PHẬT NÓI KINH DIỆU CÁT TƯỜNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO
KIM CƯƠNG BỒI LA PHỘC LUÂN
QUÁN TƯỞNG THÀNH TỰU NGHI QUỸ

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Tán Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

MẠN NOA LA PHẦN THỨ NHẤT

_Bấy giờ, Kim Cương Bồi La Phộc (Vajra-bhairava) bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con vì muốn lợi ích cho các chúng sinh nên diễn nói Pháp tất cả thành tựu (Sarva siddhi). Nguyện Đức Phật Đại Từ ban cho con sự không sợ hãi”

Đức Phật nói: “Lành thay! Bồi La Phộc (Bhairava) vì lợi ích nên ông hãy tự theo ý tuyên nói”

Thời Bồi La Phộc nhận sự răn dạy của Đức Phật xong, liền ở trong Hội của tất cả Người, Trời hiện tướng đại ác, diễn nói Pháp tất cả thành tựu. Nếu có người trì Minh vì muốn tu tập Pháp này của Ta, trước tiên đối với tất cả chúng sinh, phát Tâm lợi ích rộng lớn, liền đối với Kim Cương A Xà Lê (Vajra-ācarye) cầu nhận Quán Đỉnh (Abhiṣeka). Được Quán Đỉnh xong, rồi ở Nghi Quỹ (Sādhana) làm mọi loại Pháp quyết định thành tựu

_Lại nữa, người trì Minh! Nếu thấy chúng sinh có nghiệp ác, bội nghịch mệnh vua, tự ý gây họa loạn, bất hiếu với cha mẹ, đối với A Xà Lê với Sư Trưởng… Tâm còn ngang ngược chẳng tùy thuận, phá diệt Tam Bảo, hủy báng Đại Thừa (Mahāyāna) với Pháp bí mật (Mantra-yāna: Chân Ngôn Thừa). Dùng Tâm khinh mạn vượt qua Tam Muội (Samaya), đối với các hữu tình luôn sinh nguy hại. Người như vậy thì nên dùng Pháp này mà điều phục, hoặc được Tâm hối cải liền cùng nhau giải thích.

_Lại nữa, người trì Minh! Tự Tâm chẳng được ngu si ganh ghét, đối với các hữu tình sợ mọi người thiện, luôn làm Pháp này gây não hại thì đượng lai sẽ chiêu cảm quả báo vào ở trong Đại Địa Ngục Hiệu Khiếu (Raurava) chịu mọi đau khổ trải qua vô lượng kiếp

Người trì Minh cần phải xa lìa lỗi ác như vậy thì mới có thể tu tập, làm Mạn Noa La (Maṇḍala: Đàn Trường) cầu các thành tựu

_Người muốn làm Mạn Noa La. trước tiên nên tuyển chọn Thắng Địa. Thắng Địa ấy là trước tượng Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), hoặc đỉnh núi, hoặc nhà trống vắng, hoặc đền thờ chư Thiên (Deva-pura), hoặc miếu Mẫu Quỷ (Hāṛti), hoặc rừng Thi Đà (Śīta-vana), hoặc bờ sông, hoặc dưới cây lớn, hoặc đất có trận chiến lớn (đại chiến địa), hoặc ngã tư đường, hoặc trong thôn xóm… tuyển được các Thắng Địa như vậy xong, rồi ở đất này dựng lập Mạn Noa La, cầu các thành tựu

Pháp thành tựu ấy là: Tức Tai, Tăng Ích, Kính Ái, Điều Phục cho đến nhóm Pháp Phát Khiển, Cấm Phộc. Lại nữa, cầu thuốc Thánh kia, cây kiếm Thánh, thuốc bôi mắt, thuốc Thánh vào cung Rồng với lấy phục tàng. Lại nữa, nhóm Pháp giáng phục Phệ Đa Noa (Vetāḍa), Tất Xá Tả (Piśāca), Dạ Xoa (Yakṣa), Dạ Xoa nữ (Yakṣasī) cho đến giáng phục Rồng. Các Pháp như vậy, người trì Minh nếu chuyên chú, y vào Nghi Quỹ thì quyết định được thành tựu.

_Lại nữa, người trì Minh dựng lập Mạn Noa La ở Thắng Địa đã được lúc trước, nên y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư (Mahiṣa-mukha), ở rừng Thi Đà chọn lúc ban đêm, khỏa thân xõa tóc, dùng tro xác chết làm Mạn Noa La vuông vức, làm bốn cửa, bên trên làm tầng lầu. Dùng báu Kim Cương với nửa vành trăng cho đến chuông, chuông lắc tay, phướng, phan, vòng hoa… mọi loại nghiêm sức. Ở trung tâm Mạn Noa La vẽ bánh xe có tám cây căm. Ở trung tâm bánh xe phân chia chín vị trí, làm tướng trăng tròn, chỉ mở một cửa, các cửa còn lại làm tướng đóng kín

Ở trung tâm bánh xe an một Xá Phộc (Śava), vị trí phương Đông an Thất La (Śilā), vị trí phương Nam an Hạ Sa Đa (Hasta), vị trí phương Tây an Át Đát La (Antara), vị trí phương Bắc an Ba Nại (Pāna), góc Đông Bắc an Yết Bá La (Kapāla), góc Đông Nam an Tạt Sa Ca (Caṣaka), góc Tây Nam an Tô Ma Xá Nẵng Yết Lý Bát Tra (Sumaśaṇakaripaṭa), góc Tây Bắc an Thâu La Bật Nẵng Bố Lỗ Sa  (Śuraviṇapuruṣa)

Tiếp theo, ở bên ngoài bánh xe. Phương Đông an nhóm Yết Tra (Kaṭa), Lý Tần  Ni (Ripani), Ba La Một Sa La (Paramuṣala), Thố Lý Ca Ca Noa Dã (Curikajaṇaye), Áng Câu Xá (Aṅkuśa)

Phương Nam an nhóm Câu Trà (Kūṭa), La Thiết (Rasa), La Nga Nại (Rājānna) Khiết Xuân Nga (Khaṭvaṅga), Tác Cật La (Cakra), Bá Xá (Pāśa)

