng vào bất dụng xứ mà không vào không xứ và thức xứ; hoặc ở trong thiền thứ tư của bốn thiền mà không lên xuống ba tầng thiền kia.

Bậc Bồ-tát thứ chín, liền đến nơi vị ấy cùng làm bạn lành khiến cho thành tựu công đức không để nhàm chán, có thể làm cho chúng sinh đạt đến chỗ kiên cố. Thế nên gọi vị đó là bậc thứ chín.

Bồ-tát thứ chín gánh gánh nặng cho người, thường thay họ chịu khổ, khiến không còn khổ não như thế nào? Bồ-tát đó dùng phương tiện khéo léo đi vào trong năm đường, tùy lúc thích hợp ban các y phục, thức ăn, chỗ ở, thuốc men đầy đủ cho người bệnh, ở nơi ba đường tám nạn, đích thân đến cứu độ, đến trước người ấy khiến họ không còn chịu khổ, hoặc vào trong chốn địa ngục, ngạ quỷ ban cho tất cả được no đủ. Đó là Bồ-tát thứ chín vì chúng sinh gánh gánh nặng cho họ.

Bồ-tát khuyên người đoạn trừ ba kết sử khiến được quả Tu-đàhoàn, thành tựu quả vị hoàn toàn xa lìa khổ như thế nào?

Đó là Bồ-tát nương vào phương tiện thiện xảo thuyết pháp giáo hóa cho hàng Thanh văn, Duyên giác, nói về Niết-bàn an lạc tịch nhiên vô vi. Hoặc có lúc dạy về pháp không sinh, không diệt, không tịch cho hàng Đại sĩ Bồ-tát. Có thể biết được tâm niệm chúng sinh ấy rồi mới diễn giảng Đại thừa phương đẳng, các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, đại Từ, đại Bi, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, Căn, Lực, Giác chi, tám Thánh đạo và ba phạm trú. Người đó nghe rồi, tâm ý bừng sáng, toàn thân xúc động, tùy theo khả năng khuyến khích tinh tấn khiến chứng đắc đạo quả. Hoặc có lúc Bồ-tát thấy chúng sinh ấy vốn đã phát tâm Bồ-tát, nhàm chán nghĩ mình không thể đạt được, muốn thoái lui vào đạo Thanh văn.

Lúc đó, Bồ-tát đến chỗ người ấy bảo: Ông tích chứa công đức đến nay đã sắp thành tựu, các tướng đẹp và ánh sáng sẽ trang nghiêm thân, giáo hóa chúng sinh đạt đến cõi Phật, vì sao lại thoái lui trụ vào đạo thấp kém?

Người ấy nghe rồi tự hối hận. Than ôi, thật đáng hổ thẹn.

Bồ-tát liền dùng thần thông khiến người ấy thấy sự oán trách: Ta phải cố gắng dũng mãnh, tích tập công đức, lập chí nguyện lớn, vì tất cả chúng sinh không bỏ nguyện của mình. Khi Bồ-tát sinh khởi niệm như vậy, trời đất chấn động sáu cách làm cho cung điện của ma không đứng vững.

Lúc đó, ác ma sinh ý nghĩ: Vừa rồi trời đất chấn động sáu cách, do điềm lành gì hiện ra như vậy? Hay là Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời? Nếu không phải vậy, chắc là bậc vô dục đắc quả A-la-hán, khiến điềm lành ứng hiện như vậy. Nếu không như thế, thì bậc Bồ-tát phát tâm Đại thừa, lập nguyện vững chắc, muốn cầu làm Phật, vượt lên ba cõi, thương xót các nạn, cứu độ mười phương, làm cho cảnh giới ta trống rỗng không còn người hầu cận. Nếu chẳng phải như vậy, chắc là vị vua bị tội sinh ở trong một trăm hai mươi tám địa ngục Cách tử, dùng lý cai trị, giáo hóa, tâm không thiên vị, hoặc có thể do thần biến của vị ấy gây ra.

Nếu không như vậy, ta có vạn người con mạnh mẽ cường tráng, tài năng uy lực phi thường, kề cận bên ta thống lãnh sáu cảnh trời ở cõi Dục. Người con nhỏ nhất của ta tên là Ác Tử, tính tình hung bạo, hành động không có nhân từ, ta sai đi tìm hiểu việc làm của vua ở địa ngục, quyết đoán thiện ác, phân biệt hiền ngu, cũng có thần thông chấn động trời đất, có vua gọi là Trị Tội, dùng pháp trị không cao thấp, hay là do thần biến của vị ấy cảm ứng ra.

