SỐ 309
KINH TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT
Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THỨ MƯỜI

Phẩm 26: TRONG MỘNG THÀNH ĐẠO

Bấy giờ, Bồ-tát Trị Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai phải, quỳ gối xuống đất, chắp tay thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay, nay con được nghe Bồ-tát Nhu Thủ cùng Bồ-tát Tối Thắng luận bàn về pháp không có hình tướng, đạo không có lời lẽ, để nối tiếp dòng giống Phật không gián đoạn, lại làm Phật sự không thể nghĩ bàn, thật con chưa từng nghe, chưa từng thấy.

Phật bảo Trị Địa:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, cách đây ức trăm ngàn kiếp, ta chứa nhóm công đức, làm hưng khởi Phật sự chưa từng hao tổn, có Phật ra đời thì chánh pháp mới được lưu truyền.

Khi ấy, Bồ-tát Nhu Thủ ở trước Phật thưa:

–Chư Phật xuất hiện ở đời thì chánh pháp mới được lưu truyền, các pháp có tướng mạo chăng? Giảng pháp có lưu truyền chăng?

Đáp:

–Không.

Lại bạch Phật:

–Như Lai xuất hiện ở đời làm cho vô số chúng sinh đều được diệt độ. Nay nghe Như Lai muốn cứu giúp chúng sinh, cứu giúp chúng sinh thì không diệt độ.

Phật bảo Nhu Thủ:

–Nếu nghe ta nói không có chúng sinh, mà cho là có chúng sinh chăng?

Đáp:

–Dạ không.

–Muốn khiến cho có chúng sinh hay không có chúng sinh?

Đáp:

–Dạ không.

–Khi Như Lai sinh và diệt có nơi chốn không?

Đáp:

–Dạ không.

–Nếu để có cảnh giới Như Lai thì vì sao Như Lai hóa độ chúng sinh đều được diệt độ?

Nhu Thủ bạch Phật:

–Nay con trình bày rõ ràng về bốn câu, hiểu rõ các pháp và ghi nhận tất cả, truy tìm bản tánh ấy vốn không sinh không diệt, không thấy sinh tử, lại không Niết-bàn. Vì vậy cho nên không có chúng sinh để diệt độ.

Phật bảo Như Thủ:

–Đối với tận và vô tận thì pháp giới vốn thanh tịnh, hiểu rõ nghĩa lý nên không còn chấp trước. Vì biết văn tự không có ý, không có tưởng, không sự chấp trước về thức, lẽ nào do thức tưởng phân biệt các tuệ được sao? Biết rõ tánh chúng sinh vốn thanh tịnh không thể xét cùng tận. Nay ta nói rõ ý nghĩa cho ông. Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Đại thừa của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, A-la-hán và Bích-chiphật không thể sánh kịp.

Bồ-tát Nhu Thủ thọ nhận lời chỉ dạy, nguyện ưa muốn nghe.

Phật bảo Nhu Nhủ:

–Thức không có hình tướng, thức không có hiểu biết, thức không có tưởng niệm, thức như ảnh mộng, như huyễn hóa. Nhờ công dụng đó mà cứu giúp vô lượng chúng sinh, hoặc có cõi Phật phải dùng văn tự để giáo hóa mới hiểu biết tự tánh của văn tự vốn không, vắng lặng. Ở phương trên, cách đây bảy vạn sáu ức a-tăng-kỳ cõi nước, có cõi Phật tên là An Tịch, Đức Phật hiệu là Diệu Thức, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ… Chúng sinh cõi ấy các căn đầy đủ, tu tập bản nguyện không thiếu sót, chúng sinh được giáo hóa bằng cách ngủ mới được giác ngộ. Chỉ có Đức Như Lai nhập Thiền định vắng lặng, tùy theo căn cơ chúng sinh, giả hiện giống như ngủ. Giả sử muốn nói pháp liền nằm xuống đất, nghiêng về bên phải, hai chân gác lên nhau. Chúng sinh thấy vậy đều bắt chước Như Lai nằm xuống đất, nghiêng về bên phải, hai chân gác lên nhau và đều ngủ. Lúc ấy, Đức Phật đó ở trong tư thế ngủ, thuyết pháp cho các chúng sinh bằng thần thức, hoặc nói bố thí để dứt trừ ba tưởng, hoặc nói trì giới thì hương đức hạnh bay xa, hoặc nói nhẫn nhục để chế ngự tâm không cho sinh khởi, hoặc nói tinh tấn để trừ bỏ biếng nhác, diễn nói Thiền định để thức không còn tán loạn, diễn thuyết trí tuệ ngăn chận ngu si tối tăm. Tu hành phương tiện thiện xảo, tùy theo các loại căn cơ chúng sinh không còn chấp. Trước đối với bốn pháp môn rốt ráo không bị ngăn ngại, tùy theo trình độ cao hay thấp mà giảng dạy cho họ, tùy theo đó mà giảng nói pháp lớn hay pháp nhỏ để trao truyền chánh pháp.

Bấy giờ, Đức Như Lai diễn nói bốn pháp: Về tuệ chẳng phải thường, khổ, không, vô ngã. Dần dần diễn nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi và tám Thánh đạo, xét rõ định ý Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Khi ấy, ở trong mộng dùng thức giáo hóa nên chứng đắc quả Tuđà-hoàn. Ở trong mộng thọ nhận bằng thức thì được thành đạo, chứng quả Tư-đà-hàm, cho đến quả A-la-hán. Cũng vậy, các Đức Phật chứng đắc cũng ở trong mộng biết được trong sinh tử, không thầy mà tự ngộ. Ở trong sự ngủ nghỉ mà thân màu hoàng kim, các tướng tự trang nghiêm, đưa bát lên hư không biến hóa mười tám cách. Lại ở trong mộng, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, nằm ngồi nơi hư không không chướng ngại. Muốn đi vào cảnh giới Niết-bàn vô vi, cũng ở trong mộng ngồi kiết già, ở nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn, cho nên thân như đá, không còn cảm giác. Các loại chúng sinh sau khi thức dậy đều không nói năng mà chỉ nhớ nghĩ trong mộng, thâu lấy xá-lợi mà trà-tì. Bồ-tát thọ ký cho đến khi thành Phật đều ở trong mộng, ngồi dưới cây Bồ-đề đất màu hoàng kim, hàng phục ma oán, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp nơi. Ở trong mộng cũng như vậy. Khi thức, thân màu hoàng kim, đầy đủ các sắc tướng, thần thông biến hóa không ngăn ngại, không có lời lẽ qua lại để giáo hóa. Muốn hóa độ thì phải ở trong mộng, không mượn vào hình thức bên ngoài mà được cứu giúp.

Nhu Thủ nên biết! Căn cơ chúng sinh được giác ngộ không đồng nhau nên chư Phật dùng quyền tuệ giáo hóa khắp nơi. Hoặc có cõi Phật do địa đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào cõi ấy giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do thủy đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do hỏa đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết, Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do phong đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do không đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do thức đại tạo thành, đó là cõi Phật An Tịch của Đức Như Lai Diệu Thức, bằng năng lực thần thông giáo hóa trong mộng mà được diệt độ.

Phật bảo Nhu Thủ:

–Ở phương Bắc, cách đây bảy mươi ức hằng hà sa cõi Phật, có cõi Phật tên là Thâm yếu, Đức Phật hiệu là Phạm Tuệ, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Chúng sinh cõi nước đó đều phát thệ nguyện mới được sinh vào cõi nước ấy, đều đồng một hiệu gọi là Tiếp Thức. Nhu Thủ nên biết! Chúng sinh cõi ấy đều có thần thông, tâm nhớ nghĩ thế nào thì hiện thân như vậy, không bị trở ngại. Tiếp Thức nghĩa là phát tâm nguyện rộng lớn, những bậc có thần thức đáng lẽ phải đi vào sinh môn, thọ hình trong bào thai, nhưng vì nhờ thần túc nên bay đi trên hư không. Tiếp Thức giữ lại được giáo hóa mà diệt độ, chứ không thọ thân bốn đại. Như là Phát-đà-hòa… tám vị Bồ-tát đang ngồi trong hội này.

Ở phương Đông nam, cách đây một trăm bốn mươi hằng hà sa

cõi nước, có cõi Phật tên là Phạm âm, Đức Phật hiệu là Thai Chân, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác… Chúng sinh cõi nước đó đạt được sáu thần thông thanh tịnh, đồng một sắc tướng. Họ đều do thệ nguyện mới được sinh vào trong cõi ấy. Thai Chân nghĩa là phát tâm nguyện rộng lớn, những bậc có thần thức bằng cách ở trong thai mẹ đều nguyện dùng thần túc nhập vào thai để giáo hóa, khiến cho người mẹ đó không biết ta đang ở đó, liền ở trong thai đạt đến vô vi, chứng đắc Niết-bàn. Như là Bồ-tát Bảo Tích Đồng Chân Trị Địa đang ngồi trong hội này. Như Lai phương tiện dùng thần thông giáo hóa khắp nơi, đem ức trăm ngàn cõi Phật đặt trong tâm bàn tay, lại đặt trở về chỗ cũ mà không ai biết cả. Hư không, pháp giới không thể nghĩ bàn, đó là việc làm thích ứng của Đại Bồ-tát Nhu Thủ, chẳng phải bậc A-la-hán và Bích-chi-phật có thể sánh kịp. Phân biệt thức vi tế, giáo hóa các chúng sinh đều được giải thoát, hoặc nói pháp rỗng lặng là không, không ngã, không người, không chúng sinh, không tuổi thọ, không mạng sống, pháp không sinh diệt. Vì sao? Này Nhu Thủ! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát tâm nguyện rộng lớn, khiến cho A-la-hán và Bích-chi-phật đầy khắp thế giới trong mười phương đều được thành đạo, tâm không thoái chuyển thì phước ấy nhiều chăng?

