SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ HAI

Phẩm 5: THẤU TRIỆT KHÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở trong Trụ thứ năm nên làm thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

–Này Tối Thắng! Bậc Đại sĩ tu hành thường phải lìa xa nhà cửa, tài sản, cũng chớ gần gũi chốn phồn hoa, đô hội, tu công đức lành, trừ bỏ tâm tật đố, lìa xa nhân duyên tụ hội, thường nhớ hòa hợp, tránh xa sự tranh cãi, nên nói giữ miệng, không chia rẽ người, thường nên hạ mình không được cao ngạo, tuy nhiều tài năng nhưng không được khinh người, đoạn trừ vô minh, diệt năm thủ ấm, dứt các hành đưa đến già bệnh chết chẳng khởi phiền não, cũng chẳng theo sáu mươi hai tà kiến, chẳng tự cao cũng chẳng tự ti, vượt qua tám việc thế gian nhưng không cao ngạo, thường biết hiếu thuận, bỏ các khổ não, chẳng theo si ám, tỉnh giác không mê, độ các tâm cấu bẩn, sợ hãi, không để gây tội. Đối với năm ấm cho đến ma thân sinh tử, ma tội, ma chết, ma thiên, nên tư duy chế ngự, không tạo duyên sinh lại. Có thể kiến lập văn tuệ như vậy, nên hành như thế mà không thủ đắc. Thâm nhập ý tuệ, học không biết chán, không tự mãn, không có tham muốn nhưng không điều gì là không ưa thích, tâm luôn vui vẻ, hoan hỷ thọ nhận, thân an tâm định, ý hòa nhã không phiền não, học thông gốc pháp, nói pháp vô tận, tâm hướng về đạo, tự giữ giới cấm, thích theo chân chánh, không ở chỗ tà, thích tuệ vi diệu, phân biệt các pháp Độ vô cực, hiểu được các kinh sách Đại thừa của Bồ-tát, khéo dùng phương tiện quyền xảo tùy theo sự ưa thích, tâm lại hiểu rõ thông suốt tất cả, thường ưa lắng nghe pháp không sinh diệt, liễu đạt mười hai nhân duyên, thấu

suốt vô thường, diễn bày thông suốt khổ đế, cũng không có ngã, ngã sở, thấu rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, hiểu rõ khổ sinh tử, thành tựu công đức, lắng nghe nhớ nghĩ, hâm mộ Tam bảo, biết việc thế tục, cũng biết đạo pháp, thực tâm gần gũi bạn pháp, thâm nhập các pháp, trừ bỏ sự thiếu thốn, thích thọ trì chánh đạo, độ người vô trí khiến cho thành tựu nghiệp công đức, thức tâm sáng suốt, tránh xa chúng ác, buộc thân đạt trí làm lợi chúng sinh, sống nơi an ổn, cũng không ôm hận, mong được hạnh vô cực vi diệu tối thượng.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát tu hành phải nên niệm pháp của chư Phật. Làm thế nào để thành Vô thượng đạo? Bồ-tát có thể thành tựu từ nơi văn tuệ, tùy thời chứng nhập không bỏ thứ lớp. Trước nghe âm thanh ấy, sau đó tư duy, quán sát sâu xa biết hoạt động của tâm, điều thân tự độ và cứu chúng sinh, không chấp vô thường cũng không đắm trước. Thẩm sát nhân duyên các việc nên làm, ngã, nhân, thọ, mạng, quá khứ, hiện tại, vị lai. Thành tựu nghiệp công đức, biết rõ thiền định, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tự thủ hộ, không theo tham dục, thực hành Tam-muội, tu tập chánh thọ. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành nhập trăm ngàn định không cho là khó, không chỗ nào Bồ-tát không đến, chỉ không nguyện sinh cõi trời Vô sắc và Quang âm, cũng không nhập mãi trong định diệt tận, biết rõ bản tế, tư duy nắm giữ, thông suốt Bản vô nhưng không thủ chứng. Vì sao? Vì lý do chúng sinh thông suốt vô ngã nên thực hành đại Từ, không bỏ đại Bi, vào khắp nơi hiểm họa của sinh tử, lìa xa tâm tham đắm mong cầu, dạng người phạm pháp không được làm quấy, phương tiện quyền biến giáo hóa khắp nơi. Tùy theo chúng sinh tâm nhiễm ái dục mà dạy quán hạnh bất tịnh. Sau đó, Bồ-tát mới thủ chứng Niết-bàn. Tuy thị hiện diệt độ mà không diệt độ. Bồ-tát tu hành làm việc độ sinh không có cùng tận, làm các việc này khiến tâm không ân hận, không mất giới pháp oai nghi thể tiết, ra vào an tường không có thô tháo. Nếu muốn không tranh cãi thì chẳng bằng tự giữ sự im lặng của Hiền thánh, chỉ nên tịch tĩnh mà không nói năng. Sự im lặng ấy chính là sự tịch tĩnh sáng suốt không vuông tròn cao thấp. Sự mặc nhiên của Hiền thánh chính là sự quán sát hộ trì thân, khẩu, ý. Nếu nói thì chớ để đồng với xứ. Thân ham muốn bất động, tâm không biến đổi, cũng không mong mong cầu, lại không vọng vọng tưởng, đó là việc làm của bậc Đại sĩ. Muốn không bị sắc mê hoặc thì phải giữ tâm chân chánh. Với tâm chân chánh thì liền có thể đạt được vô vi tịch diệt. Nếu không nuôi dưỡng mình bằng sự tịch tĩnh thì không được tự khen cũng không được bất nhân. Người không tự cao cũng không tự ti mới gọi là tùy thuận pháp. Chẳng có mất cũng chẳng có cái để mất, vì hiểu tất cả vốn không, nên không có được mất. Quán ba đời bình đẳng không có sai khác. Mắt, sắc tướng và thức không có chỗ dừng trụ; tai, âm thanh và thức; mũi, mùi hương và thức; lưỡi, mùi vị và thức; thân, vật thô tế và thức; ý, pháp và thức, tất cả đều không có chủ, cũng không có chỗ trụ, cũng không có ngã. Quán tất cả các pháp hành đều không có ngã sở, thấy được vô ngã, đó gọi là tuệ. Hiểu rõ vật hiện hữu cũng như không hiện hữu, tất cả thảy đều rỗng không, thanh tịnh. Tâm thường chẳng lìa gốc các pháp, tư duy lìa xa chín chỗ ở của chúng sinh. Vì sao? Vì sự luân hồi lưu chuyển chìm đắm qua các cõi, không thoát khỏi mang thân chúng sinh trong chín chỗ; thân khác, tưởng khác gọi là người hay trời.