Ác ma lại suy nghĩ: Ta có người hầu tên là A-bàn, cũng có thể biến hiện vô lượng oai đức. Ngày sinh ra trời đất chấn động lớn, hoặc lúc qua đời mặt đất cũng chấn động mạnh, hoặc có thể hiện điềm kỳ lạ này. Ma vương suy nghĩ bao nhiêu niệm như vậy, lại bằng Thiên nhãn quán sát tam thiên đại thiên thế giới, Lúc ấy, thấy người đoạn dục chứng quả Tu-đà-hoàn, nay lại phát tâm Đại thừa. Biết rằng chính người này muốn cảnh giới của ta trống rỗng nên ma vương tìm cách hủy hoại tâm lành của vị ấy.

Bấy giờ, ma ác đem quân đến chỗ người đó, thấy Bồ-tát Thường Tịnh bậc thứ chín nên tâm lo sợ, sởn gai ốc liền tự rút lui không dám tiến đến trước. Đó là do thần đức cảm ứng của Bồ-tát Thường Tịnh khiến cho bậc Tu-đà-hoàn chứng đạo Vô thượng, lập vững thệ nguyện quyết không thoái lui.

Bồ-tát bậc thứ chín quán sát chúng sinh, biết ba kết sử đã giảm nhẹ, đắc quả Tư-đà-hàm, không còn dục, sân, si hoàn toàn xa lìa khổ như thế nào?

Đó là Bồ-tát quán xét chúng sinh ấy, từ xưa đến nay dồn chứa công đức, có người lợi căn, có người độn căn. Hoặc thấy chúng sinh tâm ý đã thuần thục sắp thành đạo quả khiến tâm họ không thoái lui, đến được đạo lớn. Hoặc thấy người độn căn khuyến khích cho họ tinh tấn, đầy đủ công đức, thành tựu đạo quả. Bồ-tát dẫn dắt khiến cho tâm họ không còn biếng trể, có khả năng thành tựu bốn đạo quả hoặc vượt qua quả vị thứ tư, không bị dừng lại ở quả A-na-hàm đều là nhờ công đức của Bồ-tát Thường Tịnh bậc thứ chín, chưa từng trái bỏ tâm nguyện rộng lớn.

Bồ-tát tinh tấn tu tập không thể kể hết, không chấp vào kết quả

của mười hai nhân duyên, Bồ-tát địa vị thứ chín tu tập, thường tịnh để đạt được sự thanh tịnh. Hoặc từ người khác nghe pháp tùy thuận, tự xét thân mình, niệm đúng theo pháp, tinh chuyên nhất tâm giữ chí học hỏi, thường ở chỗ vắng lặng không ồn ào, biết phương tiện định ý tịch tĩnh, quán xét căn cơ của người hoàn toàn không hư vọng. Đó là Bồtát ở quả vị Tu-đà-hàm có tăng trưởng lợi ích.

Bồ-tát giúp đỡ dẫn dắt chúng sinh đoạn trừ tai họa nguy hiểm của năm kết sử trói buộc như thế nào? Vị ấy trên cõi trời liền nhập diệt, không trở lại thế giới này. Lúc đó, Bồ-tát đến cõi trời ấy thuyết pháp không sinh, không đoạn diệt cho họ, liền ngay trước họ nhập diệt tận định, đi vào diệt độ. Các vị trời A-na-hàm ở cảnh giới ấy trong tâm phát sinh ý nghĩ nên nhập diệt vào Niết-bàn vô dư y.

Bồ-tát tuy hiện pháp đặc biệt như vậy nhưng tâm không thay đổi, bằng nhiều ý tưởng, Bồ-tát nhớ đến ở vô số kiếp lâu xa, đều biết rõ hành động ở nơi cảnh giới đó, không ra đi cũng không trở lại, không thấy nơi dừng lại, quán xét không có sự sinh vốn không có xứ sở, tự đoạt đến sự thanh tịnh thản nhiên vô vi.

Đó là Bồ-tát ở quả vị A-na-hàm có sự tăng ích.

Bồ-tát quán sát chúng sinh giúp đỡ bậc Hữu học đạt được sự không chấp trước như thế nào?

Đó là Bồ-tát bậc thứ chín dùng Thiên nhãn quán sát trong tam thiên đại thiên thế giới ai được lậu tận sắp chứng đạo quả. Quán như vậy rồi. Hoặc thấy có mười, một trăm, một ngàn cho đến vô số người không tính kể cùng lúc đoạn hết kết sử, chứng A-la-hán không còn cấu nhiễm. Khi ấy, Bồ-tát bằng diệu lực thần thông trong một ngày ở khắp tam thiên đại thiên thế giới, dùng phương tiện quyền xảo ủng hộ những người ấy khiến cho họ đạt được tâm nguyện không còn nhiễm chấp, xa lìa sinh tử đạt được sự vắng lặng vô vi.

