SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ NHẤT

Phẩm 1: HƯỚNG DẪN

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật trú tại vườn Nại thị, thuộc thành Tỳ-xá-ly cùng với chúng đại Tỳ-kheo tám vạn bốn ngàn người và mười vạn bốn ngàn Bồ-tát, đều là những bậc Thánh giả thông đạt tất cả, đắc được Tổng trì, Biện tài vô ngại, Tam-muội thường định, trí tuệ tự tại, thông hiểu mười hai duyên khởi, chứng pháp Vô sinh nhẫn sâu xa, đi khắp năm cõi, quán sát dạy bảo, đem trí rộng lớn của Phật che chở chúng sinh, cứu độ tùy theo căn cơ, gìn giữ oai nghi, không mất phẩm chất. Tên của mười vạn bốn ngàn vị Bồ-tát ấy là: Thường Tịnh, Bảo Tích, Bảo Sĩ, Bảo Ấn Thủ, Bảo Tạng, Thủ Ý, Chuyển Pháp Luân, Trừ Ấm Cái, Thí Liên Hoa Hạnh, Sư Tử, Nhật Quang, Kiến Chánh Phản Tà, Bất Trí Viễn, Vô Tổn Chí, Trì Địa, Trì Ma, Tạo Hóa, Thủy Quang, thí Tướng, Ứng Thanh, Kim Anh, Từ Thị, Nhu Thủ…

Bấy giờ, các vị Chủ thế gian, Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn

Nhân, chư Thiên Đao-lợi, Diệm-ma, Đâu-suất, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại, Phạm thiên vương bậc nhất cùng các chúng Phạm đều đến chỗ Phật. Chư Thiên, rồng, quỷ, thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưula, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và Phi nhân cũng đều đến vân tập. Vô số ức ngàn chúng như vậy vây quanh nghe Đức Như Lai nói pháp.

Thấy chỗ ở của mình bị rúng động, ma Ba-tuần liền dẫn đồ chúng đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân rồi đứng qua một bên.

Trong kiếp Hiền này, các vị Chánh sĩ cũng đều đến vân tập chỗ Phật.

Khi ấy, Đức Như Lai dùng ánh sáng của tướng lưỡi chiếu khắp tam thiên đại thiên cõi nước. Thấy ánh sáng ấy, mọi người đều nói với nhau: “Hôm nay tại cõi Nhẫn, Đức Phật Thích-ca Văn phóng ra ánh sáng lớn khắp cả mười phương”.

Trong ánh sáng ấy, các bậc Bồ-tát cao hạnh nói như vầy: “Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở thế giới Sa-ha phóng ra ánh sáng vi diệu, diễn nói mười ngàn Tam-muội cho các bậc Đại nhân. Đây chẳng phải là việc làm của hàng Duyên giác, Thanh văn. Chúng ta, mỗi người nên đem vật cúng dường đến cõi Nhẫn ấy để dâng cúng, kính lễ, thân cận Đức Như Lai”.

Về phương Đông, cách đây chín vạn hai ngàn cõi, có cõi nước tên là Thịnh diệu, Đức Phật hiệu là Thù Thắng Như Lai. Hầu cận Đức Phật là Bồ-tát Chấp Chí, bậc Đại sĩ thông tuệ, trụ không thoái chuyển. Gặp được ánh sáng ấy, Bồ-tát như được thúc đẩy liền đến chỗ Đức Thắng Diệu Như Lai đảnh lễ, quỳ xuống bạch Phật:

–Kính thưa Thánh giả! Con muốn đến cõi Nhẫn để vấn an, hầu thăm Đức Phật Thích-ca Văn và học hỏi những điều chưa được nghe.

Phật Thắng Diệu bảo:

–Này thiện nam! Nay thật đúng thời, ông nên đi, chớ nghi.

Đức Phật lại dặn Bồ-tát Chấp Chí:

–Đến cõi Nhẫn, ông nên thực hành năm mươi lăm việc, luôn phải ghi nhớ, chớ để quên mất. Năm mươi lăm việc là: Bình đẳng đối với người bố thí và không bố thí. Bình đẳng đối với người trì giới và phạm giới. Bình đẳng đối với người nhẫn nhục và không nhẫn nhục. Bình đẳng đối với người tinh tấn và không tinh tấn. Bình đẳng đối với người Thiền định và tâm loạn. Bình đẳng đối với người trí sáng và ngu tối. Bình đẳng đối với người thân và kẻ oán. Bị mắng chửi cũng xem như không. Không phân biệt ba thừa. Cũng không có các tưởng phân biệt khác. Không thấy thiện, cũng không thấy ác. Không thấy cõi Phật là tịnh, cũng không thấy cõi Phật là bất tịnh. Nếu thấy chúng sinh đọa vào đường ác thì không kinh sợ. Nên xem các bậc thượng sĩ như Đức Thế Tôn. Tâm thường nhất như, không có hai. Nếu thấy có kẻ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thêu dệt, say rượu, mê loạn, ganh ghét, sân hận, ngu si, tranh giành lẫn nhau, tâm tưởng tà kiến, vô thường cho là thường thì đều xem như nhau, tâm không tăng giảm. Chớ thấy mình giữ giới đầy đủ, hưởng phước tốt đẹp. Chớ cho mình bố thí, được phước báo lớn. Cũng chớ cho: Nay tuổi thọ của ta tăng thêm vô lượng. Cũng chớ cho thân tướng của ta là tốt đẹp, nhẹ nhàng, được dạy dỗ đặc biệt, còn bọn phàm phu kia thì thấp kém, nhơ xấu. Trừ bỏ bảy mạn, mười hai vô úy. Đây là năm mươi lăm việc Bồ-tát nên nhớ tu hành.

Phật dạy Chấp Chí:

–Này Chấp Chí! Thiện nam, thiện nữ nào tâm ý thanh tịnh, trụ hẳn trong định thì có thể đến cõi ấy. Giả sử người giữ gìn phạm hạnh ở cõi Ta đến trăm ngàn kiếp, cũng không bằng giữ tâm bình đẳng trong khoảng khảy móng tay ở thế giới Sa-ha. Việc làm này hơn trước gấp ngàn vạn lần.

Khi ấy, năm vạn Bồ-tát đều phát thệ nguyện: “Chúng con đầy đủ tâm ý thanh tịnh, nguyện làm hộ vệ cho Bồ-tát Chấp Chí đến hầu thăm Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác”.

Nhanh như khoảng thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, Bồ-tát Chấp Chí cùng năm vạn Bồ-tát bỗng nhiên ẩn mất ở thế giới mình, xuất hiện ở thế giới Nhẫn, hầu thăm Đức Năng Nhân, cung kính đảnh lễ, lui đứng một bên.

Bấy giờ, nhìn thấy chúng hội đã ngồi ổn định, Đức Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:

–Các ông có thấy Bồ-tát Chấp Chí?

Chúng đáp:

–Dạ thấy, thưa Thế Tôn.

Phật dạy:

–Này các Thiện nam! Bậc Đại sĩ này siêu việt ba cõi, hiểu biết sâu xa, biện tài thông đạt, Từ bi vô lượng, thần túc biến hóa, dạy đạo, khuyên người tinh tấn, đi khắp nơi làm nhiều lợi ích.

Lúc đó, ở trên tòa, Bồ-tát Tối Thắng nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân rồi thưa:

–Bạch Đức Thiện Thệ! Con căn tánh ngu si, có điều muốn hỏi, nếu được Đức Thiện Thệ cho phép, con sẽ trình bày.

Phật bảo Tối Thắng:

–Ông cứ tự nhiên hỏi, Như Lai sẽ giải thích cho.

Được Phật cho phép, Bồ-tát Tối Thắng liền hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai Chí Chân nhập Tam-muội gì mà phóng ra ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng? Nếu có chúng sinh thấy ánh sáng ấy thì chắc chắn mọi sở nguyện đều sẽ được như ý, không mất thiện căn. Đây là thần thông gì mà biến hóa vi diệu vậy?

Phật bảo Tối Thắng:

–Điều ông hỏi rất hay, oai lực ánh sáng, lời dạy của Như Lai đã khai hóa, tiếp độ chúng sinh nhiều nơi. Như Lai tùy nghi nhập ức trăm ngàn Tam-muội, đến khắp vô lượng cõi Phật nhiều hơn số cát sông Hằng. Như Lai quán sát, biết rõ đầy đủ vô số triệu triệu căn tánh, tâm hành của chúng sinh như dâm dục, sân hận, ngu si, hung bạo, tự thị, cống cao, phóng dật.

Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, ở Địa thứ nhất, Địa thứ hai, cho đến Địa thứ mười, đoạn diệt bao nhiêu kết sử, tiêu trừ bao nhiêu trần cấu? Bồ-tát hiểu rõ trong và ngoài thân vô sinh như thế nào? Bồ-tát tự xưng là bố thí rộng mà không trừ sự đoạn diệt như thế nào? Bồ-tát thực hành giới đầy đủ, chẳng bao giờ phạm, cũng chẳng hủy phá giới để khỏi thoái chuyển như thế nào? Thế nào là Bồ-tát chỉ nói nhẫn mà không thực hành, nên trở lại làm hạnh phàm phu? Thế nào là Bồ-tát chuyên cần tinh tấn, không biếng nhác mà có nghiệp kiêu mạn, lười biếng tích tập từ xưa? Thế nào là Bồ-tát nhập pháp định ý, cho dù thiên lôi chấn động nhưng tâm cũng không tán loạn? Bồ-tát mới phát tâm tu hành không để gián đoạn như thế nào? Bồ-tát biết sự an ổn không thể bỏ như thế nào? Tâm Bồ-tát độc tôn siêu việt khác chúng như thế nào? Thế nào là chỗ hướng tâm của Bồ-tát không ai có thể biết?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Hay thay, hay thay! Những điều ông hỏi thật là lợi ích, thật là sâu sắc. Nay Ta sẽ diễn nói nghĩa ấy cho ông. Việc làm của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ vô biên không ai có thể bằng, nên mới có thể phát tâm, rống tiếng sư tử ở trước Đức Như Lai. Ông hãy lắng nghe, khéo ghi nhớ kỹ.

Tối Thắng liền thưa:

–Vâng, con xin ghi nhận.

Phật dạy:

–Bồ-tát phát tâm cầu đạo Vô thượng, trước phải đoạn trừ tà kiến, thân kiến, giới thủ, có trí hiểu rõ khổ đế, phát khởi chí nguyện, giữ giới đầy đủ, luôn tự quán xét việc làm của mình, nguyện lìa xa việc phàm tục. Vì tánh năm ấm chẳng thể thủ đắc nên đạo cũng chẳng thể thủ đắc. Vậy làm sao ngoại đạo có thể dựa vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà độ thoát chúng sinh được.

Này Tối Thắng! Hạnh quán năm ấm cũng không, hạnh quán chúng sinh cũng không, cũng lại không thấy có người để độ. Giáo pháp ấy không thể nêu bày, chẳng phải hàng La-hán, Bích-chi-phật đạt được.

Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chẳng từ hạnh quán năm ấm là không mà được đạo, chẳng từ hạnh quán chúng sinh là không mà được đạo. Vậy có thể từ pháp tứ cấm mà được đạo chăng?

Đức Phật dạy:

–Chẳng phải vậy.

Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu không từ bốn pháp ấy mà được, thì có thể từ pháp “không” mà được chăng?

Đức Phật dạy:

–Chẳng phải vậy.

Bồ-tát Tối Thắng lại thưa:

–Chẳng từ pháp “không”, chẳng từ bốn việc mà được đạo. Vậy hôm nay Như Lai và đại chúng chẳng thành đạo Vô thượng, cũng chẳng được phước báo sao?

Phật dạy:

–Việc thành đạo Vô thượng chỉ cần không trụ vào tánh có, cũng không trụ vào tánh không, là thành Đẳng chánh giác.

Tối Thắng bạch Phật:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; pháp nội, ngoại; thiện, ác; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; tên gọi các pháp của Như Lai nói là gì? Làm sao dùng danh tự, tư tưởng đó để dạy bảo cho tất cả chúng sinh?

Phật dạy:

–Này thiện nam! Hành không có danh, cũng không có tưởng niệm, chẳng thấy hai pháp ra vào, đến đi, lên xuống nên gọi là Nhất thiết trí. Bồ-tát nên dùng mười pháp để biết rõ việc của mười Địa. Mười pháp là Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế, Diệt tận vô sinh, tự biết thân mình và người khác, biết sáu phái ngoại đạo và sáu mươi hai tà kiến đều hư rỗng.

Khi hành pháp này, Bồ-tát sẽ trừ được hữu tích và vô tích. Trừ hữu tích và vô tích như thế nào? Đạo là tích, phi đạo là vô tích. Đến đi là tích, không đến đi là vô tích. Bồ-tát nên nhớ tu các trụ địa, đoạn trừ hành khổ, lửa dâm dục, độc sân hận, gai ngu si; phát tâm Từ bi khắp cả bốn phương, tuy có tâm thương nhưng ý không có tưởng. Chẳng vì mình mà làm việc bố thí, thí cho tất cả chúng sinh mà không có nuối tiếc. Làm việc bố thí, Bồ-tát không thấy mình cho, cũng không thấy người nhận và tài vật thí. Nhớ giao tiếp với người hiền thiện. Thường khiêm cung, không cống cao. Khi nói pháp, Bồtát không thấy có pháp, vượt ra chỗ nói pháp và không có tưởng về pháp. Ngày Bồ-tát xuất gia là cắt đứt ái dục, dùng pháp hoàn toàn không để đoạn trừ sự luyến ái, cầu đạo thành Phật, không lệ thuộc vào tướng đẹp; cũng chớ cho: “Ta được đạo trước, còn người kia thành đạo sau”.

Bồ-tát truyền bá giáo pháp, chứ chẳng bao giờ hủy hoại pháp, luôn hướng đến đạo quả, không bị dục trần lôi kéo, thường nhớ nghĩ diệt trừ tâm cống cao, chẳng cầu phước báo và tài vật quý để tự dùng riêng. Bồ-tát đã ghi nhận lời nói chân thật thì không còn tưởng về ngôn ngữ đó. Xem thân như hư không, nhưng không tưởng chấp không. Đó là Bồ-tát thành tựu tích Địa thứ nhất thanh tịnh bằng khổ trí.

Lại nữa, với sự hiểu rõ khổ, tập, Bồ-tát thực hành trăm ngàn thiền định. Nếu muốn được định ý Tam-muội như tâm Phật thì chẳng thể dùng sắc tướng, vẻ đẹp, hành động theo thói quen mà đạt đến trụ thứ nhất. Bồ-tát cũng chẳng nên hy vọng làm thì có kết quả như vậy, không làm thì không có kết quả như vậy. Do thường biết vậy, nên không nhớ quá khứ, chẳng lo nghĩ vị lai, chẳng nghĩ hiện tại và cảnh giới tái sinh. Chẳng từ năm ấm, sáu trần, cũng chẳng lìa năm ấm sáu trần mà được pháp này. Nên tư duy chỗ sinh diệt của sáu vô căn bản. Sáu vô căn bản là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lại nên biết rõ chỗ sinh khởi của sáu trần, quán sát biết rõ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cũng lại chẳng bằng sự thấy, nghe, nhớ, biết của tâm, ý, thức mà được trụ Địa thứ nhất thanh tịnh. Chẳng dùng pháp sinh diệt hư vọng, tưởng thường còn mà được Địa thứ nhất thanh tịnh. Chẳng do không chánh, không tà, không tạo tác, ý bình đẳng, dứt sự tìm cầu, chẳng có thị phi mà được trụ địa thanh tịnh. Cũng chẳng từ một, hai, ba, bốn, cho đến trăm ngàn định ý, cũng chẳng lìa trăm ngàn định ý mà được trụ địa thanh tịnh. Chẳng vì tâm ý hiểu rõ trong ngoài các niệm vọng tưởng, việc phải trái, cũng chẳng vì hiểu rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được trụ địa thanh tịnh. Cũng chẳng thể dùng giới văn, định ý, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, mười lực vô biên, bốn vô sở úy, mười tám pháp căn bản quý báu của chư Phật, ý tưởng, tri kiến, ngã tưởng, vô ngã tưởng, chỗ sinh diệt của năm ấm, sáu trần, cũng không có chỗ trụ, cũng không có chỗ không trụ mà được trụ địa thanh tịnh. Đó gọi là trụ địa thanh tịnh thứ nhất của Bồ-tát. Trụ địa này chẳng phải là chỗ trú của sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng phải là chỗ ở của mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc. Vì sao? Vì mắt chẳng thể tự thấy được các tướng, hiểu pháp không sinh, không diệt, vô thỉ vô chung. Đây gọi là Bồ-tát được thanh tịnh nơi quả vị ở hàng Sơ địa, thành tựu đầy đủ đạo tuệ, làm đúng những điều Như Lai đã dạy. Khi nhớ nghĩ những điều ấy, thì liền hiểu ngay, có thể dạy cho người khác đọc tụng và có khả năng thông suốt toàn bộ pháp tạng thâm yếu của chư Phật.

Phật bảo Tối Thắng:

–Này thiện nam! Bồ-tát nên hành đủ sáu Độ vô cực, xả bỏ thân tướng, không có tham cầu, chẳng sinh ba niệm chấp trước pháp, đây gọi là thí Độ vô cực. Muốn biết sự tận cùng không lệ thuộc vào thân Phật, thì Bồ-tát phải thông đạt pháp không, đây gọi là trì giới Độ vô cực. Chẳng tự cho rằng ta thành tựu ba mươi hai tướng tốt, hiểu rõ các pháp chỉ là giả danh bằng văn tự, tướng mạo, trụ pháp bất sinh, đây gọi là nhẫn Độ vô cực. Quán rõ sự hoạt động của tất cả pháp, cũng không nghe, không thấy, không thực hành theo pháp đạo sĩ; thấy điều thiện chẳng vui, gặp việc ác cũng chẳng buồn, ý vượt qua thân sơ, đây gọi là tấn Độ vô cực.