Lại nữa, Tối Thắng! Hoặc có chúng sinh, thân chẳng phải một loại mà thành tựu một tưởng, đó là thân Phạm thiên hiện hình đầu tiên ở thế gian, do tham đắm vị ngọt mà dần dần mất uy tướng của trời. Lại có chúng sinh, thân chẳng khác nhau mà có vô số tưởng, đó là trời Quang âm, công đức nghi dung, oai thần đặc biệt. Hoặc có chúng sinh một thân một tưởng, đó là trời Biến tịnh, oai nghi đến đi cực kỳ vi diệu. Lại có chúng sinh, ý hướng dến niệm hư không vô lượng, tâm không chấp trước hữu cũng không hướng đến sự diệt mất, đó gọi là trời Không nhập. Lại có chúng sinh, ý buộc vào thức tưởng, loại bỏ hình thể, lại không khiến tư tưởng có ý mong cầu, đó gọi là trời thức nhập. Lại có chúng sinh, không có tham cầu, trừ bỏ chuyện đúng sai, nội tâm sung mãn, không khởi tưởng đắm trước các mùi vị, đó gọi là trời Bất dụng nhập. Lại có chúng sinh, kiến lập thệ nguyện cầu đạo vô vi, quán Vô sắc giới không có hình tướng, cho là Niết-bàn vô vi, vô tác, cũng không có người tạo tác; hết tâm tinh cần nguyện sinh về đó, thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, số kiếp đã mãn, tuổi thọ đã hết, thần thức người ấy hướng theo năm đạo, thân trung ấm liền đến những chỗ thích hợp, thần thức người ấy sẽ nhập vào bào thai, lúc này mới biết mình chưa thật được diệt độ, si tâm hưng thịnh liền sinh sân hận, tâm nghĩ miệng nói, tạo tội sâu nặng, nói lời hư vọng trái với lời dạy của bậc Hiền thánh, dối gạt thế gian, sống không chân thật. Từ lâu ta đã tu hành khổ hạnh, chưa đạt đến Niết-bàn mà cho là đã được Niết-bàn, rõ ràng không nghi. Tại sao ta vẫn còn trong sinh tử? Hôm nay mới biết mình chưa đạt Niết-bàn, cũng không phải người đắc đạo thần thông. Trong lúc tư niện liền sinh về cõi ác, vì người ấy hủy báng bậc Hiền thánh.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành muốn thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải thường nên nhớ nghĩ tư duy lìa bỏ chín chỗ ở của chúng sinh, không được mong cầu tạo nhân duyên tránh xa tất cả niệm về chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng, cũng chớ tư duy nhớ chuyện thế tục, diệt trừ tất cả các niệm tưởng. Bồ-tát tu hành với năm mươi tâm đặc biệt, pháp hướng, pháp thứ, tinh tấn thành tựu đạo quả. Từ pháp thứ nhất nhập vào khổ pháp nhẫn, tăng trưởng thiện căn đồng với hạnh vô lậu. Từ Trụ thứ năm đến quả vị Như Lai, phải đầy đủ thiện căn, tư duy năm dục, đoạn trừ ái dục, diệt gốc bất thiện ở Dục giới, bằng tuệ khổ nhẫn tư duy gốc khổ. Trong cõi vô hình, thân không có hình sắc, nên không thể tư duy gốc khổ. Do vậy, Bồ-tát chẳng nên ở cõi vô hình để trừ pháp Dục giới. Gốc bất thiện tăng trưởng có chín mươi việc, tuệ được vô lậu cũng có chín mươi. Dùng mười pháp chính yếu đối trị gốc bất thiện và trần cấu thô tế của Dục giới. Còn lại tám mươi pháp, đoạn trừ tám mươi bất thiện căn bản. Tuy chưa đoạn trừ sạch nhưng cũng làm cho phiền não mỏng dần. Tận đạo Thánh đế cũng có vô lậu hợp với pháp, cũng có hữu lậu hợp với pháp. Bồ-tát tu hành ở Trụ thứ năm, tuy đoạn hữu lậu hợp pháp nhưng chẳng đoạn vô lậu hợp với pháp, nơi tánh vô vi cũng có hợp với pháp. Khi ấy, Bồ-tát tu hành chỉ đoạn trừ hữu vi, không đoạn trừ vô vi tương ưng với pháp.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu tập nên hành trì năm phần pháp tánh, tư duy hiểu rõ pháp không hai. Giới thân hộ mạng thanh tịnh không tham, cấu uế đã trừ, chúng định thành tựu, đó gọi là thân định. Phân biệt các quán không còn các tưởng, cũng lại không khởi niệm tưởng đắm trước, hiểu rõ không có một nên gọi là thân tuệ. Ba đời giải thoát, không còn một chút nhơ bẩn, tâm không thoái chuyển cũng không kinh sợ, đó gọi là thân giải thoát. Việc làm đã xong, biết rõ đã giải thoát ra khỏi ba cõi, đó gọi là thân giải thoát tri kiến. Nếu duyên hữu vi thì gọi là thân giải thoát. Nếu duyên vô vi thì gọi là thân kiến tuệ giải thoát. Hữu lậu, vô lậu cũng như vậy. Này Tối Thắng! Đó gọi là Bồ-tát tu hành, học tập pháp sắc duyên tận, nhưng chưa thể đoạn trừ pháp phi sắc duyên tận. Thế nào gọi là pháp sắc duyên tận và phi sắc duyên tận? Sắc duyên tận là: Như mắt thấy hình sắc liền sinh nhãn thức, phân biệt việc đúng sai, thiện ác, khởi ý nhiễm chấp không bỏ. Bồ-tát tu hành phải nên dùng trí chế ngự khiến cho không sinh, trừ bỏ hạnh bất tịnh nhơ uế. Phi sắc duyên tận thì chẳng có trí can thiệp vào, không sinh nhãn thức, chẳng phân biệt việc thiện ác, đúng sai. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới có thể thâu giữ. Nay sẽ nêu ví dụ để tự hiểu. Bậc đại trí nhờ ví dụ mà hiểu được. Ví như có người ngủ say, thần thức an tĩnh, thân thể bất động, không ai khuấy nhiễu, mắt không thấy sắc, thức không giao động, không khởi niệm tưởng, mắt đã ở trong, sắc dạo bên ngoài. Khi ấy, tâm sáng suốt, mắt không gia công, thức không tán loạn, sắc chợt ứng hiện liền qua, không có dừng trụ trệ ngại. Vì sao? Vì tự tánh không, không có sở hữu.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành thường nên tư duy, quán sát phân biệt, đoạn trừ pháp phi sắc duyên tận, nên học tập biết rõ phi sắc duyên tận chẳng có chẳng không, cũng không thành bại, lại nên tu hành tâm chánh của Hiền thánh trừ diệt tâm tà, thành tựu trăm ngàn định ý Tam-muội, thấy rõ năm pháp tà tâm, ba pháp tà phi tâm, niệm phương tiện định ở các địa ấy. Sơ thiền vẫn còn ý tà, tà kiến điên đảo chẳng ở sáu thức, ở trong thân của sáu thức, bốn tà tận diệt, cùng nhau liên kết, chẳng cách ly nhau, cho nên tà kiến không thông với thức. Năm thức chắc chắn không có lực phương tiện, tuệ ý thức có lực phương tiện. Từ thiền trung gian trở lên, không có ý tà, nhưng có tà kiến và ba mươi sáu pháp cùng thọ với nhau. Nhập Sơ thiền chỉ còn ý tà, và mười tám pháp cùng thọ với nhau. Nhập vào trong năm thức ấm, tuy có tà ý nhưng chẳng tự biết. Trong thiền trung gian tuy có tà kiến nhưng chẳng tự tương ưng. Từ Bồ-tát phát ý đến trụ Địa thứ tư, hành tuệ nhẫn nhục với khổ trí, tiêu diệt tà kiến, lìa xa ý tà. Bồ-tát tu hành muốn tiến lên trụ Địa thứ sáu, hành trí huyền thông, đoạn trừ duyên ba cõi, hợp với chân tế, thì trước tiên phải tinh cần đoạn trừ bệnh tai ương phóng dật, ngu si do dự cùng với năm tà trùm khắp ba cõi không có chỗ trống khuyết. Mười tám gốc kết sử sinh ra trăm lẽ tám pháp. Có khổ không tập tương ưng với nhau, có tập không khổ tương ưng với nhau, si, ái và không cùng sinh với nhau. Ở trong khổ môn, diệt trừ vô minh kết sử. Vô minh của Tập đế mà không trừ tận thì sẽ còn tái sinh, cũng chẳng thể dứt trừ ái