Đó là Bồ-tát đối với quả vị A-la-hán có sự tăng ích.

Bồ-tát khuyến khích Duyên giác được sự không đắm trước như thế nào?

Đó là Bồ-tát bằng Thiên nhãn thanh tịnh quán sát chỗ núi cao đất bằng, tối tăm, tịch tĩnh của các thế giới, một mình ở chỗ vắng lặng, tư duy về bốn mươi ba pháp Chỉ định ý.

Bấy giờ, Bồ-tát đến chỗ ấy, cách đó không xa, dùng cỏ trải trên đất, ngồi kiết già, giữ tâm trước mặt cũng không nhìn nghiêng bên trong tự suy nghĩ sẽ hiện phương tiện quyền xảo biến hóa, hoặc hiện âm thanh sấm sét, điện chớp, hoặc hiện ra cây cối va chạm nhau bên trong phát ra ánh sáng rực hơn lửa, hoặc phát ra tiếng chim hót thú kêu rất hay. Khi ấy, Bồ-tát ở trước chúng đó bỗng nhiên thay đổi thân mình bay vọt lên giữa hư không, hiện mười tám phép thần biến ẩn hiện tự tại. Có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân xuất ra nước lửa mà không bị tổn hại. Hàng Duyên giác thấy sự biến hóa kỳ lạ thù thắng ấy đều sinh tâm niệm: Chúng ta phải sớm thành Phật đạo, cũng sẽ có cái tướng trang nghiêm nơi thân, nên cùng nhau tinh tấn tu tập không để biếng trể. Vào lúc khác, bấy giờ, những vị ấy cùng nhau ra khỏi núi rừng, đến thôn xóm khất thực từng nhà để nuôi mạng sống. Khi ấy, hoặc nghe tiếng chuông trống, âm nhạc, hoặc tiếng kêu khóc bi thảm, trong tâm thương xót hoảng hốt như bị lửa đốt, bỗng nhiên tự ngộ, dứt sạch lậu hoặc tâm được giải thoát. Cho nên gọi là Duyên giác không đắm nhiễm. Đó là việc làm của Bồ-tát thứ chín, trí tuệ thông suốt không cùng tận.

Hàng Duyên giác tuy có ánh sáng tướng công đức nhưng không bằng tướng công đức mỗi sợi lông của Như Lai. Gom tất cả lại tướng công đức mỗi sợi lông trên bộ phận cơ thể cũng không bằng tướng công đức ở giữa lông mày của Như Lai. Lại đem công đức ấy gom lại tất cả cũng không bằng tướng công đức ở đỉnh đầu của Như Lai. Giả sử chúng sinh ở trong tam thiên đại thiên thế giới hết tâm tin Phật, tin Pháp, tin Tăng gấp trăm ngàn vạn lần cũng không bằng một phần trăm ngàn vạn lần người tin và thực hành pháp. Dầu có người tin thực hành pháp đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, công đức trí tuệ nghe pháp ấy vẫn không bằng công đức của bậc chứng Tu-đà-hoàn. Lại từ bậc Tu-đà-hoàn theo từng bậc tính toán cho đến bậc vô cấu trí tuệ trăm ngàn vạn lần cũng không bằng công đức trí tuệ của bậc Duyên giác. Giả sử những vị Duyên giác đầy trong tam thiên đại thiên thế giới cũng không bằng công đức trí tuệ của một vị Bồ-tát mới phát tâm. Giả sử trí tuệ hiểu biết của vị ấy trăm ngàn vạn lần cũng không bằng công đức đã làm của một vị Không thoái chuyển. Lại nữa, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm ngàn vạn lần công đức trí tuệ của vị Không thoái chuyển cũng không bằng trăm vạn ngàn lần công đức đã tạo của vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Giả sử Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới cũng không bằng tuệ lực công đức của một Như Lai.

Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát Địa thứ chín tâm được sáng suốt biết rõ tâm của chúng sinh trong ba đời, tùy bệnh chữa trị cứu giúp khắp tất cả. Ta nhớ khi còn ở Địa thứ chín đã độ thoát chúng sinh không thể kể hết. Từ lúc mới phát tâm cho đến Địa thứ chín trong thời gian đó Ta đã độ được A-la-hán một tăng-kỳ, trừ sạch tâm cấu nhiễm hoàn toàn không còn chút nào. Từ Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm lại có một a-tăng-kỳ thực hành Tứ đế, diệt tưởng tri về Tập, khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ-tát, lập chí kiên cố, không còn thoái lui một atăng-kỳ. Trước khi giáng thần xuống cõi Dục sinh lên cõi trời Đâusuất, trừ mười chín sự tư duy đưa đến không thành tựu và những nguy hiểm của dục, hiện tài dũng mãnh không sợ hãi, dứt trừ tất cả chỗ dừng lại của thần thức, các pháp hữu lậu giả dối đều diệt tận bằng tâm vô lậu tu các pháp giải thoát, dùng kiếm trí tuệ sắc bén cắt bỏ tham dục trần lao, thực hành đạo Bồ-tát, chứng đắt thần thông. Sinh tử đã đoạn, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân đời sau nữa. Bồ-tát như thật biết đã tu pháp đại Từ bi, oai nghi cử chỉ cũng không thiếu khuyết, trụ vào công đức trí tuệ kiên cố. Tất cả các ma và hàng ngoại đạo không thể biết được hạnh nghiệp của Bồ-tát. Bồ-tát vì các dục lậu của chúng sinh nên giảng pháp vô lậu, vô sinh diệt, trừ các tưởng chấp không còn ngăn ngại.

Tối Thắng nên biết! Lúc ta tư duy vào tuệ vô tận, quán pháp thọ sinh của Phật quá khứ, thực hành bình đẳng không thiên vị. Đối với pháp của hàng phàm phu và đạo của Thánh hiền, pháp tu hành của bậc Hữu học, Vô học, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật Thế Tôn đều bình đẳng. Thế tục và đạo, phiền não không phiền não, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, đối với các pháp này cũng đều bình đẳng. Nên xưng danh hiệu là Đẳng Chánh Giác. Tu pháp bình đẳng ấy thì ta với người đều như nhau, không thấy có sinh diệt. Tự nghĩ sự tu hành còn nhiều lầm lỗi, phải nên giữ gìn giới cấm, tu pháp bình đẳng. Nếu tâm tán loạn không được tinh chuyên phải chế ngự không để buông lung. Hiểu rõ định loạn đều không thật có, tất cả bình đẳng đồng với tự nhiên. Khi có ý nghĩ trong tâm không có sự hổ thẹn nên tìm cách khiến sinh sự sợ hãi. Hoặc có lúc thân, miệng, ý nghĩ ác làm việc bất thiện, phải nên suy nghĩ để diệt trừ hết không cho tăng trưởng. Nếu tâm nghĩ đến các pháp hữu lậu: ganh ghét, ngu si, nghi ngờ dùng cách khéo léo làm cho mất hẳn. Hoặc nghĩ đến việc sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, uống rượu, phải nên suy nghĩ nguồn gốc của sự tai họa. Hoặc tâm tham dục đắm trước địa vị, không có sự cung kính. Có người thỉnh cầu dạy bảo thì che giấu kinh điển, chê bai hủy bỏ giới cấm, không tuân theo pháp luật, dạy họ học thiền không đúng theo pháp định, hoàn toàn không còn tưởng nhớ đến Phật, Pháp, Tăng, sinh tâm kiêu mạn đối với Pháp sư. Nếu có người làm chướng ngại đạo như vậy thì không nên gần gũi tu tập.

Hoặc sinh khởi các tâm kiêu mạn như: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tà mạn, ty liệt mạn, nên giữ Tuệ ý hoàn toàn không còn sinh khởi, hiểu rõ chúng không thật có, đều không có chỗ sinh, bình đẳng không hai, cũng không số lượng, tự nhiên không có xứ sở. Đó gọi là bình Đẳng Chánh Giác của Bồ-tát. Nếu tâm sinh vọng tưởng tán loạn: tà kiến, tà niệm, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạn, tà phương tiện, tà ý, tà định thường phải ngăn tâm không cho tổn hại. Hoặc có lúc tâm sinh ý niệm trái ngược, đối với người, ta nên cung kính thì lại khinh miệt, như hiện tại ta khinh miệt họ, hoặc vị lai sẽ xâm phạm, đối với những gì ta không ưa đó là đối tượng ganh ghét thì nay ta phải cung kính, ở hiện tại ta nên cung kính họ và vị lai còn phải cung kính nữa. Lại suy nghĩ từ xưa đến nay những gì đã từng xâm phạm ta, nay ta đang phải chịu sự xâm phạm, nào biết vị lai lại không bị xâm phạm hay sao, giả như trong tâm có ý tưởng như vậy thì làm hủy hoại cành nhánh Thánh đạo, rơi vào điên đảo, phát sinh sự ngăn che, lệ thuộc tà kiến, nhiễm ô ân ái, tự mình quên mất rời hẳn cõi người.

