SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ CHÍN

Phẩm 24: ĐẠO TRÍ

Bấy giờ, ngay chỗ ngồi, trăm ức chúng sinh, chúng hội Bồ-tát và Thiên Đế Thích, Phạm thiên vương, Đâu-thuật thiên, Diễm thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, cho đến cả Cứu cánh thiên, tất cả đều nghi ngờ, muốn được nghe điều căn bản của đạo. Đạo vô tướng nên không thể thấy, vì sao Như Lai nói có đạo?

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của chúng hội, bảo Bồ-tát Tối Thắng:

–Các ông muốn được tuyên thuyết điều căn bản vi diệu của đạo chăng?

Tối Thắng bạch Phật:

–Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe.

Phật bảo Tối Thắng và đại chúng Bồ-tát, Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân:

–Nên hiểu đạo là không dấu vết, vắng lặng không tên. Giả sử đạo tối thắng có xứ sở thì Đại Bồ-tát không ở trong pháp bình đẳng để thành tựu Tối chánh giác. Vì đạo quả ấy không có xứ sở nên Đại Bồtát thành Đẳng Chánh Giác.

Phật lại bảo Tối Thắng:

–Định ý đạo trí của Bồ-tát có mười. Thế nào là mười? Không tạo nghiệp của thân, cũng không chấp trước. Không tạo nghiệp của miệng, cũng không chấp trước. Không tạo nghiệp của ý, cũng không chấp trước vào cảnh giới Phật mà không sinh tưởng về Phật. Giáo hóa chúng sinh đạt đến trí vô ngại, đều khiến chúng sinh hiểu đạo mà chẳng phải đạo, khiến chúng sinh thành Tối chánh giác, phóng đại hào

quang chiếu khắp mọi nơi, mỗi hào quang có vô lượng hóa thân Phật, mỗi hóa thân Phật giảng thuyết sáu pháp vượt bờ thâm sâu, thường chuyển pháp luân, phát tâm Bồ-đề, hiểu về ngã, vô ngã; không thọ mạng, thân tâm tự nhiên nên gọi là đạo. Tự nhiên ấy, tức là hiểu đạo vô trí cũng không có trí. Giác ngộ không có đối tượng giác ngộ, đều không thấy giác ngộ. Nói ta là đạo cũng không thấy ta. Nói ngã là đạo cũng không thấy ngã. Ngã, nhân, thọ mạng cũng như vậy. Tất cả các trí cũng không có hình tướng.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Giả sử đạo không có hình thì không thể thấy. Như hôm nay, chuyển pháp luân diễn thuyết bốn quả vị tu chứng là nói Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát và Phật. Vì sao nói về năm ấm, Nhất thiết trí, Bốn ý đoạn, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý, Tám hiền thánh đạo? Vì sao nói về làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh từ cõi Phật này đến cõi Phật khác? Sự hoạt động của sáu thức bằng trí tuệ phân biệt rõ ràng, sao lại nói về Bốn vô lượng tâm, Sáu độ và Chân như pháp tánh là tên gọi của đạo?

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Theo lời ông hỏi, Đại Bồ-tát hiểu rõ phương tiện quyền xảo năm phần Pháp thân của trí tuệ Phật thì không thấy biến đổi, thấy biến đổi thì chẳng phải nghĩa của đạo, xa lìa tất cả những lệ thuộc, suy tìm pháp giới cũng không có pháp giới. Sở dĩ như vậy vì tất cả đều là không, cho nên không chấp vào trí đạo, cũng như đạo vốn là thanh tịnh nên giả nói chuyển pháp luân, hiểu rõ tất cả các pháp không chấp trước. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp trước, không thấy sinh cũng không thấy diệt. Cõi Phật thanh tịnh, chúng sinh cũng thanh tịnh, thị hiện ánh sáng trí tuệ vô lượng. Đó là Đại Bồ-tát thích ứng để lập hạnh Tổng trì không thoái chuyển, chứng quả vị Bồ-đề. Hoặc nhập vào Tam-muội Định ý chánh thọ, giáo hóa chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật. Không nói nhiều đạo, chỉ nhận một hạnh. Không có pháp trí mà giả nói trí. Bồ-tát nên nhớ nghĩ tu tập, giáo hóa người chưa ngộ không có tưởng của thức.

Này Tối Thắng! Đó là nhập vào định ý. Trí đạo thanh tịnh hoàn

toàn không trần cấu, điều phục được hay không điều phục cũng không cho là khổ vui; thường hay chẳng thường, tốt hay xấu đều không có tướng chấp trước, trí không rối loạn, mong cầu đầy đủ mười lực của Phật, Bốn vô sở úy, Bốn tuệ phân biệt, Đại Từ đại Bi, chân như pháp tánh đều không thật có, vắng lặng như hư không, phân biệt nhân quả, đạt đến trí đạo. Không sinh không diệt nghĩa là Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không chỗ sinh.

Này Tối Thắng! Bồ-tát đạt đến chỗ cốt yếu của đạo, sự luận bàn về đạo đức tức là cảnh giới hư không. Sở dĩ như vậy, vì đạo đức là không, không tức là đạo, một mà không hai, cũng không khác.

Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Lành thay! Lành thay! Pháp này rất hay.

Bấy giờ, trong chúng hội, tất cả Thiên, Long, Quỷ thần, Cànđạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân tự nghĩ: “Hôm nay Như Lai giảng thuyết cho đại chúng về pháp trí đạo, không gì sánh bằng, làm mãn nguyện tùy theo mục đích hướng đến của chúng sinh. Bồ-tát Tối Thắng này khi nào sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”.

Phật biết được tâm niệm của Thiên, Long liền bảo bốn bộ chúng:

–Bồ-tát Tối Thắng này về sau trải qua ba trăm ba mươi a-tăngkỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Minh Tuệ Chí Chân, Như Lai, Đẳng Chánh Giác. Thế giới tên là Vô lượng, kiếp tên Thanh tịnh. Đức Phật kia cùng với đệ tử trải qua chín ngàn chín trăm chín mươi hai ức sống một trăm hai mươi tiểu kiếp.

Khi ấy, chúng hội nghe Phật thọ ký đều tự phát nguyện muốn sinh vào cõi Đức Phật kia. Phật liền bảo:

–Đúng như lời nguyện, các ông chắc chắn sẽ được sinh vào cõi đó không còn nghi ngờ gì nữa.

Phật bảo Tối Thắng:

–Trong đại chúng này, có Đao-lợi thiên thường cùng A-tu-luân tranh đấu, hoặc có khi Đao-lợi thiên thắng thì A-tu-luân thua, hoặc Atu-luân thắng thì Đao-lợi thiên thua, đều cùng nhau tranh đấu, gây sự oán kết. Mỗi bên đều sân giận không thể nào xóa bỏ.

Tối Thắng thưa:

–Xin Thế Tôn dùng phương tiện quyền xảo thuyết pháp trí đạo hư vô, làm cho chư Thiên và A-tu-luân hòa hợp, khởi tâm Từ bi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo chúng hội:

–Đạo ấy không hình, cũng không thể thấy, ba độc căn bản hoàn toàn không gốc ngọn. Thế gian tu tập tin đạo là thật. Người thực hành Từ bi luôn được Thiên thần hộ vệ, mười phương chư Phật ca ngợi, đời này đời sau dồn chứa vô lượng công đức. Những chúng sinh hữu hình đến cả như sâu bọ, con trùng trong cõi Diêm-phù-đề đều sẽ quy về pháp diệt tận, mạng sống như điện chớp, như sóng nắng, như ảnh trong gương, bọt nổi trên nước, có hòa hợp thì có tan rã, có sinh thì có chết. Các ông thọ thân thì không thể thoát khỏi khổ nạn này. Tuy sinh làm Trời nhưng vẫn rơi vào ba đường ác, nên cẩn thận cầu xa lìa con đường này. Các ông lắng nghe, ghi nhận lời ta dạy.