khổ. Ngồi nơi cội Bồ-đề dứt các tâm nghi, chánh trụ Phật đạo, chẳng hoại ý khác, thành đạo Vô thượng chánh giác, tế độ muôn loài chúng sinh vô số vô lượng, hiểu rõ các pháp khởi diệt, duyên đắm nhiễm chấp đều là hư rỗng. Khi Bồ-tát ở Trụ thứ năm đắc pháp phi tận duyên khởi tánh không thì các bệnh trần cấu cũng đều tiêu trừ, thường dùng năm pháp chế ngự ái nhiễm, nhổ gốc rễ bệnh thông với sáu thức ở khắp ba cõi, khiến cho không tăng trưởng. Dùng năm thuốc trị sân nhuế ở cả sáu thức, chẳng bằng ở đầu nguồn một mình. Mạn có năm pháp, một thân ý thức ở ba chỗ, gốc rễ ăn sâu khó lay động. Bốn thuốc trị tà kiến, một thân ý thức cũng ở ba chỗ, qua lại không dừng nghỉ. Bốn hạnh nghi ngờ và thân ý thức lại ở ba chỗ san tham, tật đố, tư duy, không ở ba chỗ ngủ nghỉ, tỉnh ngộ, phải nên lìa xa không cho tạp lộn, bỏ các phiền não không còn si ám, thoát khỏi sợ hãi, không để ở chung, thường nhớ kiến lập tâm Nhất thiết trí, theo tuệ sáng suốt chân thật thấu rõ vô ngại, nếu không có ngã sở thì không có ngã, trừ bỏ ngã kiến nên gọi là khổ tuệ. Các sở hữu của tập đều không sở hữu, đều có gốc ngọn, cũng không có trụ xứ, không nhiễm ái nên gọi là tập tuệ. Biết rõ tập là pháp cần trừ diệt, học đạo chánh chân, biết vô bản tế, tiêu diệt hết thảy nên gọi là tận tuệ chiếu soi các tâm, trong sáng như mây tan, không một cấu bẩn. Này Tối Thắng! Đó gọi là đạo tuệ của Bồ-tát quán sát chiếu soi năm ấm, biết gốc bốn đại, hiểu bệnh lục suy, biết rõ bốn Đế, mười hai nhân duyên, vạch trần tất cả các kết sử hưng khởi trong ba đời, hiểu rõ năm ấm, các pháp sinh diệt, không còn thấy các pháp có đến đi, có trần cấu, cũng lại không thấy có sinh, già, chết. Vì sao? Vì không nắm bắt bản tánh của nó, vì nhân duyên diệt nên lìa các sự dính mắc đoạn trừ. Các pháp cấu bẩn đã đoạn trừ thì không còn chướng ngại, vững tin ngôn giáo, không còn lay động. Quán các pháp giống như huyễn, như hóa, như cảnh trong mộng, như cây chuối, như gợn nắng, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bọt nước. Quán sắc tướng, ngã, nhân, thọ mạng, hiểu sắc như thật không có chỗ sinh, quán rõ pháp này đều thanh tịnh, rỗng không, không có sở hữu. Hiểu năm ấm này cùng ngã, nhân, thọ mạng thật như huyễn hóa. Tâm thức vô hình không thể thấy, cũng không thấy chuyển động có xứ sở. Lại nên hiểu rõ nghiệp chẳng phải thường, khổ, không, chẳng phải thân. Biết như vậy mới là đạt được tuệ nghĩa về năm ấm, các pháp không có biên tế về sinh diệt. Không thấy có đất, nước, gió, lửa, sinh không có tăng giảm. Quán pháp giới cũng không có cứng mềm. Nghiên cứu về tánh nước thì thấy không có nước, không có chỗ thấm nhuần. Tư duy về giới vực của lửa thì không thấy có nóng. Hiểu rõ cảnh giới gió, không thấy có giao động tăng trưởng. Phân tích bốn đại, không thấy có sinh diệt, tăng giảm; liền có thể hiểu biết tuệ ngôn số, tuệ rộng, tuệ sâu, tuệ không có gì bằng. Khi mắt thấy sắc liền sinh thức tưởng, dùng pháp giới quán biết rõ tất cả đều rỗng không. Lại dùng pháp giới quán, tai nghe âm thanh, cũng không tiếng có chỗ đến, chợt tự sinh tự diệt. Mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý với pháp, không đắm trước cũng không đoạn trừ, không có thạnh suy. Quán đầy đủ tánh hạnh chúng sinh, giữ ý không khởi, tất cả thảy đều bình đẳng, không thể chia cách, không chút vọng tưởng, không có khác không, không thể đo lường, Pháp thân, Niết-bàn đồng như hư không, pháp giới chân tế đồng như hư không. Như vậy Tối Thắng! Bậc đại tu hành nên quán mắt rỗng không, không có ngã, ngã sở, chẳng phải chẳng có ngã, ngã và vô ngã đều là không. Người hiểu được ngã không thì ở trong các suy cũng không bị ràng buộc, không đắm nhiễm, cũng không đoạn trừ. Đó gọi là Bồ-tát đối với sáu pháp trần mà không khởi diệt. Mắt và sắc là suy đầu tiên của các rối loạn. Giả sử khi nhìn thấy vật mà không bị vật chuyển thì sáu trần thanh tịnh, không nhơ uế, thành tựu quả lớn, không còn ưu buồn sợ hãi. Còn nếu đối với sáu trần mà tâm bất tịnh thì tổn tánh đạo. Bồ-tát phát nguyện hành đại Từ bi che khắp tất cả chúng sinh, thọ khổ vì họ, không cho là thống khổ, cũng không tránh nạn nguy hiểm lo sợ gần xa, độ những chúng sinh không thích đạo, khuyên hành bố thí, tu công đức lành. Đó gọi là Bồ-tát tu hành tư duy quán pháp. Năm ấm, sáu suy đều không có xứ sở, hình tướng đến đi. Nếu đem Khổ, Tập, Tận, Đạo phân tích năm ấm thì có sinh phải có diệt, có tăng phải có giảm, tất cả đều không có hình tướng, khổ sinh già bệnh chết, khổ não ưu buồn, khổ oán gặp nhau, khổ thương xa lìa, khổ cầu mà không được. Nói tóm lại năm ấm thạnh là khổ. Này Tối Thắng! Đó gọi là biết Khổ. Tìm xét căn nguyên khổ ấy phát sinh là do Tập, tham nhiễm ái dục, ngắm nhìn bảo vật chẳng biết là huyễn, nếu biết mà xa lìa thì gọi là biết Tập. Trừ sạch các cấu không còn sinh lại, tham muốn dứt sạch, không để tái sinh, sắc hiện liền diệt không cho ngăn trệ, hiểu rõ tập thường tịch nên gọi là biết tận. Thông hiểu tám Chánh đạo không có thể tánh; hiểu chỗ dùng trụ, thân sơ, xa gần; biến hóa vô cùng, quét sạch trần cấu, chiếu sáng ngu si và thể còn mất, không hình không tiếng, dẫn đầu các mê hoặc vào đường vô vi, nên gọi là biết Đạo. Bồ-tát phân tích bốn Đế cũng không thủ chứng, vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh ở trong sinh tử. Tướng chân đế không hình, không tướng nên không thể thấy. Hiểu rõ như thật thì ứng với pháp tánh. Ngôn giáo của thế tục giả nói có tên. Kỳ thật, thể của văn tự không sinh không diệt. Người không đắm nhiễm thì được tâm Thánh đế, chẳng nghĩ có không, thấu rõ bản chất. Tất cả các sắc đều bình đẳng, cũng không sinh tâm cao thấp, đó gọi là phân biệt Thánh đế. Thánh đế của Bồ-tát kỳ thật có một, không có hai, không đắm chí chân cũng không mong cầu, không tưởng cầu sắc cũng không tưởng cầu vô sắc, đối với tưởng và vô tưởng bình đẳng không hai. Đó gọi là tướng chân đế. Người đã thấu rõ tướng như thật thì hiểu được tướng năm ấm, tướng độc hại của năm ấm sinh, tướng phiền não. Bồ-tát phải nên tư duy diệt trừ trăm nàn khổ, quy tất cả về pháp không, không trừ diệt, không khởi niệm nên gọi là Khổ đế. Thông hiểu chỗ sinh ra năm ấm, trừ bỏ ái nhiễm gọi là Tập đế. Nếu tâm không còn tham luyến, không vọng tướng mong cầu, không khởi ý phân biệt, không ở chung với tâm ngu si của ba đời, cũng không trụ ở nơi sở đắc, trần lao trừ sạch. Đó gọi là Tận đế. Người muốn thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân thì phải hiểu rõ Khổ, Tập, Tận; đoạn trừ sạch tâm nghi, tà kiến.