Nhu Thủ thưa:

–Bạch Thế Tôn! rất nhiều, rất nhiều.

Phật dạy:

–Cõi ấy có Bồ-tát dùng pháp vô hình và thức để nói pháp, hoặc nói vô thường, khổ, không, vô ngã, Không, Vô tướng, Vô nguyện, phân biệt tất cả không hình, không tướng, không thể nắm giữ. Đó là giáo hóa bằng thức nên phước ấy vô lượng. Vì sao? Vì bốn đại hữu vi là giai đoạn thai nhi phải trải qua. Bốn đại vô vi hoàn toàn vắng lặng, không sinh, đó là chỗ thuyết pháp của chư Phật. Do dùng phương tiện này nên thức vi diệu vắng lặng. Pháp tánh không lời dạy nên không thể lường được. Pháp hữu vi có tướng, còn pháp vô vi thì không có tướng. Vì sao? Vì không lìa hữu vi, cũng không lìa vô vi, cũng không nói đây là tập khởi, đây là xả bỏ, đây là lời dạy vô hình không có lời dạy, đây là pháp phàm phu, đây là pháp Hiền thánh, đây là pháp Hữu học, đây là pháp Vô học, đây là pháp Thanh văn, đây là pháp Duyên giác, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp của Phật.

Phật lại bảo Nhu Thủ:

–Những lời dạy của Như Lai cùng thức thuyết pháp không thấy các pháp, cũng không có tưởng về pháp, hư không vô hình cũng không thể thấy được. Phàm phu ngu si dùng các màu sắc vẽ trên hư không, việc làm của người đó có thể được chăng?

Nhu Thủ thưa:

–Bạch Thiên Trung Thiên, rất khó, rất khó, chưa từng có.

Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, các pháp vô số, sự giáo hóa của Như Lai cũng vô số. Các pháp không có hình tướng nên không có hai. Này Nhu Thủ! Ý ông thế nào? Pháp không có hình tướng có nơi chốn chăng?

Đáp:

–Bạch Thế Tôn! Dạ không.

Phật bảo Nhu Thủ:

–Vì thế nên biết Phật pháp vô số, vô ngôn, vô giáo, đều không thật có.

Bấy giờ, Nhu Thủ ở trước Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con vừa nghe Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, không có hình chất, tâm đại Bi của Như Lai thấy hết vạn vật, vì sao Như Lai lại nói khai mở giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, là pháp hữu lậu, là pháp vô lậu, là pháp hiện tại, là pháp quá khứ, là pháp vị lai? Phật lại bảo đây là pháp độ đời, chẳng phải độ đời, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, đây là pháp sinh tử, đây là pháp Niết-bàn, vì sao Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, cũng không có hình chất ư?

Phật bảo Nhu Thủ:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông hỏi, các pháp ba thừa và lục độ trong ba đời, độ đời, sinh tử, hữu vi, vô vi, không có hữu vi cũng không có vô vi, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, hữu lậu vô lậu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, từ pháp hữu vi cho đến pháp vô vi đều là pháp số của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Pháp ấy không có hình tướng. Vì không có hình tướng, không có âm thanh nên không thấy được. Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ thiện xảo đều là pháp của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, diệt tận Niết-bàn, hoàn toàn vắng lặng, an lạc.

Phật bảo Nhu Thủ:

–Bồ-tát đều biết rõ bản tánh của pháp ấy nên diễn nói có báo ứng chăng? Diễn nói để trừ tám nạn âm thanh không có tiếng vang, có báo ứng chăng? Nghiên cứu cùng tận nguồn gốc của chúng sinh có báo ứng chăng? Thuận theo kinh điển dứt trừ kết sử có báo ứng chăng? Giả sử Như Lai trong ba đời không đắm nhiễm, khai mở chánh pháp, giáo hóa chúng sinh chưa từng uổng phí có báo ứng chăng? Giả sử các pháp có kết quả báo ứng có thể tận chăng? Tâm thức xoay vần ra vào không bị ngăn ngại có thể tận chăng? Hoặc dùng quyền tuệ thuận theo ái dục có thể tận chăng? Thuận theo oai nghi phép tắc không sai phạm có thể tận chăng? Ba thừa giáo hóa làm cho viên mãn có thể tận chăng? Suy nghĩ nguồn gốc pháp, nắm giữ không xả bỏ có thể tận chăng? Hiểu rõ các pháp câu cú đều thanh tịnh, hiểu rõ pháp vi diệu, câu cú rõ ràng, quán bốn Niệm xứ và định ý của chư Phật có thể tận chăng? Phân biệt bốn pháp Chánh cần chưa từng xả bỏ, diễn nói các pháp không cùng mà không lấy làm khó, có thể tận chăng? Thần thông không bị ngăn ngại bởi núi, sông, đá, tường, thần thông như vậy có thể tận chăng? Phân biệt tất cả năm căn Thánh điển, chẳng phải ngoại đạo tà giáo hủy hoại có thể tận chăng? Thần lực của Như Lai nói rõ chánh pháp, không phát sinh nghi ngờ tưởng đúng hay sai; đem hoa bảy Giác chi dùng làm anh lạc, ở trong đại chúng không khiếp sợ, diễn thuyết ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hoàn toàn xa lìa tà đạo có thể tận chăng? Giảng thuyết về sự thuận nghịch của Tam-muội chánh định, hoặc phân biệt chữ, câu, văn, nghĩa có thể tận chăng? Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho đến thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, xen nhau thọ báo có thể tận chăng?

Nhu Thủ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giáo pháp vô hình không thể tận, các pháp hữu vi đều bị hao tổn, Niết-bàn vô vi không thể tận.

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

–Nói về Niết-bàn, như vậy thế nào là Niết-bàn?

Phật bảo Tối Thắng:

–Niết-bàn là dừng nghỉ. Lại hỏi:

–Thế nào là dừng nghỉ?

Đáp:

–Là vô vi vắng lặng.

Lại hỏi:

–Thế nào là vô vi? Thế nào là vắng lặng?

Đáp:

–Diệt tưởng là vắng lặng, thức dừng là vô vi.

Lại hỏi:

–Chẳng phải không chăng?

Đáp:

–Chẳng phải không không.

Lại hỏi:

–Chẳng phải không không thì tại sao thức dừng?

Đáp:

–Chẳng phải không không.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng càng thêm nghi ngờ, liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con hỏi hai việc mà được đáp như nhau, phải không?

Phật bảo Tối Thắng:

–Thôi đi, này thiện nam! Chớ cho Như Lai trả lời giống nhau về tánh Không, nhưng ý của thiện nam vẫn chưa hiểu rõ. Nay ta hỏi ông về nghĩa chẳng phải không không và thức tĩnh lặng. Tùy theo khả năng của ông mà trả lời. Này thiện nam! Nghĩa chẳng phải không là thế nào?

Đáp:

–Các pháp không có số, chẳng phải không có số.

Phật dạy:

–Chẳng phải thế.

Phật lại hỏi:

–Thế nào là thức dừng lại tĩnh lặng?

Tối Thắng bạch Phật:

–Các pháp đều trở về không sinh khởi, chẳng phải không sinh khởi.

Phật dạy:

–Chẳng phải thế.

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, trong khoảnh khắc liền lùi lại. Lại bạch Phật:

–Con tự xét mình có lỗi đối với lời dạy của Như Lai. Nguyện Thế Tôn thương xót giảng nói để dứt trừ sự nghi ngờ cho con.

Phật bảo Tối Thắng:

–Pháp có vô số nhưng ông chỉ hiểu phần căn bản. Núi Hương có cây, có một nhánh cao đến vạn tầm, đến khi cong xuống đất thì quả mới chín. Quả lẽ ra ở trên cây, nhưng trở lại xuống đất. Sự hiểu biết của ông cũng như vậy. Ta hỏi ông nghĩa “Không” chính là dùng “Có” để trả lời, giống như quả của cây kia có gì khác nhau? Ta sẽ nói tất cả cho ông, ông nên ghi nhớ kỹ.

Đáp:

–Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Phật bảo Tối Thắng:

–“Phi” là chẳng phải không. Tất cả các pháp đều gọi là “phi”. “Phi” là là tên gọi của các pháp. Có tên gọi thì chẳng phải Không. Hiểu rõ nghĩa “Phi” thì trở về với Không, cho nên gọi là chẳng phải Không. Nghĩa là, thức chẳng phải có, chẳng phải không. Thế nào là thức chẳng phải có, chẳng phải không? Không nhiễm thế tục gọi là chẳng phải có. Ở nơi Không, tĩnh lặng thì gọi là chẳng phải không. Thức là bỏ chỗ này lấy chỗ kia, thì gọi là chẳng phải có. Ở nơi bờ sinh tử từ mẫn chúng sinh gọi là chẳng phải không. Có thể hóa thân khắp thế giới trong mười phương, các sự biến hóa đó đều không tịch, nên gọi là chẳng phải có. Một thức đưa đến hóa thân, hóa thân đều nói pháp, gọi là chẳng phải không. Như Lai đi vào thiền định, thân tâm vắng lặng trải qua ức ngàn na-do-tha hằng hà sa số kiếp không sinh tưởng diệt thì gọi là chẳng phải có. Lại xuất định để cứu giúp chúng sinh, khiến đạt đến vô vi thì gọi là chẳng phải không. Thế nào? Này Tối Thắng! Nay ta phân biệt rõ ràng cho ông về sự chẳng phải có chẳng phải không, đó là nghĩa chân không Niết-bàn, phải không?

Tối Thắng bạch Phật:

–Không thật là không, Niết-bàn thật là Niết-bàn.