Bấy giờ, bốn bộ chúng đều cùng nhau vui mừng, cung kính muốn nghe giáo pháp của Như Lai. Đức Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:

–Các ông lắng nghe, suy nghĩ kỹ: Đại Bồ-tát nên nhớ nghĩ, tu hành tám pháp môn giải thoát. Tam pháp đó là: Nếu thiện nam, thiện nữ hành trì giới luật không thiếu sót, giữ gìn thân, khẩu, ý, thực hành Tứ đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thường thân cận theo Thiện tri thức, làm hưng thịnh Tam bảo, thường nhớ nghĩ mong cầu đạo Vô thượng, đem chánh pháp nghe được giảng thuyết cho người khác. Giáo lý đã thuyết không nói về Tiểu thừa, khuyến khích chúng sinh tu hành Đại thừa. Hoăc khi Bồ-tát giảng thuyết Đại thừa bình đẳng không hai, không thấy có giảng dạy; cũng như hư không, không có hình tượng. Những điều giảng dạy của Đức Phật không thể nghĩ bàn, bao gồm vạn hạnh và tất cả các pháp. Hoặc nói về hành của không, hư không vắng lặng, hoặc nói về năm phần Pháp thân. Ví như người có ngọc ma-ni như ý, ở giữa đại chúng muốn cho năng lực của ngọc phát ra màu xanh, vàng, trắng, đen thì cũng làm cho mọi người đồng với màu sắc ấy. Đại Bồtát cũng như vậy, tùy theo tâm niệm của mọi người liền diễn nói pháp trí đạo không cùng tận, làm cho mọi người đều hoan hỷ, hết tâm tôn sùng Phật đạo, hướng dẫn, chỉ bày pháp môn trí tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh, hướng về đạo Đại thừa. Như vậy, Bồ-tát phát thệ nguyện lớn cứu độ chúng sinh cũng không thấy có độ, giống như hư không đến đi không ngăn ngại. Bồ-tát phát tâm độ người như vậy cũng không thấy có chúng sinh được độ.

Phật bảo Tối Thắng:

–Sau khi ông nhập Niết-bàn, Xá-lợi được cúng dường trải qua hai mươi trung kiếp, tất cả chúng sinh đều phụng sự. Với người không có nhân duyên thì tạo nhân duyên cho họ, người không được cứu giúp thì cứu giúp cho họ, người không được che chở thì làm sự che chở cho họ.

Khi ấy, nhân loại đều cúng dường hương hoa, âm nhạc, đảnh lễ, quy y. Tất cả xá-lợi đều phóng hào quang, thần thông biến hóa, ai thấy đều vui mừng, đều do phát nguyện rộng lớn mà đạt được như vậy. Sự biến hóa thù thắng, oai thần chủa chư Phật, uy nghiêm rực rỡ chiếu soi cùng khắp, phát sinh vô lượng ánh sáng trí tuệ, nhờ đó mà sinh ý đạo Vô thượng. Chúng sinh trong đó phát tâm sai khác nhau, hoặc thành tựu pháp Thanh văn, Duyên giác, hoặc sinh cõi trời, cõi người. Xá-lợi được phân tám phương và trên dưới, Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân, những loài sâu bọ, côn trùng có hình sắc đều đến cúng dường, tự tấu lên năm thứ nhạc.

Phật bảo Tối Thắng:

–Khi ông thành Phật, thì đất màu hoàng kim, đầy đủ bảy báu:

kim ngân, trân bảo, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Chúng sinh nào muốn được cúng dường toàn thân xá-lợi, liền được mãn nguyện như ý, ngàn vạn ức toàn thân xá-lợi hiện khắp thế gian, kinh điển được lưu truyền mười bảy trung kiếp.

Bấy giờ, ngay chỗ ngồi, Bồ-tát Vô Lượng Giác Tuệ suy nghĩ: “Bồ-tát Tối Thắng để xá-lợi của thân lại, phân bố khắp thế gian, khiến họ phát tâm đạo, độ thoát số người được bao nhiêu?”.

Phật biết tâm niệm của Bồ-tát này, liền bảo:

–Hiền giả hãy thôi đi, chớ nói như vậy, không nên dùng trí tuệ bằng thân hữu hạn của mình để sánh với trí tuệ Tam-muội Định ý vô ngại của Như Lai. Ánh sáng của xá-lợi tiếp độ chúng sinh, chẳng phải tâm đo lường, chẳng phải dùng ý để quán xét. Thần thông, oai đức, trí đạo của Như Lai tự tại, những phương tiện biến hóa khác nhau của chư Phật mà Bích-chi và Thanh văn không thể đạt được. Đại Bồ-tát được Tam-muội tịch định đều không có niệm chấp về tưởng gần xa, đi khắp mười phương đất nước, thành thị, cung Trời, cung Rồng, cung các vị thần, chỗ đông người, nơi hoang vắng, trên trời, năm đường ác, khắp nơi đều thị hiện toàn thân xá-lợi. Tất cả xá-lợi đều phóng hào quang, giảng thuyết pháp sáu độ: Không, Vô tướng, Vô nguyện, Đại từ, Đại bi, Bốn ân, trí tuệ phân biệt vắng lặng, thông đạt định ý, cúng dường xá-lợi, bình đẳng không hai. Tâm bố thí vững chắc không tăng không giảm, đó là Đại Bồ-tát nhập Tam-muội tịch định, có thể phân biệt trong ngoài sáu căn. Sáu căn là gì? Gọi sáu căn là: mắt thấy sắc không sinh tưởng về sắc, hiểu vật bên ngoài của sắc mà sinh nhãn thức, liền phát khởi bảy mươi bốn phiền não. Những gì là bảy mươi bốn? Mười lăm thức ở Dục giới, mười lăm thức ở Sắc giới, mười lăm thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, mười lăm sinh ấm, mười bốn trung ấm.

Phật bảo Đại Bồ-tát:

–Đối với nhãn thức sinh phiền não, liền phát khởi nhãn thức. Lại nữa, Đại Bồ-tát, nếu thiện nam, thiện nữ nào tai nghe tiếng mà không khởi phiền não về tai thì hiểu vật bên ngoài của âm thanh mà sinh nhĩ thức, liền phát khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm nhĩ thức ở Dục giới, mười nhĩ thức ở Sắc giới, mười nhĩ thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, ba mươi chín trung ấm và thọ hình ấm.

Phật bảo Đại Bồ-tát:

–Đối với tỷ thức sinh phiền não, liền phát khởi tỷ thức. Lại nữa, Đại Bồ-tát nếu mũi ngửi hương mà không khởi tỷ thức thì biết được vật ngoài hương mà phát sinh tỷ thức, liền phát sinh bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm tỷ thức ở Dục giới, mười lăm tỷ thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn ở Hữu tưởng Vô tưởng, bốn không định.

Phật lại bảo Đại Bồ-tát:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thiệt thức nếm vị thì phát sinh phiền não của lưỡi, Lúc ấy, phân biệt biết rõ không chủ thể, trong sự ham muốn, thiệt thức liền sinh khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm thiệt thức ở Dục giới, mười lăm thiệt thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn thiệt thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, Trung ấm.

Đại Bồ-tát nên tư duy pháp sinh diệt, sự xúc chạm trong ngoài, tức sinh phiền não thô hay tế, phân biệt tất cả đều không thật có, liền ngay nơi xúc phát sinh thân thức, cho đến phát khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm thân thức ở Dục giới, mười lăm thân thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn thân thức ở Hữu tưởng Vô tưởng đến Trung ấm.

Đại Bồ-tát tư duy về hành của ý pháp. Pháp sinh thì sinh, pháp diệt thì diệt, không thấy sinh cũng không thấy diệt. Người ngu đối với hành pháp, phát sinh tưởng ý thức, liền khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm ý thức về Dục giới, mười lăm ý thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn ý thức ở Hữu tưởng Vô tưởng và Trung ấm.

Phật lại bảo Đại Bồ-tát:

–Thế nào là trí đạo? Bồ-tát đối với mười lăm trí đạo của Dục giới là gì? Đó là: ở thế gian có bảy, gồm: Một là phỉ báng đạo. Hai là tâm tin nơi đạo. Ba là thọ nhận lời dạy. Bốn là đứng vững hoặc thoái lui. Năm là quả báo do dự. Sáu là tâm tinh tấn, thân chướng ngại. Bảy là mắt thấy mà không nhận biết.