Tâm chẳng khởi niệm làm cho loạn tưởng, tự giữ vắng lặng, ý thức an định, đây gọi là thiền Độ vô cực. Hiểu rõ tướng sắc không, phá bỏ sắc không, cũng chẳng tự cao, chẳng tự đại, thông hiểu tướng các pháp chỉ là một, cũng chẳng phải một, đây gọi là trí Độ vô cực. Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo cứu độ chúng sinh một cách thích hợp, khiến cho không còn sót một ai.

Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát phát tâm ở bậc Sơ địa, tu hành bằng pháp trí khổ Thánh đế, nên được đầy đủ các Tam-muội, các đàlân-ni, trí tuệ tự tại.

Lại nữa, Bồ-tát trụ ở cõi Dục được mười ngàn Tam-muội này, nên dùng phước báo của khổ trí, đẳng trí để hiểu rõ mười pháp: tham dục, sân hận, kiêu mạn, ngu si, hoài nghi, thân kiến, tà kiến, nội kiến, giới kiến, đạo kiến. Biết rõ mười pháp như vậy rồi, Bồ-tát nên trừ sạch, chớ để sinh trở lại. Ở cõi Sắc và Vô sắc, Bồ-tát lại dùng khổ trí và đẳng trí để hiểu rõ mười tám kết sử. Tuy hiểu rõ như vậy, nhưng không phá hủy, cũng không làm cho tăng trưởng.

Này Tối Thắng! Ông nên biết! Hàng sơ học phát ý trụ ở cõi Dục, Sắc và Vô sắc giới dùng tập nghĩa, đẳng nghĩa để tư duy, diệt tận mười chín nạn oán đối, tai hoạn tang thương, phiền não kết sử. Ở trong ba cõi, Bồ-tát quán sát mười chín pháp mê muội, hai mươi hai đạo trong ba cõi, cũng nên tư duy trọn vẹn về ba mươi bốn Thánh ý vô lậu, đủ các công đức, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, hiểu pháp không hai. Bồ-tát tu như thế thì được hạnh thanh tịnh ở Địa thứ hai.

 

Phẩm 2: Ở LẠI ĐỂ HÓA ĐỘ

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở Địa thứ hai làm thế nào để được đầy đủ các hạnh, kết quả không trái với ý nguyện?

Phật bảo Tối Thắng:

–Bồ-tát ở Địa thứ hai thường phải tư duy về giới của mình thanh tịnh, biết ân nặng, siêng tu nhẫn nhục, cung kính, nhún nhường, tâm thường vui vẻ, tươi cười giảng nói, hành Từ bi lớn, hiếu thuận Sư trưởng, chánh tín Tam bảo, học tuệ nhiệm mầu, không sinh tham nhiễm, chấp có thường còn. Người chấp thường thì cho: Trong vòng luân hồi có đạo thường. Đạo thường thì không đúng, mà đúng thì không phải thường. Đó mới gọi là đúng. Đúng tức là không đúng, có gì gọi là đúng?

Cho nên, này Tối Thắng! Bồ-tát biết đạo không có cao thấp, cũng không có hình tướng; dù hư không có thường, lời nói có hình tướng thì chân đạo cũng không thể thấy được. Tâm vị ấy như nhiên, không bị ràng buộc, tu tập công đức, không lìa chư Phật, không bị gián đoạn nửa chừng, diệt tận tất cả điều ác, tâm được an định, không bị giao động, chí như kim cang, không lệ thuộc người khác, biết được gốc của các pháp dứt trừ các cấu bẩn, tiêu diệt tối tăm. Pháp của vị ấy chiếu sáng rực rỡ khắp nơi, làm cho tâm ý ngay thẳng, không có dối trá, tâm hành bình đẳng, không có phân biệt. Từ khi phát tâm cho đến nay, Bồ-tát luôn giữ tâm thanh tịnh. Nhờ gốc thanh tịnh nên các cấu bẩn bị loại trừ, tắm trong dòng nước mát, rửa sạch các phiền não. Tâm tin của Bồ-tát vững chắc, không bị lay động, ý bố thí rộng lớn không có bến bờ, tâm như hư không, không có cùng tận, dung nạp nuôi dưỡng tất cả chúng sinh thấp hèn, làm cho họ được độ thoát. Vì sao? Vì trí tuệ của Bồ-tát đã thuần thục, không điều gì là không biết, tâm trùm khắp mọi nơi, không có ngằn mé, Từ bi rộng lớn, chứa hết tất cả, biện tài thông suốt, thường luôn hổ thẹn, hạnh nguyện kiên cố không bị trở ngại. Năng lực hiểu đạo của vị ấy thấu triệt tất cả, biện tài hơn người, ai cũng kính mến. Bồ-tát không quên các Tổng trì đã được, không bao giờ giảng nói điều không cần thiết, không còn hoài nghi về trăm ngàn thiền định. Nghe pháp thiện ác, Bồ-tát không có vui buồn, không tự cao, cũng không tự ti, đi đứng khoan thai, không mất oai nghi. Bồ-tát hiểu rõ mười hai xứ, biết năm ấm và chỗ sinh khởi của sáu trần. Lại dùng khổ, tập, tận, đạo hiểu rõ mười hai duyên khởi, thông suốt trọn vẹn từ vô minh, hành cho đến sinh tử, quán sát năm căn, tư duy đầy đủ, không còn chìm đắm trong luân hồi sinh tử, tiêu diệt các lậu bằng tám mươi bốn trí. Bồ-tát nguyện lưu lại hóa thân để giáo hóa trong một kiếp. Cũng như thân ta đây, tất sẽ vào Vô-dư Niếtbàn, nhưng không diệt độ hẳn, vẫn ở lại để hóa độ, nói pháp vi diệu cho vô số chúng vây quanh trước sau, tại cõi Hiền minh.

Tối Thắng nên biết! Về phương Bắc, cách cõi Hiền minh này mười ba ức hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Bất động chuyển, Phật hiệu là Chiếu Ý Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Ở thế giới này không có tên của Thanh văn, Duyên giác, chỉ thuần những bậc tu theo hạnh Đại thừa, lấy Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Thần thông để làm niềm vui; dùng trí vô cực bao phủ toàn thân, tùy thời phân biệt ý nghĩa sâu xa của từng câu, từng đoạn. Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của những vị ấy rộng như hư không, xem chúng sinh thì biết rõ tâm tánh, rưới mưa pháp vị cam lồ vô cực, làm cho người hưởng được không còn kết sử nóng giận. Những vị ấy tu hành ba Tam-muội: Không, Vô tướng, Vô nguyện; vượt qua sinh tử, đứng bờ vô vi, thâu phục ma trần lao và tâm độc hại.

Thần túc của Đức Phật ấy biến hóa vô cùng, đến khắp vô lượng cõi Phật. Người được vị ấy giáo huấn không biết đây là hóa thân, nên cho là Phật thật.

Trong quá khứ, hằng hà sa chư Phật đều để lại hóa thân Phật, tiếp độ chúng sinh, làm cho đạt được vô vi, cho nên sự ẩn mình tùy duyên hóa độ của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Các Đức Phật trong vị lai như Đức Từ Thị cũng đều lưu lại hóa thân Phật để dắt dẫn chúng sinh. Ta tuy diệt độ nhưng hóa thân Phật thì không diệt độ. Vì vậy, này Tối Thắng! Hóa cũng không hóa, Phật cũng không Phật, hiểu rõ không tịch, không có hai, ba tướng.

Bồ-tát ở Địa thứ hai thường nên tu tập các pháp huyễn hóa, quán sát địa trí tuệ, địa thành tín, địa kiến, địa bạt, địa cuối cùng, địa của bậc Thanh văn, Duyên giác đạt đến. Bồ-tát tuy chữa lành bệnh, nhưng không thủ chứng.