Hoặc có lúc tâm nhớ nghĩ mười điều ác, buông lung làm theo con đường ác ấy: sát sinh, trộm cướp, dâm dục, nói dối, nói ác, nói chia rẽ, nói lời thêu dệt, sân hận, tật đố, tà kiến. Nếu thân miệng ý đều sinh đủ các pháp này thì phải xa lìa, không còn tạo duyên, nên diệt trừ các pháp này làm cho không còn ngăn ngại. Phải nên suy nghĩ do đâu ác diệt, do đâu thiện sinh, hiểu rõ thiện ác đều không thật có, chẳng phải chân thật, bình đẳng không hai. Bồ-tát tuy được trụ Địa thứ chín thường nên suy nghĩ về cấu uế này. Sở dĩ ta được thành đạo Vô thượng, được thọ ký Bồ-tát đều do vào mười diều ác ngu si đã tạo ra, mà được đầy đủ năm phần Pháp thân, thẳng đến một đường, không còn đường nào nữa. Phân biệt rõ ràng về Không, Vô tướng, Vô nguyện. Lại cần siêng năng tu tập bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn? Đó là: thân, thọ, tâm, pháp. Hiểu rõ không quán, đạt được bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn không định, tám giải thoát, chín thứ đệ thiền, cầu phương tiện xa lìa chỗ sinh vào chỗ vô sinh. Cho nên gọi là đạo Thánh hiền bình đẳng đều có cùng tận mà không có cùng tận, hiểu rõ tận và vô tận đều là vô sinh. Tất cả trần lao là điều Bồ-tát đã diệt tận, không làm sinh lại nên gọi là vô tận. Dục ái trói buộc là điều Bồ-tát đã diệt tận không còn phát sinh gọi là vô tận. Sân nhuế, tham lam là điều Bồtát đã diệt tận, nếu không còn nữa là vô tận. Đạo mê mờ là điều Bồtát phải diệt tận, nếu không mê mờ gọi là vô tận. Tâm thấy có pháp môn giải thoát là điều Bồ-tát phải diệt tận, không có người giải thoát gọi là vô tận. Pháp Tứ niệm xứ là điều Bồ-tát phải đoạn, không còn đoạn Tứ niệm xứ gọi là vô tận. Căn, lực, Giác chi, bát chánh đạo là điều Bồ-tát phải diệt tận, nếu không còn nữa gọi là vô tận. Bốn quả Sa-môn là điều Bồ-tát phải diệt tận, không có bốn quả Sa-môn gọi là vô tận. Có đạo Duyên giác, đó là sự tận của Bồ-tát, hiểu không có đạo Duyên giác là vô tận. Có đạo Bồ-tát là sự tận của Bồ-tát, nếu không còn nữa gọi là vô tận. Bình Đẳng Chánh Giác là sự tận của Bồtát, không bình Đẳng Chánh Giác gọi là vô tận. Đắc thành Phật đạo là sự tận của Bồ-tát, không thấy có thành Phật đạo gọi là vô tận. Đến cây Bồ-đề, đó là sự tận của Bồ-tát, không dừng ở đó gọi là vô tận. Tu tướng tốt và làm thanh tịnh cõi Phật, đó là sự tận của Bồ-tát. Giáo hóa chúng sinh xiển dương chánh pháp, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đó là sự tận của Bồ-tát. Mong cầu thực hành công đức, ban bố đạo lớn, đó là sự tận của Bồ-tát. Bồ-tát ở chỗ không có cao thấp, không thấy trong ngoài ở giữa là sự tận của Bồ-tát. Không thấy chỗ tu hành của phàm phu cũng không thấy sự tu hành của Thánh hiền, đó là sự tận của Bồ-tát. Bồ-tát tuy ở trong sinh tử đối với pháp nhiễm ô không bị đắm nhiễm là sự tận của Bồ-tát. Bồtát thuyết về diệt quán, diệt vô sinh cũng không đối với diệt mà nhận lấy sự diệt độ đó là sự tận của Bồ-tát. Hiểu rõ chân tế không tùy thuộc là sự tận của Bồ-tát. Không mong cầu xa lìa đối với cõi ma, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu trí tuệ rộng lớn, không dùng trí tuệ hạn hẹp, đó là sự tận của Bồ-tát. Thường biết tu tập hành trì đúng lúc là tận của Bồtát. Đối với các duyên khởi không xa lìa, đó là tận của Bồ-tát. Không theo chân đế, chẳng phải không có chân đế, đó là sự tận của Bồ-tát. Đối với pháp môn thiền giải thoát không thấy loạn định, đó là sự tận của Bồ-tát. Tuy ở nhân gian vẫn ở yên không thay đổi, đó là sự tận của Bồ-tát. Đi vào thế tục ở chỗ ồn náo mà không mất oai nghi, đó là sự tận của Bồ-tát. Nếu ở trong Thiền định không diệt thân ý là sự tận của Bồ-tát. Không thấy bố thí chẳng phải không có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Không thấy có tu hành chẳng phải không tu hành, đó là sự tận của Bồ-tát. Giác ngộ tam minh, sinh con mắt trí, đó là sự tận của Bồ-tát. Thần thông tự tại không bị trần lao, đó là sự tận của Bồ-tát. Dù sinh hay diệt ở nơi ái dục mà vẫn nhàm chán mỏi mệt, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu đạo Tuđà-hoàn mà không bỏ sự thực hành Đại thừa, đó là sự tận của Bồ-tát. Thấy Phật pháp diệt không hoảng hốt lo sợ, cũng không thấy kiếp số ngắn dài, đó là sự tận của Bồ-tát. Không thấy câu, chữ, nghĩa cùng thuộc loại, không thuộc loại, đó là sự tận của Bồ-tát. Dâm dục, sân hận, ngu si không hành động theo, đó là sự tận của Bồ-tát. Không khởi pháp nhẫn cho đến tuệ vô sinh, đó là sự tận của Bồ-tát. Ở trong chín loài chúng sinh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, đó là sự tận của Bồtát. Dạo khắp chốn nhân gian, quận, huyện, thành ấp, cung điện của trời rồng các cung điện tốt đẹp, ở đó tu các oai nghi phù hợp, có thể thân cận không thể thân cận, đó là sự tận của Bồ-tát.