Nương vào kho tạng thâm sâu của Phật thì có tám việc, đó là: Một là Phật pháp không hình tướng, cho có hiện tướng. Hai là hiện tại không dừng mà chấp là thường tồn. Ba là vì quá khứ vĩnh viễn đã qua rồi, nên cố nói là không thấy. Bốn là vì vị lai chưa đến nên nói là không sinh diệt. Năm là do khổ mà có hoạn nạn nên nhận chịu những nghịch duyên. Sáu là chưa diệt tận mà nói diệt tận, rồi làm theo phương tiện ấy. Bảy là thấy đạo rồi xả bỏ đạo, nên chẳng vượt lên. Tám là Phật pháp không hai, cho là sai khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với mười lăm phiền não của trí đạo Dục giới.

Thế nào là mười lăm phiền não của trí đạo Sắc giới? Đó là: Một là ân đức thấm nhuần. Hai là tâm không thay đổi. Ba là đắm trước thú vui cõi trời. Bốn là quên tội phước. Năm là sống lâu. Sáu là không cảm thọ. Bảy là tâm bình thường. Tám là hành bình đẳng. Chín là do nhẫn thì không sinh khởi. Mười là đạo không biến đổi. Mười một là các tưởng đầy đủ. Mười hai là tham chấp về sắc. Mười ba là tự tại. Mười bốn là chiếu xa. Mười lăm là nghiệp. Đó là Bồ-tát thích ứng đến cõi Sắc giới nên nhớ nghĩ xa lìa mười lăm phiền não.

Thế nào là Đại Bồ-tát đối với Hửu tưởng Vô tưởng và Trung ấm để xa lìa bốn mươi bốn phiền não? Bồ-tát ấy nhập vào Tam-muội thần thông định ý vô hình đi đến cõi khác để thuyết về bốn mươi bốn hành động do nhận thức chấp trước. Bốn mươi bốn đó là: Một là nhận thức về ngã không nguồn gốc. Hai là xả bỏ sắc vô hình. Ba là có thọ báo. Bốn là tưởng không kiên cố. Năm là đoạn trừ gốc ngọn các hành. Sáu là dựa vào tuệ không. Bảy là nhập định yên tỉnh. Tám là không tưởng như diệt tận. Chín là thức không loạn động. Mười là quên ý mà chẳng phải ý. Mười một là cũng không ở tại ý. Mười hai là thức không ở nơi đạo. Mười ba là cũng không ở đời. Mười bốn là tánh không như vậy. Mười lăm là nghe tiếng mà không hình. Mười sáu là nghĩ đạo không tận. Mười bảy là hoàn toàn không. Mười tám là Niết-bàn thanh tịnh. Mười chín là hiểu rõ cõi tịch tĩnh. Hai mươi là ái nhiễm vô minh. Hai mươi mốt là thay đổi thân Trung ấm. Hai mươi hai là thân Trung ấm thọ hình. Hai mươi ba là thân Trung ấm lưu chuyển. Hai mươi bốn là biết từ đâu đến. Hai mươi lăm là thấy thân Trung ấm chúng sinh luân hồi. Hai mươi sáu là thấy chúng sinh thân Trung ấm có sinh diệt. Hai mươi bảy là tự thấy thọ thân hình ở địa ngục. Hai mươi tám là chịu thọ hình tội hay không chịu thọ hình tội. Hai mươi chín là thấy thọ thân trời phước hay không phước. Ba mươi là thấy thọ thân người có phước hay không có phước. Ba mươi mốt là thấy thọ thân trong ngạ quỷ có bậc thượng hay bậc hạ. Ba mươi hai là thấy thọ thân súc sinh bậc cao hay thấp. Ba mươi ba là từ thân trời sinh lại thân trời, do khi chết thức không loạn. Ba mươi bốn là từ thân trời sinh vào thân người, do thức tuy mạnh nhưng không có trí tuệ. Ba mươi lăm là từ thân trời thọ thân súc sinh, do thức yếu, ý khởi loạn tưởng. Ba mươi sáu là từ thân trời thọ thân ngạ quỷ, do khi chết tâm tham vô cùng tận. Ba mươi bảy là từ thân trời thọ thân địa ngục, do đã từng phỉ báng Thánh hiền. Ba mươi tám là từ thân người thọ lại thân trời, do giữ gìn giới cấm thanh tịnh. Ba mươi chín là từ thân người thọ thân súc sinh, do hành động mà tâm ý không chuyên nhất. Bốn mươi là từ thân người thọ thân ngạ quỷ, do hưởng thụ tốt lành cho riêng mình, không ban bố rộng khắp. Bốn mươi mốt là từ thân người thọ thân địa ngục, do trước đã nhận hết phước nên sau nhận họa. Bốn mươi hai là từ thân súc sinh thọ thân trời, người, do đã tạo đủ phước tốt, không còn tạo nghiệp xấu nữa. Bốn mươi ba là từ thân súc sinh thọ thân ngạ quỷ, địa ngục, do không được ai cứu giúp nên bị rơi vào tám nạn. Bốn mươi bốn là có thân thì thọ thân, thần thức không mất. Đó là Đại Bồ-tát đối với Hữu tưởng Vô tưởng thân trung ấm xa lìa bốn mươi bốn phiền não.

Phật lại bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát nên tư duy thần thức thân trung ấm trong hư không, hoặc từ không thức sinh thức ấm, hoặc từ thức ấm thọ Bất dụng xứ ấm, hoặc từ Bất dụng xứ ấm thọ Vô sắc thiên ấm, hoặc từ Vô sắc thiên ấm thọ Lục thiên ấm cho đến Cứu cánh thiên, từ Cứu cánh thiên lại thọ Sắc Vô sắc thiên ấm. Người thọ thân trời, hình thể cao lớn bằng một nhận rưỡi liền mất đi không còn lưu lại. Người thọ thân người, hình thể cao lớn bằng ba khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua bảy ngày, hoặc sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Người thọ thân súc sinh chậm nhất trải qua ba ngày rưỡi, hoặc hai ngày, một ngày, hoặc nửa ngày. Người thọ thân ngạ quỷ chỉ trải qua nửa bữa ăn, hoặc trong một sát-na. Người thọ thân ở địa ngục, hình thể bằng ba nhận rưỡi. Hoặc có thần thức xuất ra ngay, không trải qua một tuần, liền thọ thân khác. Đại Bồ-tát tùy người giáo hóa mà thuyết diệu pháp cho họ. Nếu người mau chứng ngộ thì không tái sinh nữa, mà nửa chừng đã chứng đạo. Súc sinh thọ thân người, hình thể bằng hai khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua bốn ngày, ba, hai, một ngày. Súc sinh thọ thân trời, hình thể bằng ba nhận rưỡi, chậm nhất một ngày rưỡi, một ngày, nửa ngày, một sát-na. Súc sinh thọ thân ngạ quỷ, hình thể bằng bảy nhận, hoặc có thoát ra chậm nhất năm ngày, bốn, ba, hai, một ngày. Súc sinh thọ thân địa ngục, hình thể bằng một nhận rưỡi, chậm nhất nửa bữa ăn hay một sát-na. Ngạ quỷ thọ thân trời, hình thể bằng nửa nhận, chậm nhất trải qua một ngày, nửa ngày, bữa ăn hoặc một sát-na. Ngạ quỷ thọ thân người, hình thể hai khủy rưỡi tay, chậm nhất bốn ngày rưỡi hoặc ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân súc sinh, hình thể bằng bốn nhận rưỡi, chậm nhất là mười lăm ngày, mười bốn ngày, trở xuống một ngày. Ngạ quỷ thọ thân ở địa ngục, hình thể bằng năm nhận rưỡi, chậm nhất chín mươi ngày, hoặc có thoát ra từ tám mươi ngày đến nột ngày cũng như vậy. Lại nữa, Đại Bồ-tát nên quán sát như vậy, chúng sinh ở địa ngục thọ thân trời, hình thể bằng bốn nhận rưỡi, chậm nhất trải qua năm tháng đến một tháng. Thân trung ấm ở địa ngục mà thọ thân người, hình thể bằng hai khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua ba tháng đến một tháng. Hoặc thân địa ngục mà thọ thân súc sinh, hình thể bằng tám khủy rưỡi tay, chậm nhất ba tháng rưỡi, hai, một tháng cũng như vậy. Thân ở địa ngục thọ thân ngạ quỷ, hình thể bằng chín nhận, chậm nhất trải qua ba ngày. Hoặc khi ở thân trời, đáng lẽ thọ thân người giữa chừng chưa đến lại thọ thân trời. Những loại này lợi căn nên không trải qua những khổ não. Hoặc khi thân trời đáng lẽ thọ thân người, bỗng nhiên bị thọ vào thân súc sinh, những loại này do phước đã hết nên nghiệp đến. Hoặc khi thân trời đáng lẽ thọ thân súc sinh, bỗng nhiên được sinh vào thân người, những loại này do không phá hủy cấm giới. Hoặc khi ở thân trời, lẽ ra thọ thân ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân súc sinh, những loại này do tu tập pháp Đỉnh, Nhẫn. Hoặc khi thọ thân trời, lẽ ra thọ thân ở địa ngục, bỗng nhiên thọ thân ngạ quỷ, những loại này do quả báo đã chín muồi trong loài người. Hoặc có thân người thọ thân ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trời, những loại này nhờ định ý không loạn. Hoặc có loài lẽ ra phải thọ thân trong ba đường ác, bỗng nhiên được thọ thân trời, người, những loại này nhờ có trí tuệ thông suốt rộng khắp. Hoặc có loại lẽ ra thọ thân trời Nhất cứu cánh, bỗng nhiên lại thọ thân trời Quang Âm, loại này do nhất tâm. Hoặc có loại lẽ ra thọ thân trời Biến tịnh, bỗng nhiên lại thọ thân trời Hữu tưởng Vô tưởng, những loại này có trí nhưng ý không thông đạt.