Phật bảo Tối Thắng:

–Thôi đi thiện nam, đây chẳng phải không, cũng chẳng phải Niết-bàn. Vì sao? Vì do thế tục giả danh tạm dùng văn tự để truyền nhau, cho nên gọi là chẳng phải có, chẳng phải không. Cảnh giới pháp tánh hoàn toàn không trói buộc, không có pháp danh tự, làm sao lại có chẳng phải có, chẳng phải không? Trừ bỏ cao thấp, không còn tâm đúng sai, nhận biết tham sân và không tham sân, hiểu rõ tâm vô minh và tâm không vô minh, biết rõ sự trói buộc của năm triền cái là một, cũng không thấy một, đó là Không, là Niết-bàn.

Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật, thưa:

–Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Giảng nói về pháp tánh Không và cảnh giới Niết-bàn, chẳng phải có, chẳng phải không, thật không ai bằng.

Khi nói pháp này, có sáu vạn Tỳ-kheo theo bản nguyện Thanh văn nhưng bây giờ tâm hướng về Đại thừa đều không còn thoái chuyển. Có mười một ức trời người đạt đến bậc Tận tín. Lại có tám mươi ngàn Bồ-tát ở phương khác chứng được pháp Vô sinh nhẫn.

Phật bảo:

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát hiểu pháp tánh “Không” phải thực hành mười việc để đạt đến diệt độ. Những gì là mười pháp?

  1. Chư Phật Thế Tôn thường ở nơi pháp giới mà không bỏ Đạo trí.
  2. Chư Phật Thế Tôn từ mẫn tất cả chúng sinh, không bỏ tâm đại Bi.
  3. Việc làm được như nguyện, không sai trái.
  4. Độ thoát tất cả chúng sinh các căn được thuần thục.
  5. Chư Phật Thế Tôn hiểu rõ các pháp “Không” không thật có.
  6. Chư Phật Thế Tôn phân biệt về trí tuệ, ba độc cũng không thật có.
  7. Chư Phật Thế Tôn đối với các pháp giới không sinh khởi thêm bớt.
  8. Đối với hàng sơ học mới phát tâm bình đẳng không hai.
  9. Hiểu rõ như pháp tánh, không bỏ bản nguyện tu hành.
  10. Chư Phật Thế Tôn thực hành pháp “Nhất tướng vô tướng”.

Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát hiểu rõ pháp tánh “Không” phải tu mười pháp này để đạt đến Niết-bàn.

Lại nữa, Đại Bồ-tát thực hành sáu thần thông, đạt đến pháp tánh “Không” phải thực hiện mười việc. Những gì là mười việc?

  1. Quán sát tận cùng đời quá khứ bằng trí tuệ không sai.
  2. Quán sát bằng tận cùng đời vị lai bằng trí tuệ không sai.
  3. Quán sát tận cùng đời hiện tại bằng trí tuệ không sai.
  4. Quán sát năm cõi chúng sinh biết hết nguồn gốc bằng trí tuệ không sai.
  5. Quán sát tất cả sự sinh diệt của thế gian bằng trí tuệ không sai.
  6. Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi có mà sinh, từ nơi có mà diệt bằng trí tuệ không sai.
  7. Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi không mà sinh, từ nơi không mà diệt bằng trí tuệ không sai.
  8. Đạo tâm kiên cố không bỏ chúng sinh bằng trí tuệ không sai.
  9. Tâm không lựa chọn: có nên độ hay không nên độ bằng trí tuệ không sai.
  10. Biết rõ pháp giới các căn không khiếm khuyết bằng trí tuệ không sai.

Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát tu sáu thần thông để đạt đến pháp giới “Không”.

Phật bảo:

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát đạt đến pháp giới “Không” phải tu mười tuệ. Những gì là mười tuệ?

  1. Quán các chúng sinh có bao nhiêu tâm, có bao nhiêu hạnh thảy đều biết, đó là tuệ của Bồ-tát.
  2. Quán tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm, bao nhiêu quả báo đều biết rõ.
  3. Im lặng không nói như thái tử Vụ Phách, biết hết tâm ý và sự nhớ nghĩ của chúng sinh.
  4. Biết các chúng sinh tâm khác, hạnh khác, dùng Thánh tuệ của Phật mà giáo hóa cho họ.
  5. Từ xưa đến nay, tu tập pháp tánh mà không xả bỏ tâm Đại thừa.
  6. Làm an ổn chỗ ở chúng sinh, trụ vào chỗ Phật đã trụ.
  7. Nhờ Thánh tuệ của Phật nên biết hết tâm, ý, thức và sự nhớ nghĩ của chúng sinh trong năm cõi.
  8. Đã thuyết pháp nhưng không bỏ Đại thừa.
  9. Được tâm thức Phật, định ý không tán loạn.
  10. Tâm độ vô lượng chúng sinh nhưng không trụ ở chỗ giải thoát, cũng không thấy chúng sinh được độ.

Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ mười tuệ để đạt đến pháp giới “Không”.

 

Phẩm 27: BỒ-TÁT CHỨNG ĐẮC

Phật bảo:

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát nương sáu thần thông đi đến vô số cõi Phật trong mười phương để phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn. Từ một cõi Phật đến một cõi Phật giáo hóa chúng sinh không sợ hãi, tán thán công đức và việc làm của Phật khiến khắp mười phương nghe được âm thanh của Phật. Việc làm của Bồ-tát Tối Thắng cứu giúp tất cả chúng sinh, hoặc dùng thần thông, hoặc dùng giới luật để dạy bảo, ruộng phước thanh tịnh, không còn rơi vào ba đường ác, hoàn toàn xa lìa nẻo tà, nhớ nghĩ đến những người chưa được độ. Trải qua vô lượng kiếp trụ nơi vô lượng cõi Phật, làm người đầy đủ phước đức, an trụ vô vi. Ở trong trăm ngàn kiếp tu tập phạm hạnh thanh tịnh, không bằng trong đời ngũ trược thực hành một tâm Từ. Nói về tâm Từ thì có phước đức khó lường. Ở đời có nhiều người thực hành ba việc ác căn bản: thân có ba, miệng có bốn và ý có ba pháp nên lãnh chịu quả báo trong ba đường ác. Giả sử chuyên tâm đọc tụng kinh điển thì đối với pháp hiện tại dứt hết nguồn gốc khổ. Hoặc có Bồ-tát nhàm chán sinh tử, bỗng gặp được kinh này thì hoàn toàn không thoái lui, không còn thọ sinh vào trong thai mẹ, thần thức sáng suốt không mê muội. Muốn giải thoát sự trói buộc, dứt sạch các kết sử thì nên hộ trì Phật pháp, hiển bày trí tuệ sáng suốt. Nếu ở trong trăm ngàn kiếp ở cõi khác, giữ gìn chánh pháp, giảng nói rộng về nghĩa này thì không bằng ở cõi đây trong một khoảnh khắc đọc tụng, nhớ nghĩ và phân biệt ý nghĩa một bài kệ, đây là hơn hết. Ta thấy cõi Phật đẹp đẽ, sáng suốt, an ổn; cũng thấy vô lượng cõi Phật hoàn toàn vắng lặng. Họ không còn các nạn buồn khổ, phiền não, cũng không còn thực hành các việc phước, nghiệp và sự. Nếu có thể ở trong cõi này dứt hết các kết sử trói buộc thì được sinh vào cõi thù thắng ấy. Vì sao? Vì ở trong đời ác năm trược, các sự khổ não vạn cách. Trải qua ức ngàn vạn kiếp mới có Đức Phật, chúng sinh làm việc ác mong gặp được Hiền thánh, hoặc sinh nơi biên địa, hoặc tám nạn không an ổn, hoặc sinh sau thời có Phật, không được nghe chánh pháp. Giả sử có Phật cũng không nghe, không thấy. Có thể ở trong đó làm hưng khởi Phật pháp, đó là việc làm đặc biệt không ai sánh bằng. Ta tuy làm bậc Đạo sư trong ba cõi đều do nguyện làm phước đức không chán nản. Từ, bi, hỷ, xả dứt trừ nguồn gốc khổ. Chúng sinh lâu nay đắm nhiễm con đường tà khó bỏ được, bỗng nghe chánh pháp tăng thêm nghi ngờ, ngày nay mới gặp giáo pháp của Như Lai. Bồ-tát Đại sĩ nhiều không thể tính kể được, nghe pháp không nhàm chán, như biển cả thâu nạp các dòng, nên cùng nhau diễn thuyết Phật đạo chân chánh. Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-luân, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân, ma, ma trời khắp mười phương đều vân tập, nay được nghe pháp, thoát nhiên đại ngộ đều nhờ phước đức đời trước mà đạt được. Giả sử ta ở trong trăm ngàn vạn kiếp giảng nói nghĩa vi diệu của một câu cũng không thể cùng tận tuệ pháp căn bản này.

Thế nên Tối Thắng! Bồ-tát Đại sĩ tu vô số hạnh khổ không cho là khó. Giả dụ khắp tam thiên đại thiên thế giới cùng lúc bị lửa thiêu đốt đến trời Phạm Thiên, có chúng sinh phàm phu nào tuy chưa chứng quả Tu-đà-hoàn, nghe có kinh này ở một nước khác, liền hướng thân về chỗ ấy nên đi vào lửa cháy vẫn an ổn vượt qua được, không bị thương tổn.

Hoặc có lúc cả tam thiên đại thiên thế giới lửa tắt, nước dâng đến cõi trời Phạm Thiên, tự mình đi vào trong nạn nước, vượt qua được an ổn, hoàn toàn không bị đắm chìm.