Này Tối Thắng! Giả sử Bồ-tát ở Địa thứ hai muốn chứng đắc quả vị Thanh văn hay Duyên giác thì chẳng có gì là khó. Ví như có người tay cầm vòng hoa hay ngọc châu minh nguyệt ném lên hư không, trong thời gian nó chưa rơi xuống đất, Bồ-tát đã đoạn trừ sạch các phiền não, kết sử, lậu hoặc; không còn khổ sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, bi não. Tuy biết đã đoạn trừ hết các phiền não, nhưng Bồ-tát không giữ sự chứng đắc. Vì sao? Vì chưa quán sát căn cơ thượng trung hạ của chúng sinh. Tâm Bồ-tát kiên cố hướng đến chỗ cứu cánh, nổi lên đám mây không triền cái, phát ra tiếng sấm trí tuệ, làm mưa thuốc cam lồ, đem cho vật quý chân đế, không đoạn trừ ba nghiệp, ý niệm trong sáng như nước tinh khiết, tự trang nghiêm thân bằng cấm giới, tô điểm thân thể bằng các phước đức, cung phụng các bậc Hiền thánh giác ngộ tôn quý, cho đến khi trụ Nhất sinh bổ xứ. Ở ngôi vị này, Bồtát học các bản nghiệp của chư Phật trong hiện tại đã làm, học các Tổng trì không có chỗ trụ, luôn phát khởi ý tưởng làm trang nghiêm đạo tràng. Trong lúc đi đứng, Bồ-tát luôn thực hành pháp quán niệm hơi thở. Tâm vững chãi tự tại, ý chí kiên cường, không sợ hãi nơi chốn đông người. Tâm phát nguyện viên thành, đáng được ái kính. Bồ-tát nói pháp lợi ích an vui cho các chúng sinh. Tâm ấy đặc biệt siêu việt khác chúng.

Này Tối Thắng! Nếu tướng “không không” mà có thể nắm giữ được thì thủ thuật lạ của ngoại đạo cũng chẳng làm gì được. Do vậy, hàng Thanh văn, Duyên giác thường được tôn kính.

Khi ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát ở Địa thứ hai thông đạt pháp không, lìa xa các nghiệp của thân, bỏ những lời nói gây họa của miệng, trừ các loạn niệm của ý, tiêu diệt ba uế, chế phục ba nạn, trừ năm sự che lấp, truy tìm mười hai duyên khởi mà nguồn gốc là vô minh và hành; trừ bỏ dần, không để năm thượng phần, hạ phần kết sử ở khắp tam giới tăng trưởng; tư duy mười một bệnh khổ não, bỏ các bệnh tham đắm bốn đại, hiểu rõ các pháp ác, tránh việc thế tục, trừ các tập tục, đoạn trừ ái dục, nóng giận, tham nhiễm, nhổ sạch gốc rễ không để cho phát triển. Bồ-tát thường nhớ tư duy về vô ngã, đứng vững nơi bốn niềm tin, trụ bốn Ý chỉ, thành tựu bốn Ý đoạn, ý chí kiên cường, thông hiểu tạng pháp bảo Thất giác chi, hành trì tám Thánh đạo, luôn nhớ tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân.

Này Tối Thắng! Bồ-tát ở hàng nhị địa giữ tâm điều ý, biết rõ các niệm đều không, không thật có, nên được thọ ký ở ngôi Bồ-tát thượng vị. Bồ-tát chẳng làm các việc, cũng chẳng bỏ các việc, học trí bậc thượng tuy có tôn quý nhưng không tự cao, quán biết các pháp chỉ là một pháp, không tưởng chấp hai, ba, không khởi tưởng chẳng có lợi ích, không bị giới hạn nơi tưởng có không, biết rõ tưởng không có xứ sở, nhưng không trụ nơi đó. Bồ-tát chỉ cần thanh tịnh chánh giác như sự thanh tịnh của chư Phật, khéo điều phục tâm, trụ chánh không tà, quán biết tất cả thiện ác đều là không, không có điều gì là không thông hiểu. Bồ-tát cũng không thấy có tịnh, không tịnh, có quán, không quán, chân không là một, cũng không thấy một, biết một bỏ một, không trụ nơi một, cũng không từ một mà sinh các tưởng.

Bồ-tát học tập ý thù thắng, không học hữu hạn, không thấy có hữu hạn, có thắng, có thua, không để tâm tán loạn chạy theo pháp trong ngoài, khéo phòng ngừa thức, định không thoái chuyển. Bồ-tát tuy ở trong ba cõi mà không đắm nhiễm nơi ba cõi, quán sát các tánh biết rõ không có gốc rễ. Người biết không có gốc rễ, được gọi là Bồtát trụ Địa thứ hai thanh tịnh.

Bồ-tát tự điều phục tâm mình, quán gốc các pháp biết tất cả đều là vô thường, không có chỗ vào, cũng không có chốn ra, không có thiện, bất thiện, danh dự tốt-xấu, được-mất, chê-khen, tán dương phỉ báng, khổ-vui. Bồ-tát điều hòa tâm ý, không có âu lo. Ở bất cứ nơi nào Bồ-tát cũng mở bày kho tàng pháp lớn, vào biển pháp lớn, tìm cầu bảy tuệ, làm khô ba ái, ngăn chặn bốn dòng, tu sáu pháp trọng yếu, thành tựu hạnh viên mãn. Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát Đại sĩ đầy đủ các pháp rồi, biết pháp không có hình tướng, không thể thấy được. Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ hai tu tập được hạnh thanh tịnh.

Phẩm 3: QUÁN KHÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở Địa thứ ba làm thế nào để hạnh của mình được thanh tịnh?

Đức Thế Tôn dạy:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học không nên nhớ nghĩ tạp loạn, học rộng hiểu nhiều nhưng không cho là đủ, không đi sâu vào nguồn gốc chữ nghĩa, văn tự khi nói pháp; khiêm tốn đối với mọi người; làm trang nghiêm cõi nước, nhưng không chấp cõi nước, làm các việc lành, không có cống cao. Bồ-tát mới phát tâm tu hành, chớ để cho gián đoạn, nguyện thành tựu công đức, ý chí vững sáng, quán các chúng sinh, nói pháp hỷ lạc. Bồ-tát mới phát tâm nên lấy đạo làm gốc, nhờ vậy mà đạt được đạo quả tĩnh lặng. Bồ-tát nhớ nghĩ bố thí rộng khắp tất cả, kiến lập chí nguyện trì giới đầy đủ, chuyên tâm tinh tấn, tu hành không biếng nhác, thường luôn an vui, lấy đạo làm sự nghiệp, làm người dẫn đường cho kẻ lạc lối. Nhờ hiểu pháp của bậc đại trí nên từ khi mới phát tâm, Bồ-tát không trụ vào nơi nào, dùng Từ bi rộng lớn không ai có thể biết được, nhổ gốc tham dục, lập hạnh Đại thừa, hành pháp Từ bi, thương người chưa được cứu độ, vui mừng thấy người được độ, bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, không giao động trước cảnh khổ vui, giúp đỡ tất cả chúng sinh đi vào cửa đạo, được các Đức Như Lai hộ trì, ghi nhớ thuận theo lời dạy của mười phương chư Phật, cứu độ tất cả chúng sinh khổ nạn ở trong năm đường, phát triển đạo pháp, làm cho Tam bảo trường tồn, không còn sai lầm, liền thành đạo quả, thuận theo giới luật, làm khuôn mẫu cho đời, giảng dạy sự quý báu không cùng tận của trí tuệ. Giống như hư không không có cùng tận, Nhất thiết trí của Bồ-tát cũng không có cùng tận, tâm thức Như Lai cũng như vậy; không có hai: Sinh diệt, thường đoạn Tam-muội định ý, trí tuệ giải thoát ấy vượt qua cái biết của thân kiến, có không, gần xa, cũng không thể thấy được.

Tối Thắng nên biết! Pháp chính yếu sâu xa của tất cả chư Phật không có cùng tận, cũng không có đầu mối. Cả ba đời: Quá khứ, vị lai, hiện tại có hợp ắt có tan, không thấy có một cái gì có tập họp, có thành tựu mà không tan rã. Sự thay đổi đó chẳng phải một, do bốn đại tạo thành. Đất, nước, gió, lửa chúng ta không thể xúc chạm, không thể thấy được. Bồ-tát dùng trí tuệ để hiểu biết tâm hành của chúng sinh, giữ vững bản nguyện không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp không từ đâu sinh, cũng không đi về đâu, tìm không thể biết được. Do pháp không có chỗ sinh, cũng không có sinh; sinh đã không sinh thì cái gì gọi là sinh? Do vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát phát tâm không có cùng tận, chẳng thể thiết lập tâm ý, hình tướng nơi các pháp, cũng không dua nịnh mong cầu các pháp. Tâm ấy ngay thẳng, vượt hơn mọi người. Bồ-tát tu pháp an tâm, pháp tự quán thân mình và người đều rỗng không, không sinh tưởng khác; quán thân không ô nhiễm nhưng không thể thủ đắc, cũng không có người chứng đắc, hiểu rõ tất cả chỉ là một. Đi, đứng, tới, lui, Bồ-tát quán sát các loại thân của chúng sinh trong tam giới đều do vô minh, ái dục mà bị khổ não, hiểu rõ pháp không hai, không thể thấy; biết thọ, tưởng, hành trong và ngoài đều như hư không, không có sinh diệt.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học quán hơi thở ra vào dài ngắn, nhanh chậm, biết rõ hơi thở đi qua mỗi lỗ chân lông trên thân; hơi thở ra là ấm, hơi thở vào là mát, thấu rõ sự vận hành lặng lẽ của hơi thở không có hình tướng. Bồ-tát quán thân, biết rõ thức cũng không có xứ sở, tâm ấy thanh tịnh, bình đẳng, ngay thẳng, nhu hòa, không có thô loạn. Bồ-tát tin tâm ấy một cách chân chánh, chưa từng thay đổi, ý chí kiên cường không yếu đuối, không ai có thể oán ghét làm hại. Vì sao? Vì phạm hạnh đã viên mãn, không ai có thể bì kịp, không ai có thể hủy báng. Một người vô tội, tâm cấu đã tiêu trừ thì dựa vào đâu mà vu khống họ? Bồ-tát nguyện làm cho bánh xe chánh pháp thường luân chuyển ở đời để mọi người sớm được trí tuệ vi diệu, làm ánh sáng chiếu khắp những nơi tối tăm, như mặt trời không bị mây che, trồng gốc thiện đạo, tự quán vô ngã không có chỗ sinh, quán pháp trong ngoài cũng đều như vậy; cũng lại không thấy có chỗ sống chết, chỗ sinh diệt, cho đến không nghe thấy La-hán, Duyên giác và Phật. Nếu tưởng có thấy thì chẳng phải là thấy, không có tưởng về thấy, cũng không dừng ở tưởng thanh tịnh đó, vì tưởng đó chưa rốt ráo. Đó là thấy “không”, không có cái để thấy.

