SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ TƯ

Phẩm 10: THÀNH ĐẠO

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát bậc thứ mười đối với Địa thứ mười được hạnh thanh tịnh như thế nào?

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng:

–Đó là Bồ-tát tu đạo thần thông vi diệu độ khắp chúng sinh, dùng văn tự diễn bày thông suốt về tính không của các pháp, siêng tu giữ giới. Công đức của vị ấy nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn, không có giới hạn, tất cả loài người không thể bì kịp. Trời, rồng, quỷ thần và tôn thần khen ngợi công đức của vị ấy cũng không nói được, bậc Hiền thánh cũng không thể nói hết nếu có nói ra chỉ là văn tự, Bồ-tát thị hiện thần túc đến khắp các cõi nước ở mười phương để hầu cận, đảnh lễ chư Phật Thế Tôn, lại nhập vào Tam-muội Định ý giải thoát, đến khắp hằng hà sa cõi nước chư Phật, được gặp các bậc Chánh giác, nghe pháp cao thượng vượt qua các nghiệp tà, vững chí sáng suốt, không bị lay động, tâm như hư không, không có tưởng niệm, phân biệt hiểu rõ sự sinh diệt của pháp giới; giáo pháp vị ấy nói ra đều hợp ấn thánh, tự tại trong Tam-muội không có sai phạm. Giáo pháp mười phương chư Phật nói ra cùng với pháp luật của bậc thánh không trái ngược nhau, lời nói ra vi diệu thù thắng; quán sát các thế giới đều bình đẳng như hư không, ý nhớ nghĩ đầy đủ pháp môn giải thoát. Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ biện luận thông suốt, cứng hợp căn cơ, tâm hưởng ứng với đạo tuệ. Thế nào là tâm? Thế nào là đạo tuệ? Thông suốt sách vở thế gian, thị hiện đi vào nghiệp tà, đó là tâm. Chuyên tinh nhất tâm nơi pháp xuất thế đó là đạo tuệ. Xả bỏ sự keo

kiệt, làm việc bố thí không nghĩ đến sự báo đáp, giữ tâm hòa thuận, suy xét rõ ràng đó là tâm. Vào định vắng lặng, không khởi các tưởng, sống đạm bạc, không xa lìa giới hạn của bậc Thánh, đó là đạo tuệ. Nếu ở tại sinh tử mà siêng tu các pháp thì dù ở trong đó cũng không nhàm chán, đó là tâm Bồ-tát. Nếu Bồ-tát ở nơi không yên ổn trong tám nạn, tâm không khởi điên đảo thấy có hai, có thể vượt qua hoàn toàn các bệnh, đó là đạo tuệ. Đối với pháp thế gian, khen ngợi Niếtbàn là đạo vô vi, công đức đã tạo không hề hao tổn, đó gọi là tâm. Đối với pháp không Bồ-tát đều tự tại, thấu đạt sự thanh tịnh không thật có, đó là đạo tuệ. Quán sát người ở trước mặt, tùy theo căn cơ của họ mà phân biệt, nói pháp thích hợp, đó là tâm. Bồ-tát nhập định, bằng tuệ quán từ một pháp cho đến trăm, ngàn tướng của các pháp đó là đạo tuệ. Quyết định ban cho những vật sở hữu như: đất nước, của cải, vợ con mà không có sự luyến tiếc, đó là tâm. ở nơi bình đẳng, không có đạo ba thừa, đến đạo tràng thanh tịnh, quy y Phật đạo, đó là đạo tuệ. Đó là Bồ-tát bậc thứ mười, đạo tâm đã đi vào khắp nơi, giữ gìn thân, miệng, không buông lung, khen ngợi đủ tám điều tâm niệm của bậc Đại nhân, nghĩ đến hạnh ít muốn biết đủ, tu tập giữ giới không có nhiễm ô, có thể làm sạch phiền não cho chúng sinh. Nếu thấy chúng sinh nào tự khen mình, chê người, tự đại, cống cao, kiêu mạn, ỷ mình giàu có, thường nhớ nghĩ các pháp bất thiện, dâm dật, sân hận, ngu si, hạng người như vậy, Bồ-tát có thể nói đức nhẫn nhục, khiến họ thuận theo, đạt được Vô sinh nhẫn, ở trong đạo lập chí siêng năng thì các nguy hiểm không đưa đến được, ý dũng mãnh tinh tấn, tâm không thoái lui, biết rõ tất các công đức đã tạo tác, không thấy có sự tập họp mãi, cũng không thấy có sự phân tán hẳn, phước nghiệp đã tạo không có chỗ trụ, không phải không có chỗ trụ, đều cùng tương ưng mà không có sự tương ưng, không thấy có tương ưng, không thấy không tương ưng, không tương ưng chẳng tương ưng, đó là quán sát kỷ, tâm thương ưa thích pháp môn tiền định giải thoát, suy nghĩ về bốn cách ăn, trừ bỏ sự tham đắm, quán sát tận diệt không khởi định ý, đã nghe thì ghi nhớ, có thể đọc tụng, tuệ không tán loạn, hiểu rõ nguồn gốc không có xứ sở, muốn tìm nguồn gốc cũng không thể được. Bồ-tát vì các chúng sinh nên thuyết giảng ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hiểu rõ pháp không vô tướng, vô nguyện, thường phụng trì tôn trọng Phật đạo, tùy theo đối tượng khiến họ đắc đạo quả. Chư Phật Thế Tôn đã từng tuyên thuyết cũng không ngoài lẽ ấy, nhân đó phát xuất chân đế, cho đến diệt độ cũng như vậy, không có tâm tạp loạn vọng tưởng khác. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát bậc thứ mười dùng phương tiện quyền xảo không bị ngăn ngại, vì không ngăn đạo nên tu tập đến Chánh giác, vì các chúng sinh mà chuyển pháp luân, khiến họ được địa kiên cố không thoái chuyển. Bồ-tát bậc thứ mười lập vững thệ nguyện, cứu độ chúng sinh không sợ nguy khó. Ví như thợ giỏi làm dấu ấn cho người, biết họ tên người ấy, liền ghi nhớ để làm con dấu, tùy loại ghi nhớ không có nhầm lẫn. Bậc Đại sĩ Bồ-tát cũng vậy, dùng ấn Hiền thánh, ấn vào sinh tử, tùy theo đối tượng mà hiện ra không hề sai lầm, cần phải suy nghĩ thế này: “ấn không phải là cục bùn, bùn không phải là ấn nhưng nó có khả năng hiện ra tên họ, danh hiệu.” Thánh tuệ của Bồ-tát cũng như vậy, đem bảo ấn trí tuệ, ấn vào chúng sinh, tùy theo khả năng mà hiện ra tên gọi, liền cthể sinh giáo lý ba thừa. Giống như gieo lúa vào ruộng tốt thì cây lúa dần dần trưởng thành. Lúa hư, mầm sinh thì không còn trở lại như cũ nữa. Suy nghĩ kỹ thì mầm không phải là hạt giống, cũng không lìa hạt giống. Bồ-tát Đại sĩ cũng như vậy, đầy đủ nhân duyên mới giảng pháp luật, quán các chúng sinh đã có phiền não, ba tai họa, sáu trần, mười hai nhân duyên, tà, nghi, thân kiến, vọng tưởng điên đảo, liền vì họ mà thuyết giảng về pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, sau đó mới thuyết theo đúng pháp tánh, phân biệt Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bỏ gánh nặng xuống, hoàn toàn được tịch diệt, lại nên xét kỹ về nguồn gốc nhân duyên sinh ra khổ não ấy, đều do vô minh, không có trí tuệ đưa đến sinh, già, bệnh, chết, khổ não. Ta phải tìm cách tiêu trừ các bệnh ấy, dần dần làm cho họ đi vào pháp luật của Hiền thánh. Do vô minh diệt nên sinh, già, bệnh, chết hoàn toàn không còn. Bồ-tát diễn nói pháp không quán tịch nhiên làm cho người nào biết quay về thì có chỗ nương tựa, trí tuệ sáng suốt, thông đạt đến giải thoát, chúng sinh đều tôn sùng, tu tập. Trí vi diệu hiểu rõ dâm đục, sân giận, ngu si đều không sai khác, suy tìm đến nguồn gốc cũng vậy, nên trừ được cái niệm vọng tưởng, hoàn toàn không còn hối hận sinh tâm thêm bớt, xa lìa tất cả ấm, cái và kết sử trói buộc, tâm không bị chướng ngại, thường được tự tại trong pháp môn giải thoát, ca ngợi công đức Tam bảo, thường suy nghĩ xa lìa nguy hiểm của tham dục, có thể ban bố công đức đã huân tập cho chúng sinh. Bồ-tát tinh tấn đối với pháp môn ấy không còn nghi