Này Tối Thắng! Bồ-tát ở trong trụ Địa thứ năm nên làm thanh tịnh hạnh mình như vậy.

 

Phẩm 6: CĂN MÔN

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Thượng vị trụ ở Địa thứ sáu nên thanh tịnh hạnh mình như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát Thượng vị thường phải tu hành sáu Độ vô cực, chẳng ái luyến thành quả đạt được, bỏ tâm Thanh văn, muốn cõi nước thanh tịnh thì không có ý Duyên giác, phát tâm rộng lớn chẳng khởi tâm nhỏ. Thấy người nghèo khổ, trước tự trừ tâm tham của mình, đem đồ đến cho người ấy, khiến họ no đủ. Có vật quý báu đem cho người, không có ý hối tiếc, lìa xa ngã, ngã sở, bỏ tâm chấp thường, trí ấy vô lượng không có cùng tận, mong muốn được nghe pháp vi diệu sâu xa. Thân, miệng, ý thanh tịnh, không phạm giới nào. Thường ủng hộ người trì giới. Bồ-tát thượng vị tâm luôn luôn nhân từ, không làm thương hại chúng sinh, tự thân không giết, thấy người giết hại nên khuyên tu thiện. Không trộm vật của người, dầu là mảy lông. Giả sử có người phạm giới thì dạy họ sám hối. Thường giữ tâm chuyên nhất không phạm dâm dật. Nếu thấy người phạm thì khuyên tu tịnh hạnh. Thường nói lời chân thành, không nói hai lời để chia rẽ người. Nếu có người tranh cãi thì nên hòa giải làm cho không tranh, nói lời can gián chân tình khiến cho tất cả hành thiện. Không được mắng chửi khiến người sân hận, gặp người sân hận phải nhớ hành nhẫn nhục. Có tâm hổ thẹn, không nói lời hung ác, nói phải giữ miệng, không được nói dối. Tư duy bình đẳng đối với tất cả mọi người, bỏ tâm kiêu mạn, không nên oán ghét, không sinh tướng sân đối với chúng sinh. Thường phải tự chế phục mình, mong muốn làm được như trên. Nếu nay không hành nhẫn nhục thì sau này sẽ xấu xí. Tâm thường ngay thẳng, không khinh hậu học. Người ở trong đạo pháp, tâm luôn vui vẻ, tâm ấy thanh tịnh không có phiền não, ưa thích pháp vô tỉ sâu xa vi diệu, đem bốn điều không sợ thâu phục ngoại học, khiến họ tu tịnh nghiệp ra khỏi nơi ấy. Tâm ở tại đạo hành theo nhân từ. Nếu gặp bậc Sa-môn, dị học, phạm chí thì phải làm việc của thầy cho bằng được. Vì sao? Vì thành Phật đạo, thành Nhất thiết trí. Tâm thường mềm mỏng, không hành thô bạo. Gặp người sai quấy, nếu không tự giữ được mình thì không nên làm, không để sơ hở có hành vi phi pháp, cũng không có tâm Thanh văn, Duyên giác. Ở các chỗ sai phạm, cũng không si ám, thường hành tinh tấn, không biếng nhác, không giao tiếp với các kẻ kiến giả sử gặp người tệ ác cũng không chống đối, không nói chuyện làm việc theo họ, giữ giới trọn vẹn không để vi phạm, gần bậc trí tuệ học hiểu pháp sâu xa, cũng không có ý nhàm chán xa lánh, thâm tín tịnh giới, tu hành chân chánh, không bị tà kiến làm ô nhiễm gìn giữ pháp ấy, tu hành như pháp, tất cả chúng sinh khen ngợi đức ấy, gìn giữ pháp luật, thanh tịnh không nhơ, tu hành kiên cố, thấu suốt bản tâm, không thể nói sai lời, nói có lỗi lầm. Vì sao? Vì hành chánh đạo không theo tà đạo, giới pháp trọn vẹn lại không mê hoặc, diễn giảng cùng khắp, giữ gìn chánh giác của chư Phật, tự vui chính mình, không cầu bên ngoài, thường biết dừng đủ không có tham luyến, tâm ý thuần thục trừ sạch các ác, thân ý lặng lẽ không có hân lạc, thường ưa thích nơi thanh vắng, không gần những chỗ ồn ào, có khả năng phân tích đạo pháp, không học theo ngoại đạo, oai nghi tề chỉnh chưa từng thất lễ, không dùng tư duy phục tốt để làm đẹp, thề như bản nguyện, không gì bằng công đức, không vì thứ ngon ngọt mà loạn tâm ý, tự có đạo lực giữ gìn đức nghiệp, tu thuận theo giới không phóng dật buông lung, thì Trời người hộ vệ khiến thành cứu cánh. Niệm rãi tâm Từ khắp các loài chúng sinh. Thường tu tâm Bi, nhẫn các phiền não, tinh tấn thủ hộ khiến không biếng nhác, tâm hành bình đẳng, thiện ác không hai, vì tất cả chúng sinh mà gánh gánh nặng, thường quán sát rõ, không làm hao tổn, không cho tâm thức chạy theo các tưởng, không nghĩ điều ác, không truyền điều sai cho người, hộ tất cả ý, thâu nhiếp ý, kiên cố không cho vọng khởi, theo sự tư duy thường niện bố thí, nuôi dưỡng tất cả loại chúng sinh, luôn hành nhẫn nhục, không khởi tâm khác, chí nguyện tinh tấn trọn không thoái chuyển, thiền tư lặng lẽ đắc định an ổn, thuận theo trí tuệ thông suốt các nghĩa, diễn nói sâu rộng cũng không chán đủ, tu học hết thảy giới pháp yếu, duyên theo bạn lành để đạt các pháp, lìa các thầy ác, xa các tà học. Tà học là chẳng phải đạo chân chánh, không tham đắm trang sức thân tướng, biết rõ vạn vật thảy đều vô thường, công đức giới ấy tịnh như vàng ròng, ý thí thanh tịnh không có hối hận, tâm ý thanh tịnh trọn không hư dối, sở học vi diệu không có phiền não, tâm ý sáng suốt không có cấu bẩn, bản hạnh thanh tịnh tâm không nóng nảy, tuy ở chỗ mê hoặc nhưng không theo dâm dục, ý không tán loạn thường luôn an định, đứt các trói buộc không còn sinh lại, thông suốt vắng lặng trọn không sai lầm, giới đủ không khuyết, không có rò rĩ, sống theo pháp yếu không được quên bỏ, theo định căn của chư Phật đã phân biệt mà độ chúng sinh với tâm bình đẳng. Hiện tiền nhập giải thoát môn, dạo chơi các Tam-muội bằng Nhất thiết trí. Không tham thân mạng, không còn một niệm loạn tướng, không chấp ngã, nhân, thọ mạng, cũng không tư duy sắc thọ tướng hành thức, không. Không nương vào thân, miệng và bốn đại tạo sắc, hiểu tướng chân đế ấy như thật, phân biệt sắc tạo, một không có hai. Lại nên tư duy thấy rõ mắt sắc, tai tiếng, mũi mùi, lưỡi vị, thân xúc, tâm pháp thảy đều thanh tịnh, một tướng vô tướng. Bằng pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, quán sát các pháp không có hình tướng. Vượt qua ba cõi không tham đắm nhiễm, cởi bỏ tất cả không còn trói buộc, lại không sinh niệm cũng không thấy sinh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ sinh. Thường nên từ mẫn, không nghĩ giết hại, trộm cắp. Nuôi dưỡng tất cả chúng sinh khiến cho sống an lạc, không được thi ân bằng cách dối gạt lấy tài bảo của người. Lìa xa sắc dục, không nên tà dâm. Không dối gạt người, nói lời trung tín, nhận người can gián, tâm không mê muội, tâm luôn luôn tôn kính các bậc trưởng lão. Với tâm nhân từ, dạo khắp các phương làm cho tất cả thảy đều vui thích, khoan dung rộng lượng chỉ dạy chánh giáo đúng như pháp luật với niệm bình đẳng, cũng không tức giận các loài chúng sinh cho mình đã đủ các hạnh, không tinh tấn thêm. Diễn nói rốt ráo độ các chúng sinh, tháo gỡ sự che đậy cho tất cả chúng sinh Bồ-tát thượng vị, đại chủ của pháp, giảng rộng pháp tam thừa vô cực, công đức hơn núi Tu-di, trí tuệ vượt cả sông biển, đạo siêu việt hư không, không thể lấy gì để ví dụ. Tối Thắng nên biết! Vì tất cả chúng sinh ngu si, biếng nhác, phóng dật, chẳng thuận theo giáo pháp, nên luân hồi sinh tử triền miên, bị mê mờ nên không thoát khỏi ba cõi. Do vậy, Như Lai thương xót không gì bằng. Vì tuân theo gốc tất cả các pháp, vì tất cả pháp mà đạo trừ tập ái, gốc hai mươi hai bệnh theo xúc. Các pháp này chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi pháp, cũng không có ngôn giáo, cũng không thể nói. Vì sao? Vì nếu không có pháp thì cũng không có sinh, cũng không có diệt, người nói pháp cũng không thấy có nói.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thượng vị phân biệt tư duy xúc có sinh thì xúc có diệt. Bồ-tát quán sự đối đãi của xúc ấy. Với sáu xúc làm căn bản, phải nên biết nó. Cũng nên biết sáu xúc không làm căn bản, bảy xúc cùng với thọ nhập. Lại nữa, Bồ-tát tư duy quán sát xúc, với ba cánh lạc làm căn bản thì bảy cánh lạc ngọn ngành ít có phần ấy. Lại nữa Tối Thắng! Bồ-tát nên tư duy, khi rõ xúc lạc tự tương ưng với bốn xúc cùng với thọ nhập thì không nên đắm nhiễm. Lại nữa, Bồtát nên tư duy, khi vô minh xúc cùng với ba xúc tự tương ưng, lại cùng với mười một xúc ít có phần ấy, thì nên tư duy không để đắm nhiễm. Lại nữa Tối Thắng! Khi xúc của phi minh và phi vô minh tự tương ưng thì mười một xúc khác ít có phần ấy. Lại nữa, khi ái dục xúc tự tương ưng thì mười một xúc ít có phần ấy. Giả sử, sân nhuế xúc tự thâu giữ lấy nhau thì mười một xúc ít có phần ấy. Lại nữa, thọ lạc xúc cùng mười hai xúc ít có phần ấy. Thọ khổ xúc với mười một xúc ít có phần ấy. Thọ không khổ không lạc với mười ba xúc ít có phần ấy. Lại nữa, Bồ-tát! Khi nhãn thức xúc tự tương ưng ứng với nhau thì tám xúc ít có phần ấy. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng như mắt không có khác. Sắc tướng xúc cùng với năm xúc làm thể, liền liên kết với bảy xúc. Nếu âm thanh xúc cùng với ba xúc làm thể thì cùng liên kết với mười một xúc. Nếu mùi hương xúc cùng với hai xúc làm thể thì khi ấy cùng liên kết với chín xúc. Nếu khi mùi vị xúc làm thể thì cùng liên kết với mười một xúc. Nếu khi vật thô mịm cùng với ba xúc làm thể thì cùng liên kết với mười ba xúc. Hoặc khi pháp xúc cùng với hai mươi hai xúc làm thể thì cùng liên kết với tất cả các xúc. Bồ-tát bậc thượng vị nên tư duy chỗ xúc hưng suy, sinh diệt, mỗi mỗi phân biệt không cho tăng giảm, có thể tiêu diệt các kết sử của dục trần, tâm cũng không tướng chấp thường cũng không thấy ngã, nhân, sinh, diệt, đoạn, thủ.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ sáu với tâm chân đế không niệm có không, thấu rõ pháp không thì biết rõ các xúc chỉ là một. Bồ-tát nên biết! Nếu khi xúc hữu đối cùng nhất căn làm thể thì biệt cùng với tám căn liên kết với nhau. Bồ-tát thượng vị lại nên tư duy, tâm chuyên nhất, mỗi mỗi biết rõ, tâm không đắm nhiễm. Bồ-tát lại nên quán sát xúc quảng ngữ cùng với năm căn làm thể, khi ấy, biệt cùng với tám căn liên kết với nhau, chớ để tâm đắm nhiễm. Bồ-tát lại nên tư duy minh xúc cùng với ba cánh lạc làm thể, khi ấy, biệt cùng với chín căn liên kết với nhau. Lại nữa, khi vô minh xúc tự làm thể thì cùng với sáu căn liên kết với nhau. Khi phi minh, phi vô minh xúc làm thể thì cùng với mười một căn liên kết với nhau, ái dục xúc cũng cùng với bốn căn liên kết với nhau, sân nhuế xúc cũng cùng với bốn căn liên kết với nhau. Thọ lạc xúc cùng với hai căn làm thể, thì cùng với chín căn liên kết với nhau. Thọ khổ xúc cùng với hai căn làm thể, thì cùng với sáu căn liên kết với nhau. Thọ không lạc không khổ xúc cùng với một căn làm thể, khi ấy cùng với vô căn liên kết với nhau. Lại nữa, Bồ-tát! Khi mắt xúc tự làm thể, thì cùng với chín căn liên kết với nhau. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Ý xúc cùng với năm căn làm thể, khi ấy cùng với tám căn liên kết với nhau. Sắc xúc cùng với hai căn làm thể, liền cùng với năm căn liên kết với nhau. Lại nữa, Bồ-tát cũng nên tư duy mùi hương xúc cùng với sáu căn làm thể, khi ấy liền cùng với chín căn liên kết với nhau. Mùi vị cùng với hai căn làm thể, khi ấy liền cùng với mười một căn liên kết với nhau. Nếu khi vật thô mịn xúc cùng với một căn làm thể, liền cùng với tám căn liên kết với nhau. Bồ-tát lại nên quán biết! Pháp xúc cùng với mười chín căn làm thể, liền cùng với mười ba căn xúc liên kết với nhau. Bồ-tát nên tư duy kỹ! Nếu trừ bỏ tham đắm thì không tạo xúc, liền có thể đầy đủ tất cả các nguyện, dùng thân tướng tốt sắc vàng trang nghiêm chiếu sáng khắp nơi, hiểu rõ các pháp đều là không tịch, hiểu biết gốc pháp cũng không phải là pháp, cũng không phải là phi pháp. Vì sao? Vì nếu không có pháp thì không có sinh, cũng không có diệt, người nói pháp cũng không thấy có nói, pháp phi chân thật, giả gọi vậy. Trong có sáu thọ, ngoài có sáu nhập, các loại năm ấm và nhất thiết nhập đều hư tịch, đều giả danh. Sự phân biệt chương cú và tất cả pháp, theo quán chân đế không có năm ấm. Các loại bốn đại và gốc hai mươi hai xúc không có đoạn diệt, cũng không phải là thường hay vô thường, cũng không kiên cố nên gọi các pháp là không thể nói. Tất cả các pháp xưa nay thanh tịnh, là không, là tịch, không có tên gọi. Tánh tất cả pháp và danh xưng ấy đều không có sở hữu, lời dạy của chư Phật cũng như vậy. Thường phải tu tập pháp không xứ sở. Tu pháp không xứ sở là thế nào? Tức là tu tập biết rõ sự kinh sợ không có chỗ sinh, tu không tham dục, hành pháp chân đế, học tập bản vô, hành khắp pháp giới, tu tập bản tế, biết rõ tất cả đều không, tất cả các pháp đều không có chỗ trụ, không có tập hành. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ sáu, hiểu các pháp không, tu tập oai nghi lễ tiết, không thủ vị lai, xả bỏ quá khứ, không nghĩ hiện tại cũng không có ngã sở, không có thọ thủ, cũng không có chủ, lại không che đậy nhưng không thể thấy. Vì cứu cánh không nên không có tận diệt. Giả sử có văn tự cũng là giả danh. Nếu không có tận diệt thì không có sinh. Vì sự kinh sợ của ý chí bản tịnh ấy cũng không có sinh. Sự tu tập ấy cũng không có tiếng vang, cũng không thấy có tiến, cũng không thấy có lùi. Truy tầm nguồn gốc của nó thì không có đáy, không sinh, không diệt. Đây gọi là đạt đến bản không. Giảng nói bình đẳng cũng không niệm tướng, không gần, không xa cũng không tung tích, đó gọi là tập. Tập còn có nghĩa là thâm nhập luật pháp, tất cả các pháp giả có tên gọi, cũng không có chỗ đến đi, không thấy, không nghe, không được, không mất. Đó gọi là thường trụ nơi ba cõi. Người khéo hành trì pháp như vậy gọi là tập. Thế nào gọi là pháp? Nghĩa là pháp không niệm pháp, cũng không hủy bại, lại không lo sợ, cũng không mong cầu, nếu không mong cầu thì không có tướng quả báo. Nếu không có niệm sự báo đáp thì trừ được tất cả phiền lụy của tướng trông chờ. Không nghĩ tướng vị lai, hiện tại không dừng trụ, không nhớ nghĩ quá khứ, người hành như vậy liền có thể được đầy đủ tất cả đồng với ba đời. Nếu đồng với ba đời thì không thể nói. Vì không dừng trụ nên độ được chúng sinh. Tối Thắng nên biết! Như Lai xuất hiện diễn nói pháp này khiến chúng sinh được qua bờ giác. Có Phật hay không Phật thì pháp tánh vẫn thường trụ, pháp giới tự nhiên không biến đổi. Pháp giới tụ như vậy gọi là tịch nhiên. Vì sao pháp giới tự nhiên? Vì không có ngã và ngã sở nên gọi là tự nhiên. Nếu khi Bồ-tát chấp vào ngã sở, thì thân ý mình có chỗ vướng mắc, quán xem nhân duyên sự thọ thân năm ấm, thấy chỗ xoay quanh của tên gọi, sắc, tư tưởng, ngôn từ qua lại đều y vào thức tri, danh hiệu giả bày, trong tâm toan tính. Quán sát các nhập, bốn đại, tận gốc ngọn, khi ấy Bồ-tát nghĩ: Ta nên tinh tấn độ người trong ba cõi, khiến cho họ xả bỏ bệnh tham, sân, si, tu tập đạo giáo, nhập vào ba môn giải thoát. Hoặc lại tư duy khiến cho chúng sinh đạt được đạo tích, thành A-la-hán, chứng đắc bốn quả; hoặc lại suy niệm về Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám chi Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, bốn Chân đế, diệt trừ trần lao. Người có tư tưởng này làm quyến thuộc với chúng sinh thì pháp giới sẽ có sự khuyết giảm. Bồ-tát trụ Địa thứ sáu, với tâm xa lìa không cùng Thanh văn, Duyên giác, hành nghiệp Bồ-tát, phát nguyện Đại thừa, tâm ý rộng lớn, tự tâm nghĩ: Nếu ta làm việc Phật, cầu tuệ đạo thì không làm suy giảm trăm ngàn hành xử, ta sẽ bố thí tài pháp, xả bỏ tâm bỏn sẻn, giữ giới thanh tịnh, đoạn trừ nhơ uế thủ hạnh cẩn trọng, kiến lập nhẫn nhục, trừ bỏ sân nhuế, hành động nhu hòa. Hoặc tu tinh tấn độ tâm biếng nhác, nỗ lực tu tập không bỏ những thiện ác trước đây. Hoặc ở chỗ thanh vắng tu tập chánh thọ, ý không tán loạn, sớm được nhất tâm, từ Tam-muội xuất ra phụng hành nghĩa ấy, hóa độ chúng sinh bằng sáu Độ vô cực. Vì cầu Phật đạo. Muốn thành bậc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Bồ-tát trụ Địa thứ sáu phải hàng phục chúng ma, chuyển pháp luân vô thượng độ thopát chúng sinh, vì Phật vĩnh tịch mà diệt độ vậy. Thấu triệt Thánh tuệ, học sửa trụ địa, tuyên dương nghiệp mười lực của Đức Như Lai, bốn điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng thù thắng, phân biệt biện tài, thông đạt vô ngại, cũng không tưởng cầu cõi Sắc, vô sắc, không có tham luyến. Trước người đáng độ, Bồ-tát phân tích năm ấm không có khởi diệt, sinh, già, chết là tướng phiền não, hiểu biết pháp không đó là khổ đế. Hiểu biết năm ấm từ nhân duyên khởi, vạn vật hiện hữu đều do tưởng cầu, biết rõ ý ấy nhưng không phân biệt đúng sai. Tuy không mong cầu nhưng không quên hẳn, đó là Tập đế. Chẳng hòa đồng với việc quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng không có tâm cầu mong trụ ở trong ấy, biết rõ đã diệt trừ hết thảy, không còn mong cầu, đó là tận đế. Người muốn đạt đạo phải biết rõ khổ, tập, tận, dùng tám mươi bốn trí của bậc Thánh được tôn sùng để trừ bỏ lưới nghi, duyên trói buộc, đó là tận đế. Phân biệt bốn đế, tất cả vật hiện hữu, tâm biết việc thiện ác, khổ lạc của thế gian, biết rõ tất cả nhưng không mong cầu, cũng không thủ chứng, đó là Bồ-tát hành đạo đế. Hiểu rõ thân không, tịch diệt chẳng khởi, cũng không làm hại, cũng không trừ tội, không thủ không xả, cũng không đoạn trừ, không thấy có thân, không thấy có người bố thí tạo tác, chẳng ở hai bên, cũng không ở giữa. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thượng vị thường nên tư duy, trừ tai họa liên kết của gốc hai mươi hai cánh lạc mới có thể tu tập nghiệp của Bồ-tát tôn sùng. Này Tối Thắng! Đó là Bồ-tát thượng vị ở trong trụ Địa thứ sáu làm thanh tịnh hạnh của mình.