Tối Thắng nên biết! Cả tam thiên đại thiên thế giới nước cạn, gió thổi mạnh đến cõi Phạm Thiên, vị ấy đi vào trong nạn gió vẫn được an ổn, không bị gió thổi. Vì sao? Vì nhờ oai thần của Đức Phật hộ trì. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì đọc tụng kinh này, hiện tại được bảo hộ, không gặp khổ não. Nếu tiến hơn nữa, tịnh tu phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại chứng được vô vi. Thần thông của Đại sĩ ngay trên tòa này, khiến cho ức trăm ngàn na-do-tha chúng sinh tu tập kinh này được chứng đắc quả.

Nay ta ân cần giảng giảng nói kinh điển, người nghe được độ thoát, không bị rơi vào đường ác, theo đó giữ vững chí nguyện, thích ứng tuệ giải thoát, tâm hướng đến Phật thừa rộng lớn không cùng tận, không vì mình, thường từ mẫn đối với chúng sinh, cho đến lúc thành Phật hoàn toàn không bị suy giảm, làm nhân duyên cho người có sở nguyện hướng đến hàng Duyên giác, được thành đạo, đưa bát lên hư không biến hóa tự tại.

Người nguyện làm Thanh văn, cầu thầy hỏi đạo không bị chướng ngại, đoạn các kết sử trói buộc, dứt hết lậu hoặc, được thành đạo.

Lại quán tâm ý mong muốn của chúng sinh, hoặc có người phát tâm mới chứng được quả Tu-đà-hoàn, bằng quyền tuệ dẫn dắt hàng ngoại đạo dần dần hướng đến bậc A-la-hán. Hoặc có chúng sinh đạt đến quả Tư-đà-hàm, dùng quyền tuệ thứ tự dẫn dắt đến quả A-la-hán. Lại có chúng sinh đạt đến quả A-na-hàm, bằng quyền tuệ giáo hóa khai mở, đạt đến quả A-la-hán. Hoặc có chúng sinh không theo thứ lớp đạt được đạo thứ ba, bằng quyền tuệ, Bồ-tát muốn khiến cho họ học những điều nhỏ không đúng, rồi hướng dẫn họ đắc được quả Tuđà-hoàn, hoặc có chúng sinh được đạo thứ hai, bằng quyền tuệ dẫn dắt người thành quả Tư-đà-hàm. Lại có chúng sinh dần dần chứng thành quả A-la-hán, Bồ-tát dùng quyền tuệ quán sát người đang giáo hóa, nếu họ đã được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán thì dẫn dắt họ tiến thành đạo quả Duyên giác.

Bấy giờ, Đức Như Lai bảo bốn bộ chúng trong hội:

–Chúng sinh có vô số, mà cõi Phật không đồng nhau; nghĩa là Như Lai không có cõi nước chăng? Chớ nên quán sát như thế. Vì sao? Vì Chuyển luân thánh vương đầy đủ mười điều thiện, dần dần nối tiếp nhau, vương vị không mất; hàng Duyên giác tự ngộ cũng như vậy. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn thì Phật pháp không còn, hoặc trải qua một kiếp đến trăm ngàn kiếp, bậc Duyên giác, A-la-hán làm các Phật sự, Phật Phật nối tiếp nhau làm các Phật sự hoàn toàn không gián đoạn. Cho nên, Đại Bồ-tát thường dùng quyền tuệ dẫn dắt chúng sinh, tùy theo phước đức dẫn dắt các chúng sinh xa lìa hoạn nạn trong ba đời, ở yên trong thanh tịnh.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, thưa:

–Kỳ lạ thay, đặc biệt thay, chẳng phải hàng Nhị thừa sánh kịp, con mong được nghe việc chứng thành đạo quả.

Phật bảo Tối Thắng:

–Nếu muốn nghe, ta sẽ nói cho ông. Lắng nghe, lắng nghe, Ghi nhớ kỹ. Xưa Ta cầu đạo không thể kể xiết, từ lúc mới phát tâm làm các việc công đức cho đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian ấy thay hình đổi dạng khắp nơi, có thể kể hết chăng? Xưa ta thành đạo, phát tâm nguyện rộng lớn có các chúng sinh hướng về gốc đạo, hướng về quy y Tam bảo, cần dùng thần thông ứng hiện dạy họ, không những thân ta xưa có nguyện này, mà chư Phật Thế Tôn đều thệ nguyện như vậy. Hoặc có chúng sinh chứng bốn đạo bốn quả, Ta cũng xét thấy việc ấy thật rõ ràng. Giả sử có người thành đạo Duyên giác, ta cũng thấy được nhân duyên tự ngộ. Nếu có chúng sinh ngồi dưới cây Bồ-đề trong chu vi năm mươi dặm, ở trong khoảng vùng đó, có ma hoặc Thiên ma không hại được, đối với chỗ ấy Ta đều thấy biết.

Phật bảo Bồ-tát:

–Này Đại Bồ-tát! Như ta ngày nay hiện thân chứng đạo cứu giúp khắp chúng sinh, ta không thấy ngã, biết rõ tâm thức, phân biệt rõ các nơi đến làm Phật sự, trải qua ức trăm ngàn vô số cõi Phật, xoay vần qua lại, cứu xét tận cùng đạo, thường ở trong cảnh giới chân thật, thấy biết rõ ràng. Xưa ta tự tại ở trong cõi Phật không sợ hãi, Bồ-tát trong cõi ấy không thể kể hết, hoặc người có chí hướng đến Tiểu thừa, A-la-hán, hoặc nửa chừng dừng lại ở trong quả vị Duyên giác, hoặc có chí vượt hơn đạt đến Phật đạo. Lúc ấy, ta chuyên tâm vào định Tam-muội, vì cảm hóa khắp chúng sinh khiến cho họ được chứng ngộ.

Lại nữa, Đại Bồ-tát nếu hướng đến quả Tu-đà-hoàn thì được quả Tu-đà-hoàn, nếu hướng đến quả Tư-đà-hàm thì được quả Tư-đà-hàm, nếu hướng đến quả A-na-hàm thì được quả A-na-hàm, nếu hướng đến quả A-la-hán thì được quả A-la-hán. Ta thường ở trong đó chứng thành đạo quả, chưa bao giờ mất nguồn gốc của pháp tánh.

Đức Phật bảo:

–Thiện nam! Đại Bồ-tát đi đến tam thiên đại thiên thế giới, có tin hay không tin, có thọ nhận hay không thọ nhận; hoặc có chúng sinh đạt đến quả vị Tập tín, lại có chúng sinh tùy pháp hành, hoặc có chúng sinh tu tám pháp giải thoát của Bồ-tát, ta thường thị hiện đến đó khiến họ chứng được đạo.

Phật lại bảo:

–Thiện nam! Đại Bồ-tát thân thức thanh tịnh không cấu nhiễm, có các chúng sinh làm việc sai trái, ta cũng hiện đến đó làm cho tà thuật này không còn tồn tại nữa. Hoặc cúng tế đất, nước, gió, lửa, ta cũng đến đó nói cho họ biết đó là không chân thật. Hoặc thấy ngoại đạo chủ trương sinh lên Phạm thiên, ta cũng đến đó chỉ rõ cho họ khi phước hết sẽ trở lại chỗ cũ. Hoặc có chúng sinh muốn sinh lên cõi trời Vô sắc, sống trên đó một kiếp, tâm luôn chuyên nhất không gián đoạn, Lúc ấy, ta nhập chánh định nói cho họ biết sắc không có sắc, sắc không tự có, sắc của ta và sắc của người khác, người và ta đều không có hình sắc, là vô sắc thì đâu có ngã. Thức chẳng phải ngã, thức đâu có ngã, các pháp thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đến trước bạch Phật:

–Lành thay! Lành thay! Thế Tôn nói: Lời dạy của Như Lai bằng pháp Như Lai tự chứng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải A-la-hán, Bích-chi-phật đạt được.

Khi ấy, Tối Thắng liền bạch Phật:

–Vừa rồi Phật nói vô sắc, vậy vô sắc là thế nào? Xin Thế Tôn từ mẫn diễn nói để dứt hết những sự nghi ngờ cho mọi người.

Phật bảo Tối Thắng:

–Lành thay, này thiện nam! Lắng nghe, ghi nhớ kỹ, ta sẽ nói về định vô sắc cho ông. Đó là vô sắc, chẳng phải có sắc. Sắc do bốn đại tạo, gọi là sắc, ở đó không có sắc này nên gọi là vô sắc. Nói về sắc có năm do tứ đại tạo thành, vì không có hình sắc cho nên gọi là vô sắc, sắc thọ, sắc tưởng, sắc hành, sắc thức chẳng phải ngũ thông của phàm phu thấy được, chỉ có Đức Như Lai và Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ mới thấy được sắc ấy.

Phật bảo:

–Thiện nam! Bồ-tát Không thoái chuyển nương vào phương tiện thiện xảo, nhập vào định ý Tam-muội chánh định tịch tĩnh, đi khắp trên cõi trời Hữu tưởng, Vô tưởng giảng nói pháp vi diệu cho thức vi tế về Không, Vô tướng, Vô nguyện, hiện sáu thân thọ pháp không sinh diệt, dần dần giảng đến cho họ pháp sinh, già, bệnh, chết, đó gọi là sinh.