ngờ, chỉ dạy không tuệ, khai mở dẫn dắt chúng sinh, các pháp đã học hoàn toàn không chấp trước, lần lượt thành tựu không thoái chuyển, tuyên dương kinh điển, làm thanh tịnh cõi Phật dẫn dắt chúng sinh đi vào cảnh giới Phật, làm cho họ được giải thoát, không còn sinh diệt. Đó là kinh điển vô thượng cũa Thế Tôn. Bồ-tát nên quán thế này để nhập vào Địa thứ mừơi không thể nghĩ bàn, tu tập pháp môn bình đẳng không hai, thông hiểu ba đời, không đoạn mất Tam bảo, từ bỏ ba cấu uế, thành tựu ba môn giải thoát. Bồ-tát đối với họ biểu hiện sự việc không thể nghĩ bàn, từ lúc mới phát tâm cho đến Địa thứ mười, thường khen ngợi sự tu hành, giữ giới của Bồ-tát, hương thơm giới đức xông tỏa khắp nơi, được thành tựu các tuệ thông suốt, có thể diễn thuyết vô lượng pháp môn, đối với văn tự không còn chấp trước, cũng không phân biệt nơi chốn, hiểu rõ cảnh giới. Nếu bậc Hữu học thức lệ thuộc nơi sắc, tâm thuận theo, mang hy vọng bị trói buộc không bỏ, đi trong sinh tử, xoay vòng qua lại, ý thường mê loạn không thể tự cứu, bị lưới nghi ấy thì rơi vào sinh tử, luân hồi trong năm đường không có lúc dừng nghỉ. Bồ-tát giữ tâm chân chánh, chế ngự các loạn tưởng, không chạy theo năm ấm mà đoạn trừ ấm, cái; cũng không cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sinh, có diệt, tư duy về pháp quán hơi thở ra, vào; phân biệt sắc do tứ đại tạo ra; đất, nước, gió, lửa đều có tự tánh riêng của nó. Nếu làm cho thức kia không ở nới năm ấm thì có thể thành tựu, không hoại pháp giới, thức không chạy theo mười hai trần lao: mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý đối với pháp. Đó là thức của tuệ căn vô lậu, không phải là thức của sinh tử nhiễm ô. Nếu không chạy theo các pháp bên ngoài thì không còn mong cầu. Giả sử có nơi nương tựa, liền sinh thức tưởng, có sự mong cầu cũng gọi là thức. Bồ-tát phải học không lệ thuộc nhập nào cả nên tâm không sinh niệm, không có sự ưa thích, công lao bố thí không cầu đáp trả. Đây là loại thức hữu vi hữu lậu, tu hành vô vi mới là vô thức. Bồ-tát thắp sáng đèn trí tuệ, dựng đuốc vô vi, chiếu ánh sáng lớn, hiển bày giáo pháp thù thắng không gì bằng, chỉ cầu sự chết thực bên trong, không tìm sự trau chuốt bên ngoài. ở nơi đạo, Pháp thân Bồ-tát không ai sánh bằng, có thể ở khắp các cõi nước chư Phật hiện ra trong ấy, tự tại không sợ hãi; lại đối với các pháp, hoàn toàn không nắm giữ, cũng không chọn lựa, không thấy có cao thấp, tâm được tự tại, không khiếp sợ, tùy theo ngôn ngữ của họ để giáo hóa, hoặc vì chúng sinh mà nói pháp môn sâu xa, tạo ra điều kiện để họ từ bỏ tất cả, hiểu rõ được tâm niệm của chúng sinh, ý muốn hướng đến thiện, ác, đều đem họ đến khắp cõi nước chư Phật. Chư Phật Thế Tôn đã tu pháp bình đẳng, không thấy chúng sinh và cõi Phật thanh tịnh. Nếu thấy có sự tu hành là hủy bỏ pháp giới do đó tâm Bồ-tát không có chỗ trụ. Nếu thấy có chúng sinh là trụ nơi phân biệt nên đối với pháp tánh sinh ra sự ràng buộc do nhận thức; không khởi không diệt, thức không chỗ trụ, đó là đạo tuệ vô vi thanh tịnh. Nếu không có pháp bình đẳng đạo tuệ thì chư Phật Thế Tôn không từ mẫn xuất hiện ở đời. Thệ nguyện của Bồ-tát hành theo nghiệp vốn là không, cũng không dừng nơi thệ nguyện đó mà đạt đến lẽ tự nhiên, không có siêng năng để được thành tựu, không thấy nhàm chán có sự lười biếng; đối với pháp quán bình đẳng, không sinh, không diệt, dũng mãnh tinh tấn nên được thọ ký Bồ-tát, có thể phân biệt hoàn toàn kinh điển, chọn lấy trí tuệ, vứt bỏ phiền não, quán sát sinh tử và diệt độ không khác nhau, thường nhớ nghĩ nghĩa thâm sâu của kinh điển, dò xét xa gần đều vắng lặng không có dấu vết, dù độ chúng sinh cũng không nhớ tưởng, thân gần tri thức, tâm không đắm trước, không chấp ngã và tuổi thọ, suy nghĩ phân biệt về Không, Vô tướng, Vô nguyện đều không sinh không diệt; hoặc ở trong cõi Dục suy nghĩ về ái dục ô uế, bất tịnh, hoặc thọ thân ở cõi Sắc, vô sắc biết rõ sự bất tịnh, vì muốn khai ngộ giáo hóa chúng sinh mê hoặc nên nói nghĩa chân đế này, phân biệt “không” “vô” đều không có nơi chốn, không thấy tạo tác có hình chất, không tạo không tác, không thấy nương tựa, trụ nơi không chỗ trụ, cũng không căn bản, không thấy đọa vào ba đường ác, không thấy sinh lên cõi trời đầy đủ thức ăn tự nhiên chỉ bày rõ đường vào đạo mà không có sự mong cầu, không có đối tượng tạo tác, đối với các pháp quán đạt đến lẽ tự nhiên, tướng các pháp cũng không cùng tận, giống như hư không, không có ranh giới. Bồ-tát bậc thứ mười dạy người bố thí, không có tư tưởng ngăn ngại, bằng cách bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tuyên dương trí tuệ, phương tiện quyền xảo, Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu giúp kẻ nghèo khốn, phát triển đạo lớn. Bồ-tát bậc thứ mười tuy chưa ngồi tòa Như Lai nhưng có thể thông suốt nguồn biển tuệ, làm thanh tịnh trang nghiêm cõi nước, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp chúng sinh, đem chánh pháp giáo hóa họ trở về với đạo, lập vững tuệ nghiệp, thành tựu Đại thừa, được mười phương chư Phật luôn ủng hộ và dùng oai thần trợ giúp thêm công đức cho vị ấy, cho đến lúc thành Phật được nhất thiết chứng đạo Vô thượng không để cho chúng ma quấy nhiễu. Bồ-tát bậc thứ mười biết được công đức đã đầy đủ, muốn thành Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, trước tiên nên tu tập bốn Niệm xứ, phân biệt thân, ý đều có tánh riêng của nó, liền tự quán sát sự sinh, diệt, hưng, suy của thân, tâm tụ vui mừng hoàn toàn xa lìa khổ não. Bằng định tinh tấn, Bồ-tát quán thân này do nhân duyên hợp thành, suy nghĩ kết quả thân này do nhân duyên hòa hợp thì tại thành, nhân duyên tan hoại thì mất đi, nên biết thân này không có chủ tể, cũng không đáng tham. Vì sao lại chấp trước sắc thân này? Chớ nên chạy theo sự mê hoặc của năm ấm, bốn đại, cái nhập. Thân này là không vì không thấy bốn đại là pháp của ngã, chỉ do các hành tích tập nhiều kiếp nay mới có được. Vì sao chấp trước thân mong manh không kiên cố này? Nay ta được sắc thân Như Lai và Pháp thân Phật, sắc thân là do tích tụ công đức giống như kim cang không thể bị hoại. Thân hữu lậu của thế tục đầy khắp hằng hà sa thế giới trong mười phương không bằng công đức như đầu sợi lông của sắc thân Như Lai. Bồ-tát tự nghĩ: “do vô lượng công đức mới thành tựu sắc thân này. Nay nhờ vào hình tướng này nên nhận được Pháp thân của Như Lai, lội trong sinh tử, qua lại năm đường, chịu vô lượng khổ không thể kể hết. Nay thọ sắc thân của Như Lai không còn nghĩ đến tai họa, khổ não ngày xưa đã chịu. Từ nay mãi mãi xa lìa các phiền não, không còn tham đắm vào năm dục;” quán thân mình, rồi quán thân người khác đều không nơi chốn, tu tập hạnh thanh tịnh, không còn lỗi lầm, đó là Bồ-tát tu Pháp thân niệm xứ.