 

Phẩm 7: QUẢNG THỌ

Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát A-tỳ-bà-đế ở tron trụ Địa thứ bảy nên làm thanh tịnh hạnh mình như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát ở trong trụ Địa thứ bảy thường hành bố ví nhưng không mong cầu quả báo, lìa bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sinh nhưng không thấy có độ, cũng lại không thấy ngã, nhân, thọ, mạng, đoạn diệt mười tám gốc chấp thường, giữ tánh các nhập lìa xa tưởng các suy nhập điên đảo, cũng không mong cầu sinh trong ba cõi, thường muốn thân cận nương tựa các pháp Phật, niệm giới, niệm thiên, niệm thí, niệm Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng lại không thấy có người nhập đạo. Tuy biết có chứng vô tưởng không, nhưng không nhập vào cảnh giới ấy. Thanh tịnh thân, khảu, ý, vượt qua vô nguyện, thương xót tất cả loài chúng sinh, bình đẳng như nhau, xem các pháp bình đẳng vô chủ, không, cũng không có chỗ nhập. Vì muốn làm bậc dẫn đường nên không cống cao, nhẫn chịu tất cả quả báo ứng, chỉ dạy một đường, không nương danh sắc, lại xa tà nghiệp, không nhiễm đắm trước, tướng mong cầu diệt nên không luân hồi, tự điều ý mình, tuệ không chướng ngại, thoát khỏi ba đường không nhiễm khát dục. Bồ-tát giảng dạy đúng thời, ra vào tới lui không mất oai nghi, tất cả ý vọng tướng tham cầu mãi mãi không sinh, thẩm xét rõ ràng các sự thọ thủ, giải bày công việc không có mê lầm, cũng không có tâm so sánh hơn thua, thường nên tư duy pháp tịch nhiên, pháp tịch nhiên ấy gọi là pháp không thoái chuyển. Người như vậy được chư Phật khen ngợi, trao cho danh hiệu tuệ vô sinh. Vì sao? Vì vô tâm đối với tất cả pháp, người vô tâm như vậy thì vô sinh, vô sinh chính là chỗ kiên cố không thoái chuyển. Tâm của Bồ-tát mới phát vững chãi, thường phải thủ hộ tâm thệ nguyện lớn, giống như kim cương không gì phá được. Bồ-tát ở trong vô lượng hiểm họa sinh tử, thí tất cả sở hữu không mong cầu, bình đẳng đối xử tất cả chúng sinh, nguyện độ hết thảy chúng sinh, dùng pháp vô vi của Phật cứu độ họ, tuy độ chúng sinh nhưng không có ai được độ. Đạt đến vô vi là hiểu rõ tất cả pháp không có sinh, phân biệt thông suốt tất cả các pháp, thường hành tinh tấn không cho sai sót, thâm nhập tuệ ấy thấu triệt tất cả, rõ hạnh Sa-môn, đủ Nhất thiết trí, các sự ái nhiễm không còn tăng giảm, dứt các vọng kiến, không còn tham tiếc, được không thoái chuyển. Tuy ở ba cõi mà không khởi tưởng chấp trước. Nếu khởi tướng chấp trước thì sinh ở biên địa. Người ở biên địa chấp ngã, ngã sở, dựa vào việc làm của mình mong cho tất cả được phước trợ giúp. Người ví như vậy liền bị ba chướng ngại: ngã, nhân, tưởng, thí; bị lưu chuyển sinh tử, thế tục trói buộc, không bao giờ được đạo vượt đời. Tối Thắng nên biết. nếu khi bố thí, Bồ-tát này không chấp ngã, ngã sở, không thấy có người thọ nhận thì không có chấp thủ. Giả sử có bố thí thì không được mong cầu quả báo ứng. Bồ-tát bố thí trợ giúp tất cả với tâm cầu đạo Vô thượng chân chánh ba đời bình đẳng không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Thấu rõ Pháp thân không ở sinh tử, không trụ Niết-bàn. Giáo hóa tất cả đều không có chỗ trụ, tâm tánh nhu hòa thương xót chúng sinh hiểm nạn, cứu độ tất cả chúng sinh với tâm bình đẳng, gần gũi học hỏi bậc Thiện tri thức, tâm cầu kinh điển để dứt các nghi, luôn nhớ xả bỏ không ham gia nghiệp, thấu rõ các tướng, thông đạt vô hình, quán sát các pháp, hiểu rõ chân chánh các pháp không từ đâu sinh, giải bày một phẩm, trừ sạch các niệm, dứt các loạn tưởng, xả các tà kiến, trừ bỏ trần lao, tịch nhiên thẩm xét, tâm ý điều hòa, không gây làm hại cũng không nhiễm ô. Nếu ai đạt đến chỗ này thì được gọi là không thoái chuyển. Với sự nhất tâm, Bồ-tát hòa nhập quần chúng, dùng thần thông thị hiện giáo hóa. Hiểu các cõi Phật là không, không có sở hữu, sớm đạt đến chỗ rốt ráo. Hiểu rõ đầy đủ căn tánh chúng sinh, Bồ-tát tùy theo đó mà thị hiện giáo hóa. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát trụ Địa thứ bảy tinh tấn dũng mãnh, Tam-muội như huyễn thường hiện trước mặt, tùy theo tâm ý của chúng sinh mà đến độ thoát họ, hoặc vào năm cõi mà cứu độ họ, không bỏ bản nguyện. Theo thệ nguyện ấy thường được thành tựu các loại thức. Với tài hùng biện, ngôn ngữ diễn đạt, âm thanh rõ ràng, Bồ-tát nói pháp, trước phải biết rõ mạng căn và chỗ hướng đến. Muốn thành tựu đạo, ngồi nơi cội Bồ-đề thì phải đầy đủ công đức, đạo tràng trang nghiêm, thông các pháp Phật. Bồ-tát thường nên tư duy sự thoái chuyển và không thoái chuyển, thành tựu các pháp quán cực vi diệu, thấu rõ biên địa ấy không có xứ sở, không có tận cùng cũng không có sinh. Bồ-tát tư duy trí nhẫn bất thoái, biết rõ các pháp tụ tán vững chãi, trí nhẫn bất thoái vĩnh viễn diệt độ. Tuy ở chỗ phóng dật nhưng biết rõ các pháp nên trí nhẫn bất thoái không dong ruổi. Lại đối với các pháp, hiểu rõ chỗ khởi và không khởi của năm ấm. Nhẫn bất thoái là hiểu rõ các pháp không có âm vang, nghĩa là không có tiếng dội trở lại. Bất thoái trí là ở nơi các pháp đầy đủ các sự tốt đẹp, sáu Độ vô cực đầy khắp cả hư không mà không khuyết giảm. Bất thoái nhẫn là tuy các pháp không đến không đi nhưng trong các oai nghi đi đứng nằm ngồi không lúc nào là không ứng hiện. Bất thoái trí là pháp tánh thường trụ, trụ chỗ vô trụ, không có xứ sở. Bất thoái nhẫn là đối với các pháp không có tự tôn, tự ti, không cao, không thấp. Bất thoái trí là đối với các pháp, xả ly đoạn diệt, chấp có tâm thường. Bất thoái nhẫn là do các khổ mà sinh lo sợ, nên biết tất cả đều không, không có xứ sở. Bất thoái trí là đối với các pháp, bỏ các sự che đậy, trùm khắp như hư không, xả trừ sáu việc. Bất thoái nhẫn là đối với các pháp, tiêu trừ trần cấu, không nhớ không quên. Bất thoái trí là đối với các pháp, không chỗ nào không ứng hiện, cũng không hợp không tan, tuy ở nơi các pháp nhưng đoạn trừ trần lao không còn dư sót. Bất thoái nhẫn là nhờ theo tuệ ấy, hành mà không hành, không biết gì cả nhưng không có gì mà không biết, không nghĩ, không thấy. Bất thoái trí là các pháp không động, không ai có thể làm cho dao động, tịch nhiên rỗng lặng, không có niệm tưởng Bất thoái nhẫn là các pháp hoại diệt không có thoái chuyển, đều đã diệt sạch không thể sinh lại. Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không trụ trước sau, tự tánh như hư không. Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đều ở chỗ tu hành ẩn tịch mặc, không chướng ngại cũng không hoạn nạn. Bất thoái trí là trụ tánh pháp giới, thường tùy theo thời hiển bày các pháp. Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đềuo tịch không niệm, không xả, không đắm, không nhiễm. Bất thoái trí là nương theo các pháp vượt qua bờ giác, không thấy đây-kia, có độ hay không độ. Bất thoái nhẫn là không niệm các nhập ưu, não, sinh, già, bệnh, chết của các pháp. Bất thoái nhẫn là thâu giữ các pháp mà không thủ đắc, được pháp lục độ, ý chí thâm diệu. Bất thoái nhẫn là lìa các cấu bẩn chấp vào các pháp, sạch sẽ không nhơ. Bất thoái nhẫn là đối với tất cả pháp tu hành bình đẳng, cũng không thoái chuyển. Bất thoái nhẫn là không thấy sự tạo tác về chủng tánh các pháp, biết rõ là một. Bất thoái trí là đối với tất cả các pháp, không có mong cầu cũng không buồn lo. Bất thoái nhẫn là do các pháp cùng nhau phát khởi, tuy không dừng nghỉ giữa đường, nhưng biến nhác nên đọa vào nơi biên địa. Bất thoái trí là hiểu rõ bản vô, không tiến không thoái. Bất thoái nhẫn là đoạn trừ chỗ vang vọng của các pháp, thảy đều như hư không, không có tướng mạo, không xả bản vô, pháp tánh vốn tự như vậy. Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không có chướng ngại, không đến không đi, không buộc, không thoát cũng không có sinh. Bất thoái nhẫn là trừ các ác nhơ bẩn, hạnh được thanh tịnh. Bất thoái trí là giảng bày các pháp, tâm định trí phát, hàng phục ác ma, cởi bỏ trói buộc, tâm đạo hưng thịnh. Bất thoái nhẫn là độ sạch hết thảy nhan duyên ân ái và kẻ khinh mạn các pháp. Bất thoái trí là lìa danh ác của tất cả pháp, danh bản vô úy, không được cũng không mất. Bất thoái nhẫn là khiến tất cả pháp không buông không giữ, không chết cũng không sinh. Bất thoái trí bỏ tâm tham đắm, rốt ráo trọn vẹn không có tăng giảm. Bất thoái trí là làm pháp căn bản, sinh ra trong ba cõi một mình thù thắng. Bất thoái nhẫn là tư duy gốc khổ, truy tầm biết rõ nó từ đâu sinh. Bất thoái trí là phân biệt nhân duyên ý thức của căn môn. Bất thoái nhẫn là Bồ-tát trọn không làm trái với thệ nguyện của mình.