Lại nữa Tối Thắng! Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài, không trụ nơi đạo, cũng không trụ nơi thế tục, không trụ có, cũng không trụ không, không bị sinh diệt, cũng không dao động, không ngằn mé, rộng sâu không đáy, cũng không có âm vang, gốc ngọn đều chấm dứt.

Do vậy Tối Thắng! Bồ-tát nên quán thế này: Quán sự không quán, thấy cái không thấy. Bồ-tát tu hành là không, là diệt, là không có sở hữu. Bồ-tát trụ Địa thứ ba nên dùng các pháp định khiến ý chuyên nhất, thanh tịnh, vắng lặng. Người tu như vậy là ứng hợp với Niết-bàn, ứng hợp với vô sinh. Pháp này là pháp không, không cũng không có, tạm dùng văn tự gọi là pháp tánh. Bồ-tát hiểu rõ pháp tánh không duyên với đến đi, tu pháp ý đoạn nhưng vì thương thế gian mà thị hiện có tên gọi. Pháp ác chưa sinh, Bồ-tát nên tinh tấn chế ngự, chớ để sinh khởi. Pháp ác đã sinh thì nên chế ngự ý, khiến cho đoạn diệt. Pháp thiện chưa sinh, Bồ-tát nên tinh tấn làm cho sinh. Pháp thiện đã sinh thì nên làm cho tăng trưởng, chớ để giảm mất. Bồ-tát trụ Địa thứ ba thực hành định thần túc, đắc định hỷ lạc, dứt các tâm hành, thâu thần túc lại để giữ thân tâm. Nhờ định tinh cần nên trừ được các điều ác, lại thâu thần túc để giữ thân tâm, dùng định của ý trừ các tâm hành, thâu thần túc để giữ thân tâm, dùng định của trí tuệ trừ các tâm hành. Bồ-tát thâu thần túc, gom giữ thân tâm khiến được nhập vào các căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ; đi vào giải thoát. Pháp Phật không có cùng tận, không ta, không người, cũng không nhân duyên, không có trói buộc; người tham thì chấp thường, kẻ sinh tử khổ thì chấp đoạn. Tất cả đều hư rỗng, vậy mà chúng sinh lại mến chuộng thân tướng, chấp vào họ tên, tạo tác trong nhiều đời, đau khổ theo sau như bóng theo hình không rời nửa bước, như xe quen đi theo lối cũ, không biết manh mối đầu đuôi. Bồ-tát thực hành Thiền định nhưng không lệ thuộc vào định, chánh quán không chấp trước, diệt tận tưởng tham nên được thanh tịnh giải thoát; hiểu rõ các hành nên ý không còn phiền não, không còn luân hồi sinh, già, bệnh, chết; tuệ nhãn rực sáng chiếu khắp thế gian, nhổ sạch mười hai nhân duyên, đầy đủ trí tuệ.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát Đại sĩ nên tu hành năng lực thần đức. Vì thần lực này, uy lực của ngoại đạo, Thiên ma không thể hủy hoại, không ai có thể ngăn cản. Lực tín, tấn, niệm, định, tuệ ấy là pháp mà Bồ-tát thường phải tu tập. Thứ đến, Bồ-tát tiến dần theo pháp Hoa thất giác ý, thực hành mười lăm tâm bằng pháp này, đoạn tâm keo kiệt, hành Bồ-tát đạo, thành tựu trí tuệ vi diệu sâu xa không thoái chuyển. Pháp Hoa giác ý này là vô vi, không tạo tác, trừ bỏ xấu ác, hạnh bất thiện. Tinh tấn giác hoa hợp với người biếng nhác, nếu người phóng dật thì dùng pháp này chế ngự, chớ để buông lung. Hoan hỷ giác hoa là pháp ứng hợp với chi thiền thứ ba, thâu nhiếp các loạn tưởng, được vắng lặng vô vi. Ỷ giác ý hoa làm cho không còn tham nhiễm, thấy rõ các pháp, không còn bị lệ thuộc. Tín giác hoa làm cho ý chí thêm kiên cố, diễn nói pháp vi diệu không còn hoài nghi. Bồ-tát cũng nên tư duy về vô trước giác hoa, đoạn trừ một trăm lẻ tám tâm tham nhiễm. Bồ-tát lại phải tu tập tám đạo của Hiền thánh: Đẳng niệm (chánh kiến), đẳng định (chánh tư duy), đẳng ngữ (chánh ngữ), đẳng hành (chánh nghiệp), đẳng nghiệp (chánh mạng), đẳng tập (chánh tinh tấn), đẳng ý (chánh niệm), đẳng định (chánh định) thì vượt qua được tám nạn, thoát khỏi sáu trần, biết rõ ba pháp Tam-muội. Người đầy đủ các hạnh này được gọi là Bồ-tát trụ Địa thứ ba thanh tịnh.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Đại sĩ tu tập tuệ môn, biết rõ pháp “không không”, không có hình tướng, không thể thấy được. Nói pháp cho người, Bồ-tát hết tâm giảng dạy đúng với chánh pháp, không nói sai khác. Nếu có giúp đỡ cho người thì không được mong đền đáp, cũng không cầu tiếng khen của người. Từ việc bố thì cho đến việc cúng dường, làm bất cứ việc gì, Bồ-tát cũng không vì mình mà làm, nên trước cầu cho chúng sinh an ổn, sau đó mới lo cho mình. Sở dĩ Bồtát đạt được sự an ổn là nhờ công đức bố thí. Bố thí dù có khổ nhọc cũng không thấy mệt mỏi, chán đủ; thương xót tất cả chúng sinh. Với tâm Từ lớn, Bồ-tát nhổ sạch sự già, chết; dạy pháp tinh tấn cho người biếng nhác. Sở dĩ người dũng mãnh là nhờ tinh tấn. Vì muốn độ thoát các loài chúng sinh, Bồ-tát thường nên tự nghĩ: “Nhờ chúng sinh mà ta đạt được đạo quả, đầy đủ các nghiệp công đức”. Bồ-tát làm hết khả năng nhưng không mong cầu phước báo. Vì sao? Vì nhờ tâm thanh tịnh và thấm nhuần giáo pháp cho nên không mong cầu. Còn người thế gian do mong cầu mà mất đi sự lợi ích. Bồ-tát dùng lực trí tuệ này để giữ gìn tất cả pháp, làm cho tất cả chúng sinh ở chỗ mình đều được an ổn, không còn oán hận. Bồ-tát tạo dựng sự nghiệp được an lạc, vững chắc nên thâu phục được tất cả mọi người mà không ai có thể chống đối.