Bồ-tát suy nghĩ pháp thọ niệm xứ như thế nào? Đó là từ lúc mới

phát tâm cho đến lúc thành Phật, trong khoảng thời gian đó, Bồ-tát chịu nhiều thống khổ không thể kể hết, chuyên tâm lập chí không thể mong cầu Phật đạo, không nhớ nghĩ đến những thống khổ đã trải qua. Nếu thấy người đang đau khổ, đi vào nẻo ác, Bồ-tát liền cứu vớt họ, khiến không còn khổ, thường nghĩ đến chúng sinh không tự tỉnh ngộ, quyết không để họ rơi vào sự trói buộc của dục. Từ xưa đến nay, xúc và thọ của ta không thật, không có, đều không có chỗ sinh khởi. Giả sử có cảm thọ không khổ, không lạc thì đó là vô ký không thể gọi tên. Người tu tập tham đắm lạc thọ thì tự mình xa lìa chỗ ngồi của Như Lai, không thích ứng với giới luật của Như Lai, không thích ứng với giới luật của chư Phật. Từ nay mãi mãi dứt hẳn không còn sống theo cảm thọ, khiến chúng sinh quán thọ không có chủ tể. Hoặc chúng sinh kia đối với sắc thọ cảm thọ hoặc tốt, hoặc xấu; đối với sắc đáng ưa, sắc không đáng ưa, sắc do bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong tạo ra thì khiến họ biết rõ điều vắng lặng, không thật có; hoặc có chúng sinh trước khổ, sau vui; hoặc có chúng sinh trước vui, sau khổ nên thuyết kinh thâm sâu để họ làm chủ cảm thọ như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp từ nhân duyên sinh cũng từ nhân duyên diệt nên suy nghĩ khổ, vui đều không khổ, vui; lại nên phân biệt cảm thọ trong ngoài: hoặc có lạc thọ sinh ở hiện tại, hoặc quá khứ, hoặc vị lai; hoặc có lạc thọ từ ái trói buộc sinh ra nên thức càng thêm đắm trước, không thể xa lìa; hoặc có lạc thọ từ si ái sinh ra nên tư duy chánh quán, mới được tiêu diệt, hoặc có lạc thọ do tà nghi sinh ra dần dần tăng trưởng nên dùng bốn vô thường trừ bỏ khiến không còn sinh; hoặc có lạc thọ từ bốn thọ sinh ra thì dùng định vô tướng để diệt trừ các thọ; hoặc có lạc thọ từ năm ấm sinh ra nên tư duy về pháp bảy Giác chi, khiến không còn sinh; hoặc có lạc thọ từ sáu pháp nơi thân sinh ra thì phân biệt rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoặc có lạc thọ từ bảy thức sinh ra thì phải lập chí tinh tấn, không tạo các duyên; hoặc có lạc thọ từ tám pháp thế gian sinh ra thì nên hạ mình, không nên cao ngạo; hoặc có lạc thọ từ chín phiền não sinh ra thì phải cố gắng hoàn toàn, xa lìa chín xứ; hoặc có lạc thọ từ mười tai họa sinh ra thì phải bỏ sự mong cầu, không nghĩ đến của cải không chân chánh; hoặ có lạc thọ từ bảy vực sâu và bốn kết sử sinh ra thì phải suy nghĩ ánh sáng lớn của trí tuệ; hoặc có lạc thọ từ chỗ ở của chín loại chúng sinh và ba pháp quán sinh ra thì phải giữ ý vào định không tịch; hoặc có lạc thọ không phải nhân quá khứ, hiện tại, ái vị lai, hoặc không phải nhân vị lai, hiện tại, ái quá khứ, hoặc không phải nhân quá khứ, vị lai, ái hiện tại hoặc không phải nhân quá khứ, ái vị lai, hiện tại, hoặc không phải nhân vị lai, ái quá khứ, hiện tại, hoặc không phải nhân hiện tại, ái vị lai, quá khứ. Đối với các pháp ấy, Bồ-tát suy nghĩ về bảy xứ và ba pháp quán, diệt trừ mười ba thứ độc hại rực cháy. Khi ấy Bồ-tát suy nghĩ tiếp về sự sinh khởi của lạc thọ, hoặc có lạc thọ do tám tà kiến và sáu thức ở thân cùng nhau gặp gỡ sinh ra lạc thọ, nên càng phát triển ấm, trần, các nhập. Đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát, phân biệt thọ này hoàn toàn không còn; hoặc có lạc thọ và mười pháp bất thiện, ô uế-làm nhân duyên cho nhau, bằng tuệ nghiệp đoạn trừ năm loại lưới nghi. Nếu hiện tại sinh thì diệt trong hiện tại cũng không cho sinh trong vị lai, nếu đã sinh quá khứ thì cũng diệt trong hiện tại, đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát diệt trừ mười lăm lưới nghi. Bồ-tát phải suy nghĩ pháp niệm xứ như thế nào? Bồ-tát này giữ ý, chế ngự tâm tán loạn làm cho chuyên nhất, có tạo tác quyết chắc có đối tượng, tự quán tâm mình, rồi quán tâm người khác, tâm ổn định không thay đổi thì đến chỗ nào, đi, lại, ra, vào, cử động đều nhẹ nhàng, luôn luôn tinh cần hộ trì tâm mình: có duyên nó sinh, không duyên nó diệt, không duyên nó sinh, có duyên nó diệt, ở nơi mình duyên khởi thì do nơi mình duyên diệt, ở nơi người khác duyên khởi thì ở nơi người khác duyên diệt, hoặc duyên khởi, diệt cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa; đối với bên trong có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt, hoặc do tham dục, sân hận, ngu si, bảy kết sử, bảy mạn, bảy kiết trụ, bảy giải, bảy quán, bảy nhẫn tuệ nghiệp, hoặc nhân đây mà có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt đều do nơi tâm, nhân nơi tâm sinh ra bốn mươi lăm pháp tối tăm này ý thức đã tạo tác mà không tự biết, ý không biết ý thì cái gì là nguồn gốc, đã không nguồn gốc thì làm gì có ý? Bồ-tát phân biệt tâm, ý, thức, pháp, thông đạt qua lại không có nơi chốn. Đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát biết nguồn gốc của tâm duyên không thể nắm bắt được, cũng không thấy tâm hợp với thiện, ác, không hợp chẳng hợp thích ứng với quán giải thoát. Bồ-tát lại suy nghĩ mười hai nhân duyên sâu xa không cùng tận: đối với quả đã trồng thì báo ứng không mất, đối với pháp giới tâm không đắm nhiễm; quán pháp giới từ nhân duyên sinh thì biết rõ các pháp không thật có, tự nhiên vắng lặng, nương nhau tồn tại, chỗ tạo tác của tâm không có hình chất cũng không thấy được, tìm tướng mạo cũng không thấy màu sắc hình tướng. Bồ-tát thông đạt thánh tuệ liền nhập vào pháp vô sinh, không còn sinh khởi, không trụ ở quả vị Thanh văn, Duyên giác, thường tự giữ ý thuận theo Phật pháp, bên trong vui mừng tự suy nghĩ: “Nay ta đã hàng phục được tâm, bỏ tham chấp sinh tử, nhập vào biển trí tuệ, do đó ta được đạo Vô thượng chân chánh thành Tối chánh giác”. Đó là Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại.

Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ, quán sát phân biệt như thế nào? Đó là Bồ-tát tu tập chánh pháp ban đầu không quên mất cho đến lúcthành Phật đạo cũng không xã bỏ, bên trong tự quán pháp mình, bên ngoài quán pháp người. Bồ-tát biết tướng các pháp không một, không hai, cũng không ba, bốn, đều quy về nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, các pháp đều bình đẳng, xa lìa tà kiến, phân biệt nguồn gốc của mười hai duyên khởi, thường nhớ nghĩ sự thành, bại, thạnh, suy của pháp giới, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký. Lúc ấy, Bồ-tát suy nghĩ quán sát tự sinh thức tưởng, không lệ thuộc pháp giới, không thấy phi pháp và ngã, cũng không khởi niệm phân biệt người, tuổi thọ. Hoặc có Bồ-tát tự khởi pháp tưởng chấp trước ngã của mình, nuôi dưỡng mạng sống kia, suy nghĩ về đoạn diệt, vô thường là có thường, vạn vật trong thiên hạ đều không tồn; đối với vô thường, chấp không có hợp tan, hoặc đối với các pháp sinh tưởng điên đảo: không tự nó thường không, có tự nó thường có, không thì không sinh có, có thì chẳng sinh không, không tự nhiên sinh, không tự nhiên diệt, không chẳng tự thấy ngã tự nhiên có, có chẳng tự thấy ngã tự nhiên không. Bồ-tát bậc thứ mười dùng trí tuệ thông suổt phân biệt có không, diệt trừ chấp thường về ngã, nhân, tuổi thọ đều bình đẳng không thật có, quán sát bậc nhất nghĩa không vi diệu, bậc nhất tánh không cũng không sinh có, có tự thường có, không biết sự không của không, không tự nó thường không, không biết sự có của có. Bồ-tát dùng tuệ phân biệt: có tự tánh là không, không tự tánh cũng không, không chẳng tạo có, có chẳng tạo ra không; chấp có, chấp không là pháp sinh tử không phải là pháp Niết-bàn bậc nhất, không tự nó chẳng phải là không, không mà không biết không, không tự tánh là không; có tự nó không phải là có, có mà không biết có, có tự tánh là không, có tức là không, không tức là có, cho nên, đối với tánh các pháp, Bồtát phân biệt từng loại, suy nghĩ phân biệt tất cả các pháp là thường, vô thường, sinh diệt thường đoạn, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký, có tên gọi, không có tên gọi cũng đều vắng lặng, cũng không thể ghi nhận được cái tịch diệt đó, tự quán pháp mình và quán pháp người, đối với các tưởng chấp trước cũng không suy nghĩ về tưởng, hiểu rõ pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với pháp giới tìm cầu Phật pháp và cấm giới đều không nơi chốn, cũng không đường đi, không thấy đồ người đạt đến giải thoát, cũng không thấy chìm đắm trong sinh tử, ở trong pháp đó khai mở dẫn dắt tất cả chúng sinh, có thể phát tâm đại Bi không bị ngăn che, đối trị các bệnh phìên não, hiểu rõ các kết sử trói buộc là không thật có, phân biệt năm đường, bình đẳng dạy dỗ, tuy ở trong cõi Dục mà không có khiếp sợ, hiểu rõ ba độc nên không bị ngăn ngại, đạt đến chỗ này gọi là bậc Đại sĩ. Bồ-tát an trụ vào đạo phương tiện quyền xảo không thể nghĩ bàn, Khổ, Tập, Diệt, Đạo đều trở về tự nhiên, ở trong tự nhiên không thấy sinh diệt, tâm ý như hư không, không thật có, không nghĩ đến chỗ ở, tìm cầu pháp giới, hư không giới và chỗ ở của chúng sinh cũng không chỗ trụ, tất cả các pháp đều bình đẳng như hư không. Đó là Bồ-tát tùy lúc dẫn dắt thuận theo đạo pháp, tuy độ chúng sinh cũng không thấy độ Bồ-tát nào quán pháp tư thân và quán pháp người khác thì có thể tự ngăn chận tâm đạt được trí tuệ, biết rõ các pháp đều trở về giải thoát, có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, hiển bày đạo chân chánh vô thượng, được pháp vô vi tự nhiên, không thấy chỗ sinh, không bỏ pháp vô sinh, vô khởi diệt. Đó là Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại.