Phương Tây an nhóm Phộc Nhật La (Vajra), Noa Ma Lỗ (Ḍamaru), Ca Khế Tra (Kajiṭa), Ca Đà Nỗ (Kadanno) Kiện Tra (Ghaṃṭa), Mã Đa (Māḍa), Yết Lý Ba Tra (Karipaṭa)

Phương Bắc an nhóm Đa Lý Nhạ Nỉ Đế (Tarjanīte), Lý Bát Đa Ca (Lipataka), Ca Nhạ Tạt Lý Ma (Garajarima), Phộc Nhật La (Vajra), Một Nại (Māna), Nga La Quân Đa (Garakunta), A Nghĩ Nễ Quân Noa (Agni-kuṇḍa)

Ở bốn cửa, bốn góc an Ma Ha Phệ Đa La (Mahā-vetāla) nên dùng dầu Ma Hạ  Thiết Phộc (Mahā-śiva) thắp đèn Nẵng La (Nara), Khư La (Khara), Ô Trà (Uṭa), Tất Lý Nga La (Śrīgara), Ma Hứ Sa (Mahiṣa), Nga Nhạ (Gaja), A Thuyết (Aśu), Hổ Nhĩ (Jomi), Sa Một Lý (Samari), Nga Tô Ca La (Gasukara), Đẳng Tất Thi Đa (Tapiṣtha) làm thức ăn… hiến Mạn Noa La

Lại dùng Cật Lý (Hri), Đà La Ô Lộ Ca (Tarauruka), Ca Yết Đế Nẵng Phộc (Khakasinava), Ca Trất (Kasi), Trí Bà (Jipa), Sa La (Sara), Sa Ma Dụ La (Samayora), Ma Hạ Nễ Đát Lý (Mahā-nitale), Ma Hạ Thiết Câu Nẵng (Mahāśakuna), Đẳng Tất Thí Đa (Tapiṣtha) làm thức ăn… lại hiến Mạn Noa La

Như vậy, Người trì Minh khi hiến thức ăn thì bền Tâm chuyên chú cho đến làm

Hộ Ma, lúc Xuất Sinh cũng lại như vậy

_Lại nữa, ở bên ngoài Mạn Noa La, vòng khắp dùng Lỗ Địa La (Rudhira: máu huyết) rưới vảy khiến cho sạch (sái tịnh). Người trì Minh như vậy y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư (Mahiṣa-mukha) thọ nhận Trai Giới ấy cùng với Trợ Bạn kia gồm bốn người thường nên chuyên chú, chẳng được lười biếng. Chỉ có một mình người Trì Minh dùng Phệ Lô Tả Nẵng (Virecana: thuốc khiến cho tịnh hóa) xoa bôi thân, khỏa thân xõa tóc, lúc nửa đêm thời tay cầm Noa Ma Lỗ Ca (Ḍamarukā: một loại trống) đánh vỗ tạo ra âm thanh cao, Người trì Minh ấy, miệng xưng Hạ Hạ (HĀ HĀ) làm dũng mãnh chuyên chú, vào Mạn Noa La cầu thành tựu

Thời người trì Minh y theo Pháp vào Mạn Noa La xong, liền dùng thức ăn đã làm lúc trước, phụng hiến Bản Tôn Đại Kim Cương Bồi La Phộc. Người trì Minh ấy liền quán tưởng Bồi La Phộc (Bhairava) ở trong Mạn Noa La nhận thức ăn uống cúng dường đã phụng hiến

Như vậy quán tưởng được hiện trước mặt xong. Người trì Minh liền đứng trước Mạn Noa La, thân làm thế múa bên trái, làm tướng không sợ hãi, chuyên tâm tụng

Thập Tự Đại Minh chẳng được gián đoạn, thắng đến khi Bồi La Phộc hiện ra Bản Thân, song ở khoảng giữa nếu có mọi loại Ma Cảnh hiện ra, tướng đáng sợ muốn gây chướng nạn thì người trì Minh không được hoảng sợ. Nếu có Tâm sợ hãi thì Ma liền được dịp thuận tiện, sẽ khiến cho Pháp đã mong cầu chẳng thành tựu

Nếu không có sợ hãi thời Kim Cương Bồi La Phộc vui vẻ hiện ra bảo người trì Minh rằng: “Ngươi cầu xin Nguyện gì? Nay Ta ban cho ngươi”.

Người trì Minh bạch rằng: “Con cầu cây kiếm Thánh với vào cung Rồng, mọi loại thuốc Thánh… Nguyện ban cho coṅ

Thời Bồi La Phộc bảo người trì Minh rằng: “Điều ngươi đã mong cầu, Ta đều ban cho”

Thời người trì Minh hoặc không có Phước Đức, đối với Pháp Thượng Phẩm như vậy chẳng được thành tựu thì ở Phẩm Trung Hạ cũng được thành tựu.

 

PHÁP TẤT CẢ THÀNH TỰU PHẦN THỨ HAI

_Người trì Minh muốn làm điều phục Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan gia). Trước tiên tưởng thân mình như tướng đại phẫn nộ của Kim Cương Bồi La Phộc hoặc Tốn Bà Nẵng (Śumbhana), y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Kha lấy áo của xác chết, dùng thuốc độc với máu, muối, hạt cải, nước cốt cây Khổ Giản, nước cốt hoa Mạn Đà La hòa hợp làm màu sắc. Dùng lông cánh của con quạ làm bút, ở trên áo của xác chết lúc trước vẽ Kim Cương Bồi La Phộc Mạn Noa La. Ở bên trong chia 16 vị trí, vị trí ở giữa vẽ tượng Bồi La Phộc hướng mặt về phương Nam, khỏa thân xõa tóc. Ở trước tượng này vẽ hai lò lửa, ở khoảng giữa của hai lò viết tên của Thiết Đốt Lỗ. Lại vẽ Thập Tự Đại Minh làm Giới, tên gọi ngay bên trong. Lại viết tám chữ Hồng (HŪṂ) làm nơi tên gọi ấy. Lại ở bốn góc viết chữ Phát tra (PHAṬ)

Như vậy viết xong, an bên trong đầu lâu. Lại dùng đầu lâu che trùm, sau đó làm cái lò Tam Giác, đem đầu lâu an bên trên bên dưới, dùng củi đốt xác chết nhóm lửa thiêu đốt.Người trì Minh làm tướng đại phẫn nộ lúc trước, dùng bàn chân trái đạp lên đầu lâu, tụng Thập Tự Đại Minh thì Thiết Đốt Lỗ kia mau bị trừ diệt.