Này Tối Thắng! Bồ-tát phát thệ nguyện rộng khắp khó lường, trí tuệ vô biên không có cùng tận, giống như vàng của trời không còn cấu bẩn. Vì sao? Vì không còn nhiễm ô, trần cái tiêu trừ, tham dục dứt hẳn, các tâm xấu ác không thể khuấy động, ý chí kiên cường, không thua điều ác, chế ngự niệm tà, không để nóng giận, ngu si, tham đắm sinh khởi, trừ sạch năm dục, cống cao tự đại và không làm những pháp bất thiện khác. Bồ-tát trụ Địa thứ ba thường phải giữ gìn tâm này, hiểu rõ pháp bên trong không có hình tướng, không thể thấy được, giả sử tâm ấy có tướng thì pháp tánh bị hủy mất, vứt bỏ gánh nặng và các cấu uế. Cho nên Bồ-tát gìn giữ tâm này, chớ có biếng nhác, xét tìm tâm thức không có xứ sở, không thể thấy được, không có tưởng. Người tâm tán loạn nên thâu nhiếp ý, khiến cho được định. Người không có trí tuệ thì nên tu dưỡng cho đến khi thành tựu. Đối với tất cả chúng sinh thọ thân hình có công đức, hoặc không có công đức, Bồ-tát đều phải độ thoát, khiến cho họ đạt đến Đại thừa, suy nghĩ về Đại thừa cũng không có dấu vết. Bồ-tát dạy cho tất cả chúng sinh đi vào pháp hành, ý chí kiên cường sẽ thành tựu đạo quả ở Địa thứ thứ ba thanh tịnh. Tại những nơi hiểm nạn, Bồ-tát đều tạo lập công đức vĩ đại, tuy được phước báo nhưng không thể nắm bắt. Tâm cũng như vậy, Bồ-tát không thể thấy được. Vì sao? Vì bằng trí tuệ, Bồ-tát quán biết không có quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Tối Thắng! Bồ-tát nên tu học tâm đại Từ. Nếu có chúng

sinh khổ nạn, hết tâm cầu xin cứu giúp để bảo toàn thân mạng thì Bồtát thà mất mạng, chịu nhiều khổ não mà cứu thoát họ, chứ không làm trái với thệ nguyện. Người hành từ ấy phải bình đẳng như cái cân, nếu được lợi ích cũng không lấy đó làm vui, bị hủy báng cũng không ưu buồn. Đó là Bồ-tát tùy thời hành từ. Hành từ ấy là dùng ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, không làm việc ác, không nghĩ điều tà. Tuy một mình giữa chốn trần lao ngu si, Bồ-tát không sợ, cũng không tự đại, nhớ pháp đã học, không bỏ trí lớn và các tuệ thần thông, thông suốt pháp chư Phật. Tùy chỗ mong cầu của người mà Bồ-tát đáp ứng, không làm trái nghịch tâm họ.

Đức Thế Tôn lại bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Thuở xa xưa, ở Địa thứ ba thanh tịnh, ta tu học công đức cùng vô số bè bạn không thể tính đếm. Trong số đó, nhiều người đã thoái chuyển, không thể nói hết. Từ Địa thứ nhất đến Địa thứ ba, ta phát nguyện rộng lớn không thoái chuyển. Trong thời gian ấy, ta tạo công đức cũng không thể tính lường, lại còn bố thí các vật trân bảo quý báu hiếm có: Đất nước, vợ con, tài sản… không thể kể hết. Ta chỉ nhớ nghĩ, nguyện bố thí cho những ai đến xin. Ta đã bố thí chín ngàn chín trăm chín mươi chín cái đầu. Sau cùng, ta gặp hổ đói suy nhược gần chết, không đủ sức để vồ lấy con mồi, nên muốn ăn con mình để bảo tồn mạng sống. Nó duỗi thân, giơ móng vuốt đến trước muốn vồ lấy con. Khi đó, ta nói với hai người bạn là Từ Thị và Nhu Thuận: “Nay đúng là lúc, ai có thể lập tâm dũng mãnh siêu việt, đem thân thí cho thú đói kia?”. Hai vị ấy nhìn nhau, miệng tuy không nói nhưng ta biết tâm họ muốn thoái chuyển, có ý muốn rút lui. Nên từ trên đỉnh núi, ta liền nhảy xuống hang sâu. Lúc đó, trời Thủ Đà Hội liền hạ xuống đỡ ta, hóa ra cam lồ giống như thân ta, cho con hổ đói ấy được ăn no đủ. Mẹ con hổ đều được cứu sống, mà ta không bị tổn hại. Nếu tính thêm thân đó thì ta thí đủ cả vạn cái đầu.

Cho nên, này Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học ở Địa thứ ba tu tập cũng có vị thoái lui, tâm không kiên cố. Giả sử thân ta có vào miệng hổ, hổ cũng không thể ăn, cũng không dám đến gần. Vì sao? Vì công đức của Ta đã tạo có thần lực nên được tự tại đối với tất cả pháp. Ta tu tập sám hối, chưa từng che dấu tội lỗi, dùng vô lượng sự bố thí để trợ giúp công đức. Bồ-tát tu học, giải bày nghĩa đạo, chuyên cần thực tập pháp của bậc Đại sĩ, ý chí kiên cố, không bỏ thệ nguyện, dùng giáp vô cực bao phủ thân mình.

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát Tấn học trụ ở Địa thứ ba thường phải chuyên tâm không cho thay đổi, không để trần cảnh làm dao động tâm, thường lìa xa các trần lao phiền não, tự thân biết đủ, không có mong cầu, tâm không dong ruổi vướng mắc vào tưởng, không cầu địa vị cao sang quyền quý, làm cho tất cả chúng sinh tu tập như pháp, giảng giải trí bậc thượng khiến cho người đồng được như mình. Ta và người là một, không có sai khác. Tùy theo nhân duyên mà Bồ-tát thị hiện độ họ. Bồ-tát không nên dùng sinh, chẳng phải không có sinh, vô sinh, bất sinh để làm địa của mình thanh tịnh. Bồ-tát lấy sự không mê hoặc, không bao giờ dùng pháp mê hoặc, không biết pháp vượt khỏi trần lao gọi là mê hoặc. Người mê hoặc nên không thấy mình mê hoặc. Bồ-tát không mê, không hoặc, hiểu biết sâu xa về huyễn hoặc, thích ứng với chân không.

Này Tối Thắng! Bồ-tát hiểu rõ các hành là “không”, không thật có nên được vào pháp. Ở nơi thống khổ, Bồ-tát làm cho tất cả chúng sinh đều được an lạc, đầy đủ. Này Tối Thắng! Đó gọi là Bồ-tát Tấn học ở Địa thứ ba được hạnh thanh tịnh.

 

Phẩm 4: SẮC NHẬP

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Sinh quý ở Địa thứ tư làm thế nào để hạnh của mình được thanh tịnh?

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý ở Địa thứ tư thường phải phụng hành pháp của bậc chân nhân; nhớ thường hay tọa thiền tại nơi thanh vắng, không tham nhiễm tâm dục, sân hận, ngu si, ý luôn hướng đến sự ít muốn, biết đủ, không bỏ mười hai hạnh Đầu-đà, gìn giữ cấm giới như đề phòng rắn độc; thấy dục nhơ bẩn như bị lửa đốt, trừ ý ái dục không để phát sinh; khởi ý nhìn chúng sinh như tưởng Niết-bàn; bố thí tất cả, không tiếc thân mạng, không kiêu mạn cống cao đối với mọi người, không luyến tiếc của cải, cũng không thấy mình cho, có người nhận và vật thí; tu pháp tâm thức của Bồ-tát, ban bố giáo pháp cho đại chúng, dạy cho chúng sinh về những điều họ đã phát nguyện để đạt được kết quả; tích tụ công đức vì đạo Vô thượng; tu tập một mình ở nơi núi rừng thanh vắng; dầu được nhiều hay ít đồ vật cũng phải biết đủ; tạo lập các nghiệp công đức cho được viên mãn; tìm hiểu, học hỏi cùng khắp để được trí tuệ biện tài, nhưng không lấy làm mệt mỏi, cực nhọc; quán sát thân thể từ đầu đến chân; dùng trí tuệ biết rõ chỗ niệm khởi một cách trọn vẹn; lìa bỏ các việc ác, tu hành môn giải thoát, sự giải thoát ấy là pháp của Bồtát; tư duy cho thấu đạt nguồn gốc các pháp; thường biết rõ tướng thành hoại của năm ấm; quán biết bốn đại: Đất, nước, gió, lửa; thấy biết chỗ sinh khởi căn bản của sáu trần và mười hai nhân duyên sâu xa không có ngằn mé, sinh tử biến đổi không có cùng tận; nhớ giữ không quên lời dạy bảo chân thật, không chấp ngã nhân, tuổi thọ dài ngắn, đạt được sự vắng lặng vô vi; hiểu biết tất cả hành nghiệp vô thường là hư rỗng, không thật.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ tư thường phải hộ trì cõi Phật; trí tuệ vô biên hiểu rõ đạo và đời. Hạnh và trí của Bồ-tát không có cùng tận, thành tựu tất cả công đức, trang nghiêm cõi nước, thành tựu xứ sở tùy theo thứ lớp công đức mình tạo; biển tuệ vô biên, dung nạp tất cả không có chán đủ; cứu độ cho tất cả chúng sinh ở khắp nơi. Bồ-tát lấy việc tu hành này làm đầu, là tối tôn, tối thượng, không ai bì kịp. Bồ-tát ghi nhận điều đã học, nhớ mãi không quên, được gốc thiện rồi không để giảm mất. Vì sao? Vì dùng pháp tôn quý nên lìa xa duyên trói buộc. Nhờ vậy mà được thọ ký nhập vào nhà chánh sĩ, nhờ chuyên cần nên ý không thoái chuyển, tự đạt được đầy đủ thánh nghiệp vô thượng, thành tựu những điều ước nguyện nhưng không thấy có thành tựu, nếu thấy có thành tựu thì chẳng phải thành tựu. Bồ-tát tu hành như vậy thì không có cái để thấy.