Phật bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát ngồi bên gốc cây, dùng Nhất thiết trí, Vô ngại đẳng trí, Chấp huyền thông trí, Biện tài trí, Liễu âm hưởng trí, Vô thoái chuyển trí để quán sát khắp tam thiên đại thiên thế giới, ai thọ hình hay không thọ hình, ai thọ thân trung ấm hay không thọ thân trung ấm, có bao nhiêu chúng sinh ở trong loài người? Có bao nhiêu thân chúng sinh thọ thân trung ấm của loài người? Bồ-tát lại quán chúng sinh thọ thân trung ấm loài người, thọ thân vào bốn đường đều biết rõ.

Phật bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát quán chúng sinh thọ thân trung ấm của cõi trời. Lại

quán chúng sinh ở cõi trời hướng đến bốn đường đều biết rõ. Hoặc khi Đại Bồ-tát dùng sáu thần thông Không thoái chuyển trí để quán chúng sinh thọ thân súc sinh. Có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm súc sinh đổi chuyển thọ thân trung ấm trong bốn đường, Bồ-tát đều biết rõ. Bồ-tát lại quán chúng sinh thọ thân ngạ quỷ. Có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm ngạ quỷ phải thọ thân trung ấm trong bốn đường, Bồ-tát đều biết rõ. Hoặc khi Đại Bồ-tát quán chúng sinh thọ thân ở địa ngục, có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm ở địa ngục hướng đến thọ thân trong bốn đường đều biết rõ.

Phật bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát dùng Vô thoái chuyển trí thấy khắp trong năm đường thân trung ấm có thọ hình hay không thọ hình. Hoặc có trường hợp thân trung ấm loài người, bỗng nhiên lại được thân trời liền diệt độ, không thọ thân trời và thân người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm trời, bỗng nhiên thân trung ấm người liền diệt độ, không thọ thân trời và thân người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm súc sinh, bỗng nhiên thọ thân trung ấm người, liền diệt độ, không thọ thân súc sinh và người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm súc sinh, bỗng nhiên thọ thân trung ấm trời liền diệt độ, không thọ thân súc sinh và thân trời nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trung ấm người liền diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ và thân người nữa. Hoặc có trường hợp thân trung ấm ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trung ấm trời, liền diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ và thân trời. Hoặc có trường hợp thân trung ấm địa ngục, bỗng nhiên thọ thân trung ấm cõi người, liền diệt độ, không còn thọ thân địa ngục và thân người. Hoặc có trường hợp thân trung ấm ở địa ngục, bỗng nhiên thọ thân trung ấm cõi trời, liền diệt độ, không còn thọ thân địa ngục và thân trời. Đó là Đại Bồ-tát dùng trí Không thoái chuyển quán khắp tam thiên đại thiên thế giới chúng sinh, có thọ hình hay không thọ hình, có tội hay phước, Bồ-tát đều biết rõ.

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng cùng với một vạn tám ngàn người, mười vạn Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Chiên-đàla, Ma-hưu-lặc, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay đồng thanh tán thán việc chưa từng có, rồi bạch Phật:

–Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói rất hay về thân trung ấm là pháp vô hình, pháp không hạn lượng, không thể nghĩ bàn, mà chẳng phải làc bậc A-la-hán, Bích-chi-phật có thể biết được. Chúng con nguyện muốn được thấy hình chất của thân trung ấm. Cúi xin Thế Tôn thương xót đến những chúng sinh thấp kém, nhờ đó để chúng sinh vĩnh viễn dứt trừ tâm cấu uế.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo với chúng hội:

–Lành thay! Lành thay! Nghĩa của câu hỏi đó rất hay, hôm nay, Ta sẽ hiện thần thông cho các ông được thấy, làm cho tám bộ chúng đều được thấy hình dáng của thân trung ấm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nhập vào Tam-muội quán vô hình, thấy thân trung ấm của chúng sinh trong năm đường, có thọ hình hay không thọ hình, có tội hay phước đều biết rõ. Khi ấy, chúng sinh tại chỗ ngồi cũng thấy hình chất của thân trung ấm trong năm đường, lại được nghe Như Lai giảng thuyết đạo giáo, ngay nơi ấy các trần cấu diệt hết, chứng được pháp nhãn tịnh; hoặc có người phát tâm Đại thừa, hoặc có người giảng về hạnh bí mật, tùy loại chúng sinh mà giáo hóa không bị nhiễm chấp. Cũng lại thấy hình dáng các thân trung ấm kia từ quả vị thứ nhất đến quả vị thứ mười, thấy họ (thân trung ấm) chứng được Nhất sinh bổ xứ, ngồi dưới gốc cây thâu phục vô số ức trăm ngàn quân ma, thân vàng ròng đầy đủ các tướng, cũng có chư Thiên, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đến thỉnh Bồtát giảng thuyết pháp âm, vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy ở phương khác, chư Phật Thế Tôn khuyến hóa Bồ-tát giảng nói danh hiệu cõi nước xa gần, các hạnh thanh tịnh, hoặc trong hiện tại tán thán pháp mười hiệu của Như Lai, hoặc hưng khởi giáo pháp đến việc cúng dường, hoặc dùng thơ kệ tán thán công đức của Như Lai. Thân trung ấm của chúng sinh ở cõi nước này quán thấy đủ loại thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn. Lại thấy Như Lai phóng hào quang từ tướng lưỡi, mỗi hào quang đều có hóa thân Phật và có tám chúng thân cận chung quanh. Đức Như Lai giảng thuyết vô úy, trí không bị thoái chuyển, các pháp thâm sâu đều được đầy đủ; hoặc thọ ký các đệ tử Duyên giác vào đời vị lai sẽ thành Phật với danh hiệu như vậy.

Bấy giờ, một vạn tám ngàn người và một trăm ngàn Thiên tử ngay chỗ ngồi phát tâm Bồ-đề vô thượng. Khi ấy, Đức Thế Tôn xả bỏ thần túc, trở lại như cũ, rồi bảo với bốn chúng:

–Thần thông của Như Lai không thể cùng tận.

Lại có bốn pháp không thể nghĩ bàn. Bốn pháp đó: Một là chí nguyện sâu kín của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là căn bản của chúng sinh không thể nghĩ bàn. Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là âm thanh của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Này Tối Thắng! Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó: Một là cung cách của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghĩ bàn. Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là định ý kim cang không thể nghĩ bàn.

Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó: Một là ngồi bên gốc cây tâm ý như hư không, không thể nghĩ bàn. Hai là không thấy đúng, cũng không thấy sai không thể nghĩ bàn. Ba là lấy nhỏ làm lớn, lấy lớn làm nhỏ không thể nghĩ bàn. Bốn là lời nói có cứu giúp, cũng không thấy có cứu giúp không thể nghĩ bàn.