_Lại nữa, như lúc trước dùng mọi loại vật thuốc hòa chung với nhau, ở trên áo của xác chết viết tên của Thiết Đốt Lỗ, lại gia thêm Tam Thập Nhị Đại Minh (Đại Minh có 32 chữ) làm tên gọi để viết. Lại dùng thức ăn dư thừa của Ca Yết (Jaka) với Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) xoa bôi trên áo, sau đó chôn trong rừng Thi Đà thì Thiết Đốt Lỗ kia cũng mau bị trừ diệt.

Nếu chôn dưới cái cây lớn, tức làm Phát Khiển. Nếu ở trước tượng Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) tức mau chóng chịu nỗi khổ yêu thương mà phải bị xa lìa. Nếu để chìm trong đáy nước, tức mau chóng Cấm Phộc. Nếu làm Tức Tai thì sắp xếp ở trong nhà, hoặc lấy cái áo ấy giặt tẩy sạch sẽ ắt tất cả như thường.

_Lại nữa, người trì Minh lấy áo của xác chết, viết Diệm Ma Đại Minh (Yamamantra) xong, ở trong rừng Thi Đà, hoặc ngã tư đường, hoặc dưới cây lớn, hoặc khoảng giữa hai gò đất của loài mốt trắng, hoặc trước mặt tượng Đại Tự Tại Thiên, hoặc truốc cửa nhà La Nhạ (Rāja: vua chúa). Ở các nơi như vậy, lấy đất lại dùng Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana), Phộc Nhật Lỗ Nại Ca (Vajrodaka) với tro thiêu xác chết… hòa hợp làm hình Thiết Đốt Lỗ dài 8 ngón tay, đem Đại Minh lúc trước an bên trong trái tim, lại ở năm chỗ trên hình dùng xương người làm cây cọc rồi đóng vào. Lại dùng cây kim gai đâm khắp các chi tiết của thân phần xong, rồi an bên trong đầu lâu. Lại dùng đầu lâu che trùm, sau đó chọn lúc giữa ngày (giờ Ngọ) hoặc lúc nửa đêm (giờ Tý) ở bảy nơi, lấy đất ở gò loài mối trắng làm hình Diệm Ma (Yama) dài một khuỷu tay, mặt làm tướng đại ác, có hai cánh tay,, tay phải cầm cây kiếm, xõa tóc. Ở trong trái tim của Diệm Ma an hình của Thiết Đốt Lỗ. Chọn lúc nửa đêm hoặc lúc giữa ngày, ở trong hầm thiêu xác chết, để đầu hình tượng ở phương Nam, úp mặt xuống rồi chôn sâu xuống. Người trì Minh ấy quay vễ chỗ ở của mình, y theo Pháp Ma Hứ Sa (Mahiṣa) tụng Thập Tự Đại Minh với xưng tên của Thiết Đốt Lỗ, đến khi đủ ba ngày thì quyết định trừ diệt. Nếu lấy hình tượng ấy ra, dùng sữa bò rửa sạch, liền được trở lại như thường.

_Lại nữa, đồng với lúc trước, dùng nhóm vật, thuốc hòa hợp. Ở trên da loài trùng Thô Thốn Nỗ Lý viết Thập Tự Đại Minh. Sau đó lấy đất dưới bàn chân của Thiết Đốt Lỗ với lấy bùn ở xứ Mẫu Đát La (Mūtra: nước tiểu) hòa chung với nhau, lấp đầy bên trong cái da, dùng tóc người cột buộc. Sau đó dùng Khư La Mẫu Đát La (Kharamūtra: nước tiểu nóng) với Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) đồng đưa vào bên trong một cái bình, chôn sâu bên trong cái hầm thiêu xác chết. Người trì Minh làm tướng phẫn nộ, y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư tụng Thập Tự Đại Minh đủ một ngày thì hay khiến làm Tốn Bà (Sūpa: thịt bị cháy nát). Pháp này chẳng thể giải được

_Lại nữa, ở 7 nơi, lấy đất gò của loài mối trắng làm hình tượng con trâu với con ngựa, làm dạng trợ nhau cỡi ngồi . Dùng máu của con trâu với con ngựa hòa chung, đồng với lúc trước viết Đại Minh an bên trong trái tim của trâu, ngựa rồi chôn dưới cây Nãnh Ma (Nimba: cây Khổ Luyện). Sau đó người trì Minh tác Quán Tưởng, tưởng Thiết Đốt Lỗ kia yêu thương mà phải bị chia lìa, ở trong ba ngày quyết định như điều đã làm.

_Lại nữa, người Trì Minh! Đồng với lúc trước, ở 7 nơi, lấy đất gò của loài mối trắng làm hình con Lạc Đà, đồng với Pháp lúc trước viết Đại Minh an trong trái tim con Lạc Đà. Người trì Minh quán tưởng chữ Bang (BAṂ) thành nơi Phong Luân (Vāyu-cakra) như tướng nửa vành trăng. Ngay trên con Lạc Đà lại tưởng Thiết Đốt Lỗ (Oan gia) ngồi trên Phong Luân, lại tưởng Diệm Ma (Yama) ở ngay phía sau Thiết Đốt Lỗ, cầm cây gậy đánh đuổi Thiết Đốt Lỗ kia đi về phương Nam, nội trong 7 ngày thì Thiết Đốt Lỗ kia tự nhiên đi xa.

_Lại nữa, người trì Minh! Lấy dầu hạt cải, vào ngày Thái Dương trực, dùng dầu xoa bôi thân tượng rồi cột buộc tượng ở dưới cây Nãnh Ma (Nimba), lại dùng dầu được nạo vét từ con trai, con hào xoa bôi thân tượng, sau đó lấy cây phan ở trong miếu Đại Tự Tại Thiên thiêu đốt, đừng khiến có lửa, thu lấy khói này hòa chung với dầu lúc trước xoa bôi bàn chân hoặc áo của Thiết Đốt Lỗ thí chốc lát Thiết Đốt Lỗ sẽ đi xa.