Bồ-tát thực hành định ý, thâu nhận các pháp, các hạnh đã làm không để giảm mất, chế phục tâm ý là đạo nghiệp của Bồ-tát, tu hành nghiêm túc, không nghĩ tưởng lăng xăng. Vì sao? Vì nhằm lìa xa các điều ác, không cho duyên theo trần cảnh, chuyên cần cúng dường vào ruộng phước của bậc cao thượng. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát phát tâm không với thân tâm ái nhiễm, mà bằng tình thương vô biên rộng lớn, cao thượng; tinh tấn giữ giới như người bảo hộ đôi mắt; dạy người phạm giới chớ có làm ác, nên tinh tấn tu hạnh nhẫn nhục. Người tu nhẫn là rất khó. Tuy ở ngôi vị tôn quý, giàu sang sung sướng nhưng Bồ-tát không khinh chê kẻ xấu xí, bần cùng.

Này Tối Thắng! Nhẫn nhục là khó, lại thêm tinh tấn thì không gì có thể sánh bằng. Bên cội Bồ-đề, Bồ-tát ngồi kiết già bất động, thân thẳng, chánh niệm. Nếu có người đến nói: “Hãy tránh chỗ khác, ta muốn ngồi nơi đây”, Bồ-tát phải nên kiên cố, chớ để họ thâu phục. Bồ-tát phải quyết chứng được Phật đạo, đầy đủ các tướng tốt, thâu phục ma rồi mới bỏ chỗ ấy. Đó gọi là tinh tấn khó đạt được. Sự chuyên tâm định ý cũng khó như vậy. Khi Bồ-tát Sinh quý nhập định, thiên lôi sấm nổ chấn động khắp nơi, muốn làm cho tâm Bồ-tát động loạn, nhưng chẳng thể được, dù chỉ là một mảy lông.

Này Tối Thắng! Đó gọi là định ý. Định ý như vậy nên nói là khó. Bồ-tát dùng trí tuệ tu các công đức, không làm phiền nhiễu chúng sinh, luôn hòa nhã, đi đứng ra vào khoan thai, đầy đủ oai nghi, pháp phục tề chỉnh. Đó gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ tu tập công đức, kiên cường, không ai có thể gây hại.

Bồ-tát hiểu rõ chân như u huyền, sâu xa, rộng lớn, vi diệu, chiếu sáng khắp nơi, nên tâm ý chuyên nhất không có tán loạn. Bồ-tát thường phải nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh, như kẻ không có nơi nương tựa, Bồ-tát tạo phương tiện cho họ được nương tựa; người mù tối, Bồ-tát làm cho được thấy ánh sáng; người không có chỗ quay về, Bồ-tát làm chỗ cho họ quay về. Đối với những người ở nơi thấp kém, Bồ-tát làm bạn thân thiết. Đối với những người dối trá, Bồ-tát dạy cho tu pháp ngay thẳng. Gặp kẻ hung hăng, Bồ-tát dạy cho pháp nhẫn nhục. Đối với kẻ trang sức lòe loẹt, Bồ-tát dạy cho pháp không phô trương. Gặp kẻ vong ân, Bồ-tát dạy cách báo ân. Nếu người muốn ở cõi trời, Bồ-tát dạy cho hành thập thiện. Người muốn thoái lui, Bồ-tát dạy cho tu nghiệp công đức. Nếu gặp kẻ cống cao, Bồ-tát dạy cho pháp không tự đại. Đối với kẻ soi mói lỗi người, Bồ-tát dạy cho không nên tìm chỗ dở của người, không nhớ khuyết điểm của người. Nếu người hành nghiệp tà, Bồ-tát liền đến giúp đỡ, khiến cho đi vào đường chánh. Những loài chúng sinh như vậy đến gặp, Bồ-tát đều vui mừng thọ giáo, tâm không sân hận, được dạy cho pháp tiến thoái việc này nên làm, việc này không nên làm; việc này là đúng, việc này là không đúng tâm không còn tăng giảm, tin vào tội phước, biết có báo ứng. Giả sử Bồ-tát ở thành phố gần gũi người thế gian thì cũng như ở nơi núi rừng hoang vắng không khác, không tham lợi dưỡng, không tiếc thân mạng, tâm thường thanh tịnh, ý không thị phi, thường giữ lỗi của miệng, không nói lời chia rẽ, không mong cầu cúng dường và cung kính, biết tiết chế vừa đủ, tâm thường nhu hòa, không còn thô ác, vượt qua sinh tử, dứt các hoạn khổ. Do đây, Bồ-tát đạt được quả vị Đại thừa, tuệ tâm của Bồ-tát không ai thấy được. Bồ-tát qua lại trong sinh tử, thấy không thực có.

Bằng phương tiện thiện xảo, Bồ-tát dạy bảo rõ ràng, hóa độ hợp thời, làm cho chấm dứt luân hồi. Sự luân hồi ấy không có đến, cũng không có đi. Bồ-tát hiểu rõ tất cả đều không, không có xứ sở. Nếu chấp có thì liền bám vào hữu. Ở trong pháp bố thí, Bồ-tát không chấp có, cũng lại không thấy không có sở hữu. Vì sao? Vì hành sáu Độ vô cực là không thấy có, cũng không có sở hữu.

Vì vậy, Tối Thắng! Bồ-tát bố thí là không có hạn lượng, nếu thấy có hạn lượng thì chẳng phải chân thật bố thí. Giả sử, chọn lựa người này nên cho, người kia không nên cho, phân biệt cao thấp, ý có thị phi, bố thí không đều khắp thì không phải là bố thí. Nếu bố thí mà không chấp trước, không khởi một niệm phân biệt thì mới gọi là bố thí. Người làm việc bố thí thì thân được an ổn, sống lâu; đứng, ngồi, tụng niệm thì thân thể được định, khí lực dồi dào, qua lại trong sinh tử không bị thiếu thốn, sinh ra liền có thần túc thông, đi đến đâu cũng được người cung kính, được Thiên nhãn thông thấy khắp mười phương cõi, tai nghe được âm thanh xa vô cùng, đạt được hương vi diệu Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, thân được xông ướp đủ loại hương công đức, thân thể sạch thơm ai cũng ưa thích, thường ăn thức hảo hạng, mùi vị thơm ngon; nhờ gieo phước trong quá khứ nên được tướng tốt đẹp, thanh tịnh không nhơ, được người giúp đỡ, tùy theo chỗ thiếu thốn mà được cung cấp, thân thường không bệnh, không sinh, không chết, không còn các khổ, luôn được an ổn, đầy đủ tất cả, thành tựu viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, mở bày Pháp tạng, không sinh tham dục, viên mãn tuệ đạo, không thiếu thốn một cái gì. Người đến cầu xin, Bồ-tát cho hết tất cả, không luyến tiếc nên đạt được Nhất thiết trí, các thần thông, Thánh tuệ độ thoát tất cả, được sự an lạc nơi pháp dược kinh điển sâu xa, ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề thâu phục ma quân và các quyến thuộc của ma. Bồtát không dùng sắc để bố thí, biết sắc là không, sắc vốn tự không, sắc chẳng tự biết nên mới biết sắc là không.

Này Tối Thắng! Bồ-tát thông hiểu tánh sắc là không, liền đứng đầu trong tất cả đạo pháp, thành tựu pháp nhãn, làm tất cả đạo, là bậc tôn quý trong ba đời, một mình không bè bạn. Do đây nên Bồ-tát được đầy đủ các thần thông trí tuệ.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý không bao giờ tin theo pháp tà điên đảo. Nếu thấy chúng sinh thờ phụng, cúng tế, cầu phước, Bồ-tát không được thay đổi tâm để lấy vật thực nuôi mình. Nếu thấy chúng sinh lập hạnh độc tôn vô thượng, Bồ-tát cũng không động chuyển, bỏ theo đạo nhỏ. Biết pháp mình tu là sâu xa, không pháp nào sánh bằng, nên Bồ-tát chuyên cần tinh tấn, không nghĩ tưởng theo người khác. Tuy có các pháp với nhiều hình thức khác nhau, Bồ-tát thường dùng pháp tánh để quán sát hiểu rõ. Mặc dù sống chung với những người như vậy, Bồ-tát không đổi chí hướng đi theo đạo khác. Giả sử Phật xuất hiện ở đời rồi nhập Niết-bàn, chánh pháp để lại cũng bị diệt mất, hàng Thánh chúng giáo hóa cũng không còn, tuy Tam bảo không còn nhưng Bồ-tát vẫn thâm tín, tâm không thay đổi đi theo niệm tà, thường tu tập vô lượng kinh văn vi diệu sâu xa, thấy (hiểu) khắp tất cả mười hai bộ loại kinh, dùng phương tiện quyền xảo nhập vào tất cả chỗ mà không tham danh tiếng, hiện thân biến hóa nhưng không tự khen mình.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý hành theo chánh kiến, biết “không” chẳng thật, không chánh, không ngay, chánh cũng không có.