Như vậy, này Tối Thắng! Đó là pháp môn bao trùm hữu tận và vô tận của Bồ-tát trụ Địa thứ chín, hành động của Bồ-tát cần phải đầy đủ sự tận và vô tận giải thoát. Chúng sinh có tập và khổ, Bồ-tát cũng có tập nên theo đó nói về tánh khổ chân đế. Nếu mắt thấy sắc có khổ, vui, tư duy nhãn thức đều là vắng lặng, do tu pháp bình đẳng. Bồ-tát thường đem chánh pháp giáo hóa chúng sinh đạt đến tịch nhiên vô vi, đó là Bồ-tát vì khổ của chúng sinh mà xiển dương tuệ về khổ: sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ não, oán ghét gặp gỡ, thương yêu phải xa lìa, mong cầu không được cũng đều là khổ. Tóm lại năm ấm thạnh là khổ, biết rõ khổ này cũng không sinh diệt.

Như vậy, Tối Thắng đó là pháp môn tận và vô tận của Bồ-tát. Hoặc Bồ-tát yhấy tập của chúng sinh liền vì họ nói về nguồn gốc chấp ái, tâm ái thâm sâu nhiễm chấp khó trừ, trước hết ta phải nguyện diệt trừ, nếu không diệt được quyết không chứng đạo.

Khi ấy, Bồ-tát nhập vào pháp quán “ngắm dung nhan” ở trước chúng sinh hiện ra hình tướng của mình, mọi người nhìn thấy đều khen ngợi, trong một khoảnh khắc biến thành hình tướng xấu xí, người thấy tâm liền thay đổi, sinh tưởng vô thường thân này chẳng phải chân thật, không bền chắc, nhan sắc dung mạo, hình sắc của ta tuyệt đẹp trong đời, vậy thì không bao lâu sẽ bị hủy hoại như người thế gian, nên phải tự lo tu tập, trừ bỏ ân ái không còn đắm nhiễm.

Như vậy, Bồ-tát vì “Tập” của chúng sinh mà có sự lợi ích.

Hoặc Bồ-tát thấy “Diệt” của chúng sinh dùng phương tiện thiện xảo để thuyết pháp các pháp, đã sinh thì phải diệt, đã thành thì phải hoại. Giả sử sống lâu ức hằng hà sa kiếp cũng phải bị diệt tận không thể tồn tại mãi. Các ông nên biết pháp vô thường chuyển biến như huyễn hóa không chân thật. Bồ-tát hiểu rõ không chân thật nên được thanh tịnh không nhiễm ô. Tập do chứa nhóm không xả bỏ được, bằng pháp diệt tận quán không thật có, không thấy có sự sinh diệt. Nếu tâm sinh kiêu mạn ngu si, chấp thường chấp đoạn, nên bằng không tuệ, vô tướng, vô nguyện mà phân biệt chúng. Hoặc có lúc Bồ-tát nói đến con đường đạt đến cứu cánh, dạy các Thiện nam nên nhớ nghĩ bảy chỗ quán thọ ở nơi năm ấm, biết rõ sự sinh khởi và hoại diệt, chúng sinh do đây bị nguy hiểm của ấm ngăn che. Suy nghĩ về sự sinh khởi của sắc, sắc tướng có trước từ ngã sinh ra thức để chấp trứôc, do thức tiếp xúc sinh ra thọ, hợp tác với nhau phát sinh ý tưởng chuyển thành hành nghiệp. Đây do một sắc mà thành năm pháp, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Hoặc Bồ-tát thấy chúng sinh khởi mười tám giới độc hại ngăn

che nhiễu loạn tâm kiên cố của người, làm cho bị trở ngại không đến được bờ bên kia, liền bằng phương tiện thiện xảo để cứu giúp, nhờ đầy đủ các phương tiện thiện xảo ấy làm cho họ được thành tựu không bị đọa lạc.