_Lại nữa, người trì Minh! Lấy lông cánh của con quạ làm bút, dùng máu quạ làm mực, ở trên vỏ hoa vẽ Phong Luân, ở chính giữa Phong Luân viết tên của Thiết Đốt Lỗ, cột buộc ở cổ con quạ. Người trì Minh y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư tác Quán Tưởng hướng về phương Nam thả con quạ thì Thiết Đốt Lỗ kia giống như con quạ bay, phút chốc đi xa.

_Lại nữa, người trì Minh! Lấy đại tiểu tiện hòa chung với nhau, làm tượng Thiết Đốt Lỗ. Lại dùng bột xương xoa bôi thân tượng ấy. Người trì Minh vào lúc nửa đêm thời khỏa thân vào trong rừng Thi Đà, đem tượng lúc trước một mỗi chặt cắt, y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư ở trong hầm thiêu xác chết, goặc dùng lửa thiêu đốt xác chết làm Hộ Ma thì Thiết Đốt Lỗ kia liền tự trừ diệt.

_Lại nữa, người trì Minh! Dùng các thuốc lúc trước làm mực, ở trên áo của xác chết viết Diệm Ma Đắc Ca Minh Vương Đại Minh. Lại dùng Ma Hạ Bát La Nễ Ba (Mahā-pradīpa) với Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) hòa chung với nhau làm tượng Thiết Đốt Lỗ rồi đem Đại Minh đã viết lúc trước an trong trái tim của tượng. Người trì Minh y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Kha, thân xoa bôi Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) vào trong rừng Thi Đà dùng cây đao bén chặt hình tượng kẻ kia rồi ở trước hầm thiêu đốt xác chết, ngồi ngướng mặt về phương Nam, làm Hộ Ma thì kẻ kia tự trừ diệt.

_Lại nữa, người trì Minh! Lấy da quạ hoặc da chồn, ở trên ấy dùng cây bút sắt viết Thập Tự Đại Minh với tên của người kia. Người trì Minh ấy ở nơi vắng lặng, xưng tên Thiết Đốt Lỗ, tụng Thập Tự Đại Minh thì kẻ kia tự lìa tan.

_Lại nữa, người trì Minh! Dùng thuốc, vật lúc trước điều hòa, ở trên áo của xác chết vẽ Diệm Ma Vương Mạn Noa La (Yama-rāja maṇḍala). Lại dùng than của xác chết làm tượng người nữ có tướng mặt xấu ác, ở trong trái tim của tượng an Đại Minh lúc trước. Người trì Minh dùng bàn chân đạp lên tượng, y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư, xưng tên người nữ kia, tụng Thập Tự Đại Minh thì mau khiến cấm phộc (cấm đoán, cột trói)

 

QUÁN TƯỞNG PHẦN THỨ BA

_Lại nữa, người trì Minh! Muốn tác Quán Tưởng, trước tiên tụng Tịnh Tam Nghiệp Đại Minh. Tịnh ba nghiệp xong, sau đó dùng Tâm Vô Ngã đối với tất cả Pháp tác Vô Ngã Quán. Quán tất cả Pháp được vô ngã xong, xứng với Lý Chân Như quán nơi Hiền Thánh rồi ở trái tim của mình tưởng hiện ra chữ Bang (皿: BAṂ). Chữ Bang hiện ra xong, biến thành Phong Luân, lại tưởng Phong Luân ấy có màu sắc như khói. Ở trên Luân ấy hiện chữ thứ nhất, tưởng chữ thứ nhất biến thành Ấn Nại La Mạn Noa La (Indra-maṇḍala). Ở trên Mạn Noa La tưởng hiện chữ Đề (外: DHĪ), lại tưởng chữ Đề thành tướng của Diệu Cát Tường Đồng Tử (Maṃjuśrī-kumāra). Lại tưởng trong trái tim của Diệu Cát Tường Đồng Tử hiện ra chữ A (唒) biến thành vành mặt trời, từ trong vành mặt trời phát ra ánh sáng lớn đến khắp vô biên cõi nước ở mười phương, chiếu sáng Phật với Bồ Tát cho đến hàng Trì Minh Vương trong cõi nước ấy. Ở cõi nước ấy chiếu sáng xong liền quay trở lại nhập vào bên trong vành mặt trời. Như vậy quán tưởng Diệu Cát Tường Đồng Tử cùng với các Như Lai không có sai khác, không có riêng biệt, ở ngay bên trong vành mặt trời phóng ánh sáng lớn chiếu sáng trăm ngàn do tuần.

Lại tưởng chữ Hồng (猲:HŪṂ) màu đen hiện trên vành mặt trời có ánh sáng năm màu vây quanh vòng khắp. Lại tưởng trong ánh sáng có chữ Hồng (猲:HŪṂ) biến thành cái chày Đại Kim Cương màu đen có ánh sáng lớn. Lại tưởngchày Kim Cương hóa sinh chư Phật với các Minh Vương nhỏ nhiệm như hạt mè tràn đầy khắp hư không, đủ các tướng tốt với ánh sáng vây quanh. Lại tưởng chư Phật Như Lai như vậy đều hóa độ chúng sinh đều thành Chính Giác. Độ sinh xong lại quay trở lại nhập vào bên trong chày Kim Cương

Lại nữa, quán tưởng từ chày Kim Cương hóa ra Đai Kim Cương Bồi La Phộc có 9 mặt: mặt chính thứ nhất như tướng Ma Hứ Sa Mục Khư (Mahiṣa mukha: mặt con trâu) làm màu đen đậm. Ở bên phải, trên Thiết Lý Nga có ba mặt: mặt chính giữa màu xanh, mặt bên phải màu đỏ, mặt bên trái màu vàng đều là tướng phẫn nộ. Bên trái, trên Thiết Lý Nga cũng có ba mặt: mặt chính giữa màu trắng, mặt bên phải màu khói, mặt bên trái màu đen đều là tướng phẫn nộ. Ở khoảng giữa của hai Thiết Lý Nga làm khuôn mặt thứ tám màu đỏ đậm, tướng phẫn nộ. Tiếp theo, bên trên làm khuôn mặt thứ chín, làm tướng phẫn nộ, màu vàng, đầu có 5 búi tóc, làm Đồng Tử trang nghiêm. Như vậy 9 mặt đều có 3 con mắt, hiện tướng đại ác, hoặc tướng Đại Tiếu (cười ha hả), lè cái lưỡi ra bên ngoài, cau nhăn lông mày , khỏa thân, bụng lớn, tóc trên đầu dựng đứng, dùng da voi làm áo, dùng đầu lâu trang nghiêm.