Đức Phật lại bảo Tối Thắng:

–Bồ-tát thứ mười phải nên suy nghĩ pháp tứ chánh cần, thường nhớ nghĩ phân biệt hiện tại trước mặt pháp ác chưa sinh thì ngăn chận không cho sinh, pháp ác đã sinh thì làm đoạn diệt, pháp thiện chưa sinh thì mong cầu sinhkhởi, pháp thiện đã sinh thì làm tăng trưởng, thường phải siêng năng, tinh tấn tu tập, tự giữ tâm mình không cho tán loạn, từ xưa đến nay, nhờ công đức tạo được nên không mất oai nghi phép tắc, hành động bình đẳng nên có thể chế ngự được tâm, suy xét những lỗi lớn trong tai họa là do ba căn bất thiện làm đọa vào nẻo ác, luân hồi trong năm đường không có dừng nghỉ. Vì thế Bồ-tát phải siêng năng, tinh tấn tu hành mới có thể tiêu diệt nguồn gốc ác bất thiện, không còn sinh loạn tưởng nữa, thường tự quán sát kết quả của pháp bất thiện. Việc làm xấu ác này không phải đạo chân chánh. Nay ta xa lìa các việc phi pháp, tu tập bậc nhất nghĩa, diệt hết phiền não, trừ sạch sân giận, phân biệt nguồn gốc mười hai nhân duyên, pháp lành chưa có thì tạo lập công đức làm sinh mầm móng, không cho hư hoại, làm thanh tịnh tâm mình không còn lỗi lầm, không bị lệ thuộc vào các dục trói buộc trong ba cõi, xa lìa sự đắm trước, hoàn toàn không còn vướng mắc, có thể dẫn đến Nhất thiết trí, đối với các tuệ sâu xa không bị tổn giảm cho nên công đức đã đạt được đều do siêng năng mà thành đạo quả. Đó là Bồ-tát đối với pháp Tứ chánh cần được tự tại.

Bồ-tát này lại nên suy nghĩ, phân biệt thần túc. Bồ-tát tuy được định ý thần túc, lúc sắp thành đạo ở Địa thứ mười cần phải tu tập định như lúc mới học, phải chuyen tâm nhập định, suy nghĩ về bốn vô lượng tâm, tăng thêm tâm thương xót tất cả. Bồ-tát cân bằng thân và tâm, chuyên chú nhập vào thiền thứ nhất lại nhập vào thiền thứ hai, lại chuyên tâm ra khỏi Sơ thiền, nhập vào thiền thứ ba; ở trong thiền ấy nhất tâm suy nghĩ, ra khỏi thiền thứ ba lại nhập Sơ thiền; ở trong thiền ấy biến hiện thần túc, ra khỏi Sơ thiền rồi nhập vào thiền thứ tư. Khi ấy Bồ-tát ở trong thiền thứ tư biến hiện thần túc; dùng thân nâng tâm, dùng tâm hỗ trợ thân, ban đầu như hạt cải, chuyển dần lớn như hạt đậu rồi lớn dần như trái nho, siêng năng tăng thêm cho đến hai mươi mốt ngày, thân, tâm nhẹ nhàng không còn ngăn ngại. Cho nên Bồ-tát lại nhập vào định ý và thí nghiệm thần túc, có thể nương thần túc biến hóa ra một ức người, đứng vững không thoái lui, thành tựu định thần túc. Bồ-tát lại thị hiện thần thông khắp nơi không cùng tận, từ cõi Diêm-phù-đề đến cõi trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba cho đến cõi trời thứ sáu. Chư Thiên thấy rồi đều nghĩ thế này: “Hôm nay Bồ-tát thị hiện thần thông phát ra ánh sáng chiếu khắp nơi chư Thiên chúng ta cùng nhau ủng hộ Bồ-tát thành tựu Phật đạo”. Chư Thiên dùng các loại hương hoa, y phục cõi trời, cam lồ tự nhiên để cúng dường. Trong trường hợp này, Bồ-tát dẫn dắt chư Thiên, loài người đạt được thần túc, đều được lợi ích. Trong quá khứ hằng hà sa Bồ-tát tu tập mười Địa được hạnh thanh tịnh đều ở nơi đây biểu hiện thần túc, nhất tâm quán sát, tìm cầu phương cách, có thể hiện các việc biến hóa, dùng sức tinh tấn thành tựu đạo quả, hành động tự tại không gì nghịch lại được, muốn giáo hóa ai thì hàng phục được họ, xét rõ căn cơ đều khiến được đầy đủ kết quả, ma hoặc ma trời không thể quấy nhiễu.

Lúc ấy, Bồ-tát dùng Thiên nhãn quán sát tam thiên đại thiên thế giới, có người có dâm dục, sân hận, ngu si, không dâm dục, sân hận, ngu si; có người có hạnh thanh tịnh, có người có định ý, không có định ý, có người có loạn ý, không có loạn ý. Bồ-tát đều biết và phân biệt ý muốn của các căn. Bồ-tát dùng thiên nhĩ nghe tiếng của chúng sinh có thể tùy theo thứ lớp biết âm thanh của họ để giáo hóa. Bồ-tát dùng sức thần túc nhập vào chánh định thấy rõ tất cả ý muốn căn tánh của người, thấy được nguồn gốc từ đâu đến. Đó là Bồ-tát thực hành thần túc.

Lúc ấy, Bồ-tát lại suy nghĩ: Căn, Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, tín, niệm, tinh tấn, định ý, tuệ căn. Bồ-tát thường dùng trí thần thông vi diệu, quán sát có bao nhiêu chúng sinh thành tựu, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, các tuệ thần thông. Lúc ấy, Bồ-tát dùng tha tâm thông quán chúng sinh ở trước mặt: Hoặc có người tín căn thành tựu đầy đủ, thường tu pháp tám Thánh đạo bình đẳng, tâm luôn chánh kiến không ở cõi ma, tin biết sinh tử thống khổ vô lượng, lại biết Niếtbàn an lạc vô vi, tin có Tam bảo sáng suốt ở thế gian, không tin chín mươi sáu phái ngoại đạo; đối với các thông tuệ không còn nghi ngờ, tích chứa nhiều công đức làm hưng thạnh chánh pháp, ở trong đơ giữ vững tâm tin không khó. Bồ-tát dùng trí thần thông vi diệu không chướng ngại, quán sát các chúng sinh ấy ngày đêm tu hành tinh tấn, ngồi, nằm, kinh hành, tâm không lười biếng, nhờ sự tinh tấn nên các căn đầy đủ giống như y trời bao trùm khắp bốn phương trên, dưới bằng nhau không chênh lệch. Bấy giờ, có người đến một phía cầm một góc y, đưa lên, di chuyển thì ba góc kia di chuyển theo, tinh tấn căn cũng vậy. Nếu có người tu tập tinh tấn căn thì nên biết người ấy đầy đủ tất cả các pháp. Nhờ có tinh tấn biến thành tựu niệm căn. Tâm không tán loạn gọi là định căn; thường dùng phương tiện giữ tâm một chỗ, phân biệt thiện ác, tâm như hư không, đó là tuệ căn.

Bồ-tát bậc thứ mười vào định thần thông vi diệu, đoán biết tướng thọ thai của chúng sinh, phân biệt nam, nữ, nam căn, nữ căn, một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời đến vô số đời đều hiểu rõ không cùng tận. Đó là Bồ-tát tu tập đầy đủ pháp môn, suy nghĩ các quả vị, trí tuệ biện tài không ai sánh bằng, ngay nơi tâm niệm chấn động đến các cõi nước khắp mười phương, đi khắp các cõi nước chư Phật, chiếu ra ánh sáng. Người nào thấy ánh sáng này đều được độ thoát. Bồ-tát đối với các cõi nước lập ra pháp luật, khiưến họ tuân theo, phụng từ kinh điển mà hiển thánh, cũng làm an lạc lợi ích dân chúng nước ấy, đẫn dắt họ thấm nhuần diệu pháp, nghe không nhàm chán, thường hiểu rõ dòng họ, quyến thuộc dân chúng nước ấy, giáo hóa không phân biệt, cũng quán biết tâm ý chúng sinh, liền diễn nói sáu pháp Ba-la-mật, chế ngự loạn niệm của chúng sinh, dần dần cứu giúp tất cá, tự làm vị dẫn đường, dẫn dắt chúng sinh đi vào tuệ thiện pháp, thường nhớ nghĩ nhập định nên không mất thần túc, tu tập thần thông, phân biệt ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, trí tuệ vô biên nên suy nghĩ học kho tạng Phật pháp thâm sâu, cũng nên học tất cả các pháp của chư Phật, hiểu rõ các pháp thì không còn bị lệ thuộc, học cách diễn bày kho tạng bảy báu không cùng tận, học cách dùng trí thần thông thành tựu cõi nước, tu tập ánh sáng chiếu khắp mười phương, được định ý của Phật, chấn động cõi nước; học phương tiện quyền xảo, giáo hóa ngoại đạo, học giữ giới thành tựu đạo quả; học cách hội họp để chuyển pháp luân, tự thân học được thành Nhất thiết trí, sự học thành tựu, không còn gì để học.