Bất thoái trí là thường sẽ hóa sinh, không vì thân này mà thọ thai phần. Bất thoái nhẫn là tư duy các loại hưng suy của ấm nhập. Bất thoái trí là biết rõ trong thân, khởi quán bất tịnh từ đầu đến chân không có gì đáng tham đắm.

–Này Tối Thắng! Bồ-tát thường nên tư duy phân biệt biết rõ, người mới khởi học tâm Bồ-tát phải dùng bất thoái nhẫn để quán sát thất bản, không có sinh diệt, nắm giữ, đoạn trừ. Lại nên tư duy bát bản của Hiền thánh thảy đều không thấy có sinh diệt, thủ xả. Này Tối Thắng! Giả sử tùy theo tâm lượng mà thọ sinh, hoặc sinh cõi Sắc, năm Địa, mười Địa, sáu Địa, bốn Địa, ba Địa, hai Địa, một Địa, người ở ngôi vị thấp nhất cũng nên tư duy đầy đủ thất bản. Trong cõi Vô sắc lại có mười một, người biết rõ không tịch, không thoái chuyển có thể thành tựu Khổ nhẫn, Khổ trí, Tập, Tận, Đạo nhẫn và trí Hiền thánh, cũng sẽ biết rõ tám huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu vô minh. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy thường nương vào Sơ thiền, hành sáu thánh trí, tu Tam-muội, và ba duyên phạm đường nơi hỷ căn. Nếu dựa vào trung thiền mà không thủ chứng thì nên tu bảy trí không giác có quán, tâm hành thủ hộ Không, Vô tướng, Vô nguyện. Giả sử Bồ-tát niệm tam y hiền, biết rõ mười tuệ, không niệm giác quán Không, Vô tướng, Vô nguyện, an lạc tự vui. Khi ấy, Bồ-tát ở trong tư thiền lại nên biết rõ mười sáu thánh trí, cũng không có giác quán, hành ba phạm đường gìn giữ ý mình không cho tán mất, có thể nhập vào bảo tạng của Bồ-tát, hành theo trí nhẫn, hiểu rõ không còn ung nhọt, không bị năm mươi hai lậu trói buộc, biết rõ các pháp, phát khởi theo thứ lớp, sớm được pháp Thánh tuệ không thoái chuyển. Nếu Bồ-tát tu mười sáu trí thù thắng thì không còn hoài nghi, tà kiến, dứt trừ tất cả các trói buộc, tâm ấy kiên cố không khiếp nhược, ý chí vững chãi không hôn mê, đạo nơi ba cõi không có chướng nạn, chí như kim cương không gì phá được, tâm thường hỗ thẹn, ý hay chiếu soi thông đạt tất cả, trí như ánh sáng chiếu diệu khắp nơi, ngôn từ biện tài thông suốt vô ngại, sớm được Tổng trì chưa từng thất niệm, được hạnh quyết định không còn trầm mê, ở bất cứ đâu cũng hành nghiệp Phật, làm việc bình đẳng, tâm không tăng giảm, nói lời nhu hòa không hại một ai, tánh không thô tháo, thẩm xét an tường, biết rõ căn cơ người rồi mới nói pháp, biết rõ năm ấm, thấu triệt các nhập, hiểu các pháp một cách đầy đủ, thấy rõ nhân duyên báo ứng của ba đời, biết tâm niệm của người mà ví họ nói về quả báo thiện ác, xứ, phi xứ, tâm tuệ sâu xa không có bờ mé, hiểu các phương tiện tùy thời giáo hóa, biết thời đi đứng ra vào tới lui, biết việc nên làm hay không nên làm, uy nghi an tường không mất tư cách, ở nơi đâu cũng hưng phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân.

Như vậy Tối Thắng, Bồ-tát ở bất cứ nơi đâu cũng nói pháp độ người khiến đắc thành đạo quả, thoát khỏi các nạn, được an ổn vĩnh viễn, không sinh vào tám chỗ không an vui, đến cõi nước nào cũng được tự tại, nghe giảng pháp yếu liền được độ thoát, thọ trì phụng hành những lời dạy ấy, liền đạt được pháp không thoái chuyển, hiểu rõ tuệ không không từ đâu sinh, liền thành đạo Vô thượng Chánh chân. Bồ-tát thường nên dùng phương tiện quyền xảo, nhưng không được nghĩ rằng, ta nay đã hàng phục sắc, tướng không còn bản ngã mong cầu, không sinh tâm nhỏ cũng không thủ chứng. Đó gọi là Bồtát không còn thoái chuyển, biết rõ pháp mười hai nhân duyên, do vô minh mà có sinh tử. Tìm hiểu chỗ sinh ấy thì không thể thấy, cũng không thể quán, cũng chẳng có tướng, cũng chẳng phải không có tướng, chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng vô tướng, thông đạt gốc nhân duyên ấy, không thấy việc làm có chánh hay không chân chánh và thượng trung hạ cũng lại không thấy có tội phước báo ứng hay việc làm hạnh bất thiện, hiểu rõ các pháp đều không có sinh, tu gốc các pháp không thấy hợp tan, đó gọi là nhân duyên sinh khởi. Nếu không có duyên thì không có ưu hoạn. Nếu không ưu hoạn tức là vô minh, hành diệt thì sinh, già, ưu, bi, khổ não diệt. Đó là người thông đạt pháp mười hai nhân duyên. Tất cả tên gọi các pháp đều có nhân, do nhân duyên hợp tan nên chẳng có ngã hay vô ngã, chẳng có người hay không người, cũng lại không thấy có ngã nhân thọ mạng, sinh, già, vô thường, chẳng thấy có nhập và sở nhập, biết rõ thức nhập đều không có chỗ nhập. Người thâm nhập như vậy thì thấu rõ tất cả pháp thoái chuyển, không thoái chuyển.

Này Tối Thắng! Bậc Đại sĩ không thoái chuyển muốn đầy đủ tất cả pháp, nên hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, tuy biết hư tịch nhưng vì chúng sinh nên không thủ chứng. Bồ-tát tu hành thanh tịnh không nhiễm hữu vi, còn chúng sinh chẳng thấu rõ gốc rễ pháp hữu vi. Hiểu rõ mười hai nhân duyên và pháp hữu vi ấy, Bồ-tát làm người dẫn đường thông đạt vô vi. Tuy ở cảnh giới vô vi những Bồ-tát hành pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không trụ vô vi mà thủ chứng nó. Biết rõ vô thường là pháp sinh diệt, tu hành công đức không có biếng nhác, quán nguồn gốc khổ của chúng sinh ấy thọ, chỉ dạy chúng sinh ấy tự tỉnh giác, quán sự diệt của các pháp không có tận cùng, quán thọ, ý, pháp không có xứ sở, quán vô sinh không thấy sinh, quán gánh nặng ấy của chúng sinh, quán hữu lậu, vô lậu, ba cõi bất diệt, hành bốn Tâm vô lượng, thương kẻ hậu học, giữ ý không nhiễm, không xả đạo Duyên giác của đệ tử.

Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát ý chí thanh tịnh, sáng suốt, thị hiện theo sự ưa thích của người, thích hợp với chúng sinh làm cho được toại nguyện không có tổn giảm. Với tuệ công đức, tâm ý sáng suốt, Bồ-tát nhìn thấy sắc, thấu rõ tánh không, tu tập nhẫn nhục không khởi loạn tưởng. Nếu có người sân uế, mắng chửi, Bồ-tát chỉ niệm pháp ấy, hiểu rõ trong ngoài đều không, không có sở hữu, cũng không hoài nghi về sự giới hạn nói không, không thấy có mình và người. Vì sao? Vì bậc không thoái chuyển, vì người xin mà hoan hỷ cho họ. Giả sử có người xin đầu, Bồ-tát tâm rất vui cho, không trái với người, không có tham tiếc. Nếu xin vợ con thì liền đem cho, tâm không thay đổi. Chỉ giảng nói đạo Vô thượng chánh nhân, không ân cần khuyến tấn người làm Kim luân vương, Đế Thích, Phạm thiên. Nói pháp vi diệu cho hết thảy nhân sinh phát tâm học đạo Bồ-tát. Bằng thần thông, Bồ-tát dạo khắp mười phương gặp Phật, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Giả sử trong ba ngàn tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp vật quý báu, Bồ-tát cũng không khích tâm tướng đắm nhiễm. Tất cả vật được nhìn thấy Bồ-tát cũng không nghĩ là của ta, tâm ý thanh tịnh chẳng cầu sắc tưởng. Vì thân pháp chẳng thể thấy nên Bồ-tát thấy tất cả người như pháp giới trụ, sớm được đạo nhãn, thần tuệ đầy đủ. Nhờ được tuệ nhãn nên biết tất cả đều không có sở hữu, hiểu rõ pháp tánh chân tế-là như vậy, liền đợc Phật nhãn và mười tám pháp bản, pháp nhãn phân biệt, thông đạtb vô ngại, đầy đủ mười lực, gìn giữ đại nguyện liền đến cảnh giới vô vi bất tử. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát tu hành theo Nhất thiết trí, tu tập trụ trước mà không trụ trước, hiểu rõ trụ này, trụ mà không trụ, học mà không học. Bồ-tát thường niệm pháp không tịch, tùy thuận các pháp mà không trái nghịch, không vì tùy thuận mà bình đẳng, không vì phản nghịch mà đọa nơi biên địa, không vì học theo tà đạo mà rơi vào cảnh giới ma, cũng không học theo Đại thừa cầu may. Vì sao? Vì chẳng bỏ pháp yếu kiên cố. Vì không có pháp nên không phạm sai trái, vì tự biết nên không có tạo tác, có thể chuyên tâm chế ngự năm ấm, khiến không luân hồi, vượt qua cõi ma, không thể che tâm Bồ-tát.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát không thoái chuyển, trụ mà không tru, học mà không học?

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ bảy ở trong ba cõi mà không nhiễm ba cõi cũng không có sở tập. Không tập học là nói về bên trong, không cầu tập là nói về bên ngoài. Tuy tập ở bên ngoài nhưng không theo đệ tử. Xem vô sở học cũng chẳng phải là Duyên giác. Tập nghĩa là tập học sinh tử, tập tu của Bồ-tát, là học vô tư, tập mà không tập, học mà không học. Tập là danh sắc, tập là nhân duyên, tập là ngã kiến, tập là ái nhiễm, tập là ngã sở cũng chẳng phải ngã sở, tập là tuy tham nhưng học tập bố thí, tập là tuy phạm giói nhưng học hộ trì giới, lại không vì trì giới mà cống cao. Tập cũng sân nhuế nhưng học tập nhẫn nhục, tập là biếng nhác nhưng học tập tinh tấn, tập là ý an loạn nhưng học tập nhất tâm, tập là vô minh nhưng học tập trí tuệ, tập tuy không có quả báo nhưng học tập công đức, tập là nghiệp thế tục nhưng học tập nói đạo tập là trói buộc nhưng học tập độ thoát. Như vậy tối thắng, Bồ-tát trụ Địa thứ bảy tập mà không tập, học mà không học, đạt được tuệ vô cực đối với tất cả pháp không thấy có được mất, cũng không có nhập cũng chẳng phải không nhập, chẳng thể dùng sắc để nhập, thọ, tưởng, hành thức cũng như vậy. Không từ số pháp mà đạt được hữu cực, cũng lại không từ số phi pháp mà đạt được vô cực, cầu Nhất thiết trí. Bồ-tát nên trụ trí như vậy. Không được nghĩ là có ta tạo tác, người hiểu như vậy là Nhất thiết trí. Bồ-tát muốn cầu Nhất thiết trí thì nên cầu từ bốn đại tạo sắc. Vì sao? Vì chấp thân nên chướng ngại, thọ sinh theo bốn loại. Người không chấp thân thì xa lìa ái dục. Bồ-tát trụ thì trụ với trí như vậy, vượt qua các cõi, trụ mà không trụ, không chấp có sinh nên không bị sinh. Nếu thấy sinh thì đó là phi sinh. Vì biết vô sinh nên gọi là tuệ vô sinh. Những người biết như vậy gọi là bậc Đại thừa vô hạng vô cực bình đẳng. Khi Phật nói lời này, mười hai ức trăm ngàn Thiên tử đều đắc Vô sinh pháp nhẫn, bảy vạn hai ngàn người đều phát tâm đạo Vô thượng bình đẳng.

Khi ấy từ trên các tòa Thanh văn tôn quý, trưởng lão Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, A-na-luật, Ly-việt, Nan-đầu-bà-la, Phân-nậu, Văn-đà-ni-phất, Không Tu-bồ-đề cả thảy năm trăm vị A-lahán liền từ tòa đứng dậy, chỉnh lại y áo, quỳ gối phải chấm đất, đầu mặt lễ sát chân Phật, đồng thời cùng cất tiếng bi ai, nghẹn ngào, nức nở, lấy tay chùi nước mắt, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chỗ thấy của chúng con hạn hẹp, đã hạn mất hạt giống Thánh, Phật đạo thâm thúy chẳng do tẩy rửa. Nếu có người nam, người nữ nào, thậm chí kẻ phàm phu ở trong ba đường ác muốn cầu đạo thì nên phát tâm tôn quý cầu thành Phật. Vì sao? Vì như Đức Phật ngày nay, đem trăm ngàn pháp nói cho chúng con chẳng thể thành Bồ-tát phát ý, các vị A-la-hán tự hối hận, nghĩ mình không bằng ai, nay tuy đắc đạo xưng là La-hán, đầy đủ sáu thông, công đức thanh khiết, siêu việt ba cõi nhưng chẳng bằng người trăm ngàn vạn kiếp tạo tội ngũ nghịch, đọa xuống địa ngục vô trạch, mong chờ tội diệt, hết thời hạn còn có ngày ra, tiến tu cho đến diệt độ, phát tâm thành đạo Bồ-tát. Ngày nay căn của chúng con đã hoại, gặp thời mà không được lợi ích. Vì sao? Vì hạt giống Bồ-tát đã bị thiêu cháy như đồ đựng bị lủng chảy không thể chứa vật, chẳng thể thành đạo Bồ-tát. Các loài có hình như chim, thú, côn trùng, loài một chân, hai chân, cho đến trăm ngàn chân dựa vào đất mà sống, ăn đồ ngon ngọt, mặc áo mịn màng, đời sống của muôn thú lệ thuộc vào đất. Chúng ta tuy đắc đạo nhưng còn nuôi dưỡng bốn đại, vậy chúng ta và muôn thú có gì khác nhau? Các loài kia tuy tạp cấu nhưng dần dần sẽ thoát khỏi thân hình súc sinh, gieo trồng công đức không ngừng nghỉ, thành bậc Đại thừa, chư Thiên và muôn loại đều nhờ họ mà độ thoát. Còn chúng ta thật là thấp kém, chẳng bằng những vị ấy. Các vị A-la-hán đều buồn rầu, hối hận việc tu của mình. Khi ấy, một ngàn bảy trăm vị trong hội, trước đây tu pháp Thanh văn, Duyên giác nhưng chưa đi sâu vào đạo nên chuyển hướng phát tâm vô thượng kiên cố, liền ở trên tòa đắc được Vô sinh pháp nhẫn diễn nói đại pháp lục độ, tuyên dương bốn Thánh đế khổ, tập, tấn, đạo, bốn ân, bốn vô lương tâm, giáo huấn hết thảy chúng sinh khiến cho phát tâm đạo.

Khi ấy, Xá-lợi-phất nương oai thần của Phật, bảo khắp các vị Bồ-tát trong hội: Khi xưa ta ở địa vị phàm phu hoặc từ trụ thứ nhất tấn tu đến Trụ thứ năm, lại còn thối đọa trở lại sơ trụ. Lại từ sơ trụ tiến đến Trụ thứ năm hoặc thứ sáu, trải qua sáu mươi kiếp như vậy cuối cùng chẳng thể đạt được không thoái chuyển, liền khởi tâm hối tiếc. Nếu đem trì giới thanh tịnh thì sở nguyện chắc được như ý, không phạm những điều sai trái, dùng pháp trí tuệ soi sáng khắp nơi. Bồ-tát trụ được không thoái chuyển, không chấp vào sự bố thí hay không bố thí, cũng không thấy có giới nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm trí tuệ, cũng lại không theo pháp của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng lại không theo hành động của thân, khẩu, ý, đối với tất cả pháp đều không có nhiễm chấp, xem như huyễn, như hóa, như gợn nắng, như tiếng vang từ đầu đến cuối của sự bám trụ đều thanh tịnh, không có ngã, ngã sở, thọ mạng, dài ngắn, không thấy tên gọi đạo tục, phải trái, cũng không tự nghĩ ta đang mong cầu là đúng hay đang không mong cầu là đúng, không có tưởng buồn vui, không duyên, không tạo tác, không thấy có sinh, không thấy có sự thấy, cũng không thấy xứ sở. Người học như vậy là học không tham, sân, si, không tăng giảm, không đọa vào cõi ác, không có tâm thoái chuyển. Người muốn thành Phật thì phải tập tu như vậy, chẳng tạo tội cũng chẳng tạo phước, chẳng có giới cũng chẳng phải không có giới, chẳng có tướng, các pháp bình đẳng không có sai khác. Khi Xá-lợi-phất nói những lời này, thì có vô số trăm ngàn chúng sinh đều phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! sao nói tất cả các pháp là như huyễn, như hóa, như gợn nắng?

Phật bảo Tối Thắng:

–Này Tối Thắng! Ví như vật được hòa hiện, chẳng có đến cũng chẳng có đi, không có xứ sở nên hiểu các pháp cũng lại như vậy, không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu, tánh nó trụ như vậy không có biến đổi, cũng không có ai tạo tác các pháp. Thân Như Lai có hai: Một là thân biến hóa, hai là thân pháp. Thân pháp thì không thể thấy cũng không có hình tướng. Thân biến hóa thì như hư không, vô hình.

Này Tối Thắng! Với bản hạnh tu tập của bậc không thoái chuyển thì có thể làm Sư tử rống giữa đại chúng hành pháp không tuệ không ai bì kịp, luôn tập thuần thục các pháp thanh tịnh vô cùng thâm diệu chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đong lường. Như vậy Tối Thắng bậc Đại sĩ không thoái chuyển ở trong trụ Địa thứ bảy nên thanh tịnh hạnh mình như thế.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10