Lại có bốn việc: Sự thích ứng với pháp hành không bị nhiễm chấp, nói thì có tôi ta, nhưng không thấy có sinh, cũng không thấy có diệt, không tạo tác, cũng không thường đoạn. Tất cả chúng sinh căn bản thanh tịnh. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát thích ứng pháp hành không chấp trước. Thế nào, này Tối Thắng! Thế Tôn có giới hạn không?

–Thưa không, bạch Thế Tôn.

Đức Thế Tôn lại bảo Tối Thắng:

–Pháp trong các cõi từ pháp giới sinh ra, vốn không giới hạn.

Như vậy, vì có nên có sinh, hay là vì không nên không sinh?

Tối Thắng đáp:

–Bạch Thế Tôn! Không từ có mà có, cũng không từ không mà không.

–Thế nào, này Tối Thắng! Các pháp không giới hạn, không từ có mà có, không từ không mà không, sao lại thành Đẳng chánh giác?

Tối Thắng thưa:

–Không có thành Đẳng chánh giác.

Phật bảo Tối Thắng:

–Như Lai ngồi bên gốc cây bằng pháp vô biên, pháp không sinh diệt đều vắng lặng, tự nhiên, không trí cũng chẳng có trí, vì nói không có trí thì làm sao hiểu biết được. Tối Thắng nên biết, pháp ta tôi là giải bày chứ không thật có, cũng không thấy đạo, đạo không thấy đạo, không thấy không nghe, không tuệ, không chấp trước, hiểu rõ pháp giới cũng lại như vậy. Không thấy sinh diệt để làm nơi chốn, có người thọ giáo mà cũng không thấy câu cú văn tự. Như vậy, này Tối Thắng! Hiểu rõ các pháp như hư không, không hình tướng, giả sử có người ngu si nào mà đứng ở giữa hư không được không?

–Bạch Thế Tôn! Không thể được.

–Tất cả các pháp tánh như vậy, chân tế vốn không, không ấy là không thật có, nay nói có đạo, Đại Từ, đại Bi, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám hạnh Thánh hiền, Không, Vô tướng, Vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp Bất cộng, không do các pháp này mà được thành đạo. Đạo ấy không hình, cũng không thể thấy. Vì pháp không hình mới gọi là đạo. Đạo không thấy đến, cũng không thấy đi. Này Tối Thắng! Như vậy mới gọi là đạo. Giả sử Như Lai từ pháp giới sinh, từ pháp giới diệt thì chính là hành nghiệp cấu uế của sinh tử, nhưng không sinh diệt nên gọi là đạo.

Phật bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội quán hư không ở trong các cảnh giới thực hành pháp thiền vô nhiễm, dùng pháp thiền này đến đi không ngăn ngại, không bị loạn động. Chẳng phải thân, chẳng phải tâm, không bằng chẳng phải không bằng. Tư duy về định không mà không thấy cương nhu. Tâm tánh bình thản, điều gì cũng thích ứng, ứng cũng không ứng, cũng không thấy thích ứng.

Này Tối Thắng! Định không của Bồ-tát không có hạn lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải bậc La-hán, Bích-chi sánh kịp. Này Tối Thắng! ví như thiêu đốt hết núi rừng, cây cỏ, lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa, cũng không phải chỉ là lửa, cũng chẳng lìa lửa. Nên biết, các kết sử của Bồ-tát cũng như thế. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng là kết sử, cũng không phải lìa đạo mà hiểu rõ về định không, Tam-muội vô hình cũng như vậy. Các pháp thanh tịnh bình đẳng vốn không. Hoặc dùng chánh thọ quán sát kỹ các pháp đạt được, chúng bình đẳng không nhiễm ô, tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Sắc không chỗ trụ, cũng không thấy trụ, cứu vớt tất cả chúng sinh ở trong điên đảo. Giả nói pháp không hình tướng đó là đạo, hoặc dùng năm thông, ba đạt diệu trí để giáo hóa chúng sinh khắp bốn cõi, tự mình hóa độ, cũng không thấy có hóa độc. Đó là đạo vượt khỏi năm thông của ngoại đạo, xa lìa định ý của Thanh văn, Duyên giác. Không thấy định ý của năm thông Duyên giác là đạo. Lại dùng Định ý chánh thọ Tam-muội quán xét nguồn gốc của pháp, pháp từ đâu sinh ra, từ đâu diệt mất, không thấy sinh, cũng không thấy diệt mới gọi là đạo. Hữu vi là pháp thế gian, vô vi là pháp xuất thế gian. Không thấy tục cũng không thấy đạo, nên gọi là đạo. Hữu lậu là trần cấu, vô lậu là thanh tịnh. Không thấy lậu cũng không có lậu, thực hành mười điều thiện hoặc mười điều ác, không thấy thiện cũng không có ác. Đối với tám pháp: được, mất, hủy báng, ngợi khen, chê bai, khổ, vui, không thấy khổ, cũng không thấy vui, không thấy thành đạo, cũng không ở tục, không thấy nói pháp vắng lặng của Hiền thánh. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nhập vào Định không mới gọi là đạo.

Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên tư duy về Tam-muội hư không tạng, không thấy trải qua kiếp số thọ mạng của Hưu dư vô vi, không thấy không có sự biến đổi của Vô dư vô vi mới gọi là đạo. Đó là Đại Bồ-tát kiến lập phương tiện quyền xảo bằng tuệ không. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường và phụng sự chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sinh, làm tịnh cõi Phật. Nếu người không thấy sắc tướng thì hiện ra sắc tướng, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Không thấy có chứng đắc Niết-bàn, không thấy lưu chuyển trong sinh tử. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, thọ trì, ghi nhớ không quên thì hiện tại sẽ được tám phước công đức. Tám phước đó là: Quán các pháp không, tin hiểu không nghi ngờ, được tạng thâm sâu của Phật, ý không khiếp nhược, tâm ý thanh tịnh không cấu uế, không bị ô nhiễm, tâm như kim cang không thể phá hủy; các hành động chân chánh không vướng mắc vào cảnh giới ma, làm tịnh cõi Phật, độ người chưa được độ; tâm thích Đại thừa, không ưa trí nhỏ; thân cận Thiện tri thức, không chấp ngoại đạo, cầu đạt chân thật quán, không có tưởng về nhân ngã. Đó là Đại Bồ-tát được tám công đức. Hiểu biết pháp thế gian, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng. Đối với pháp vốn không mới ứng hợp với chánh thọ, thường dùng Thiền định chứng đắc Niết-bàn, giáo hóa chúng sinh không thấy mệt nhọc, đó là thấy pháp ứng hợp với Đạo. Do thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không tạo tác, không xứ sở. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đối với không chẳng phải không, cũng chẳng có không. Không chẳng pải không tức là vắng lặng không tên gọi. Tên gọi ấy cũng chẳng có, chẳng không, đó gọi là đạo. Nếu khi Bồ-tát vào quán sát các pháp thì không lệ thuộc vào ba cõi, cũng không chấp vào ba hữu. Bồ-tát như vậy ở trong cõi trời người phát thệ nguyện lớn cứu độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh được độ, gọi là Đại Bồ-tát thực hành Tuệ không, hoàn toàn không chấp trước.

Tối Thắng nên biết, Như Lai hoàn toàn nhập vào Định ý vô hình, hàng Nhị thừa không thể hiểu rõ, chỉ có Phật mới hiểu được. Trí tuệ của Phật không bị ngăn ngại, không chấp trước, không nhiễm ô, không có vết nhơ. Đối với cảnh giới không có sự chấp trước. Giả sử được pháp sâu xa không lấy làm vui mừng, không vướng mắc vào tám nạn của thế gian, được bốn biện tài vô ngại, không diệt không đốt, chẳng phải không đốt, không khởi, không sinh, chẳng phải không sinh. Quá khứ hoàn toàn diệt, chẳng có quá khứ. Hiện tại không an trụ, cũng không có an trụ. Đương lai chưa phát khởi chẳng thấy sinh. Đó là Đại Bồ-tát không chấp trước, không bị ngăn ngại, không vướng mắc vào ba xứ, không tham đắm trong ba cõi.