Có Bồ-tát thấy chúng sinh tâm thường an trụ, ý niệm ái đã diệt, không thấy có xa lìa, cũng không có đối tượng để xa lìa, đó gọi là bảy chỗ quán pháp đầy đủ, đối với pháp quán hành cũng không tùy tiện xả bỏ, theo sự nhanh chậm, phân biệt nóng lạnh, tự mình đầy đủ dạy người thực hành cũng được đầy đủ.

Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát bậc thứ chín thực hành pháp chỉ quán không có sợ hãi, Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, trời, rồng, Sa-môn, phạm chí, ma không thể cản trở sự thực hành pháp chỉ quán, đối với pháp chánh giác không bị chướng ngại.

Vì sao? Vì Bồ-tát hiểu rõ tất cả các pháp đều bình đẳng. Đối với pháp của phàm phu và đạo của Thánh hiền tâm như hư không, không thiên vị. Đối với pháp của bậc Hữu học, Vô học, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật đều bình đẳng. Hoặc thấy có pháp hữu lậu và vô lậu, phân biệt được pháp thế gian và xuất thế gian, trừ hết mọi hệ luỵ chấp trước mới thành Bồ-tát đạo. Vì sao? Vì không quán nên gọi là tự nhiên, phát sinh tự nhiên, tiêu diệt tự nhiên, không cùng với thật, vô tướng với tướng, vô nguyện với nguyện đều bình đẳng, ở trong ba cõi tự nhiên. Lại nên suy nghĩ đối với chỗ sinh và vô sinh, đều bình đẳng, pháp quán vô hành bình đẳng với pháp, quán, y cùng vô y, bằng nhau cùng với không bằng nhau, phát khởi và không có sự phát khởi đều tự nhiên, chẳng phải tự nhiên, đối với ba cõi đều bình đẳng, không thấy Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Bồ-tát phải nên suy nghĩ đối với dâm dục, sân hận, ngu si, đạo và trí tuệ sáng suốt đều tự nhiên, giải thoát sự trói buộc của ái dục thì đắc đạo quả, vào cảnh giới Niết-bàn, biết rõ tự nhiên bình đẳng không hai. Đó là Bồ-tát vì chúng sinh thực hành đại Từ bi, thị hiện vô số nhân duyên, tùy theo căn cơ của chúng sinh nên phân biệt thuyết như vậy, làm cho được an trụ thuận theo Đại thừa, tiêu diệt hết gốc khổ não.

Khi ấy, Bồ-tát ở trong Đại chúng một mình không sợ hãi, siêu tuyệt không ai bằng, dùng các phước đức làm chuỗi anh lạc trang nghiêm nơi thân. Hoặc Bồ-tát ở trong Chúng Đại sĩ xiển dương đạo Phật tôn quý, thương xót hàng Thanh văn chưa đạt thượng trí, tuy được lậu tận nhưng không ai rời bỏ sự chứng đắc, chỉ giải thoát trói buộc cho mình mà không có tâm rộng lớn. Lại nghĩ hàng Duyên giác không phát tâm lợi ích rộng lớn, thánh trí biện tài thanh tịnh không chướng ngại có thể biết được căn tánh và ý muốn của người khác, nhưng chỉ biết giữ mình an trụ mà không làm tịnh cõi nước. Vì thế, Bồ-tát vượt khỏi hạng ấy, phân biệt rõ ràng đạt được đạo Vô thượng, cứu giúp khắp mười phương không cùng tận, tâm thường thương xót những người chưa đạt được đạo, bằng diệu lực dũng mãnh thâu phục ngoại đạo, thường chuyển pháp luân làm cho không bị đoạn tuyệt, pháp lớn thù thắng vi diệu lưu chuyển mãi ở đời.

Như vậy Tối Thắng, Bồ-tát bậc thứ chín thị hiện phương tiện giáo hóa đến bất cứ nơi đâu, biết rõ Niết-bàn như tướng Niết-bàn, nghĩa là có chân đế chẳng phải có chân đế, không tuệ, không chủ cũng không trú xứ cho nên gọi là vô vi tự nhiên an lạc, không ở chỗ kia, không ở chỗ này, hoàn toàn không xứ sở, không có hình tướng đối đãi, trú nơi không chỗ trú, trụ ấy gọi là trú nơi pháp giới. Gọi là tận không chỗ sinh, là Niết-bàn vô vi tịch diệt. Chỉ còn ba mươi bốn kết sử vi tế, ngoài ra không bị các trần lao làm chướng ngại.