Bào thai trong bụng mẹ, nằm dưới sinh tạng, ở trên thục tạng, bốn đại đầy đủ thì rời thai mẹ; đời trước có nghiệp thiện như bơi trong ao, tắm mát và xem hoa; nếu đời trước tích chứa điều ác như leo lên núi kiếm, nằm trên gai nhọn. Ta sẽ diễn nói cho họ chỗ thần thức đi đến, ta, người, tuổi thọ, mạng sống cũng không thể bảo tồn lâu dài, ngay trong đó cứu vớt thần thức được thức tỉnh, đối với lúc bào thai mới thành hình, những loại như đây số không thể tính hết, ức ngàn nado-tha ở trước chư Phật hiện tại xuất hiện pháp đặc biệt sâu xa, thần thức mê mờ như cái lu bị nứt, không giữ được những lời dạy về chánh pháp, một kiếp hoặc ít hơn một kiếp thiêu, như vậy trải qua số ức trăm ngàn na-do-tha kiếp số thiêu, hoặc có một kiếp thì một Đức Phật ra đời, hoặc có một kiếp hai Đức Phật ra đời, hoặc có một kiếp trăm Phật, ngàn Phật, ức trăm ngàn Phật ra đời, cứ tính như vậy, sau đó họ mới lãnh thọ được chánh pháp, lại giảng nói về pháp già suy. Đó gọi là lão.

Các căn rời rã, da chùn, mặt nhăn, ưu sầu, rên rỉ, nhàm chán bệnh hoạn của tứ đại, tâm không còn sáng suốt, thân không còn trẻ khỏe, pháp này suy yếu không thể tồn tại lâu dài. Lại nữa, nói về bốn đại: Đất, nước, gió, lửa chống nhau, tánh của đất hơn nước, tánh của nước hơn lửa, tánh của lửa hơn gió, chống nhau, tăng giảm liền sinh bệnh tật, hoặc sinh ghẻ lở vạn thứ bệnh dày vò, máu mủ chảy ra không thể nhìn lâu. Thứ đến nói cho sự biến đổi vô thường, như bong bóng nước, cái sinh cái diệt, sinh tự sinh, diệt tự diệt, sinh không tự sinh, diệt không tự diệt, thần thức vô tướng, thì ngay nơi chỗ ấy, tùy nơi cảnh giới đi đến đều được chứng quả, được nhập Niết-bàn, vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con vừa nghe Như Lai nói về bốn đại chống nhau, là nơi ở của thần thức, đất tăng nước giảm thì sinh ra bệnh, nước tăng lửa giảm thì sinh ra bệnh, lửa tăng gió giảm thì sinh ra bệnh. Lại nghe Phật nói gió tăng lửa giảm, lửa tăng nước giảm, nước tăng đất giảm, thức chẳng phải là bốn đại, bốn đại chẳng phải thức. Nay nghe Phật nói: Một đại tăng thì ba đại bệnh, ba đại tăng thì một đại bệnh, bốn đại đều hòa thần thức mới an. Suy do bốn đại, chẳng phải do thức sinh. Bạch Thế Tôn! Vì sao? Bệnh do bốn đại hay do thức sinh ra?

Phật bảo Tối Thắng:

–Thức chẳng phải bốn đại, bốn đại chẳng phải thức, thức không lìa bốn đại, bốn đại không lìa thức, cho nên một đại tăng thì các đại khác bệnh, các đại tăng thì một đại bệnh, thức cũng theo đó mà suy giảm.

Lại hỏi:

–Vì bốn đại bệnh nên thần thức bệnh chăng?

Đáp:

–Thức do đại bệnh, đại do thức bệnh.

Hỏi:

–Thức do bốn đại mới hoạt động được, bỏ thân này qua đời khác thì bốn đại tự rã, thần thức nơi thân kia vì sao không giảm?

Phật bảo:

–Thiện nam, lành thay, lành thay, ông ở trước Như Lai mới dám hỏi lời như thế. Ta sẽ nói rõ ràng tất cả cho ông. Thức không có hình tướng, nên không thể thấy được. Thức chẳng có, thức do bốn đại mà có; bốn đại tăng hết thì thức có bệnh, bệnh chẳng phải do bốn đại, do thức sinh ra, vạn bệnh tăng giảm đều do thức sinh. Từ khi phát tâm cho đến khi thành Phật, thần thức không bị cấu nhiễm, không do tứ đại tạo thành.

 

Phẩm 28: GIẢI TUỆ

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ tâm vững chắc không thể hư hoại, Bồ-tát giữ tâm chân thật không bao giờ hư dối, Bồ-tát nhất tâm hướng về Phật đạo không theo Nhị thừa, Bồ-tát giữ gìn oai nghi không mất phép tắc, Bồ-tát giữ tâm Thiền định không bỏ chánh định, Bồ-tát trụ nơi pháp của chư Phật mà không thoái lui, Bồ-tát truyền bá giáo pháp không đoạn giống Phật như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

–Lành thay! Lành thay! Ông ở trước Như Lai mới hỏi nghĩa này.

Ta sẽ giảng rõ ràng cho ông, ghi nhớ kỹ.

–Bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát tu hành bốn pháp, ý chí vững chắc không thể hư hoại.

Bốn pháp là:

  1. Từ mẫn đối với chúng sinh như mẹ thương con.
  2. Tăng thêm tinh tấn không biếng nhác.
  3. Độ các chúng sinh như huyễn như hóa.
  4. Đối với pháp của chư Phật đều học tập tường tận.

Đó là Bồ-tát thực hành bốn pháp này thành tựu Phật đạo chưa bao giờ thoái lui.

Bồ-tát nên tu hành bốn pháp, được vào định Hiền thánh vắng lặng. Bốn pháp là gì?

  1. Hiểu rõ chúng sinh, nhưng không tưởng về chúng sinh.
  2. Quán các thế gian nhưng tưởng về không đáng ưa.
  3. Khen ngợi Đại thừa, hoàn toàn xa lìa Nhị thừa.
  4. Đối với các khổ vui không có lệ thuộc.

Lại có bốn pháp là: Một là giới. Hai là văn. Ba là thí. Bốn là xuất ly.

Lại có bốn pháp thành tựu Phật đạo, không còn nghi ngờ, không mất oai nghi. Bốn pháp là:

  1. Không lợi ích.
  2. Không suy giảm.
  3. Không chê.
  4. Không khen.

Lại có bốn pháp tăng trưởng căn lành. Bốn pháp là:

  1. Dạy dỗ chúng sinh an trụ vào tín địa.
  2. Ban cho mọi người mà không mong cầu báo đáp.
  3. Thuyết pháp mà không tưởng về pháp.
  4. Danh hiệu của Bồ-tát không thể xưng kể.

Lại có bốn pháp Bồ-tát phải thực hành từ Sơ địa cho đến Thập địa. Bốn pháp là:

  1. Phát khởi căn lành.
  2. Trừ bỏ ngu si tăm tối, không ở chỗ tà.
  3. Dùng quyền tuệ giáo hóa khắp nơi.
  4. Giữ tâm tinh tấn dũng mãnh ngày càng tăng trưởng.

Lại có bốn pháp dùng phương tiện thiện xảo để đạt đến Phật đạo. Bốn pháp là:

  1. Khuyến khích tà đạo trở về chánh đạo.
  2. Giáo hóa người chưa giác ngộ hướng đến nẻo thiện.
  3. Thuyết pháp không hai, nhưng sự tiếp thâu thì có cao thấp.
  4. Dùng Thánh tuệ của Phật độ những người chưa độ.

Lại có bốn pháp để thành tựu oai nghi. Bốn pháp là:

  1. Không đắm nhiễm ba cõi, biết đó là khổ.
  2. Ta và người khổ vui đều như nhau.
  3. Thường thực hành nhẫn nhục, không khởi tâm ác.
  4. Ở bậc trên không kiêu mạn, ở bậc dưới không hổ thẹn.

Lại có bốn pháp không bỏ tâm Bồ-đề. Bốn pháp là:

  1. Niệm công đức căn bản của Phật.
  2. Ở giữa chúng sinh mà đạo tâm vẫn kiên cố.
  3. Gần gũi bậc Thiện tri thức không theo tà kiến.
  4. Hướng lên Đại thừa không tu theo tà kiến.

Lại có bốn pháp thích ở chỗ vắng lặng, không ở chỗ ồn náo. Bốn pháp là:

  1. Người theo Tiểu thừa thì khiến đến Đại thừa.
  2. Lẽ ra thành Duyên giác thì thành Phật đạo.
  3. Nghe pháp không nhàm chán, tâm Bồ-đề không đoạn.
  4. Nghe pháp không có tiếc rẻ.

Lại có bốn pháp Bồ-tát thực hành. Bốn pháp là:

  1. Không khởi pháp nhẫn, biết rõ vô sinh.
  2. Pháp nhẫn vô tận không có hạn lượng.
  3. Pháp nhẫn nhân duyên trừ tâm Duyên giác.
  4. Pháp nhẫn vô trụ, biết rõ chúng sinh tâm không lệ thuộc.

Lại có bốn pháp trừ bỏ kết sử. Bốn pháp là:

  1. Tinh tấn nhất tâm quán bất tịnh.
  2. Dứt bỏ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới.
  3. Hiểu rõ các pháp không còn mê mờ.
  4. Tâm luôn tự tại trong trăm ngàn Tam-muội.

Lại có bốn pháp đi vào trong bốn bộ chúng. Bốn pháp là:

  1. Thường làm theo pháp, không chấp ngã và ngã sở.
  2. Tăng trưởng chí tôn trọng, tâm không buông lung.
  3. Đối với các pháp lành tăng trưởng phước đức.
  4. Xa lìa Tiểu thừa, hướng đến Đại thừa.

Lại có bốn pháp, pháp thí tài thí đạt đến vô vi. Bốn pháp là:

  1. Thọ pháp không sai lầm.
  2. Không lệ thuộc theo tâm nguyện người khác.
  3. Không tiếc thân mạng.
  4. Tâm không thoái lui.

Lại có bốn pháp bố thí mà không nghĩ báo đáp. Bốn pháp là:

  1. Ta và người không có hình tướng, thảy đều là không.
  2. Phải tu hành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
  3. Hiểu rõ vô ngã do si ái sinh ra.
  4. Đạo tánh không bờ bến, thích hợp với chân đạo.

Lại có bốn pháp độ người vô số. Bốn pháp là:

  1. Hiểu rõ dâm, nộ, si không có sinh diệt.
  2. Thực hành Từ bi cứu giúp khắp nơi không còn giận dữ.
  3. Làm hưng thịnh các pháp.
  4. Tuy ở trong năm trược mà không bỏ tâm Bồ-đề.

Lại có bốn pháp thành tựu gốc đạo. Bốn pháp là:

  1. Thường lấy việc bố thí làm đầu.
  2. Khuyến khích người khác trừ bỏ tham lam keo kiết.
  3. Thực hành hợp với pháp không, vô ngã và ngã sở.
  4. Đối với giáo pháp sâu xa không còn nghi ngờ.

Lại có bốn pháp Thiền định không loạn động. Bốn pháp là:

  1. Không chấp chúng sinh có hữu hạn hay không có hữu hạn.
  2. Không thấy cõi Phật có thanh tịnh hay không thanh tịnh.
  3. Từ, bi, hỷ, xả phổ biến khắp thế giới.
  4. Đầy đủ trí tuệ của Phật, không bỏ thệ nguyện.

Lại có bốn pháp ở nơi đạo tràng của Phật. Bốn pháp là:

  1. Nói lời hoan hỷ không làm tổn thương tâm người.
  2. Theo lời thuyết pháp mà thực hành đúng đắn.
  3. Hiểu rõ đạo hoặc phi đạo đều không có nơi chốn.
  4. Có mong cầu hay không có mong cầu, nhận biết đều trở về không.

Đó là Bồ-tát thực hành hợp với pháp không, ở nơi pháp của chư Phật mà tu đạo Vô thượng.

Lúc giảng nói pháp này, có hai vạn hai ngàn trời, người đều phát tâm Bồ-đề vô thượng chân chánh, có một vạn hai ngàn người ngay tại chỗ ngồi đắc được pháp Vô sinh nhẫn, có vô số Thiên tử khắp mười phương rải hoa cúng dường ngập đến đầu gối.

 

Phẩm 29: TAM ĐỘC

Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nghe Như Lai nói bốn pháp môn về tuệ rất sâu, vi diệu, đạt được căn lực. Sự thực hành của Bồ-tát chẳng phải Ala-hán, Bích-chi sánh kịp. Xin hỏi Như Lai trong đời vị lai, bậc Sơ thiền suy nghĩ quán về pháp bất tịnh, là quán tự thân mình bất tịnh hay quán thân người khác bất tịnh?

Phật bảo Nhu Thủ:

–Có Bồ-tát chưa đạt đến địa vị Bồ-tát bậc trên mà quán thân bất tịnh thì đạt được căn lực, hoặc quán thân mình và thân người; lại dùng quyền tuệ quán thân cấu uế, máu mủ chảy ra, ngay nơi đó khai ngộ cho vô số chúng sinh, nhưng không lệ thuộc vào tâm tịnh vì biết rõ hết là không chân thật.

Lại nữa, này Nhu Thủ! Có Bồ-tát ở trong địa vị vị lai hướng đến trung gian nhưng chưa rõ về Sơ thiền. Có Bồ-tát vượt qua vị lai, ở trong giai đoạn trung gian đó dùng quyền tuệ thiện xảo hướng đến tu tập Sơ thiền. Có Bồ-tát đã vượt qua địa vị trung gian của vị lai, tiếp tục tu tập Sơ thiền, nhớ nghĩ thọ trì năm hạnh căn bản, đạt đến pháp Nhị thiền. Hoặc có Bồ-tát xả bỏ giai đoạn trung gian của bốn thiền vị lai, từ Sơ thiền, Nhị thiền theo thứ tự tu hành an trú vào thiền căn bản thứ ba. Lại có Bồ-tát vượt qua Tam thiền, lại bỏ bốn hạnh, tu tập thiền thứ tư; ở thiền thứ tư tư duy quán về pháp tánh bất tịnh. Có Bồ-tát không qua bảy định, đi thẳng vào diệt tận định. Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội tịch tĩnh, quán khắp thế giới không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng, sinh diệt đều không thực có. Có Bồ-tát an trụ một địa, thọ được quả vị Bồ-tát, phân biệt pháp ba độc dâm, nộ, si; dùng quyền tuệ giáo hóa chúng sinh, có tâm vô minh hay có tâm sáng suốt, có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có tâm sân giận hay không có tâm sân giận, Bồ-tát đều biết rõ.

Tối Thắng nên biết! Đại Bồ-tát quán khắp các pháp không thấy sinh, không thấy diệt; đối với các pháp không thấy cứu cánh, chẳng thấy không cứu cánh. Các câu hỏi như vậy là thanh tịnh.

Lại nữa, Tối Thắng! Đại Bồ-tát quán các triền phược, ngay trong đó cầu thanh tịnh, điều đáng hỏi thì nên hỏi, pháp này vắng lặng, an ổn, không biến đổi, sinh tử thanh tịnh, không thấy có cấu uế, đó là Đại Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Vượt qua sinh tử, không thấy có vượt qua, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Niết-bàn không hình, vắng lặng vô vi, đó là phù hợp với luận về pháp vô sinh. Giả sử, Tối Thắng! Đối với các pháp trói buộc đều biết nó trở về không, chẳng thấy sinh tử, không thấy có người chứng đắc, không thấy giải thoát, chỗ sinh ra và diệt đi, không thấy thoát khỏi sinh tử, cũng không thấy Niết-bàn, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh.

Lại nữa, Tối Thắng! Pháp bất tịnh làm nhân duyên tụ tán, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Gần gũi bậc chứng đắc quả Không thoái chuyển, dùng trí vô ngại biết rõ pháp không sinh, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh.

Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát biết nhân duyên hội họp, ly tán, chứng đắc không thoái chuyển, dùng trí vô ngại đoạn dứt ba cõi, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh, mới gọi là không đoạn căn lành nới các pháp, biết thiện và bất tịnh, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp ngại, đây là pháp vô ngại, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đó là Bồtát luận về pháp vô sinh.

Thế nên, Tối Thắng! Tư duy phân biệt về hình tướng của Phật thì không có hình tướng, lại phân biệt vô số pháp tánh, tư duy về công đức của Thánh chúng không lường được. Thứ đến tư duy về số lượng chúng sinh chẳng phải là một, lại phân biệt các cõi nước không giống nhau, dùng tâm nghĩ đến việc đó thì không thể xét được, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh.

Lại nữa, Tối Thắng! Tất cả các pháp thảy đều thanh tịnh, tất cả các pháp đều không thanh tịnh, đó là Bồ-tát luận bàn về pháp vô sinh.

Tối Thắng bạch Phật:

–Luận bàn tất cả các pháp thanh tịnh là vô sinh, luận bàn tất cả các pháp không thanh tịnh như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

–Các pháp là không có thức tưởng, không có kết quả của nghiệp; do các thức tưởng cùng tương ưng với pháp, đó gọi là pháp thanh tịnh và pháp không thanh tịnh. Tất cả các pháp có vô số hình tướng, hoặc có các pháp khi chưa lìa niệm, liền cầu phương tiện làm tăng trưởng công đức, công đức ấy đã tăng trưởng thì đầy đủ các điều thiện, các điều thiện đã đầy đủ liền quán sổ tức nhập vào thiền định.

Đó gọi là pháp tịnh và pháp không thanh tịnh.

Tối Thắng lại hỏi:

–Bồ-tát quán xét các pháp làm tịnh và không tịnh như thế nào?

Đáp:

–Đối với cảnh giới, Bồ-tát hoàn toàn không còn dục, đối với ức vạn pháp đều biết nghĩa về định và không định.

Hỏi:

–Định là thanh tịnh hay là không thanh tịnh, không định chẳng phải thanh tịnh, có thể gọi là định và không định chăng? Đáp:

–Có rất ít người hiểu về nghĩa định và không định.

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ-tát hoàn toàn xa lìa vô dục, đối với ức vạn pháp biết định và không định, định là đạo, không định chẳng phải đạo?

Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Có thiện nam, thiện nữ nào đối với các pháp giới không biết đã định, đang định và chưa định thì đối các pháp cũng chưa hiểu, đã hiểu và đang hiểu. Vì sao? Vì trong kinh Hương Lạc nói: “Đối với các pháp đã định mà nghe không còn nghi ngờ thì có thể tiến tới không còn thoái lui, như pháp được nghe tu tập không quên. Đó là nghĩa của định và bất định. Nếu có chúng sinh đối với nghĩa định và không định sinh nghi ngờ thì không thể từ địa vị này đến địa vị khác. Do không thể lần lượt đạt đến các quả vị nên không thể xa lìa sinh tử để mà trụ nơi pháp Niết-bàn. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn không xa lìa sinh tử, cũng không đạt đến Niết-bàn.

Phật bảo Tối Thắng:

–Chư Phật Thế Tôn thường không dạy vượt qua sinh tử, trụ trong Niết-bàn chăng?

Đáp:

–Đúng vậy.

Lại hỏi:

–Ông có nghe Thế Tôn diễn nói về các pháp, đây là sinh tử, đây là Niết-bàn không?

Đáp:

–Không.

Phật dạy:

–Thế nên, này thiện nam! Chư Phật Thế Tôn không nói sinh tử là thấp kém, không nói Niết-bàn là tối thượng, chỉ vì thiện nam nên nói có sinh tử, Niết-bàn, nếu phân biệt có hai thì không thể xa lìa sinh tử để đạt đến bờ Niết-bàn.

Phật lại bảo Tối Thắng:

–Đại Bồ-tát từ không mà đến, không thấy chúng sinh và không tưởng về có chúng sinh, không thấy Niết-bàn và không tưởng có Niếtbàn. Vì sao? Vì không thấy xoay vần trong sinh tử, không thấy Niếtbàn, được sự diệt độ.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo bày vai phải quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Như lời Phật dạy không có tướng chúng sinh và tướng Niết-bàn, nghĩa, Phật pháp nói ra đều ứng hợp với sự thanh tịnh, không thấy sinh tử và Niết-bàn.

Lúc ấy, ngay tại chỗ ngồi có hai ngàn bảy trăm Tỳ-kheo tâm đã dứt hết các lậu hoặc, chứng được pháp Vô sinh nhẫn. Vì sao? Vì đã hiểu rõ sinh tử và không sinh tử, hiểu rõ Niết-bàn là không Niết-bàn. Lại không nói có chúng sinh được độ, cũng không nói Niết-bàn hoàn toàn vắng lặng, hiểu rõ pháp tánh vốn không, chẳng có sinh tử, chẳng có Niết-bàn.

Khi đó, ngay tại chỗ ngồi có bảy trăm Tỳ-kheo lặng lẽ rời chỗ ngồi, đem theo y bát mà không biết vì sao họ nói riêng với nhau: “Chúng ta cần gì phải thực hành những khó khăn này này, nỗi khổ này mà ngày đêm phải thường siêng năng tu tập phạm hạnh”. Có người nói: “Niết-bàn không có diệt độ, cũng không có đạo thì làm sao có người thành đạo?”.

 

Phẩm 30: HỎI VỀ NIẾT-BÀN

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nào muốn vượt qua ngoài các pháp thì không có đạo để thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, huống chi đối với Niết-bàn làm sao thành đạo?

Phật bảo:

–Đây không phải như vậy. Niết-bàn không có tánh, cũng không có tên gọi. Vì sao ở trong không mà cầu không? Niết-bàn không có một, huống chi cầu vô số các pháp. Bạch Thế Tôn! Bảy trăm Tỳ-kheo này ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, tay bưng bình bát, tu phạm hạnh thanh tịnh, nay lại thoái lui về địa vị phàm phu, mà cầu đến cảnh giới của Niết-bàn thì giống như dầu mè, đề hồ, sữa đặc, váng sữa. Dầu thì lan khắp, ván sữa thì đọng lại; sinh tử, Niết-bàn cũng như vậy. Đạt đến cảnh giới Niết-bàn thì không có các pháp tướng, con đường lớn Niết-bàn cũng không có bờ đáy, hàng phàm phu mê chấp lâu nay cho Niết-bàn có sinh diệt, thường đoạn, người tu tập chánh kiến không thấy các pháp có sinh có diệt, có lãnh thọ, có xả bỏ.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đến trước Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bảy trăm Tỳ-kheo này vừa nghe Phật thuyết chánh pháp liền bỏ đi. Vậy phải trải qua bao lâu nữa mới được giải thoát, mãi lìa khỏi sinh tử, không còn tà kiến?

Phật bảo Tối Thắng:

–Ông muốn biết việc ấy, lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Ta sẽ dứt trừ sự nghi ngờ cho ông.

Tối Thắng liền thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn.

Phật bảo:

–Hơn hằng hà sa kiếp nữa mới có một Đức Phật ra đời. Như vậy, trải qua bảy mươi hai ức hằng hà sa kiếp số các người ấy vẫn chưa giải thoát được. Vì sao? Vì trải qua ức ngàn vạn kiếp Phật mới ra đời, gặp được Phật rất khó, nghe được kinh lại càng khó hơn. Ngày nay, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng giảng nói đạo pháp, nói pháp Niết-bàn không có sinh diệt. Đối với chánh pháp sinh tâm tà kiến thì sinh đến chỗ nào thường ở trong tà kiến, không ở trong chánh đạo. Ví như người đàn ông có sức lực mạnh mẽ, mọi thứ kỹ thuật đều thông suốt, đầy đủ sáu kỹ năng về thiên văn, địa lý, sao hạn, tai họa, quái lạ nghe đều thông suốt, nhưng người lực sĩ này thường sợ hư không, tự suy nghĩ, chạy khắp bốn phương để trốn khỏi hư không, nhưng ở khắp nơi đều thấy hư không. Các Tỳ-kheo này cũng đều như vậy. Giả sử trải qua trăm ngàn vạn kiếp, muốn ở trong chỗ không mà lập tên Niết-bàn, việc này không đúng. Chỗ đạt đến không hiểu tánh Không, mong cầu nơi đạo, không bao giờ được kết quả. Như có người muốn cầu nơi không, ở khắp mọi nơi không thường có mặt, cũng không giảng nói pháp Không này, pháp Không kia, có bao nhiêu tướng, không thấy từ nơi qua lại của Không mà có sự thành tựu. Đó mới là hiểu rõ về pháp Niết-bàn. Các Tỳ-kheo ấy đời trước tu tập theo tà kiến, cho đến ngày nay cũng chưa được giác ngộ, mà muốn cầu đạo lớn vô vi Niếtbàn, tên gọi dòng họ vẫn còn không biết được thì đâu có thể phân biệt được đạo Niết-bàn chăng? Suốt ngày họ cố gắng để cầu diệt độ, mệt nhọc uổng công mà chẳng được gì cả. Vì sao? Vì Niết-bàn là giả danh, như huyễn, như hóa, không, không thực có, giả gọi là không, tên gọi là không thực. Những điều người ngu nói với nhau không phải được pháp luật của Hiền thánh khen ngợi.

Lúc ấy, lại có hơn bảy trăm Tỳ-kheo lập hạnh nguyện, ngay tại chỗ ngồi dứt các cấu uế, được pháp nhãn thanh tịnh, tam minh lục thông không hề chướng ngại, hiểu rõ Phật không sinh cũng không diệt, không dùng các pháp quá khứ mà cầu Niết-bàn. Vô số hằng sa chư Phật quá khứ đã dạy: Trí tuệ biện tài không có hạn lượng, từ hàng phàm phu cho đến bậc Vô học, thuyết giảng giáo pháp không có sai trái, không thấy chúng sinh trôi dạt trong sinh tử, không thấy Niết-bàn có sinh diệt. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không, giống như hư không, không thấy cảnh giới chư Phật hiện bày.

Bấy giờ, ngay tại chỗ ngồi có sáu trăm Ưu-bà-tắc, ba trăm Ưubà-di đều đạt đến bậc tận tín, vô số trời người đều phát tâm Bồ-đề chân chánh vô thượng.

Bấy giờ, trưởng lão Xá-lợi-phất bảo năm trăm Tỳ-kheo:

–Các vị đều được thần thông trí tuệ theo bản nguyện của mình chưa?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất! Sở nguyện từ xưa, nay đã đạt được, việc làm đã hoàn tất, không còn thọ thân sau nữa.

Xá-lợi-phất bảo:

–Những câu hỏi đó rất hay, đã hiểu ý nghĩa và đạt đến chưa?

Các Tỳ-kheo đáp:

–Không còn đắm nhiễm vào hết thảy các kết sử ràng buộc, không thích sinh tử, không chấp Niết-bàn, Niết-bàn vô vi ứng hợp với tánh Không, dứt hết các kết sử trói buộc, cũng không thấy dứt hết. Đó gọi là Niết-bàn.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất khen các Tỳ-kheo:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hiểu rõ được tánh không nghĩa sâu xa vi diệu, nay có bao nhiêu bậc Hiền trụ trong bậc phước đức?

Các Tỳ-kheo thưa:

–Tôn giả Xá-lợi-phất là phước điền được Như Lai khen ngợi, làm các Phật sự chưa từng vô ích, chúng con chưa đạt một phần mười sáu công đức ấy.

Xá-lợi-phất bảo:

–Năm trăm Tỳ-kheo các ông đều là những người đã được giải thoát, là phước điền.

Các Tỳ-kheo thưa:

–Thánh tuệ của Như Lai tự thanh tịnh, đối với các pháp giới không còn nhiễm chấp.

Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng ở trước Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền báo ân được cho tín thí?

Phật bảo Tối Thắng:

–Không chấp trước pháp thế gian, có thể báo ân của tín thí.

Lại hỏi:

–Có bao nhiêu bậc Hiền đối với pháp thanh tịnh?

Đáp:

Không giữ lấy các pháp gọi là thanh tịnh. Hỏi:

–Làm ruộng phước để bố ví như thế nào?

Đáp:

–Không quên đạo pháp của Phật, gọi là ruộng phước.

Hỏi:

–Có bao nhiêu bậc Hiền làm Thiện tri thức chỉ dạy trao truyền pháp thiện ác cho chúng sinh?

Đáp:

–Không bỏ tất cả chúng sinh, đó gọi là Thiện tri thức.

Hỏi:

–Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể báo ân Phật?

Đáp:

–Chứng được bốn vô sở úy, không gián đoạn hạt giống Phật.

Hỏi:

–Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể cúng dường Đức Như Lai?

Đáp:

–Ở trong ức vạn kiếp tu hành không mê hoặc, đó là cúng dường Đức Như Lai.

Hỏi:

–Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể giữ gìn tạng pháp của Phật?

Đáp:

–Suốt đời không hủy bỏ giới của Phật.

Hỏi:

–Có bao nhiêu bậc Hiền có thể làm phát sinh cung kính?

Đáp:

–Giữ gìn sáu căn, đóng chặt sáu tình.

Hỏi:

–Những gì gọi là đại trân bảo của thế gian?

Đáp:

–Người được thành tựu bảy báu.

Hỏi:

–Hiểu rõ hạnh tri túc như thế nào?

Đáp:

–Tu tập ý nghĩa tuệ Vô thượng bậc nhất.

Hỏi:

–Thế nào là ít ham muốn đối với thế gian?

Đáp:

–Đối với thế gian không còn mong cầu.

Hỏi:

–Không đắm trước thế gian như thế nào?

Đáp:

–Đoạn trừ các kết sử trói buộc, không còn năm triền cái.

Hỏi:

–Ở đời ai được an lạc, không còn bị các khổ?

Đáp:

–Không còn lệ thuộc gọi là vui.

Hỏi:

–Không còn lệ thuộc như thế nào?

Đáp:

–Hiểu rõ nguồn gốc của năm ấm, mười tám giới là vắng lặng, vô vi.

Hỏi:

–Cái gì khó nhất trên đời này?

Đáp:

–Bên ngoài bỏ sáu trần, bên trong bỏ sáu căn.

Hỏi:

–Ai vượt qua bờ bên này, đến bờ bên kia?

Đáp:

–Người lập được căn và lực mới được giải thoát.

Hỏi:

–Thế nào là tâm Bồ-tát bố thí mà không gián đoạn?

Đáp:

–Dứt trừ ba tưởng, không khởi phiền não.

Hỏi:

–Bồ-tát trì giới được hoàn hảo như thế nào?

Đáp:

–Tâm Bồ-đề kiên cố, không bỏ thệ nguyện rộng lớn.

Hỏi:

–Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, gặp chuyện bất lợi không sợ hãi như thế nào?

Đáp:

–Hiểu rõ tâm vắng lặng, không khởi sân giận.

Hỏi:

–Bồ-tát tu hạnh tinh tấn như thế nào?

Đáp:

–Sự nhớ nghĩ của tâm không có đầu mối.

Hỏi:

–Bồ-tát Thiền định tâm không thoái lui như thế nào?

Đáp:

–Tâm ý vắng lặng, không tiếp thâu các trần bên ngoài.

Hỏi:

–Bồ-tát bằng tuệ nghiệp diễn nói thông suốt các pháp như thế nào?

Đáp:

–Phân biệt ý nghĩa, không bỏ tâm Bồ-đề.

Hỏi:

–Bồ-tát tu tâm Từ, không bỏ nguồn gốc của đạo như thế nào?

Đáp:

–Không bỏ chúng sinh vì còn thấy có người để độ.

Hỏi:

–Bồ-tát tu tập tâm Bi như thế nào?

Đáp:

–Tư duy các pháp mà không thoái chuyển.

Hỏi:

–Bồ-tát tu tâm hỷ không gián đoạn, đạt đến diệt độ như thế nào?

Đáp:

–Không sinh khởi tưởng về ngã, chấp có ngã và ngã sở.

Hỏi:

–Bồ-tát có tâm xả không gián đoạn như thế nào?

Đáp:

–Giữ gìn nguồn gốc của đạo cho đến lúc thành Phật, trong thời gian đó không sinh các tưởng khác.

Hỏi:

–Bồ-tát đứng vững trong tín căn như thế nào?

Đáp:

–Vượt trên ngoại đạo, không theo tà pháp.

Hỏi:

–Bồ-tát biết rõ pháp không, chẳng còn do dự như thế nào?

Đáp:

–Hiểu đạo và phi đạo, đạo không có nguồn gốc. Đó là việc làm thích ứng của Đại Bồ-tát.

 

Phẩm 31: BỐN PHẠM ĐƯỜNG

Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ tự nghĩ: “Làm thế nào Đại Bồ-tát đối với thân, khẩu, ý tu phạm hạnh thanh tịnh, qua lại khắp bốn dòng cứu độ chúng sinh, từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác, chưa bao giờ bỏ rơi các chúng sinh? Bồ-tát tiến đến thành Phật như thế nào mà

không mất Thiền định tu hành của Bồ-tát?” Biết tâm niệm của Bồ-tát, Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Hạnh nguyện của Bồtát không đồng nhau. Ta sẽ giảng nói nghĩa đó cho ông, hãy lắng nghe, lắng nghe và ghi nhớ kỹ.

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Phật bảo Nhu Thủ:

–Thân hành thanh tịnh, không làm việc ác; miệng nói lời thành thật, không mất pháp tánh; tâm nhớ nghĩ định ý, không sợ hãi, lay động; đó là Bồ-tát thông hiểu nguồn gốc của tuệ. Từ mẫn đối với chúng sinh, không đắm trước ái dục, thường tu quán về pháp bất tịnh, giữ vững tâm mình không rơi vào mê mờ ngu si; đó là Bồ-tát thông hiểu nguồn gốc của tuệ. Ở trong chúng như ở một mình, cũng không mất oai nghi; đi đứng qua lại, oai nghi tề chỉnh, chưa từng vi phạm cấm giới của Như Lai; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với các pháp của Phật đều giải thoát, vô dục vô vi, không thể nghĩ bàn, Thánh chúng tu tập hoàn toàn không có ba thừa; đó là Bồtát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với tham dục hiểu rõ không có hình tướng; đối với sân giận giải thoát, si mê giải thoát cũng như vậy. Tu chín định thứ đệ; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Không đắm trước cõi Dục, cầu địa vị Chuyển luân, không ở nơi cõi Sắc mà mong cầu phước đức, lại không suy nghĩ đến cõi Vô sắc; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với Không, Vô tướng, Vô nguyện đều thực hành dứt hết các lậu, hiểu rõ các pháp như huyễn như hóa; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Hoặc có chúng sinh tâm hoàn toàn không tán loạn, từ chỗ này đến chỗ kia đối với sự thương ghét tâm bình đẳng; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Không trái với nguồn gốc của các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như vậy. Đối với nhiễm và không nhiễm đều không bị nhiễm; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ.

 

Phẩm 32: PHẠM THIÊN THỈNH CẦU

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Tối Thắng thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thân hành thanh tịnh, không làm các việc ác, miệng nói các pháp hoàn toàn không dối trá, tâm nghĩ thanh tịnh vượt hơn nguồn gốc của đạo. Nay Thế Tôn nói về bốn Tâm vô lượng, Từ, Bi, Hỷ, Xả cứu giúp chúng sinh, hoàn toàn không bỏ quên một người chưa độ. Bằng từ bỏ tâm dục, bằng bất tịnh đi đến tịnh, quán tướng không có hình; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với nguồn gốc của các pháp đều được giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đã biết không tham dục thì biết nó không sinh, sân giận không có nguồn gốc đều biết là không; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Hành tâm Từ không gián đoạn, không tham đắm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, đối với bốn thiền hoàn toàn không khởi tưởng; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đại Bồ-tát thường nhập vào Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng không tìm cầu tướng các pháp. Có Bồ-tát phát thệ nguyện rộng lớn: “Nếu ta thành Phật thì cõi nước chúng sinh không có tên của đạo ba thừa. Ngày nay, ta đã thành Phật Chánh Đẳng Giác, độ khắp chúng sinh mà không nhàm chán”.

Lúc ấy, có tám vạn trời người đạt được bậc Tận tín. Ma vương và đồ chúng đều trở về chỗ ở của họ.

 

Phẩm 33: PHÓ CHÚC CHO PHẠM THIÊN

Phật bảo Phạm thiên Vô Úy và các đại chúng, các Bồ-tát:

–Ta từ vô số a-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm công đức, cho đến khi thành Phật không nhiễm tám pháp khổ lụy của thế gian. Tất cả các loài chúng sinh cho đến côn trùng nhỏ nhiệm có hình dạng, nhiễm chấp năm ấm, ham thích không xả bỏ. Hiền thánh không nhiễm tám pháp, hiểu rõ nguồn gốc của năm ấm, mười giới đều là không, chẳng thật có, xa lìa tám việc ở đời, đó là: lợi, suy, chê, khen, ca ngợi, chế diễu, khổ, vui.

Phật bảo Phạm Thiên:

–Có thiện nam, thiện nữ nào, đọc tụng, thọ trì kinh điển này thì ma và Thiên ma không thể cản trở hủy hoại. Vì sao? Vì nhờ oai thần của chư Phật Thế Tôn hộ trì. Nếu có thiện nam, thiện nữ mong cầu đạt được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều nhờ kinh này mà chứng đạo quả.

Phật bảo:

–Thiện nam, Ta từ một kiếp, đến trăm ngàn kiếp vì tất cả chúng sinh mà khen ngợi kinh điển này cũng không cùng tận. Vì sao? Vì kinh này gọi là “Tạng Vô Tận”, chẳng phải A-la-hán, Bích-chi-phật sánh kịp. Còn gọi là “Câu hỏi của Bồ-tát Tối Thắng”. Nay ta phó chúc kinh này, đừng để thiếu một chữ, một câu. Như ta ngày nay đã thành Phật, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, hào quang chiếu sáng bảy tầm, khắp tam thiên đại thiên thế giới. Một thiện nam, thiện nữ nào chí thành mong cầu Phật đạo, cúng dường Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, không bằng trong một thời gian khảy móng tay mà đọc tụng kinh này. Vì sao? Vì Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đều do kinh này mà thành Phật đạo. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật đều do kinh này mà thành tựu.

Bấy giờ, Phạm thiên Vô Úy ở trước Phật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có thiện nam, thiện nữ nào chí thành cầu giác ngộ, đọc tụng kinh này, ghi nhớ kỹ không quên thì chúng con sẽ ủng hộ thiện nam, thiện nữ đó, ở trong phạm vi trăm do-tuần, ma hoặc Thiên ma không thể hại được họ.

Phật bảo:

–Này Phạm Thiên, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều tụng kinh này, chắc chắn đạt đến kiên cố, không bị thoái lui. Nếu có thiện nam, thiện nữ tu tập bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện đều do kinh này mà thành tựu. Và thế gian mới có bốn dòng họ và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ, Bồ-tát Tối Thắng, Tôn giả Xá-lợiphất, Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Ma-hưu-lặc, Chiên-đà-la nghe Phật nói làm lễ lui ra.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10