Đủ 34 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất cầm cây đao, tay thứ hai cầm Tần Nê Ba La, tay thứ ba cầm cái chày vồ, tay thứ tư cầm Thô Lý ca (Cutīka: cây gậy thi thể), tay thứ năm cầm Ca Noa Dã (Kaṇaya: nhất đầu trượng), tay thứ sáu cầm cây búa, tay thứ bảy cầm cây Xuân, tay thứ tám cầm cái đầu người, tay thứ chín cầm móc câu, tay thứ mười cầm cây côn báu, tay thứ mười một cầm Khiết Xuân Nga (Khaṭvaṅga: cây gậy Kim Cương đầu người), tay thứ mười hai cầm bánh xe, tay thứ mười ba cầm chày Kim Cương, tay thứ mười bốn cầm Kim Cương Cốt Đóa, tay thứ mười lăm cầm cây kiếm, tay thứ mười sáu cầm Noa Ma Lỗ Ca (Ḍamaruka: cái trống)

Bên trái: tay thứ nhất cầm cái đầu lâu, tay thứ hai cầm cái đầu người, tay thứ ba cầm Khế Tra Ca (Khaṭaka), tay thứ tư cầm bàn chân người, tay thứ năm cầm sợi dây, tay thứ sáu cầm cây cung, tay thứ bảy cầm Át Đát La (Antara), tay thứ tám cầm cái chuông, tay thứ chín cầm bàn tay người, tay thứ mười cái áo của xác chết, tay thứ mười một cầm Thiêm Nhân (người bị cây xỏ xuyên qua thân từ dưới hậu môn dọc theo xương sống lên đầu), tay thứ mười hai cầm lò lửa, tay thứ mười ba cầm Tạt Sa Ca (Caṣaka), tay thứ mười bốn tác Kỳ Khắc Ấn (Tarjanī-mudra), tay thứ mười lăm cầm cây phan, tay thứ mười sáu cầm cái buồm.

Hai tay trái phải cầm da voi

Có 16 cái chân. Bên phải: chân thứ nhất đạp lên con người, chân thứ hai đạp lên con trâu, chân thứ ba đạp lễn con bò màu vàng, chân thứ tư đạp lên con lừa, chân thứ năm đạp lên con lạc đà, chân thứ sáu đạp lên con chó, thân thứ bảy đạp lên con dê, chân thứ tám đạp lên con cáo. Bên trái: chân thứ nhất đạp lên con chim kên kên, chân thứ hai đạp lên con Hồ Ly, chân thứ ba đạp lên con quạ, chân thứ tư đạp lên con sư tử, chân thứ năm đạp lên Tế Nẵng (loài chim Sinang), chân thứ sáu đạp lên Nễ Đát La (Mitrā), chân thứ bảy đạp lên Ma Hạ Câu Nẵng (Mahā-kuṇa), chân thứ tám đạp lên con chim hạc.

Thân có lửa sáng rực giống như Kiếp Hỏa (Kalpāgni) chiếu sáng rực rỡ, có uy lực lớn, miệng xưng chữ Phát Tra (PHAṬ) tiếng như sấm động. người Trời nghe thấy đều rất sợ hãi

Kim Cương Bồi La Phộc này chẳng phải chỉ ăn tủy, não, máu, thịt của con người… cho đến chư Thiên cũng sợ bị ăn nuốt.

Khi người trì Minh tác Quán Tưởng thời ở nơi vắng lặng, trừ dứt cảnh khác, chính niệm chuyên chú mọi Lý Chân Như, quán tưởng Hiền Thánh. Được hiện trước mặt xong, tưởng thân của Hiền Thánh tức là thân của Ta. Đã được như vậy, trụ vào không sợ hãi. Lại quán trong trái tim hiện ra một vành mặt trời, ở trên vành mặt trời quán chữ của Đại Minh. Được chữ hiện xong, phóng ánh sáng chiếu bốn phương. Người trì Minh quán tưởng như vậy được thành tựu xong thì mới có thể trì tụng

Khi trì tụng thời thường ăn 5 loại thuốc Cam Lộ với Ma Hạ Bát La Nễ Ba (Mahā-pradīpa), trì tụng Căn Bản Đại Minh đủ ba lạc xoa. Được đủ số xong thì mới ở sau này làm Pháp thành tựu. Nếu y theo Nghi Quỹ không có sai lầm thì đối với tất cả Pháp, quyến định thành tựu

 

NGHI QUỸ VẼ TƯỢNG PHẦN THỨ TƯ

Người trì Minh muốn vẽ tượng Bản Tôn Đại Kim Cương Bồi La Phộc. Trước tiên nên tìm kiếm người vẽ tượng khéo léo mà người vẽ tượng ấy phải là người thanh tịnh, không có lỗi lười biếng, khinh mạn kèm đủ Tâm Từ Bi, nhẫn nại, tin tưởng. Tìm được người có Đức như vậy xoang, người trì Minh tùy theo sự yêu cầu công cán thẳng thắn của người vẽ liền đưa cho, chẳng được trả giá.

Được người vẽ xong, người trì Minh mới có thể tìm cái áo của người chính trực dũng mãnh. Hoặc tìm cái áo lót của người nữ, hoặc tìm cái áo của người nữ sinh đẻ… Nếu không có nhóm áo như vậy, liền dùng áo của xác chết. Tìm được áo xong, liền ở nơi vắng lặng không có con người đi đến, khiến người vẽ kia chọn ngày khởi đầu làm tượng tranh vẽ. Trừ người trì Minh với người vẽ tượng ra, các người khác đều chẳng được nhìn thấy. Nếu để cho người nhìn thấy thì làm Pháp chẳng thành.

Tướng của Đại Kim Cương Bồi La Phộc là: một thân 9 mặt, khỏa thân màu đen có 34 cánh tay, 16 cái chân. Mặt thứ nhất màu đen làm tướng Ma Hứ Sa Mục Khư (Mahiṣa mukha: mặt con trâu). Bên phải, trên Thiết Lý Nga có ba mặt: mặt chính giữa màu xanh, mặt bên phải màu đỏ, mặt bên trái màu vàng đều là tướng phẫn nộ. Bên trái, trên Thiết Lý Nga cũng có ba mặt: mặt chính giữa màu trắng, mặt bên phải màu khói, mặt bên trái màu đen. Ở khoảng giữa của hai Thiết Lý Nga làm khuôn mặt thứ tám màu đỏ. Ở bên trên khuôn mặt thứ tám vẽ khuôn mặt thứ chín, làm tướng Diệu Cát Tường Đồng Tử màu vàng. Như vậy 9 mặt đều là tướng phẫn nộ.

Đủ 34 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất cầm cây đao, tay thứ hai cầm Tần Nê Ba La, tay thứ ba cầm cái chày vồ, tay thứ tư cầm Thô Lý ca (Cutīka: cây gậy thi thể), tay thứ năm cầm Ca Noa Dã (Kaṇaya: nhất đầu trượng), tay thứ sáu cầm cây búa lớn, tay thứ bảy cầm cây giáo, tay thứ tám cầm mũi tên, tay thứ chín cầm móc câu, tay thứ mười cầm cây côn báu, tay thứ mười một cầm Khiết Xuân Nga (Khaṭvaṅga: cây gậy Kim Cương đầu người), tay thứ mười hai cầm bánh xe, tay thứ mười ba cầm chày Kim Cương, tay thứ mười bốn cầm chày Kim Cương, tay thứ mười lăm cầm cây kiếm bén, tay thứ mười sáu cầm Noa Ma Lỗ Ca (Ḍamaruka: cái trống)

Bên trái: tay thứ nhất cầm cái đầu lâu, tay thứ hai cầm cái đầu người, tay thứ ba cầm Khế Tra Ca (Khaṭaka), tay thứ tư cầm bàn chân người, tay thứ năm cầm sợi dây, tay thứ sáu cầm cây cung, tay thứ bảy cầm Át Đát La (Antara), tay thứ tám cầm cái chuông, tay thứ chín cầm bàn tay người, tay thứ mười cái áo của xác chết, tay thứ mười một cầm Thiêm Nhân (người bị cây xỏ xuyên qua thân từ dưới hậu môn dọc theo xương sống lên đầu), tay thứ mười hai cầm lò lửa, tay thứ mười ba cầm Tạt Sa Ca (Caṣaka), tay thứ mười bốn tác Kỳ Khắc Ấn (Tarjanī-mudra), tay thứ mười lăm cầm cây phan, tay thứ mười sáu cầm cái buồm

Hai tay trái phải cầm da voi

Bên phải: chân thứ nhất đạp lên con người, chân thứ hai đạp lên con trâu, chân thứ ba đạp lễn con bò màu vàng, chân thứ tư đạp lên con lừa, chân thứ năm đạp lên con lạc Đà, chân thứ sáu đạp lên con chó, thân thứ bảy đạp lên con dê, chân thứ tám đạp lên con cáo. Bên trái: chân thứ nhất đạp lên con chim kên kên, chân thứ hai đạp lên con Hồ Ly, chân thứ ba đạp lên con quạ, chân thứ tư đạp lên con sư tử, chân thứ năm đạp lên con chim Tế Nẵng (loài chim Sinang), chân thứ sáu đạp lên Nễ Đát La (Mitrā), chân thứ bảy đạp lên con chim Ma Hạ Câu Nẵng (Mahā-kuṇa), chân thứ tám đạp lên con Sa La Sa (Sārasa: con chim hạc)

Ở trước tượng, vẽ rừng Thi Đà, bên trong có mọi loại La Xoa Sa (Rākṣasa: La Sát), Quỷ Thần, Phệ Đa Noa (Veḍāṇa: Khởi thi Quỷ). Lại vẽ cây Ni Câu Đà, trên cây có treo máng xác người với có Thiêm Thi (xác người bị cây xỏ xuyên qua thân từ dưới hậu môn dọc theo xương sống lên đầu). Lại ở bên dưới cánh rừng vẽ mọi xác người có đủ loại chim bay với nhóm chồn, chó ăn thịt mọi xác chết

Ở trước mặt Bản Tôn vẽ người trì Minh khỏa thân xõa tóc, dùng đầu lâu làm cái mão, dùng 5 loại thuốc Cam Lộ xoa bôi thân, tay cầm Noa Ma Lỗ Ca (Ḍamaruka) với đầu lâu, Khiết Xuân Nga (Khaṭvaṅga: cây Thiên Trượng) chiêm ngưỡng Bản Tôn Bồi La Phộc, với tướng mặt cười ha hả (đại tiếu) di vào rừng Thi Đà.

Như vậy vẽ tượng xong rồi đem bức tranh này an ở nới vắng lặng sâu kín, thường đốt thịt người làm hương cúng dường. Người trì Minh dùng xương người làm tràng hạt, ở trước tượng này dùng Tâm bền chắc chuyên chú, một ngày ba thời trì tụng Đại Minh đủ ba lạc xoa, sau đó tùy theo ý làm pháp, quyết định thành tựu.

