BÁT NHÃ ĐĂNG LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Kệ bản)
Bồ tát Phân Biệt Minh giải thích
Hán dịch: Đời Đường, Đại sư Ba La Phả Mật Đa La
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Phẩm thứ 3: QUÁN VỀ SÁU CĂN

Lại nữa, thành lập phẩm này, về tướng như thế nào? Vì ngăn trừ chấp về sinh khởi, khiến người nhận biết về nghĩa không tự tánh của sáu nhập bên trong nên nói phẩm này. Lại, ngăn bỏ chấp về đi, nhằm khiến thông tỏ nghĩa không của các nhập, nên phẩm này sinh tiếp theo. Đầu tiên là phân biệt.

Ngoại nhân nói: Có nội nhập sinh khởi, trong đệ nhất nghĩa nên thọ nhận như thế. Vì sao? Vì cảnh giới định rõ. Khởi ấy nếu không thì cảnh giới định rõ kia tức không thể có. Như Thạch nữ có con. Do đấy nên biết, có nội nhập sinh khởi, vì cảnh kia đã định rõ. Như kệ nói:

Mắt tai cùng mũi lưỡi

Thân ý là sáu căn

Sáu trần như sắc kia

Số cảnh giới như thế.

Giải thích: Do nghĩa này nên nhân đã nêu bày là thành. Nghĩa các nhập sinh khởi được lập. Tiếp theo là phân biệt.

Ngoại nhân quyết định nêu: Có đi như thế. Vì sao? Vì do quả của tạo tác. Như thấy sắc v.v… Luận giả nói: Ở đây có hai thứ phân biệt, nay theo thứ lớp ngăn trừ. Các căn như mắt kia mỗi mỗi thứ đều có tăng thượng, tụ tập có tạo tác, có thể giữ lấy sắc v.v… Vì vậy gọi là căn. Ở trong thế đế, ngoài căn cũng có sắc v.v… có thể đạt được. Do tự thể tạo tác có thể hiển bày chỉ rõ. Nghĩa là thấy nên gọi là mắt, cho đến nhận biết nên gọi là ý.

Lại nữa, các căn này chỉ rõ là có thể thấy, có thể nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, nhận biết các cảnh giới. Nghĩa của cảnh giới là thế nào? Tức là căn đối với trần, có lực có thể giữ lấy nên gọi là cảnh giới. Có cảnh cùng cảnh, trong thế đế là có. Trong đệ nhất nghĩa thì căn trần nhất định có, chấp ấy là không đúng, do trái với nghĩa. Làm thế nào để khai thị khiến kẻ kia hiểu rõ? Như quán nhãn căn, kệ viết:

Như thế nhãn căn kia

Không thể thấy tự Thể

Tự Thể đã không thấy

Làm sao được thấy tha?

Giải thích: Do đâu không thấy? Vì nhãn căn như thế, trong đệ nhất nghĩa, có thể giữ lấy là không thành. Vì sao? Như kệ nói là không thấy tự thể. Lại có ngăn ngại. Cũng là do sắc tạo, ví như tai v.v… Lại trong đệ nhất nghĩa, mắt không thấy sắc. Vì sao? Vì do pháp sắc kia từ nhân khởi, ví như mũi lưỡi. Lại thuộc về sắc ấm. Ví như lưỡi v.v… Như vậy, trong đệ nhất nghĩa, sắc không phải là cảnh của mắt. Vì sao? Vì do tích tụ. Như tự thể của mắt. Lại, trong đệ nhất nghĩa, sắc không phải là cảnh của mắt. Vì sao? Vì do có ngăn ngại. Cũng là do sắc tạo. Ví như tai v.v… Lại trong đệ nhất nghĩa, sắc chẳng phải là cảnh của mắt. Vì sao? Vì từ nhân khởi. Ví như mũi v.v… Lại thuộc về sắc ấm, ví như lưỡi v.v… Lại có người nói: Mắt không thấy, nghĩa là không thấy tự thể. Do sắc có thể thấy, thế nên mắt có thể thấy sắc. Luận giả nói: Như ông đã nêu, mắt không thấy, là giúp thành xuất phát nhân cùng sức của thí dụ, há có thể luận phá nghĩa đã lập của Tôi chăng?

Lại nữa, người của A Tỳ Đàm nói: Nếu không lựa chọn phân biệt, như vậy nói cho là mắt không thấy sắc, thì điều ấy thành nghĩa của Tôi. Vì sao? Vì được một môn. Do trong nghĩa Tôi lập, mắt kia không có phần chẳng thấy sắc. Nếu có phần mắt không thấy sắc, thì nghĩa A-hàm đã thọ nhận của ông bị phá, như Luận Câu Xá của Tôi. Kệ nêu:

Có phần mắt thấy sắc

Chẳng thức chủ thể dựa.

Trong A Tỳ Đàm, nói như thế này: Há chẳng phải là nghĩa của A-hàm đã thọ nhận bị phá chăng?

Luận giả nói: Như ông lập nghĩa, đây là có phần mắt nhằm khiến thấy sắc, nghĩa ấy là không đúng. Vì sao? Vì có lỗi không hai. Nghĩa là không phải thành rồi lại thành, cùng nghĩa không phải là chỗ mong muốn bị phá. Vì sao không phá? Như kệ nói:

Mắt không thấy sắc trần

Ý không biết các pháp

Đây gọi thật tối thượng

Người đời không thể vượt.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa không muốn khiến mắt kia thấy sắc, như trước đã luận phá rộng. Nghĩa ấy được thành. Lại trong đệ nhất nghĩa mắt kia có phần không thể thấy sắc. Vì sao? Vì do nhãn căn. Như mắt không phần. Lại, trong đệ nhất nghĩa, mắt kia có phần không thể thấy sắc. Vì sao? Vì do sắc căn. Ví như tai v.v… Lại cũng không phá bỏ sự hiểu biết của thế gian. Vì sao? Vì nghĩa được lập riêng. Tức là trong đệ nhất nghĩa không tạo ra lỗi lầm.

Lại nữa, Ca-diếp-di-la trong Tỳ Bà Sa lập nghĩa như vầy: Nghĩa là mắt kia thấy các sắc, do chủ thể tạo tác thấy biết nghiệp.

Luận giả nói: Ông nêu ra nhân, lập nghĩa một phần, nghiệm xét là vô thể, nên những điều đã nêu bị ngăn trừ, nghĩa ấy không thành.

Lại nữa, nếu có tác giả, tức cùng với sát-na lập, nghĩa tức trái nhau. Lại, cùng với không sát-na là khác, nên những điều ấy đều không đúng. Vì vậy, nghĩa đã chấp của Ca-diếp-di-la là không tương ưng.

Lại như Sư của Kinh Bộ nói: Các hành không tạo tác, mắt không thể thấy. Khác cũng không thấy. Nhưng mắt kia, do sắc làm duyên nên nhãn thức được sinh, theo như trong kinh, nói như thế này: Ông nói mắt không thấy, đó là thành rồi lại thành lỗi. Luận giả cho: Trước đã ngăn trừ về sinh khởi, nên nhãn thức không thể đạt được, không thành rồi lại thành lỗi. Lại nghĩa đã thọ nhận cũng không phá. Tức là lãnh nhận nghĩa của kinh như vậy, là thuận theo thế đế. Trong đệ nhất nghĩa nghiệm xét tức vô thể, nên đã ngăn trừ hai sự thấy của mắt, sắc có thể thấy, cho là chúng có sai biệt, nghĩa như thế đều không đúng. Như vậy, muốn khiến người học sinh các giác ý, chỉ tạo nói phần ít, như kệ trước đã nói. Nhãn căn kia, như thế là không thể thấy tự thể. Nếu không thấy tự thể, làm sao có thể thấy tha? Do trong đệ nhất nghĩa, mắt không thấy sắc. Vì sao? Vì không thấy tự thể. Ví như tai v.v… Hoặc có kẻ nói: Mắt không đi đến cảnh, nhưng có thể giữ lấy sắc. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn căn kia có thể đạt được. Ví như người sứ thấy sự việc, gọi là vua thấy. Luận giả nêu: Trong đệ nhất nghĩa, mắt không đi đến cảnh, có thể giữ lấy sắc trần, không có nghĩa như vậy. Vì sao? Vì mắt không thể giữ lấy tự thể. Ví như tai v.v… Như vậy, trong đệ nhất nghĩa, đối tượng được giữ lấy là sắc trần, không phải chúng không đến nơi cảnh giới của sắc căn. Vì sao? Vì do sắc được tạo. Ví như hương v.v… Như thế là có ngăn ngại nên từ nhân khởi, thuộc về sắc ấm, lại do tích tụ. Các nhân như thế đều ngăn trừ mắt khiến không đến cảnh. Sắc chẳng phải là đối tượng được giữ lấy, nên lập nghĩa nêu dụ, như trước đã nói rộng. Hai môn hợp chấp, phải nên nghiệm xét nhận biết. Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, mắt chẳng phải là không đi đến cảnh giới. Vì sao? Vì cảnh giới hiện tại. Ví như mũi v.v… Hoặc có người nói: Mắt không đi đến cảnh. Vì sao? Vì nhận lấy sắc có gián đoạn. Ví như ý v.v… Lại không công dụng, thời tiết có sai biệt khiến có thể giữ lấy sắc. Lại giữ lấy quá lượng. Về lập nghĩa, thí dụ, như trước nên biết.

Luận giả nói: Nêu bày ấy là không đúng. Ông nói không đi đến cảnh, tức là giữ lấy sắc có gián đoạn. Giữ lấy sắc có gián đoạn tức là lập nghĩa chỉ một phần, lại không có nghĩa riêng. Nói thế là không đúng. Lại, thời không có sai biệt, nghĩa giữ lấy bị hoại. Giả như nhân thật thành, thì nghiệm xét là vô thể. Trong đệ nhất nghĩa kia ý cũng không đi đến, nhưng có thể giữ lấy. Chấp ấy là không thành, do trái với nghĩa. Lại nữa, người của Tăng khư nói: Ông cho mắt không phải là không đi đến cảnh để giữ lấy, thì điều ấy trở thành chỗ thành của Tôi. Vì sao? Vì Tôi muốn khiến mắt đi đến cảnh để giữ lấy. Luận giả nói: Không đi đến để giữ lấy, vì muốn khiến tin biết pháp của mắt là không. Pháp của mắt đã không, há lại thành lập đi đến cảnh để giữ lấy chăng? Ông ở nơi phi xứ vọng sinh hoan hỷ. Lại, mắt đi đến cảnh để giữ lấy, vì sao không đúng? Là do căn. Ví như ý. Cũng không giữ lấy các căn như mũi v.v… Chẳng phải hoàn toàn là lỗi. Vì sao không chẳng phải hoàn toàn lỗi? Vì tỷ căn kia cũng như vậy, như phần sau sẽ nói. Lại nữa, mắt đi đến cảnh, đây có nghĩa gì? Là nên nương dựa nơi cảnh giới của đối tượng được giữ lấy, ý là như thế chăng? Nghĩa ấy là không đúng. Vì sao? Vì nhãn thức kia nương dựa nơi thật không ngoài việc đi. Vì sao? Vì do thức, các thức như tỷ thức. Trong đệ nhất nghĩa, nhãn thức không thể giữ lấy cảnh giới kia. Vì sao? Vì do nhân là có. Ví như âm thanh v.v… Ngoại nhân nói: Ông dựa nơi hai môn, lại cùng hợp phá, dựa nơi đây ngăn trừ kia, cả hai đều chẳng thành. Luận giả nói: Cả hai đều vô thể, Tôi không giữ lấy. Do không giữ lấy, nên nghĩa được mong muốn đã thành. Lại như người của Tăng khư nói: Ánh sáng của mắt đi đến cảnh nên có thể giữ lấy sắc. Ý nêu như thế thì điều ấy cũng không đúng. Vì ánh sáng của nhãn căn kia, ở trong thế đế cũng không thể có. Vì sao? Vì là nhân của sắc, thức. Ví như sắc kia. Lại như người của Tăng khư nói: Nhãn căn có ánh sáng, do nhãn nhãn căn. Ví như mắt của loài dơi, mèo, chồn v.v… Luận giả nói: Sắc của nhãn căn là không thể thấy. Nếu như mắt ấy có nương dựa, thật có ánh sáng, thì thí dụ chẳng thành.

Lại có kẻ nói: Như trước đã nêu, nhãn căn kia như thế là không thể thấy tự thể. Đây là có nghĩa gì? Các pháp nếu có tự thể có thể thấy, thì lúc chúng hòa hợp, kẻ khác cũng có thể thấy. Ví như hoa, hương. Do nghĩa như vậy nên mắt không tự thấy, cũng không thấy tha. Như Bồ-tát Đề-bà nơi Bách Luận có kệ nói:

Tất cả các pháp kia

Nếu trước có tự thể

Như vậy có nhãn căn

Vì sao chẳng tự thấy?

Luận giả nói: Thấy, có nghĩa gì? Nghĩa là sắc có thể đạt được. Sắc kia có thể đạt được, nếu như mắt không có, sắc cũng không, thành rồi lại trở thành lỗi. Như kệ nói:

Thức không ở mắt, sắc

Không trụ trung gian hai

Chẳng có cũng chẳng không

Thức kia trụ xứ nào?

Lại nữa, nếu nói trong nhãn căn kia không thấy chủng tử, thế nên không thấy: thì thí dụ về hoa Tu-mạn-na là không đúng. Vì sao không đúng? Vì nhân duyên của hoa kia hòa hợp tự tại nên có hương sinh khởi. Như hoa Câu-tô-ma hòa hợp với mè, dầu tức có hương thơm. Không người lập sắc, có thấy tạo nghĩa, sự ngăn trừ ấy không thành. Lại, nếu cho tự không thấy nên cũng không thấy tha: thì thí dụ về hoa, lửa, cả hai đều không có lực, do hoa, lửa cả tự tha không giữ lấy. Điều ấy là không tương ưng. Như vậy, nghĩa mắt thấy là không thành, nên người kia phát khởi cùng đi cũng đều không thành, do thí dụ là vô thể, cũng trái với nghĩa của nhân.

Ngoại nhân nói: Ông nói là mắt không thấy sắc, do không thấy tự thể, nghĩa này đã làm rõ. Nếu đối với tự thể không có sức thì đối với tha cũng như vậy. Nghĩa như thế chẳng phải là toàn bộ. Như tự thể của lửa, không có sức thiêu đốt với chính nó, nhưng đối với tha thì có thể. Mắt cũng như vậy. Luận giả nói kệ:

Lửa dụ tức không thể

Thành nghĩa mắt thấy kia.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, sự thiêu đốt không thành. Ở trong thế đế, lửa không phải là tánh thấy. Lại, tự thể của lửa kia, ở trong thế đế, nghĩa thiêu đốt không thành, vì sao gọi là thiêu đốt? Nghĩa là củi lửa biến đổi khác. Thế nên nhận biết tự thể của lửa chẳng phải là thiêu đốt. Lại nữa, dụ về lửa không thành. Nghĩa của mắt thấy, là mắt kia thấy dụ về lửa, như trước đã nêu. Thế nào là đã nêu? Kệ nói:

Đi chưa đi lúc đi

Đã nói chung ngăn dứt.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, đã đi chưa đi lúc đi, là không đi, như trước đã nêu bày. Như thế, trong đệ nhất nghĩa, đã thiêu đốt, chưa thiêu đốt, lúc thiêu đốt, là không thiêu đốt. Vì sao? Vì như lúc thiêu đốt. Đã thiêu đốt, chưa thiêu đốt, ví như lúc thiêu đốt là đã thiêu đốt, chưa thiêu đốt. Vật kia lúc thiêu đốt có hai lỗi. Vật kia đã thiêu đốt, như lửa đã thiêu đốt xong. Vật kia chưa thiêu đốt, là vốn không thiêu đốt. Như vậy, đã thấy, chưa thấy, lúc thấy là không thấy. Vì sao? Vì đã thấy, chưa thấy, lúc thấy. Ví như đã thấy chưa thấy lúc thấy, tùy theo thứ lớp ấy phải nên nghiệm xét luận phá. Có người nói: Mắt có thấy do tạo tác. Vì sao? Vì trong các Bộ Luận đều nói như thế này:

Ví như mắt thấy các sắc.

Luận giả nêu: Mắt này thấy, là ở trong thế đế, theo phương tiện mà nói, không phải là đệ nhất nghĩa. Làm sao nhận biết? Nay trong Luận này ngăn trừ chấp về mắt thấy, cũng ngăn bỏ sinh khởi, vì mắt kia là không. Như kệ nói:

Mắt nếu lúc chưa thấy

Không được nói là thấy

Nói mắt có thể thấy

Nghĩa ấy tức không đúng.

Giải thích: Nghĩa thấy không đúng, ý của kệ là như thế. Do nghĩa ấy nên như kệ nêu:

Thấy tức không thấy kia

Phi thấy cũng không thấy.

Giải thích: Chủ thể thấy là không, như đất đá v.v…, ý của kệ là như thế. Hai thứ như vậy, có thấy do tạo tác, nghĩa này không đúng. Thế nên kệ nêu: Thấy tức không thấy kia. Phi thấy cũng không thấy. Hai thứ cùng ngăn trừ. Ví như hoặc có chẳng phải có, duyên đều không dùng. Như thế, nếu có chẳng phải có, nhân cũng đối chiếu ngăn bỏ.

Lại nữa, Tăng khư, Tỳ-thế-sư cùng nói: Do mắt này thấy vật dụng được tạo tác, nên mắt hiện có kia được gọi là thấy. Do người thấy ấy là tự mắt thấy. Như cây đã bị chặt, người chặt là chủ thể chặt, chẳng phải rìu búa là chủ thể chặt. Thế nên chẳng phải là mắt thấy. Đây tức là thành chỗ thành của Tôi. Nghĩa là người kia hành tác, có những vật dụng tạo tác. Do dụng cụ tạo tác, ví như búa rìu, tất có người chặt, đốn. Luận giả nói: Người kia đã phân biệt sai lạc. Nghĩa là có người thấy. Chấp ấy là không đúng. Như kệ nói:

Nếu đã ngăn nơi thấy

Nên biết ngăn người thấy.

Giải thích: Như mắt không tự thấy, người kia cũng lại như thế. Tự thể của trượng phu thấy trượng phu, nghĩa ấy là không đúng, do cùng với sự tạo tác của thế gian là trái nhau, như dao không tự cắt. Làm sao nghiệm xét nhận biết? Nghĩa là trong đệ nhất nghĩa, trượng phu kia không có nghĩa là chủ thể thấy. Vì sao? Vì không thấy tự thể. Ví như tai v.v… Cũng chẳng phải là nghĩa của nhân không thành. Trong kinh kia nói: Ngã trở lại thấy ngã. Chỉ là ở trên tâm nêu đặt tên ngã, là theo thế đế nên nói, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Vật như vậy là cảnh của đối tượng nhận thức, lường xét. Như âm thanh cùng tai. Các nhân ấy v.v… cùng với thí dụ kia phải nên nói rộng.

Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, sắc chẳng phải là do ngã thấy biết. Vì sao? Vì là vật, như tự thể của ngã không thể tự thấy. Như vậy, cảnh của đối tượng nhận thức phải nên nói rộng.

Ngoại nhân nói: Pháp Phật là vô ngã. Ông nói như tự thể của ngã không thể tự thấy, là cùng với giáo pháp trái nhau.

Luận giả nêu bày: Ở trong thế đế giả nêu dụ về ngã, không trái với giáo pháp. Trong đệ nhất nghĩa, rìu búa cùng thí dụ đều là vô thể, chẳng phải thành rồi lại thành. Có kẻ nói: Ông nói là người thấy không thấy, lời ấy là tự trái nhau. Vì sao? Vì nếu nói người thấy, làm sao nói là không thấy? Nếu nói không thấy, vì sao gọi là người thấy? Đây là lỗi của lập nghĩa.

Luận giả nói: Pháp duyên khởi không khởi, như trước đã đáp, không lại nêu bày nữa. Lại, như ông nói người thấy, ấy là thấy tự thể chăng, hay là không thấy? Nếu là thấy tự thể, như người của Tăng khư nói tư duy là tự thể của trượng phu. Nếu người thấy ấy là thấy tự thể, thì tự thể chẳng phải là tạo lìa. Nhãn căn kia cũng nên được thấy. Lại nữa, người chặt cây lìa búa rìu, tức không thể chặt. Trượng phu lìa mắt, há có thể thấy chăng? Ngã là người thấy, kẻ kia là người chặt cây, là trong thế đế mà nói, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Vì phân biệt này nên kệ nói:

Lìa mắt, không lìa mắt

Người thấy không thể được.

Giải thích: Các vật dụng như mắt v.v… trước lúc chưa có cùng lúc xả bỏ, tức là không mắt. Nếu người không mắt thì chủ thể thấy, đối tượng được thấy là không. Lìa chủ thể, đối tượng thấy, chấp có kẻ thấy, điều ấy tức không đúng. Thấy không có tự thể. Người thấy cũng không có. Ý nghĩa là như thế.

Lại nữa, nếu nói như tự tánh của lửa, người thấy cũng vậy, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì nếu lúc không có củi, lửa là vô thể. Lại như người của Tăng khư nói: Nếu chẳng lìa mắt, sắc ấy có thể có được, nghiệm xét biết là có người thấy kia là chủ thể thấy. Chấp này là không đúng. Vì sao? Vì không có người thấy, nên sắc kia có thể có được, tức là mắt sắc đều không. Ánh sáng cùng do tác ý, những thứ ấy là có, nên có sắc có thể đạt được. Lại, các duyên này tụ tập đầy đủ, nói Điều-đạt kia gọi là người thấy, là không. Như Tăng khư đã chấp, trượng phu gọi là người thấy. Vì sao? Vì không có kẻ mù có thể thấy sắc. Mắt kia có thể thấy nói là người thấy, như đèn không tư duy, cũng là nhân của ánh sáng. Mắt thấy cũng như vậy. Do nghĩa này, nên ở trong thế đế cũng không có người thấy.

Lại như Tỳ-thế-sư nói: Người thấy là vô thể, do bốn thứ hòa hợp với sắc nên thức khởi, gọi là người thấy, thấy.

Luận giả nói: Người kia nêu như vậy là đồng với lỗi ở trước, cho bốn thứ hòa hợp là riêng có kