Lục Độ Ba La Mật Ấn

_ Tiếp theo, kết Đàn Ba La Mật Bồ Tát Ấn: Ngửa lòng bàn tay phải co độ Nhẫn (Ngón giữa phải) cùng vịn Thiền độ (ngón cái phải) các ngón khác đều duỗi thẳng.

Liền tụng Chân Ngôn là :

“Án, bà nga phộc để na nẵng địa bả đế, vĩ sa lật-nhạ, bố la đà dã ná, sa-phộc hạ”

Do kết Ấn, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp keo kiệt trong vô lượng Kiếp, đắc được Phước của ba loại Thí là: Tư Sinh Thí, Vô Úy Thí, Pháp Thí tức viên mãn Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā). Đời này được giàu có, đầy đủ tư duyên, Tâm được tự tại, thọ mệnh lâu dài.

_ Tiếp theo, kết Giới Ba La Mật Ấn: Hai tay cài chéo nhau bên trong, dựng thẳng Thiền Trí (2 ngón cái)

Tụng Chân Ngôn là:

“Án, thi la, đà lị nê, bà nga phộc để, hồng, hác”

Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp phá Giới trong vô lượng Kiếp, được Công Đức của 3 loại Giới là: Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiêu Ích Hữu Tình Giới tức viên mãn Giới Ba La Mật (Śīlapāramitā) thường dùng Giới Phẩm trang nghiêm nghiệp thân khẩu ý. Hết thảy việc vi phạm bốn Trọng Cấm (4 loại Cấm Giới rất nghiêm trọng của Tỳ Khưu), Bật Sô Ni (Bhikṣunī) phạm Tha Thắng Tội (Ba La Di: tội nặng của Tỳ Khưu) thảy đều thanh tĩnh, ngày sau được tùy nguyện vãng sinh

_ Tiếp theo, kết Nhẫn Nhục Ba La Mật Bồ Tát Ấn: Dựa theo Giới Ba La Mật Ấn, đem Tiến Lực (2 ngón trỏ) hợp nhau như cây kim, kèm đứng Thiền Trí (2 ngón cái).

Liền tụng Chân Ngôn là :

“Án, bà nga phộc để, khất-sạn để, đà lý nê, hồng, phát tra”

Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp giận ghét trong vô lượng Kiếp, đắc được Công Đức của 3 loại Nhẫn là: Hại Oán Nại Nhẫn, An Thọ Khổ Nhẫn, Đế Sát Pháp Nhẫn, tức viên mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣāntipāramitā). Nghi dung đoan nghiêm khiến người ưa nhìn, chẳng khởi ganh ghét, thảy đều gần gũi phụ giúp, Thắng Giải (Adhimokṣa) thâm sâu, tùy theo niệm biến hóa.

_ Tiếp theo, kết Tinh Tiến Ba La Mật Ấn: Dựa theo Nhẫn Ba La Mật Ấn, mở bẻ Tiến Lực (2 ngón trỏ) liền thành.

Chân Ngôn là :

“Án, vĩ lý-dã, ca lý, hồng, vĩ lý-nang, sa phộc hạ”

Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp giải đãi, lười biếng, đắc được ba loại Tinh Tiến là: Bị Giáp Tinh Tiến, Nhiếp Thiện Pháp Tinh Tiến, Lợi Lạc Hữu Tình Tinh Tiến, tức viên mãn Tinh Tiến Ba La Mật (Vīrya-pāramitā) thân tâm an vui, xa lìa các bệnh tật, không có khổ não, đều được thành biện (thành công) Nguyện Phước Trí của Xuất Thế Gian (Lokottara)

_ Tiếp theo, kết Thiền Ba La Mật Bồ Tát Ấn: Liền ngồi Kiết Già, ngửa lòng bàn tay trái đặt trên Già Phu, ngửa lòng bàn tay phải đặt trên tay trái, để hai độ Thiền Trí (2 ngón cái) cùng chạm móng nhau.

Liền tụng Chân Ngôn là:

“Án, bà nga phộc để (1) tát phộc bá bả ha lý nê (2) ma ha nại để-duệ (3) hồng, hồng, hồng, hồng (4) phát tra”

Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp tán loạn trong vô lượng Kiếp, đắc được ba loại Tĩnh Lự là: An Trụ Tĩnh Lự, Dẫn Phát Tĩnh Lự, Biện Sự Tĩnh Lự, tức viên mãn Thiền Ba La Mật (Dhyāna-pāramitā). Thân Tâm nhẹ nhàng lanh lợi, mau được thành tựu Thần Thông đã tu, các Ma chẳng dám xâm nhiễu, tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.

_ Tiếp theo, kết Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát Ấn: Tay trái duỗi năm ngón bằng phẳng, ngửa đặt dưới trái tim, đem tay phải che ở trên tay trái.

Liền tụng Chân Ngôn là:

“Án, địa, thất-lý, du-lỗ đa, vĩ nhạ duệ, sa-phộc hạ”

Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp ngu si trong vô lượng Kiếp, đắc được ba loại Tuệ là: Nhân Không Vô Phân Biệt Tuệ, Pháp Không Vô Phân Biệt Tuệ, Câu Không Vô Phân Biệt Tuệ, tức viên mãn Bát Nhã Ba La Mật (Prajña-pāramitā), đắc được thông minh Trí Tuệ, ngộ giải (lĩnh ngộ hiểu rõ) Pháp Thế Gian (Loka) và Xuất Thế Gian (Lokottara), thông đạt rộng rãi nghĩa lý thâm sâu của năm Minh [Pañca-vidyā-sthānāni: gồm có Thanh Minh (Śabda-vidyā), Công Xảo Minh (Śilpa-karma-vidyā), Y Phương Minh (Cikitsā-vidyā), Nhân Minh (Hetuvidyā), Nội Minh (Adhyātma-vidyā)]