Tượng tranh vẽ này chẳng được gửi cho người khác, cũng chẳng được mở ra trước mặt người khiến cho người nhìn thấy. Người trì Minh dùng rượu thịt để ăn, lại một ngày ba thời dùng Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) với máu người hòa chung với nhau làm hương, ở trước bức tranh thiêu đốt để làm cúng dường. Người chí thành chẳng thoái lùi như vậy sẽ quyết định được thành tựu tối thượng

 

PHÁP HỘ MA PHẦN THỨ NĂM

_Lại nữa, người trì Minh! Người muốn làm Hộ Ma cầu thành tựu. Trước tiên nên chuẩn bị trì tụng Căn Bản Đại Minh của Bản Tôn cho đầy đủ Tiên Hành lúc trước. Sau đó như Nghi chuẩn bị củi với tất cả nhóm vật cần dùng đầy đủ xong. Sau đó, người trì Minh ở ban đêm đem các vật Hộ Ma, một mình vào trong rừng Thi Đà, y theo Pháp cầu thành tựu ấy. Được Tất Địa xong thì sau này tùy theo ý làm tất cả Pháp.

_Lại nữa, người trì Minh ở trước mặt Kim Cương Bồi La Phộc dùng thịt người hòa với rượu, tụng Đại Minh, ngày ngày Hộ Ma 108 biến, đủ sáu tháng thì người trì Minh sẽ được Ma Hạ Tam Mãn Đa (Mahā-samanta)

_Lại nữa, người trì Minh muốn cầu Đại Lực La Nhạ (Mahā-bala-rāja) với người dân kính yêu, nên y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư ngồi ngay thẳng, tưởng thân mình là Bồi La Phộc (Bhairava), tay cầm móc câu với sợi dây. Lại tưởng trong thân này hóa ra Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī) đi đến chỗ của Hành Nhân ở nơi kia, dẫn dắt người ấy đi đến vào trong thân này, lại tưởng Thập Tự Đại Minh màu đỏ hiện trong trái tim của người kia như tướng Đại Trí. Khi người trì Minh làm Pháp này thời cho đến bậc có sức mạnh cực lớn cũng có thể kính yêu, cho đến trọn đời, tất cả tùy theo ý.

_Lại nữa, người trì Minh muốn làm Tức Tai, nên ở trước tượng Bồi La Phộc làm cái lò, ngồi hướng mặt về phương Đông, ở trong lò thiêu đốt củi gỗ Bát La Xá (Pariśa), đem bơ, mật với cỏ Nột Lý Phộc (Nariva) hòa chung với nhau, tụng Đại Minh làm Hộ Ma 108 biến… cho đến quốc thành đều được ngưng dứt tai vạ.

_Lại nữa, người trì Minh muốn làm Pháp Tăng Ích, nên ngồi hướng mặt về phương Đông, quán tưởng Bản Tôn. Được hiện trước mặt xong, liền ở trong lò thiêu đốt củi gỗ Ô Đàm Ma (Udumbara). Đem mè, gạo tẻ trắng, bơ hòa chung với nhau, một ngày ba Thời làm Hộ Ma một ngàn biến thì mau được tăng ích.

_Lại nữa, người trì Minh muốn làm điều phục, dùng chim công, hồ ly, rắn, ngựa đen, trâu, Đẳng Tất Thi Đa (Tapiṣtha) với nhóm vật: tóc trên đầu, lúa đậu, vỏ trấu làm thuốc. Ở bên trong lửa thiêu đốt xác chết, tụng Đại Minh làm Hộ Ma thì mau khiến điều phục. Hoặc lấy củi dư sót khi thiêu đốt xác chết với lấy lửa của nhà Chiên Đà La (Caṇḍāla)… ở bên trong nhà của mình, xưng tên kẻ kia, tụng Đại Minh làm Hộ Ma, thì nội trong 7 ngày cũng được điều phục. Người làm Pháp này đến Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) cũng có thể điều phục.

_Lại nữa người trì Minh vì Thiết Đốt Lỗ (oan gia) nên dùng xương người, phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana), Nga La (Gara), Nại Bà La Noa (Naparaṇa), Thấp Phộc Na La Noa (Śiva-naraṇa) với cây kim gai, tóc trên đầu, móng ngón tay… dùng dầu hòa chung với nhau. sau đó ở trước hầm thiêu đốt xác chết, ngồi hướng mặt về phương Nam, xưng tên, tụng Đại Minh 108 biến thì nội trong 3 ngày, Thiết Đốt Lỗ kia bị trừ diệt. Hoặc ở nơi vắng lặng sâu kín, làm cái lò Tam Giác, tất cả đồng với lúc trước dùng các nhóm vật, làm Hộ Ma 108 biến thì cũng có thể trừ diệt được.

_Lại nữa, người trì Minh muốn Phát Khiển Thiết Đốt Lỗ (oan gia). Nên dùng thịt quạ với phân Lạc Đà dùng rượu hòa chung với nhau. Người trì Minh koa3 thân xõa tóc vào trong rừng Thi Đà, ở trước hâm thiêu đốt xác chết, ngồi hướng mặt về phương Nam. Trước tiên tưởng Phong Luân, lại tưởng trên Phong Luân có Thiết Đốt Lỗ. Được quán hiện trước mặt xong, đem các vật lúc trước, ở trong lửa thiêu đốt xác chết làm Hộ Ma 108 biến thì Thiết Đốt Lỗ kia mau tự đi xa.

_Lại nữa, làm Phát Khiển Thiết Đốt Lỗ. Dùng thịt quạ với gạo, vỏ trấu hòa chung với nhau, thiêu đốt củi Mạn Đà La, đồng làm Hộ Ma thì 7 ngày Thiết Đốt Lỗ kia tự bỏ đi.

Lại dùng thịt quạ, đồng với lúc trước làm Hộ Ma một ngàn biến thì 3 ngày Thiết Đốt Lỗ kia tự bỏ đi.

_Lại nữa, người trì Minh lấy máu với thịt bò, xưng tên tụng Đại Minh, làm Hộ Ma một ngàn biến thì người bị xưng tên mau chóng đi đến chịu hàng phục, thừa sự

Hoặc dùng thịt chó với nước Kim Cương, ở ban đêm làm Hộ Ma 108 biến thì người kia cũng mau đi đến chịu hàng phục với dâng châu báu.

Hoặc dùng thịt ngựa với Phệ Lỗ Tả Nẵng (Virucana) hòa chung với nhau. Ở nơi sâu kín, ban đêm làm Hộ Ma 108 biến cho đến 7 ngày thì được La Nhạ (vua chúa) với tất cả người thảy đều chịu hàng phục.