Bấy giờ, có chín vạn chúng sinh, mười một ức trời người và hàng Thiên, Long, Quỷ thần từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai hữu, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con vốn là thấp kém, được pháp tịnh mới có thể thông suốt pháp không hình tướng và pháp không biểu lộ ra bên ngoài. Xin nguyện Thế Tôn khiến thân trung ấm của trời người đời sau được cảnh giới của Phật, ở đó chứng đắc vô vi, cùng ngày, cùng giờ, cùng một cõi nước.

Khi ấy, Đức Thế Tôn mỉm cười, trong miệng xuất ra hào quang năm màu, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhiễu quanh thân ba vòng, trở lại vào miệng. Tôn giả A-nan quỳ gối chắp tay, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con làm thị giả Thế Tôn hơn ba mươi năm mà chưa từng thấy hào quang như vậy. Xin nguyện Thế Tôn giảng rõ cho chúng con, để người đời sau hoàn toàn không còn cấu uế.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nan:

–Hôm nay ông thấy chín vạn chúng sinh và mười một ức trời người này, khi qua đời ở đây, thân trung ấm của họ lại sinh vào không giới như vi trần, thân trung ấm đã sinh, theo tuần tự thành Phật, có cùng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thuần dùng Bồ-tát làm quyến thuộc, thân trung ấm sống lâu một kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp tồn tại một kiếp, tuần tự thành Phật không gián đoạn.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp này, Bồ-tát Biến Tịnh và vô số chúng sinh hối hận vì đã thọ thân người và trời, tại chỗ ngồi khóc lóc không tự kềm chế được.

Phật biết mà vẫn hỏi:

–Này thiện nam! Vì sao lại khóc đến như vậy?

Biến Tịnh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn sinh vào cõi ấy, nhưng không biết làm thế nào nên khóc.

Phật bảo Bồ-tát Biến Tịnh:

–Thôi, thôi, chớ nói như vậy. Xưa kia ông đã phát tâm thệ nguyện với tâm niệm khác, vì sao nửa chừng muốn sinh vào cõi nước khác? Thời Hiền kiếp diệt, ông sẽ được hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười danh hiệu.

 

Phẩm 25: THÂN KHẨU Ý

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa với Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều như huyễn hóa. Trong pháp huyễn hóa, làm thế nào giáo hóa chúng sinh làm tịnh cõi Phật? Làm thế nào để trừ sạch ba tưởng Ngã, Nhân, Thọ mạng? Làm thế nào từ cõi Phật này đến cõi Phật khác phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn?

Phật bảo Tối Thắng:

–Lành thay! Lành thay! Ông có thể ở trước Như Lai mà rống tiếng Sư tử. Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Ta sẽ thuyết giảng cho ông về nghĩa ấy. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ-tát thường tu tập pháp hành thân, khẩu, ý, quán sát rõ các pháp như huyễn hóa, không chấp trước vào ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Khi ấy, tại chỗ ngồi có Bồ-tát tên là Hoan Lạc, bạch với Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh trong các cõi ưa thích pháp căn bản sâu xa và ưa cúng dường, làm thanh tịnh thân, khẩu, ý, các căn thuần thục. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Tăng Thượng thưa:

–Hiểu biết các pháp không tạp, không nhiễm. Đối với pháp không nhiễm thì thanh tịnh thân, khẩu, ý. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Đẳng Từ thưa:

–Thực hành Từ bi thương xót chúng sinh trong các cõi, hiểu biết văn tự, hoàn toàn không chấp trước, không thấy pháp hành của thân, miệng, ở trong ây được pháp thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Đồng Chân Nhu Thủ thưa:

–Tất cả các pháp căn bản tuy thuyết mà không thấy thuyết, không thấy tưởng về pháp, ở trong đó thân, khẩu, ý thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Viên Quang thưa:

–Phật pháp không hai, cũng không thấy hai, dứt sạch các kết sử, hoàn toàn không sinh diệt, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Liên Hoa Kết thưa:

–Có thể đi đến thế giới khắp mười phương, thấy thế giới thanh tịnh mà không khởi tưởng thanh tịnh, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Ánh sáng thưa:

–Tất cả các pháp quy hướng về nơi không có quy hướng; đối với thân, khẩu, ý cũng không sinh diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Pháp Tịnh thưa:

–Tất cả các pháp đều trở về khống, vào định chánh thọ, giữ tâm không loạn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Liên Hoa Hạnh thưa:

–Đối với pháp vốn là không, các hành vô tận, đối với pháp vô tận thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Chánh Đẳng thưa:

–Biết rõ khổ vui và không khổ vui, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Trừ Nộ Tạng thưa:

–Tất cả các pháp hiểu rõ không sinh sân giận, trong pháp không sân giận đó, thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Sư tử Đồng Chân thưa:

–Đối với ba pháp căn bản không tham, sân, si, cũng không thấy sắc có sinh có diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thí Bảo thưa:

–Ngã, nhân, thọ mạng có sinh có diệt, hiểu rõ các pháp không sinh không diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Dũng Tuệ thưa:

–Pháp môn Tổng trì không thấy có chỗ quay về, ở trong pháp không có chỗ quay về ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hiền Hộ thưa:

–Tên gọi hư giả, không thể nắm bắt, phàm phu ngu muội cho là chân thật, ở trong ấy làm thanh tịnh thân, khẩu, ý. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Nguyệt Quang thưa:

–Đối với Như như, bản tế của tánh ấy như vậy, khi tu tập phạm hạnh không thấy được Như như, bản tánh của nó như vậy, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thiện Lai thưa:

–Do giới mà hương công đức xông khắp tam thiên đại thiên thế giới, hương cũng như gió, không phân biệt được hương, cũng không phân biệt được gió, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Bất Tư Nghì thưa:

–Vô vi không xa lìa hữu vi, hữu vi không xa lìa vô vi. Biết rõ hữu vi vô vi đều không thật có, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Khiết Tịnh thưa:

–Các chúng sinh ở cõi trời Tịnh Cư không thấy phước cõi trời, hành động thanh tịnh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Chí Thành thưa:

–Không thấy sự chí thành sẽ phạm bốn pháp, không thấy sự dối trá mà thọ quả báo, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thiện Quán thưa:

–Tất cả tưởng về sắc, biết rõ tưởng vô sắc, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Anh thưa:

–Nơi chốn sinh tử, quán thấy chúng sinh có khổ vui, lại thấy thân của mình khổ vui như vậy, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Hủy Căn thưa:

–Đối với các kết sử biết chúng vốn thanh tịnh, ở trong ấy thân,

khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thường Tiếu thưa:

–Đối với pháp thuộc về căn, không thấy ngã và ngã sở, cũng lại không thấy tạo tác ngã và ngã sở, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thường Bi thưa:

–Thực hành bốn vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả khắp cả cõi nước Phật, nhưng không thấy bốn vô lượng tâm để cứu chúng sinh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Phạm Ý thưa:

–Làm cho chúng sinh tà kiến được an ổn trong chánh kiến, ở trong chánh kiến không thấy tà chánh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Bố Diễn thưa:

–Tâm thệ nguyện rộng lớn, kiên cố, không bị che khuất bởi pháp tiểu thừa, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Dũng Sĩ thưa:

–Cứu độ chúng sinh không còn đắm nhiễm trong ba cõi, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Tâm Thắng thưa:

–Đứng vững trong pháp Nhẫn tuệ, siêng năng tu tập, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Lôi Âm thưa:

–Đối với các thiện căn, quán pháp giới không tăng, không giảm, không thấy các pháp có nới chốn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Yểm Hoạn thưa:

–Lấy hằng hà sa kiếp dùng làm một ngày, mười lăm ngày làm nửa tháng, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, ở trong đó trải qua ức trăm ngàn vạn kiếp mới có một vị Phật xuất hiện ở thế gian, dùng nhiều phương tiện cúng dường vô số Đức Như Lai, tịnh tu phạm hạnh, sau đó mới được thọ ký, tu tập đạo Bồ-tát, chưa từng nhàm chán khổ của sinh tử, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Trụ Thọ thưa:

–Thường dùng thần túc giáo hóa sáu mươi hai tà kiến của ngoại đạo, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Tịnh Ý thưa:

–Quán nguồn gốc các pháp là không, không thật có, sự sinh tự sinh, sự diệt tự diệt, pháp pháp tương sinh, pháp pháp tương diệt, sinh không biết sinh, diệt không biết diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Tâm Quảng thưa:

–Sự suy nghĩ của tâm và hơi thở ra vào đều phân biệt tất cả, không nhầm lẫn thứ tự, cũng không thấy ra, cũng không thấy vào, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thiện Thắng thưa:

–Biết rõ ba đời từ đâu sinh ra, từ đâu diệt mất, cũng không thấy sinh, cũng không thấy diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Trì Cấm thưa:

–Không thấy trì giới và phạm giới, cũng không thấy phá giới sẽ đọa vào địa ngục, không thấy trì giới sẽ nhận được phước báo cõi trời, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Úy thưa:

–Tu bốn Thần túc đối với bốn Ý chỉ luôn luôn siêng năng, tâm vốn không nguồn gốc, không thấy gốc của tâm, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Lượng Bi thưa:

–Người nào phát tâm thương yêu tất cả chúng sinh, đi đến vô lượng thế giới Phật khắp mười phương, vì cứu độ chúng sinh không cho là mệt mỏi, không thấy người được độ và người không được độ, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Thí thưa:

–Làm hưng thịnh bốn ân, thân cận Tam bảo, bố thí trải tâm

nhân từ, làm lợi ích cho mọi người đều như nhau, không thấy nhận lãnh quả báo do công đức của bốn ân, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hủy Căn thưa:

–Xem tất cả chúng sinh như con đỏ, muốn giữ gìn thân mình phải bảo vệ người khác, làm an ổn chúng sinh, đạt đến bờ giải thoát, không thấy người diệt độ đến bờ bên kia, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Tịch Chí thưa:

–Phật không thể nghĩ bàn, thọ phước báo khó lường, các căn tịch định, tin nhau không ganh ghét, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hộ Thân thưa:

–Thành tựu Phật đạo thì thân được tướng tốt, sau khi nhập Niếtbàn phân chia xá-lợi khắp cả mười phương, Thiên, Long, Quỷ thần đều tôn kính; cũng không thấy xá-lợi có người giáo hóa, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hương Thủ thưa:

–Mỗi mỗi lỗ chân lông tỏa ra vô lượng hương thơm, mỗim ỗi hương thơm phát ra vô lượng lời dạy bảo để cứu độ chúng sinh không cùng tận. Oai lực của thần túc rộng lớn vô lượng đều làm cho chúng sinh phát vô lượng đạo tâm, ở trong ấy xen lẫn chúng sinh không thích ứng với đạo chánh giác, hoặc thành tựu đạo Thanh văn, Duyên giác, hoặc sinh vào cõi trời, trở lại cõi người, tâm của Bồ-tát vẫn không hối tiếc. Đạo lớn rất quý, cũng không hạn chế để hóa độ hàng thấp kém, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hoằng Thệ thưa:

–Đối với nhiễm mà không nhiễm, trong tám pháp thế gian không khởi tưởng chấp trước, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Mẫn Cứu thưa:

–Đạo là hai, không đạo là một, không thấy một cũng không thấy hai, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Thượng thưa:

–Có Phật, có Pháp không giác ngộ được đạo; không Phật, không Pháp mới giác ngộ được đạo; cũng không thấy thành, cũng không thấy chẳng thành, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Phụng Đức thưa:

–Chúng sinh trong các cõi tự đặt tên gọi là nam, là nữ, ngã, nhân, thọ mạng, nhưng hiểu rõ bản tánh không có nam hay nữ, cũng không thấy từ nơi khác sinh đến đây, từ đây sinh đến nơi khác, phải biết các pháp giả hợp mà thành, chẳng phải là chân thật, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Mục Kiến thưa:

–Những sắc tướng biết rõ không có sắc tướng. Sắc, thức của ta trong ngoài không hình tướng, hiểu tánh sắc vốn không, đều không sinh diệt, ở trong đó thân, khẩu, ý thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồtát.

Bồ-tát Diệu Cẩm thưa:

–Ngã ngã sở, thọ mạng vốn tự nó không chủ thể. Như người nghe được âm thanh bên ngoài là nhĩ thức nghe được, xét rõ âm thanh đó vốn không cóh ình chất thật, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Thường Trụ thưa:

–Nếu đối với bảy pháp phân biệt rõ ràng, đầy đủ ba nơi, không cầu năm quả, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Huyền Thông thưa:

–Vắng lặng mà không vắng lặng là cấu, giới mà không có giới là cấu, nhẫn mà không nhẫn là cấu, cũng không thấy nhẫn, cũng không thấy không nhẫn, hiểu biết lẫn nhau không vắng lặng nào mà không vắng lặng, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Bồ-tát Hương Huân thưa:

–Không thấy các ấm, cái, bệnh thùy miên, trạo cử, xan tham, dua nịnh, rối loạn, phạm giới, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con cũng nguyện muốn nói về trí tuệ của Bồ-tát làm thanh tịnh thân, khẩu, ý, mà hiện khắp tất cả không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Sự thanh tịnh như vậy, trụ mà không chỗ trụ, các pháp huyễn hóa không thể nắm bắt. Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng hiện ở trong nước. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, cũng không sinh diệt, không nhập Niết-bàn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát.

Phật bảo Tối Thắng:

–Thế nào, này thiện nam! Ông quán sát thế nào mà ở trước Đức Như Lai nói nghĩa này trụ mà không chỗ trụ?

Tối Thắng thưa:

–Chỗ trụ của Như Lai là Như như, chỗ trụ ấy cũng như chỗ trụ của chúng sinh.

Phật hỏi:

–Chỗ trụ của Như Lai là Như như, như chỗ trụ của chúng sinh là thế nào?

Tối Thắng thưa:

–Như chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ.

Phật hỏi:

–Chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ, là thế nào?

Tối Thắng thưa:

–Chỗ trụ của Như Lai là trụ vào mà không chỗ trụ.

Phật hỏi:

–Có phải từ Bậc nhất nghĩa không mà trụ không?

Tối Thắng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi:

–Thế nào, này thiện nam! Chỗ trụ của Như Lai giống chỗ trụ của phàm phu không?

Tối Thắng đáp:

–Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi:

–Chẳng phải chỗ trụ của Như Lai là chẳng phải chỗ trụ của phàm phu, làm sao từ nơi ấy mà thành tựu Chánh giác được?

Tối Thắng thưa:

–Không từ pháp Như Lai và pháp phàm phu mà thành tựu chánh giác.

Phật hỏi:

–Thế nào, này thiện nam! Quả vị Như như Chí chân với địa vị phàm phu có gì sai khác?

Tối Thắng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Muốn làm cho hư không có sự sai khác sao?

Phật bảo Tối Thắng:

–Tất cả các pháp đều không, vắng lặng không sai khác.

Tối Thắng bạch Phật:

–Do các pháp ấy không thể nắm bắt, tướng không có tướng, chỗ trụ như như, như không chỗ trụ.

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng hỏi đồng chân Nhu Thủ:

–Nói trụ thì thế nào là trụ? Nói không trụ thì thế nào là không trụ?

Đồng chân Nhu Thủ đáp:

–Gọi là trụ, ấy là chỗ trụ Như như, trụ mà không chỗ trụ. Lại nói. Hiểu bốn phạm đường trụ mà không chỗ trụ, cho nên gọi là trụ.

Ấy là trụ vào mà không chỗ trụ.

Tối Thắng hỏi:

–Vấn đề hỏi về trụ của ta là chẳng phải bốn phạm đường, cũng chẳng phải một loại, hoặc nơi vắng lặng, hoặc trong thôn xóm, hoặc chỗ gò vắng, dưới gốc cây, có thể gọi đây là trụ không?

Nhu Thủ đáp:

–Chỗ trụ của bốn phạm đường mà tôi nói là nơi ngăn chặn của tâm, khống chế không cho sinh khởi, gọi đó là trụ.

Tối Thắng hỏi:

–Thế nào là tâm làm chỗ dừng?

Nhu Thủ đáp:

–Nghĩa của trí tuệ là gốc nên gọi là dừng.