Bồ-tát hiểu rõ như vậy gọi là chánh đạo.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát tu tập trí tuệ, hiểu rõ sự có không, thông đạt chân không nhưng không chấp trước; lại nên tu hành các văn tuệ không thật có, đoạn trừ Khổ đế và Tập đế, dứt sạch tập ái, liền chứng đạo quả, dùng trí bình đẳng chiếu soi để dứt trừ dâm dục, sân hận, ngu si, các phiền não cấu bẩn, chứng đạt trí pháp thượng trung hạ; lấy trí tư duy quán sát hai cõi trên.

Với tha tâm trí, Bồ-tát biết rõ tâm niệm của các chúng sinh, biết bậc trí vô sinh không còn sinh tử, thọ thai nhơ uế. Bồ-tát dùng trí diệt tận để hiểu rõ năm ấm, đoạn trừ đầu mối sinh diệt của nó. Bồ-tát cần phải thực hành, tư duy về ba căn: Vị tri, dĩ tri và vô tri. Nên học những căn này cho đến khi thành đạo.

Từ hàng cư sĩ cho đến hàng Tu-đà-hoàn nên tu tập căn vị tri. Từ hàng Tư-đà-hàm đến A-na-hàm nên học căn dĩ tri.

Từ hàng A-la-hán cho đến khi thành Phật nên học căn vô tri.

Bồ-tát nên tu tập định, thiền, trí quán chiếu bậc Sơ thiền nhất tâm có giác, có quán; bậc thiền tiếp theo không giác có quán; từ bậc thiền thứ hai đến định vô tưởng không có giác, quán; tâm ấy vắng lặng không còn dao động, thường niệm chăm chú nhập vào chánh định.

Này Tối Thắng! Bồ-tát ngày đêm không được nghĩ: “Ta biết giữ giới của bậc chân nhân, cũng biết người làm ác không có giới, nhưng không có tâm ý phân biệt; biết tất cả đều hư rỗng, không có tưởng loạn niệm một, hai, trước, giữa, sau”. Bồ-tát chuyên cần niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên, hơi thở, thân, khổ, chết; biết tất cả đều không có xứ sở.

Bồ-tát tư duy trừ năm kết sử, tôn kính sáu pháp trọng yếu, thực hành bốn Thần túc, giáo dưỡng đại chúng tâm thẳng ý ngay, phấn chấn không sợ Sa-môn, ngoại đạo, dị học, trời, ma, Phạm và các chúng khác đến nạn vấn; không còn thấy một mảy may ngã tưởng dấy khởi. Nhờ chứng đạt như vậy, nên Bồ-tát làm việc thường được an ổn, không còn sợ hãi, được lực tinh tấn đứng hàng thứ nhất. Ở giữa đại chúng, Bồ-tát rống tiếng Sư tử chuyển bánh xe pháp lớn. Sa-môn, tịnh chí, Phạm, Thích, chúng ma, tất cả ngoại đạo… đều không thể chuyển bánh xe pháp, chỉ trừ Như Lai. Thân Như Lai làm bằng kim cang, các lậu đã sạch, không còn mảy bụi. Giả sử có hằng hà sa số ức chúng sinh cũng không dám nói Phật chưa hết các lậu. Lời nói của Đức Như Lai chân thật không có hai, quả báo thiện ác rõ ràng không sai. Ngoài tất cả chúng bỏ pháp bên trong, không thấy một ai dám trái lời Phật dạy. Pháp chính yếu của đạo được Hiền thánh giảng nói, ai thực hành thì đắc đạo, phạm sai lầm thì mắc tội. Điều này không trái lời Như Lai dạy, cũng không thấy dạy có chỗ sinh ra, không điều gì là không dạy, dạy không có chấp thủ. Biết dạy bảo một cách sâu xa, đó gọi là chân đạo.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý cầu thành Phật đạo, nên tu hành không để sơ hở, sai lầm. Người muốn nghe pháp, Bồ-tát nên nói pháp vi diệu, bỏ những điều không cần thiết, khiến cho họ đạt được đầy đủ như ý nguyện, hoặc bố thí cho chỗ không kinh sợ với tâm chưa từng thay đổi, không còn hoài nghi, không khởi tâm nhị kiến phân biệt đẹp xấu, cũng không tư duy về thiện ác sai khác.

Bồ-tát thực hành theo tánh của pháp thì không được mong cầu, cũng không nhớ nghĩ hưởng công đức ấy, làm chỉ vì các loài hữu tình nên không học theo hạnh (tâm) Thanh văn, Duyên giác; cũng không cho rằng có chỗ thành tựu, làm cho tất cả chúng sinh không lìa tạng Phật; biết tất cả là không, Phật pháp cũng không, do nhân duyên tưởng mà sinh ra. Nhờ quán như vậy nên Bồ-tát biết không thể thấy nó, cũng không có hình tướng, nói có hình tướng tức là hủy tướng pháp, tướng là vô tướng, tướng chẳng tự sinh, sinh vốn không có mầm gốc, vậy do đâu có sinh? Tướng “một” không có hình, không thể thấy. Đó gọi là đạo Vô thượng chân chánh.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý trụ Địa thứ tư, tu tập để hạnh của mình được thanh tịnh, không thể lìa bỏ trí tuệ, thần thông của chư Phật, bố thí cho người một cách thích hợp, người chỉ cần mở miệng xin thì liền được, không có gì mà Bồ-tát không cho.

Bồ-tát theo giáo pháp của Phật, không bỏ thệ nguyện, ý chí kiên cường, an lạc sung mãn, thực hành hạnh thí đạt được vô nguyện, vì các nguyện ấy nên tạo nhân duyên thiện, ở trong ba cõi không ai có thể sánh bằng. Bồ-tát nguyện cho công đức ấy đến khắp tất cả. Sự nghiệp và ý chí của Bồ-tát thường hằng kiên định, tâm của Nhất thiết trí không chỗ nào là không vào, cho nên gọi là không tịch. Bồ-tát làm việc bố thí vượt qua các tướng chấp trước, thâu phục chúng ma, khiến cho không được tự tại.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý thường nhớ tu bốn tuệ không chướng ngại: Tuệ không chướng ngại đối với pháp chân đế, tuệ không chướng ngại đối với nghĩa thâm yếu của bậc Thánh, tuệ không chướng ngại đối với trí biện tài và tuệ không chướng ngại đối với lời nói rõ ràng. Đó gọi là Bồ-tát hành trí tuệ siêu việt khác chúng.

Bồ-tát đoạn sạch tâm nghi, chứng đạt vô vi nên độ thoát cho vô lượng, vô số chúng sinh không thể tính đếm đến chỗ an ổn vĩnh viễn, trừ bỏ tưởng chấp thường, tư duy về vô thường, đoạn trừ dục ái, sắc ái và vô sắc ái, dứt sạch vô minh, kiêu mạn, tẩy trừ tham thân. Bồ-tát xem thân năm ấm này là đồ rỉ chảy, trói buộc, bất tịnh, như bọt nước, không bền chắc, huyễn hóa không thật. Vậy mà kẻ ngu si ở thế gian lại tham nhiễm không thấy chán mệt. Pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vô thường nhưng không thể thấy, không có hình tướng, không có chủ, cũng không có tên gọi.

Bồ-tát nên quán sát kỹ sắc, sắc chẳng phải là vật sở hữu của ngã, cũng chẳng phải do ngã tạo thành, nó từ không sinh có, do có hình sắc nên liền có thần thức, do có thần thức liền sinh năm ấm, do có năm ấm nên nhiễm sáu tình, do nhiễm sáu tình nên có si, hành, cho đến già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, lưu chuyển luân hồi qua lại trong tam giới, trôi lăn khắp năm đường không có ngày dừng. Đó là do nhân duyên hội họp tạo thành. Do cái này có nên cái kia có, do cái này không nên cái kia không. Do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt. Pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy, thảy đều hư rỗng không có hình chất. Người trí thấu đạt hết thảy gốc ngọn đều “không” thì cần gì phải lao nhọc, làm khốn khổ thần thức.

Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý xả bỏ tưởng sắc, tâm không còn nhiễm ô, hiểu rõ tất cả gốc ngọn nhưng không có nắm giữ, cũng không thấy thành, không thấy bại, biết các pháp vốn tịch mặc rỗng không, không có động chuyển, siêu việt tất cả. Người đạt được như vậy mà cho là còn lỗi lầm thì điều này chẳng đúng. Bồ-tát học Nhất thiết trí, giảng rộng nghĩa ấy, thông đạt các pháp là “không”, không thật có.

Do vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát cần phải siêng năng tu học, học mà không học, nên tu hạnh này, hành mà không hành. Đó là Bồ-tát Sinh quý trụ Địa thứ tư được hạnh thanh tịnh.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10