Bồ-tát bậc thứ chín khi đạt được chánh giác, hiện tại diệt bốn, vị lai diệt bốn, quá khứ diệt bốn. Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề thâu phục các ma, điều phục tâm ý vào định vô hình, quán hết tam thiên đại thiên thế giới. Nay ta ở trong đời ngũ trược này được thành Phật, những điều mong cầu đã thành tựu không còn nghi ngờ, Ta nên nương theo phương tiện thiện xảo vì chúng sinh tuyên dương nghĩa đạo, dứt trừ các lậu trói buộc giống như ta ngày nay.

Khi ấy, các Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác từ chỗ của mình hướng đến khen ngợi: Hôm nay ở phương ấy, nước ấy có vị Phật xuất hiện đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẽ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng phá tan chỗ tối tăm, âm thanh như tiếng chim loan. Lành thay dòng giống giác ngộ không bị đoạn tuyệt.

Khi mười phương Phật nói lời này thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, các trời, rồng, thần, Càn-đạp-hòa, A-tuluân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, người và phi nhân, ma và Thiên ma đều kinh ngạc lo sợ chỗ ở không được an ổn, cùng nhau tụ tập đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân xin quy y, thân cận Đức Như Lai thành Tối chánh giác, họ được thanh tịnh không còn oán hận, đều được tôn trọng đến thành cam lồ, đầy đủ pháp lành và đạo pháp vô lậu, tâm được dũng mãnh, tự tại giải thoát. Bồ-tát quán sát chúng sinh tùy theo tâm niệm thị hiện ban bố đều như ý niệm, dứt hết trần lao, hoàn toàn vô vi tịch diệt, khiến chúng sinh từ bỏ chấp ngã, xả bỏ bỉ thử, không có tiếng khác nhau, không bị vướng nơi pháp, không nương phi pháp, chẳng phải không nương, chẳng phải không không nương. Biết rõ các pháp bình đẳng biến đổi như hư không, như tiếng vang, như huyễn như hóa, không thật có, vượt qua được bờ sinh tử không còn trở lại luân hồi. Đó là công đức của Bồ-tát bậc thứ chín làm hưng thịnh đạo nghiệp không cùng tận. Đã tu tập chân chánh không còn nghi ngờ, đối với các pháp vô lậu không bị nhiễm ô, ở trong nhiễm ô không thấy có chấp trước, hoàn toàn vượt qua Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, trở về tuệ vô sinh, diễn giảng khắp nơi khiến đều được nghe biết. Như vậy, Tối Thắng! Sự nghiệp tu hành của Bồ-tát bậc thứ chín oai thần vĩ đại vượt hẳn thế gian, hoặc ở trong chúng giữ gìn oai nghi không mất phép tắc, hành động cử chỉ nhìn, ngó đúng với chánh pháp, mặc y phục không sang trọng se sua. Nếu muốn vào thành ấp, quận huyện nên đắp pháp y, bưng bát, tâm thường thư thái, bước đi ngay thẳng, đi đứng nằm ngồi tâm thường quán sát, lời nói nhu hòa không hung ác thô bạo, thuyết giảng rộng rãi như hư không, không còn vướng mắc, hoàn tất việc khó làm, không tạo nhân duyên quả báo nữa, việc làm của Bồ-tát chỉ chú trọng nơi Phật đạo.

Như vậy, Tối Thắng, Bồ-tát trụ bậc thứ chín thì gọi là trụ bậc nhất chẳng phải là trụ bậc thứ chín, cũng chẳng phải trụ từ Sơ địa cho đến Địa thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám Bồ-tát tinh tấn tu tập pháp của mười Địa: Thành địa, Đế địa, Vô khủng cụ địa cũng gọi là địa của Như Lai, Đạo địa, Định địa, Vô sở úy địa, Quán địa, Tuệ địa, Tự nhiên tánh địa. Bồ-tát đã thành tựu pháp của mười Địa này thì không gọi là Bồ-tát. Mà được xưng là bậc Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, không ai có thể sánh bằng, đầy đủ mười tám pháp thù thắng, thuyết pháp đúng thời, các hạnh đầy đủ, thị hiện sinh lên cõi trời Đâu-suất thanh tịnh không còn cấu uế, hoặc thị hiện giáng thần tiếp độ chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ chín đầy đủ hạnh thanh tịnh.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10