Tối Thắng lại hỏi:

–Trí tuệ không căn bản, không cứu cánh, có thể từ sự thấy biết mà thành chỗ dừng không?

Nhu Thủ đáp:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Trước tự quán sát mình, sau đó trí tuệ mới thanh tịnh.

Tối Thắng hỏi:

–Này Nhu Thủ, trước tự quán sát mình là thế nào?

Nhu Thủ đáp:

–Các pháp vô ngã, đạt đến Như như, ngã tự vô ngã, không sinh cũng không phải không sinh. Đó là ta tự quán về ngã.

Tối Thắng hỏi:

–Giả sử Nhu Thủ vì từ nghĩa này, hay không từ nghĩa này mà chứng đắc. Tự quán về ngã là quán hình tướng Phật, nếu có ngã thì có Phật không? Ngã vốn là vô ngã, sao lại có Phật, cũng không thấy có nói năng, nói năng cũng vô ngã, làm sao quán hình tướng Phật được?

Nhu Thủ đáp:

–Nói quán ngã, ngã tức là vô ngã, đó là quán về ngã. Vì sao? Vì quán ngã tức là quán về các pháp. Quán các pháp tức là quán Phật.

Phật là không hình tướng, không thể thấy.

Tối Thắng hỏi:

–Lại có phương tiện không thành tựu mà có thể thành chánh kiến không?

Nhu Thủ đáp:

–Có. Đây là phương tiện không thành tựu chánh kiến trong cảnh giới hữu vi.

Tối Thắng hỏi:

–Này Nhu Thủ, nếu như vậy là chánh kiến phải không?

Nhu Thủ đáp:

–Chẳng phải do chứng hoàn toàn, không phải quả báo, cũng chẳng chấp thủ quả nên gọi là chánh kiến.

Tối Thắng hỏi:

–Kiến là thế nào?

–Nhu Thủ đáp:

–Không dùng tuệ nhãn để thấy các pháp, chẳng phải không dùng tuệ nhãn để thấy pháp, không có thấy, chẳng phải không thấy các pháp. Vì sao? Vì tuệ nhãn ấy thấy cảnh giới hữu vi, cũng thấy cảnh giới vô vi. Không có mắt hữu vi để thấy cảnh giới hữu vi và vô vi.

Tối Thắng hỏi:

–Này Nhu Thủ, có phương tiện nào từ những sự nhận thức ấy mà thành tựu quả vị của Tỳ-kheo không?

Nhu Thủ đáp:

–Cũng không từ sự thấy biết mà thành tựu quả vị, cũng không lìa những sự thấy biết để thành tựu quả vị ấy. Tối Thắng nên biết, tất cả đều do vọng chấp của năm cấu trược mà thành. Người hiểu được nghĩa này mới chứng đắc.

Tối Thắng hỏi:

–Do những dục gì mà thành năm cấu?

Nhu Thủ đáp:

–Cấu là gốc tâm, tâm là căn của đạo. Đạo thì vô hình, không thể thấy, nên gọi là quả chứng.

Tối Thắng hỏi:

–Đạo vô hình không thể thấy, thì sao có quả chứng?

Nhu Thủ đáp:

–Sự chứng đạo của tôi là do quả ấy, người thành tựu quả chứng tức chẳng phải đạo hay sao? Phàm phu ngu muội cho quả chứng là đạo chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Vì đạo chẳng phải quả chứng, quả chứng chẳng phải đạo, không xa lìa đạo, cũng không xa lìa quả chứng.

Tối Thắng hỏi:

–Đạo do quả chứng không sai khác sao?

Nhu Thủ đáp:

–Đạo là vô vi, không thể thấy, quả chứng hữu vi cũng không thể thấy, nên nói có sai khác.

Tối Thắng hỏi Nhu Thủ:

–Như lời ông nói từ hữu hạn đi đến vô hạn phải không?

Nhu Thủ đáp:

–Các pháp chưa sinh thì không thấy sinh, chẳng phải chẳng có sinh, sinh cũng không có sinh, không thấy đã sinh, chẳng phải không thấy có đã sinh. nếu đã sinh rồi thì cũng không sinh nữa, các pháp không đang sinh, chẳng phải không đang sinh, hiểu rõ đang sinh đều không thật có. Đó là từ hữu hạn đi đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi:

–Chẳng phải từ sinh đi đến vô hạn chăng?

Nhu Thủ đáp:

–Từ có sinh đạt đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi:

–Từ vô sinh đạt đến vô hạn chăng?

Nhu Thủ đáp:

–Đúng vậy, từ vô sinh đạt đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi:

–Này Nhu Thủ, từ có sinh đạt đến vô hạn, từ vô sinh cũng đạt đến vô hạn, vậy có gì sai khác?

Nhu Thủ đáp:

–Sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, đó là sai khác.

Tối Thắng hỏi:

–Sinh đã có hình, không sinh không tên gọi. Tại sao có sai khác?

Nhu Thủ đáp:

–Ta nêu ví dụ cho ông, người có mắt nhờ ví dụ mà hiểu rõ. Này Tối Thắng! Hư không có hình chăng?

Tối Thắng đáp:

–Không.

Nhu Thủ hỏi:

–Hư không có chánh kiến không?

Tối Thắng đáp:

–Không.

Nhu Thủ hỏi:

–Sao gọi là hư không?

Tối Thắng đáp:

–Vì hư không là không.

Nhu Thủ hỏi:

–Sao gọi hư không là không?

Tối Thắng đáp:

–Các pháp hư không là không.

Nhu Thủ hỏi:

–Thế nào là các pháp hư không là không?

Tối Thắng đáp:

–Các pháp không ngôn từ, không lời nói, không như hư không.

Nhu Thủ hỏi:

–Các pháp không ngôn từ, không lời nói, sao gọi không như hư không?

Khi ấy Tối Thắng im lặng không đáp.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hiểu đúng không, không phải đạo Niết-bàn. Đạo là không hình, cũng không thấy, không ngôn từ, không giảng thuyết, cũng không người nhận lãnh.

Khi nói pháp vô hình này, tất cả chúng sinh khen ngợi chưa từng có, chín ngàn Tỳ-kheo tâm hữu lậu giải thoát. Hai vạn bảy ngàn Thiên tử dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Lại có một ngàn hai trăm trời người phát Bồ-đề vô thượng, năm trăm vị Bồ-tát tại chỗ ngồi đắc Vô sinh pháp nhẫn.

Bấy giờ, tại chỗ ngồi có ma vương Vô Úy cùng chúng của mình đến trước Phật thưa:

–Chúng con mê muội, mãi mãi bị tối tăm. Ngày nay mới được nghe giáo pháp vô tướng. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh này thì chúng con luôn ủng hộ đến khi thành Phật mà không bị các nạn.

Liền nói chú Na-la-già-la-a-tỳ-ha-ha. Đem chú này ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng kinh điển luôn ghi nhớ trong tâm.

Bấy giờ, Phạm vương từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa:

–Chúng con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh điển này trong khoảng một trăm, một ngàn do-tuần; các thiện nam, thiện nữ không bị ngoại đạo nhiễu hại, liền ở trước Phật nói chú: “Y ma tỉ châu na tỳ gia xa lê la”. Chú này sẽ ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Liền nói chú: “Lưu giá da ma na na tăng cầu thời na tả”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn.

Khi ấy, ở phương Đông, Thiên vương Đề-đầu-lại-trá cùng với quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật thưa:

–Chúng con sẽ ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng kinh điển này cho đến khi thành Phật.

Liền nói chú: “Đế na tứ na đế na tứ”. Đem chú này ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Khi ấy, ở phương Nam, Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-già cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Liền nói chú: “Ma-ha tứ đà na tứ”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Ở phương Tây, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh này thì chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Liền nói chú: “Y nê di nê xa di”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Ở phương Bắc, Thiên vương Câu-tỳ-la cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào họ trì đọc tụng kinh này thì

chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Liền nói chú: “Đà thí đà la thí”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Khi ấy, Vô Úy ma vương, Phạm thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và Tứ Thiên vương, nói thần chú xong, nhiễu quanh Phật ba vòng, cúi đầu đảnh lễ nơi chân Phật rồi trở về chỗ ngồi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10