Hoặc dùng thịt voi với Thâu Ca La (Śukra) hòa chung với nhau. Ở ban đêm làm Hộ Ma thì nội trong 7 ngày, tất cả người chịu hàng phục.

_Lại nữa, người trì Minh dùng thịt với cá và rượu làm Hộ Ma thì tất cả Tất Đát  (Ṣṭrī: thiếu nữ) đều đi đến chịu hàng phục

_Lại nữa, người trì Minh quán tưởng hai người nam nữ có thân màu hồng, xưng tên, tụng Đại Minh, ngối hướng mặt về phương Tây thiêu đốt củi gỗ Khư Nễ La (Khadīra), dùng mè với gại tẻ trắng hòa chung với nước Kim Cương, làm Hộ Ma 7 ngày thì họ tự đi đến chịu hàng phục, gần gũi thừa sự.

_Lại nữa, làm câu triệu. Dùng hạt cải làm tượng kẻ kia, ở trong lửa của cây Khư Nễ La lửa làm Hộ Ma đến 7 ngày thì người được triệu ắt đi đến.

Hoặc dùng năm loại thuốc Cam Lộ hòa với bơ, ở trong lửa của cây Khư Nễ La làm Hộ Ma 108 biến thì người được triệu mau chóng đi đến.

 

QUÁN TƯỞNG THÀNH TỰU PHẦN THỨ SÁU

_Lại nữa, người trì Minh muốn làm Pháp này. Trước tiên tu tập Quán Tưởng khiến cho tinh thục, sau đó làm Pháp

_Lại nữa, người trì Minh muốt trừ diệt Thiết Đốt Lỗ (oan gia), y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư quán tưởng chữ La (捖:RA) được hiện trước mặt rõ ràng xong, liền lại biến thành đám lửa sáng rực của bánh xe lửa (hỏa luân). Ở trên Hỏa Luân tưởng Thiết Đốt Lỗ khỏa thân xõa tóc, tướng gầy ốm yếu đuối. Người trì Minh lại ở trong thân của mình hóa ra Phẫn Nộ Minh Vương tay cầm cây kiếm bén chặt cắt thân của Thiết Đốt Lỗ lấy máu thịt rồi ăn nuốt thì Thiết Đốt Lỗ ấy quyết định bị trừ diệt. Như vậy, làm Pháp Quán Tưởng, tụng Đại Minh đến 7 ngày thì chẳng phải chỉ có Phàm Phu, cho đến Kim Cương Tát Đỏa cũng có thể trừ diệt.

_Lại nữa, người trì Minh trước tiên quán thân của mình như Ma Hứ Sa Mục Kha xong, liền đồng với lúc trước tưởng bánh xe lửa lớn. Ở trên bánh xe lửa tưởng Thiết Đốt Lỗ làm tướng run rẩy sợ hãi. Lại tưởng có La Sát ác ăn Thiết Đốt Lỗ kia. Tiếp theo, tưởng tướng của loài quạ, chồn, chó tranh nhau đi đến ăn nuốt thì Thiết Đốt Lỗ kia thường tự bị trừ diệt.

_Lại nữa, người trì Minh trước tiên quán chữ Bát (BAṂ) được hiện trước mặt xong, liền biến thành Phong Luân nửa vành trăng, tưởng Thiết Đốt Lỗ ở trên Phong Luân khỏa thân xõa tóc, tướng gầy ốm suy nhược. Người trì Minh tưởng thân mình như Ma Hứ Sa Mục Khư, cũng ở ngay trên Phong Luân. Tiếp theo tưởng Phong Luân biến thành con Lạc Đà, tưởng tướng Thiết Đốt Lỗ cỡi con Lạc Đà đi về phương Nam. Lại tưởng có vua Diệm Ma xõa tóc, tay cầm cây gậy báu theo phía sau đâm đánh. Như vậy Quán Tưởng nếu trải qua 7 ngày thì chẳng phải chỉ có riêng Phàm Phu, cho đến Thánh Hiền cũng có thể Phát Khiển được

_Lại nữa, người trì Minh y theo Pháp Ma Hứ Sa Mục Khư ngồi ngay thẳng, tưởng Thiết Đốt Lỗ (Oan gia) hoặc cõi chim kên kên, hoặc cỡi quạ. Lại tưởng Diệm Ma Vương tay phải cầm cây gậy, tay trái nắm tóc ném về phương Nam. Làm tưởng như vậy trải qua 7 ngày thì phát khiển tất cả, không có ai chẳng đi.

_Lại nữa, người trì Minh vì trừ giải đại độc của nọc rắn. Tức trước tiên quán tưởng trái tim của mình thành hoa sen trắng tám cánh, bên trên tưởng có chữ của âm thứ ba, trở lại biến thành thân của mình, màu trắng. Lại tưởng một chữ hiện ở trên đỉnh đầu, từ một chữ tuôn ra Cam Lộ rưới rót lên người bị nọc độc. Lại tưởng hoa sen tám cánh, ở trong tám cánh hiện 8 vị Đại Long Vương, ở trong mắt Rồng lại tuôn ra Cam Lộ rưới rót lên thân người bị nọc rắn. Khi làm Pháp này thời, cho đến Đại Độc tràn đầy cả ba cõi cũng có thể trừ sạch. Người trì Minh nếu làm Pháp này, cho đến tự mình ăn đại độc, cũng không có chỗ gây hại được.

Bấy giờ, Kim Cương Bồi La Phộc nói mọi loại Pháp Nghi Quỹ này xong, lại bảo Chúng rằng: “Trước tiên đừng vi phạm Giới của Ta, nếu người vi phạm thì hiện đời bị tai họa, sau này chịu vô lượng quả báo trong Địa Ngục”

Bồi La Phộc (Bhairava) nói lời này xong, lễ Đức Phật rồi lui ra

 

PHẬT NÓI KINH DIỆU CÁT TƯỜNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO

KIM CƯƠNG BỒI LA PHỘC LUÂN

QUÁN TƯỞNG THÀNH TỰU NGHI QUỸ

_Hết_

25/05/2015