Đức Phật bảo Tối Thắng: Đó là Bồ-tát tu hành an trụ Địa thứ mười, tiến tới thành Phật, sửa sinh cõi nước, sinh vào cõi Đâu-suất giáo hóa trời, người, hiện pháp thù thắng đặc biệt, quán sát sinh vào dòng họ cõi nước nào? Từ cõi Đâu-suất hạ sinh xuống nhân giann, trải qua ba mươi sáu lần, xoay vần qua lại giáo hóa trời người, trong thời gian đó độ thoát vô số chúng sinh, bằng phương tiện quyền xảo vượt len ba cõi không hề khiếp sợ, sau đó hạ sinh xuống nhân gian, tu khổ hạnh sáu năm, chuyên tâm chịu khổ, thân như cây khô. Tuy Ta thị hiện việc khó làm ở cõi này nhưng ta vẫn đang ở cõi Phật khác giáo hóa tám mươi bốn ức na-do-tha, trời, người, đều khiến họ được quả vị không thoái chuyển. Chúng sinh ở cõi này thấy thân hình của ta cho là đã chết, không còn mạng sống, họ đi qua, chất củi thiêu đốt nhưng không cháy, bằng phương tiện thiện xáo nhất tâm tinh chuyên phát triển thánh tuệ, không bỏ sự mong cầu của chúng sinh, trừ những gì không cần thiết ra thì yêu mến chúng sinh vô cùng. Cho nên Bồ-tát hiện đủ các việc khó làm. Bồ-tát bậc thứ mười khai hóa chúng sinh không lià xa sinh tử, độ mọi người giác ngộ như Phật. Nếu Bồ-tát muốn mau thành đạo Vô thượng, như trong khảy móng tay được than màu hoàng kim, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng thù thắng. Bồ tảt trong một ngày thành tựu quyến thuộc nhưng không cầu các thứ tốt xấu cõi nước ấy, chỉ vì chúng sinh có tâm cao ngạo, khen mình, chê người, không bỏ tự đại, cho nên Bồ-tát hiện thọ bào thai, tùy theo thế gian phương tiện biến hóa, sinh vào chỗ nào cũng làm nhiều lợi ích. Bồ-tát bậc thứ mười không có hiệu Bồ-tát, thường gọi danh hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đại Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hội đủ vô lượng phước, được chư Phật ủng hộ, được chư Thiên bảo vệ, đã diễn nói pháp thì có nhân duyên đúng thời thích hợp làm gì cũng lợi ích cả.

Tối Thắng nên biết! Sở dĩ gọi là cõi Phật vô hiệu, là vì cách đây bảy mươi bảy hằng hà sa cõi nước chư Phật về hướng Đông nam, có thế giới kia gọi là Nhân hiền, Đức Phật gọi là Thiên Nhãn. Nước ấy không có đạo Thanh văn. Duyên giác, không có danh hiệu cũng không có pháp sinh diệt, cùng tuyền trao cho nhau biết giải thoát là không nên chấp giái thoát, nghe pháp không được giái thoát, hiểu rõ không khó, cũng không còn ba độc dâm dục, sân giận, ngu si, ghi nhớ tất cả thật không cùng tận. Ta làm việc Phật sự ở cõi nước kia, chúng sinh ở đây cũng không biết chỗ ở của ta. Đó là những điều Bồ-tát đã đật được. Đó là Bồ-tát bậc thứ mười trụ trong mười Địa làm thanh tịnh hành động của mình.

 

Phẩm 11: DIỆT TÂM

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

–Bồ-tát quán sát vô thường phân biệt nghĩa không như thế nào? Hiểu rõ thân mình trong ngoài không có chủ tể, tâm được tự tại, việc làm đầy đủ?

Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Tâm Bồ-tát ở chỗ không tham đắm, luận giảng các pháp không bị ngăn ngại, biết rõ căn tánh người là pháp mộng huyễn, biết rõ tâm nguyện thiện ác của chúng sinh, và nhân duyên báo ứng của sự đến đi, hoặc tịnh, bất tịnh, khổ vui, tốt xấu, thuận nghịch, trói buộc, định loạn, cảnh giới, biết tất cả đều là hư vô không thực.

Lại nữa, Bồ-tát bằng túc mạng thông, thuyết pháp đúng lúc, khiến chúng sinh biết được chỗ không tịch, thần túc không ngăn ngại đều thấy tất cả, đố là Bồ-tát quán biết nguồn gốc của nó là không, hoặc hiện thân Phật rồi diệt độ, chỉ dùng phương tiện, hoàn toàn không diệt độ, biết hết chúng sinh xưa nay thanh tịnh, hoặc hiện thân rã rời phân tán khắp nơi để mà thuyết pháp, cho biết đó là bất tịnh nhơ cấu uế, làm cho những người chấp thường diệt trừ tham ái, lại khen ngợi người dứt sạch hết các lậu hoặc đến cửa Niết-bàn. Giả như các lậu chưa đoạn sạch thì không chứng được, lại vì chúng sinh khen ngợi vô lậu, tất cả việc lành đạt đến tuệ vô tận, thực hành đại Từ bi an trụ Thiền định trong trong thiền thứ ba, thứ tư, rồi đạt đến tứ không định, chứng được pháp không, vô tướng vô nguyện, tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng phương tiện quyền xảo hóa độ tất cả, quán các chúng sinh kia ở trong tám nạn, dứt bỏ các phiền não hoàn toàn không cấu nhiễm, bằng đạo Hiền thánh không ngăn ngại, vào trong sinh tử khiến đến Niết-bàn, cũng dùng pháp đại trí quyền tuệ, hóa độ hàng Thanh văn và Duyên giác, tùy theo khả năng tiến đến đạo tràng, hoặc ở trong phiền não loạn động dạy người thực hành tịch tĩnh không khởi các tưởng, hoặc có chúng sinh chấp trước các loại phiền não hay không phiền não hiện không thực có, khiến cho mọi người đạt đến chỗ không còn chấp trước, tuy ở trong cảnh giới nhưng qua lại khắp nơi, không khởi tướng chấp trước, không có sự ngăn ngại, thường nói pháp vi diệu cho chúng sinh, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, pháp thiện pháp ác, đều biết rõ không có ngăn ngại, hiểu rõ gốc pháp tâm hành của chúng sinh, tùy theo hình dáng của họ mà đưa vào vô vi, tùy theo tập tục dạy họ hiểu rõ pháp, đối với tưởng của tâm, ý, thức, không còn sinh diệt, bằng quyền tuệ giáo hóa, thường được tự tại. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thực hành pháp quán, hiểu rõ nguồn gốc của thân trong ngoài không có chủ tể, thường nhớ tu hành không nhàm chán hoàn toàn an vui, lại khiến cho chúng sinh mong được phước đức ấy, thực hành đại Từ bi không còn khiếp sợ, sau đó mới hiểu thân không có chủ tể, và pháp trong ngoài cũng như vậy, xem các chúng sinh ấy như xương thịt của mình. Hoặc có sự cầu xin thì trước họ sau mới đến mình, tâm đại Bi vững chắc cứu độ tất cả làm cho được công đức thù thắng, tâm thức vắng lặng không bị lay động, quán sát nguồn gốc của thân không còn tham chấp, lại vì chúng sinh mà nói bất tịnh, thân này như bức thành hoàn toàn trống rỗng, thân như khe suối luôn luôn tuôn chảy, thân như lửa dữ đốt cháy củi không ngừng, cũng như sông hồ chảy về biển không đầy, thế nên Tối Thắng! Bồ-tát chỉ dạy về cách suy nghĩ phân biệt biết về bất tịnh, cũng làm cho người học được tưởng bất tịnh, vào sâu biện tài cũng không ngăn ngại, đạt được pháp Tổng trì không bị quên mất, lời dạy đúng theo thứ lớp, thường được Tam-muội chánh định sâu xa, thường vào nơi vắng lặng và các Ba-lamật, hàng phục các ma oán bỏ tà niệm loạn tưởng, thế nên Tối Thắng! Bồ-tát quán thân biết rõ trong ngoài không có nơi chốn, cũng như huyễn hóa, ảnh tưởng, âm vang, sóng nắng, ánh chớp, nhập vào pháp chân đế, phân biệt pháp giới, xa lìa tham đắm, siêng tu chánh giác, biết tất cả các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, tùy ở chỗ sinh mà cũng không có hai, dù ở chỗ nào khai mở hướng dẫn hóa độ chúng sinh, quyết chí dũng mãnh không bỏ đạo tâm, ngồi dưới cây Bồ-đề lập thệ nguyện. Hôm nay ta nguyện thề, nếu ta không thành Chánh đẳng giác quyết không rời khỏi chỗ này, giữ tâm bình đẳng, không bỏ Phật đạo, thường ở ba cõi cũng không lệ thuộc, tự quán pháp của mình và người khác cũng như vậy, mong cầu trí tuệ thanh tịnh sâu xa, biết rõ tưởng của thường đều là tưởng của vô thường.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát nhớ nghĩ như ta ngày nay thọ thân hữu lậu do đâu mà có? Bởi do nhiều kiếp tích chứa công đức không thành, tập họp trí nghiệp mới có thân này, không nghĩ đạo Duyên giác và Thanh văn, nếu có người đến gặp mình thì tâm không lo sợ cũng không nghi ngờ, thực hành bố thí từ bỏ các loạn tưởng, tự mình suy nghĩ, khi ta thành đạo, thân có tướng tốt trang nghiêm màu hoàng kim, dạy dỗ chúng sinh giữ gìn cấm giới không đọa vào đường ác, nhẫn nhục thuận đạo, các căn không khởi không loạn, siêng năng tinh tấn, bỏ tâm tự đại, Tam-muội chánh định tâm không tán loạn, thành tựu đại trí xa lìa trần tục, bằng lời dạy khéo léo để đạt đến không cùng cực, việc làm của bậc thánh trí chưa từng lầm lỗi, ở chỗ vững chắc như chỗ của Phật, biện tài phương tiện tùy thuận theo đúng nghĩa lý, tâm ghi nhớ tất cả không làm sai lời dạy của đạo, làm mãn nguyện chúng sinh, không còn tiến đến thoái chuyển không bị đọa lạc, giáo pháp nói ra cùng nhau giữ gìn, tự mình không hiềm khích không nói lỗi của người, những lời dạy bảo phù hợp với giới luật, thực hành đạo Bồ-tát thường xét lỗi mình, thà bỏ mạng sống không nói lời chia rẽ, nếu có chúng sinh đến xin quy y cũng không lấy làm vui, nếu họ không đến cũng chẳng lo buồn, nghe điều thiện không vui nghe điều ác chẳng giận, tùy thuận tất cả quyết đến đạo tràng thề thành Phật đạo, không trái cấm giới, trước cứu nguy ách cho người không tự cầu an, ban cho bảy báu mà không hối tiếc, thâm nhập giáo pháp thần thông vô ngại, lại dùng thần lực quán căn cơ sâu cạn cao thấp của chúng sinh, phân biệt thánh tuệ vì đó mà thuyết pháp, làm mà không chấp trước cũng không cùng tận, tuy tâm duyên theo các lậu nhưng không bị đắm nhiễm, không lấy đó làm chứng đắc, quán sát pháp tánh mà không có ngã, chánh pháp vắng lặng thanh tịnh không còn vướng mắc, ba đời thay đổi, pháp không chỗ trú, nhìn về quá khứ hoàn toàn không còn, không xét đời vị lai có chướng ngại hay không có chướng ngại, không nghĩ hiện tại có sự tồn tại. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát quán khắp ức triệu, pháp không chỗ khởi pháp không chỗ diệt, thân thực hành thanh tịnh không làm ác, miệng nói lời tịnh tâm thường chí thành, ý trong sạch không làm mười điều ác, đó là Bồ-tát ứng hợp với Ba-lamật, liền được chư Phật thọ ký, tuệ căn rộng lớn công đức đầy đủ, Bồtát bậc thứ mười định không thoái chuyển, phụng trì chánh pháp không sai trái, tính tình hòa thuận việc làm đầy đủ, được mười lực của Phật chí như kim cang, biết rõ nguồn gốc của pháp có khởi có diệt, hiểu rất cả tâm bệnh nặng nhẹ của người, biết rõ bao nhiêu chúng sinh tánh hạnh không đồng, thọ lãnh quả báo thảy đều biết rõ.

Bồ-tát thọ quả báo như thế nào?

Dùng trí tuệ sáng suốt trừ bỏ tối tăm, suy nghĩ quả đã chứng được. Tối Thắng nên biết, cầm kiếm hiểu biết chặt bỏ nghi ngờ, các việc đã làm đều vì chứng quả, do chứng quả ấy mà tu hành bố thí khắp nơi, trì giới đầy đủ như bình an lành, tâm hành nhẫn nhục như Đại sĩ Tần Đầu, tinh tấn siêu việt như vua Thiện Nham, nhập vào Thiền định vi diệu như Bồ-tát Không Tuệ, chứng quả tâm tuệ không thể dời đổi, Bồ-tát bố thí bình đẳng không hai, không thấy ngã của ta có bao nhiêu tưởng, đối với người và vật đều bình đẳng, người và vật bình đẳng thì được các pháp bình đẳng, biết pháp bình đẳng thì chánh giác bình đẳng, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều bình đẳng không sai khác, hiểu tất cả sinh không có chỗ sinh, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, hiểu sinh không sinh mới phù hợp với pháp tánh. Như vậy, Tối Thắng! Bồ-tát quán sát rõ tất cả các pháp chân chánh, không khởi phiền não mà cho đầy đủ, bỏ tất cả sinh mà không thấy chỗ sinh, đã từng bố thí không thấy sự bố thí. Hoặc có Bồ-tát bằng sự bố thí mà cầu đạo, lại bằng tưởng đắm trước mà mong diệt độ, đêu do tạp độc trở lại nơi sinh tử, chấp ngã từ xưa vô số kiếp, đã từng ở cõi này làm Chuyển luân vương Hoàng đế Phi Hành, tùy theo ý niệm tự nhiên hiện trước mặt không dám sai phạm, con cháu kế tục trải qua sáu mươi chín trung kiếp, thời gian đó thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, dựng tháp bảy báu cao đến Phạm thiên đầy cả thế giới. Ở thế giới đó có Đức Phật hiệu là Dũng Tấn, có chín mươi ức trăm ngàn na-do-tha La-hán tùy tùng, Bồ-tát Đại sĩ không thể tính hết, ta đích thân cúng dường tứ sự, áo mền, thức ăn, giường nằm đồ ngồi, thuốc thang, đất nước, của cải, vợ con, voi ngựa, bảy báu, tôi tớ, binh lính và nhân dân, hết làng cúng dường Đức Thế Tôn ấy. Khi ấy, ta bố thí nhưng có tâm đắm trước, do đó nên đọa lạc vào sinh tử, mất hết công đức bố thí ấy nên không có quả báo, tính ra công đức làm lúc đó thì nhỏ như một sợi lông, ngày nay có tồn tại cũng không thấy được, như vậy Tối Thắng! Bồ-tát bố thí, bố thí cũng không bố thí, không thấy bố thí cũng chẳng thấy không bố thí, bố thí cũng chẳng bố thí, người bố thí bình đẳng thì được pháp bình đẳng, hiểu rõ thí và không thí chính là tự nhiên, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng như vậy. Biết rõ trí không tịch cũng không có trí, đối với trí và vô trí đều là trí tuệ.

Lại nữa, này Tối Thắng! Bồ-tát suy nghĩ pháp bảo. Thế nào là pháp bảo?

Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, thần thông Tam-muội, các Ba-la-mật, phân biệt từng loại không có ngã sở, từ bỏ tối tăm khiến biết trí sáng, lập vững trí tuệ khai hóa chúng sinh, bỏ các gánh nặng tâm không còn do dự, tu trì cấm giới, thân tâm tịch tĩnh, lại còn suy nghĩ, lập vững trí tuệ quý báu, cũng không do tâm sinh mà bị lệ thuộc, ý lìa ba đời cũng không trong ngoài, không bị lệ thuộc nơi ấm cái, bốn đại, các nhập chứng đắc diệt độ mà không thấy diệt độ, bằng hoa bảy Giác chi làm vòng hoa, tám phẩm hiền thánh dùng làm quả, trang nghiêm đạo tràng dùng làm nhà cửa, dẫn dắt chúng sinh đật đến vô vi, đạt đến tịch nhiên không già bệnh chết, cũng không có các khổ não vui buồn, vượt qua ba cõi mà không sợ hãi, quán người và vật đều thanh tịnh, ta và người thanh tịnh thì người và vật cũng thanh tịnh, hiểu rõ thanh tịnh là không thực có. Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến nay, phải nhớ nghĩ thanh tịnh khởi tâm vi diệu, trong thời gian ấy, hoàn toàn không sinh tâm dâm dục, sân giận ngu si, cũng không đem tâm nhiễu loạn chúng sinh, cùng không sinh tâm đối với hàng Nhị thừa, làm vị thượng thủ ở nơi đại chúng, dù ở trong giàu sang cũng không cao ngạo, luôn che chở không bỏ chúng sinh, tâm vốn là không thảy đều chẳng thực, tâm không có tâm cũng không trói buộc, đó là tâm Kim cang của Bồ-tát, không gì làm hư hoại, nuôi dưỡng pháp lành khiến không mất mát, suy nghĩ sâu xa, thệ nguyện rộng lớn không thể nghĩ bàn, xét tất cả tánh không thấy sự sinh khởi cũng không thấy sự thành tựu, quán việc huyễn hóa ở đời đều không chân thật, dùng quán thanh tịnh biết là điên đảo, không lệ thuộc các pháp, thích ứng không thích ứng đều bỏ cả, người có nhiều mong cầu không thấy hiện tại có sự tập họp, không thấy quá khứ vị lai có sự tan rã, qua khứ không đầu mối, vị lai cũng không đầu mối, phân biệt hiện tại đều không nơi chốn, xét tìm chánh pháp cũng không nắm bắt được, Bồ-tát lập ý ngăn chận điên đảo, không thành vọng tưởng là mục đích của Bồ-tát, vào sáu mươi hai tà kiến là mục đích của Bồ-tát, vào thân kiến, giới thủ, tà kiến là mục đích của Bồ-tát, trâm ngâm do dự là mục đích của Bồ-tát, cầu mong phước trời là mục đích của Bồ-tát, hoặc vào địa ngục không chấp sự khổ là mục đích của Bồ-tát, hoặc háo thân vào trong đường ngạ quỷ, súc sinh là mục đích của Bồ-tát, Bồ-tát tuy ở trong địa ngục vô gián vẫn dốc lòng cứu độ chúng sinh thoát khổ, đạt đến vô vi, an lạc lâu dài, cũng không bị những nguy hiểm về sinh diệt loạn tưởng, suy nghĩ pháp giới cũng không thể được. Vì sao? Vì người do pháp sinh, pháp do người sinh, tự sinh tự diệt cũng không có sự chết, người không rời tánh, tánh không rời người, người, vật tự nhiên cũng không thấy dấu vết, ngã tuổi thọ của ta cũng như vậy, ngã của ta tự nhiên thì các pháp tự nhiên, pháp tự nhiên nên đạo tự nhiên, hiểu được như vậy thì đạt được không quán, liền được tự nhiên đạt đến đạo, đạo tự nhiên đạt đến diệu quán không hai, cũng không thấy hai, Bồ-tát lại có Tammuội rất nhanh, nhập vào Tam-muội này, trong một khoảng khắc đi khắp hằng hà sa cõi nước chư Phật trong mười phương, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, trở lại chỗ cũ mà không ai biết cả, ngay tại chỗ ngồi cũng không đổi tư thế nhập vào Tam-muội chánh định đi đến ức trăm na-do-tha hằng hà sa cõi nước chư Phật ở phương Đông, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, thăm hỏi lắng nghe giáo pháp vi diệu, bỗng nhiên hiện lên vô lượng hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, lại hiện qua vô lượng cõi nước ở phương Nam, trở lại vô lượng cõi nước ở phương Bắc, bốn phía trên dưới cũng như vậy.ở trong chúng dù ngồi đó hay xuất qua chỗ khác không ai biết cả, như vậy Tối Thắng! Bồ-tát vào định ý Tam-muội này, ở khoảng khắc đi đến vô lượng cõi nước khắp mười phương, bỗng nhiên trở lại chỗ cũ, khi các vị đó ngồi chúng sinh không biết, như ta ngày nay ở trong đại chúng diễn thuyết nghĩa pháp, có hai ức Bồ-tát không rời chỗ ngồi nghe pháp mà không ai biết cả, do hạnh Bồ-tát thuần thục.

Khi ấy Bồ-tát Tối Thắng ở trước bạch Phật:

–Các vị Chánh Sĩ này đã nhập vào Tam-muội gì khiến cho các Bồ-tát qua lại khắp nơi mau chóng như thế?

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng:

–Hãy để lại Tam-muội mà Bồ-tát đã nhập. Lại có Tam-muội tên là Vô Ngại Thông là chỗ mà chư Phật Thế Tôn thường cư trú, Như Lai nhập Tam-muội này rồi trong một hơi thở đi khắp ức hằng hà sa cõi nước chư Phật, cũng khiến cho chư Phật nơi mười phương đi đến cõi này, không nhiễu loạn chúng sinh nên không ai biết cả, hoặc đem tất cả nước biển khắp mười phương di chuyển lên hư không giống như treo ngọc sáng ai cũng thấy cả, không làm cho các loài chủng tộc có kinh sợ gì cả, đây gọi là Tam-muội thông tuệ. Lúc ấy, ở trong hai ức vị Đại sĩ thượng thủ, có một Bồ-tát tên là Hải Tạng, ngay tại chỗ ngồi suy nghĩ: Như Lai chắc sẽ khiến mình hiện thần lực Tam-muội, liền ngay chỗ ngồi đứng dậy, đi đến tòa cao trước chúng hội, đảnh lễ Phật và các bậc dẫn đầu, đến trước Đức Phật chắp tay thưa:

–Phật đạo sâu xa không thể ví dụ được, đạo Vô thượng chân chánh thật khó sánh kịp. Như ngày nay, con thấy tất cả Bồ-tát và bốn bộ chúng các tôn thần, trời và những người đến trong hội thấy Bồ-tát này ở trong đại chúng rống lên tiếng rống Sư tử. Vả lại, mọi người khát ngưỡng pháp của Đức Như Lai đã lâu rồi, đời nay khó gặp, con có điều muốn hỏi, nếu được Đức Như Lai cho phép con mới dám thưa.

Đức Thế Tôn bảo Hải Tạng:

–Ông nên hỏi theo nghi ngờ của mình, Như Lai sẽ phân biệt rõ ràng cho ông, khiến các Bồ-tát và các người trong hội đều được vui mừng, dùng lửa lớn của kiếm trí tuệ để thiêu đốt rừng rậm ngu si của ông.

Bấy giờ, Bồ-tát Hải Tạng bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Đúng vậy, vừa rồi ở trên tòa con tự suy nghĩ,

hai ức chánh sĩ này, từ lâu đã tích chứa đầy đủ công đức, điều phục tâm ý, chí ở đạo pháp chứa nhiều căn lành mới được chánh định này, từ vô số kiếp phụng sự chư Phật lễ bái cúng dường, nhờ thần thông của Bồ-tát mà chánh sĩ này vì các chúng sinh ban cho voi ngựa bảy báu khíên cho chúng sinh được thành Phật đạo, hoặc vì người thoái chuyển không kiên cố mà thực hành Tam-muội định ý chánh thọ này, hoặc có Bồ-tát bằng phiền não nên đi vào sinh tử, khiến cho chúng sinh hoàn toàn không còn sự thống khổ, hoặc có Bồ-tát nhập vào Từ Tam-muội, khiến cho chúng sinh xa lìa ganh ghét, lại có Bồ-tát phát khởi tâm Bi, khiến cho chúng sinh hiểu nghĩa vô thường, hoặc có Bồtát ở trong định ý Hỷ có người nhìn thấy đều hiểu rõ không tịch, lại có Bồ-tát phát tâm kim cang, khiến chúng sinh thành tựu thệ nguyện, hoặc có Bồ-tát ý chí rộng lớn dẫn dắt tất cả vào cõi nước mình, hoặc có Bồ-tát bằng Pháp thân khiến chúng sinh được ban đầu, giữa, cuối đều thiện, lại có Bồ-tát ở nơi tám nạn xiển dương Tam bảo khiến không đoạn tuyệt, hoặc có Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo tùy theo chúng sinh mà hiển hóa thích hợp, hoặc có Bồ-tát ở chỗ thanh vắng quán pháp hữu vi như huyễn như hóa, hoặc có Bồ-tát thích ở không tuệ quán thân thể này như tường vách kia, hoặc có Bồ-tát tâm ý ngay thẳng, làm việc thanh tịnh không bị nhiễm ô, hoặc có Bồ-tát tính tình chuyên nhất, những nơi đi qua mà không nhầm lẫn, lại có Bồ-tát tâm hướng đến đạo nhất thừa, không khiến cho chúng sinh nghe tên ba thừa, lại có Bồ-tát ý muốn hiểu rõ tẩy rửa hết phiền não cho người mê hoặc.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng khen ngợi Bồ-tát:

–Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Hải Tạng mới có thể đứng trước ta rống lên tiếng rống của Sư tử trong đại chúng này, khen ngợi sự nhập định ý của Bồ-tát, khiến cho những người trong hội đều được nghe biết, các vị chánh sĩ này ở trong định ý Tam-muội chánh định không thể nghĩ bàn, không ai sánh kịp, chẳng phải chỗ hàng Nhị thừa có thể suy lường được, Bồ-tát tích chứa công đức không phải vì mình mà nghĩ cứu vớt chúng sinh đang bị khổ não. Giả sử tam thiên đại thiên cõi nước, gió trong cõi đó, thổi đầy cả thế giới xoay vần rất nhanh bị cuốn theo gió, nếu có người nào chứng được kiến đạo, tâm muốn một mình đi qua lại vào trong đó liền làm được ngay, không bị trở ngại, huống chi là thần thông Tam-muội chánh định của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, chỉ trong ý nghĩ đi qua vô lượng hằng hà sa cõi nước, lại dùng sáu độ và pháp thập thiện, giáo hóa chúng sinh chỉ sạy đường lành, tâm họ hoàn toàn được an ổn không lay chuyển, chí hạnh tịch tĩnh không loạn động, tâm hành của họ không ai sánh kịp, nhờ đời trước đầy đủ các đức, chí hạnh thứ tự không phân biệt chủng loại, tâm Từ vô lượng không cùng tận, tất cả các pháp thường tự tồn tại, chúng sinh không hiểu cho là có thay đổi, pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt, pháp không sinh pháp, pháp không diệt pháp, pháp sinh pháp diệt tánh không đổi dời, đó là đạo của Đại sĩ Bồ-tát, chẳng phải hàng phàm phu sánh kịp, các chúng sinh ở trong sinh tử không hiểu được đạo, cho pháp tánh có sự biến đổi, dù có như vậy việc này không đúng. Từ lúc có Bồ-tát mới phát tâm đến nay, thực hành bố thí, trì giới đầy đủ các đức, được kết quả thành đạo, do hiểu không quán hư vô tịch tĩnh, khen ngợi việc làm thần diệu xưa nay đều đã thành tựu, vào địa tu hành của các Bồ-tát, ở trong vô lượng cõi Phật thù thắng, dẫn dắt chúng sinh vượt qua bờ sinh tử, hiểu rõ cản cơ tùy thời giáo hóa cứu độ tất cả, hoặc dùng phép tắc oai nghi cuả thế tục, hoặc dùng thần thông đạo tuệ giáo hóa muôn loài, phân biệt sự sinh diệt phiền não cuả sáu tình, sự phát khơỉ cuả mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, mắt vô thường cũng không chân thật, đi không có chỗ đi, đến cũng không dấu vết, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không thấy sinh cũng không thấy diệt, chúng sinh ngu hoặc chấp có tướng thường. Vì sao? Tối Thắng nên biết! Trí phương tiện quyền xảo cuả Đại sĩ Bồ-tát đầy đủ, thực hành vô lượng các Ba-la-mật, lập vững niềm tin tu tập các pháp được các Đức Như Lai khen ngợi, Từ bỏ vọng tưởng được vô lượng trí, biện tài vô ngại thường tự hổ thẹn, quán pháp không sinh không bị lay động, hoặc bằng tướng tốt trang nghiêm cõi Phật, làm việc và pháp tương ưng không trái, nhập vào đạo Nhất thiết trí sâu xa, hỏi nghe chánh pháp không biết nhàm chán, chỉ dùng quyền trí siêu tuyệt hàng phục các ma, hoặc đến chỗ có tưởng không tưởng, đến cung Phạm thiên Đế Thích, hoặc đến hằng hà sa cõi nước khắp mười phương, đi khắp mọi nơi thuyết giảng Phật pháp sâu xa không thể nghĩ bàn, từ bỏ kiêu mạn cũng không hơn thua.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Bồ-tát Đại sĩ tu vô lượng pháp môn thành bậc Chánh giác, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, hiểu biết rộng rãi không hề thiếu sót, dùng pháp tứ niệm xứ, hữu vi vô vi, hữu ký vô ký, hữu lậu vô lậu, đầy đủ mười lực, các pháp vô úy Tam-muội chánh thọ đoạn trừ ấm cái, phân biệt hiểu rõ, tâm không thoái chuyển, sau đó dùng Tam-muội chánh thọ, vượt hơn tuệ nghiệp năm mươi bảy pháp, Bồ-tát nên nhớ không nên quên mất, nếu có người bố thí cầu phước chư Thiên, hoặc cầu ở trong cung điện quỷ thần các rồng, hoặc bằng tâm bố thí cầu sinh Tứ Thiên vương, hoặc muốn làm tướng quân trong hai mươi tám vị quỷ thần, đây không được chân thật không như ý nguyện.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ-tát Tối Thắng nói kệ rằng:

Thân tịnh không làm ác
Miệng không phạm bốn lỗi
Ý không nghĩ tội chướng
Là Tổng trì Bồ-tát
Khen ngợi vô lượng đức
Tâm không còn tham tiếc
Thần thông trừ tối tăm
Là Tổng trì Bồ-tát
Lúc dạy người bố thí
Không có sự mong cầu
Bỏ nguyện đọa ba đường
Công đức đều hao tổn
Xưa ta cầu Chánh giác
Nhớ lại vô số kiếp
Bằng phương tiện quán sát
Vào năm đường sinh tử
Ở trong a-tăng-kỳ
Tu tập tạo công đức
Do không được tự tại
Nên ở bốn vực sâu
Nay tuy được thành Phật
Làm vua cõi tam thiên
Đây nhờ bỏ tưởng niệm
Được vào cửa giải thoát
Đạo tràng phóng hào quang
Ức thần đến quy y
Các Sa-môn, thiện thần
Đều trở về nương tựa.

Thế nên này Bồ-tát Tối Thắng! Phải chuyên tâm từ bỏ tưởng mong cầu, hiểu rõ pháp giới một tướng không hai, trang nghiêm cõi Phật, trí tuệ sáng suốt không mất, không khuyến khích tạo nghiệp, bố thí khắp tất cả mà không bố thí, không sáng suốt không chỗ sinh, bình đẳng nhất thừa không thấy ba bốn. Tối Thắng! Phải nên phân biệt bốn đế, khổ từ đâu sinh cũng do đâu diệt? Thân năm ấm này là nguồn gốc của khổ, do quán sâu xa nên tâm mong cầu diệt hết. Khổ do tập sinh nên diệt hết không còn, có sáu mươi hai tà kiến điên đảo, dùng vô lượng trí hiểu rõ tất cả, lại dùng bốn đế quán mười hai nhân duyên khởi từ đâu, sinh do đâu diệt, dần dần suy nghĩ mới biết là tịch tĩnh, hành động cuả thân, khẩu, ý cũng không có chủ tể, không có người nhận cũng không có đến đi, không có chỗ trú, từ quả Tu-đà-hoàn đến bậc Chánh giác cũng như vậy, biết rõ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.Lại nữa Tối Thắng! Bồ-tát suy nghĩ biết ra khỏi khổ, nguyên nhân cuả khổ, sự diệt tận khổ, con đường ra khỏi khổ, suy nghĩ đúng như thật, lại phân biệt mười sáu pháp sâu xa khó lường cuả Bồ-tát, ba mươi sáu nẻo cấu uế bất tịnh, nhơ bẩn, khen ngợi tuệ của bậc chứng đạo quả vô thượng, ban lời chỉ dạy dẫn dắt dần dần, đều được thấu đạt kho tàng thâm sâu của chư Phật, lời dạy ra hoàn toàn không dối, hoặc hiện trưởng giả của cải giàu có, nhân đó làm việc bố thí giúp đỡ chúng sinh, qua lại khắp nơi khiến thành Phật đạo, hoặc dùng hương hoa, ánh sáng cờ lọng soi chiếu khắp nơi đều được đầy đủ, lại dùng thần túc chấn động chư Thiên, tuyên dương Phật đạo hướng đến nhất thừa, nên ta nhiều kiếp không bị ràng buộc, lại thị hiện đạo Thanh văn, Duyên giác, ẩn vào rừng sâu không thị hiện diệt độ, lại vào long cung hóa độ các loài rồng được đạo tự tại. Thế nên Tối Thắng! Công đức của Bồtát không thể tính kể, chẳng phải do miệng tuyên dương, do ý suy nghĩ, hoặc có khi Bồ-tát sinh vào nhà vua Chuyển luân, các thế giới cõi trời cũng được hướng dẫn làm mười phương đều thiện, hoặc thấy chúng sinh đang ở trong đói khát, dùng cam lồ khiến họ được đầy đủ, gánh vác các khổ não cho chúng sinh xa lìa ái dục, hình tượng của Bồtát không thể tính kể.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát nên nhớ một ngàn bảy trăm pháp môn định ý khiến các vị A-la-hán thành quả chánh giác.

Lại có pháp môn Định ý ánh sáng, khiến các Bồ-tát hiển bày pháp môn Tổng trì.

Lại có pháp môn Định ý bóng mát của cây Bồ-đề, tam thiên thế giới đều được che mát.

Lại có pháp môn Định ý mưa ngọc thần khắp thế giới phóng ra trăm ngàn ức vô số ánh sáng, mỗi sánh sáng đều phát ra vô số tiếng khổ, không, vô thường, vô ngã, người nghe được tiếng này đều phát tâm Bồ-đề không còn thoái lui.

Lại có pháp môn Định ý thủy tinh trong sáng khiến cho thế giới khắp mười phương trong suốt không màu, lại phát ra vô số tiếng âm nhạc, người nghe tiếng âm nhạc này tự biết đời trước của mình, rồi biết về cảnh giới vị lai mình đến.

Lại có pháp môn Định ý ánh sáng như mặt trăng tròn đầy, vượt hơn trong chúng như mặt trăng ở giữa các ngôi sao.

Lại có pháp môn ánh sáng như mặt trời, làm ánh sáng cho chúng sinh biết nẻo hướng tới.

Lại có pháp môn ánh sáng oai thần truyền trao Đại thừa không ai có thể biết được.

Lại có pháp môn Định ý ánh sáng tướng đỉnh không thấy được, ở trong chúng được cung kính vượt bậc.

Lại có pháp môn Định ý ánh sáng tướng lưỡi, ở trong chúng tin thọ không phỉ báng.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát nhập vào một ngàn bảy trăm pháp môn Định ý ánh sáng vô lượng thanh tịnh như trên, ngay tại chỗ ngồi có vô số chúng sinh nghe được pháp môn này, phát tâm đối với đạo chân chánh vô thượng, từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy, ngay Lúc ấy, về phương Đông cách đây vô số hằng hà sa thế giới có một Bồ-tát tên Bảo Dũng đem các quyến thuộc vây quanh trước sau, chắp tay hướng Phật nói kệ khen ngợi:

Thân sắc rất thù thắng
Tôn quý nhất loài người
Không phiền não cấu uế
Ban cho vô lượng đức
Ánh sáng chiếu trăm ức
Trong sáng rõ vô cùng
Từ bi thương mọi người
Làm vua ba ngàn cõi
Hôm nay chúng con đến
Muốn nghe tuệ cam lồ
Xin nói lúc được cứu
Như khát gặp được nước
Lúc Đạo sư xuất hiện
Như hoa Ưu-đàm-bát
Căn bệnh của chúng con
Nhờ cứu được thoát khỏi
Nay con đến xứ ấy
Cách đây vô số cõi
Khát ngưỡng đã từ lâu
Nguyện khai thị chúng con.

 

Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Dũng dùng kệ khen ngợi Đức Phật rồi lại đảnh lễ nơi chân Phật ngồi theo thứ tự.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo những người trong hội:

–Chư vị hãy lắng nghe! Lắng nghe và ghi nhớ kỹ, Như Lai sẽ giảng nói rõ ràng về hạnh không sinh diệt của Bồ-tát, pháp khoáng trước, giữa, sau đều thiện, hãy ghi nhớ trong tâm.

Các vị Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn:

–Nguyện xin được nghe.

Đức Thế Tôn bảo:

–Đạo chẳng phải là sinh, sinh chẳng phải là đạo, vô tưởng là đạo, vô là đạo hữu chẳng phải đạo, không chấp là đạo, chấp chẳng phải đạo, có sự mong muốn thành đạo đây cũng chẳng phải đạo, không thành không muốn mới gọi là đạo, ý lệ thuộc căn môn chẳng phải chân đạo, phòng hộ căn môn mới chính là đạo.

Khi đó, Bồ-tát trong hội lại sinh ý nghĩ: Thế nào là hành không sinh diệt? Lại nói là đạo, nay nói Niết-bàn chẳng phải là đạo sao?

Đức Thế Tôn biết tâm niệm của đại chúng, liền bảo các Bồ-tát: –Niết-bàn khác với đạo như thế nào?

Đáp:

–Không khác.

Đức Thế Tôn bảo:

–Nếu Niết-bàn khác với đạo, vì sao ở trên nói Niết-bàn là đạo chăng? Đây là vô vi, đây là diệt tận, đây là chỗ an lạc, hoặc nói đây là chỗ Sáu nhập, do cái này sinh nên các kia sinh, do các này diệt nên cái kia diệt, vậy Niết-bàn là đạo chăng?

Đáp:

–Bạch Thế Tôn không phải.

Đức Phật bảo:

–Lành thay! Lành thay! Như lời ông nói, đạo chẳng phải là Niếtbàn, Niết-bàn chẳng phải đạo, sinh vốn là diệt nhưng diệt chẳng phải là sinh. Đạo vốn là Niết-bàn nhưng Niết-bàn chẳng phải đạo. Danh sách Sáu nhập cũng như vậy.

Khi ấy trong chúng hội nghe nói pháp về hạnh không sinh diệt này, khi quán pháp môn định ý đều chứng đắc, tâm không sinh diệt không còn thoái chuyển.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10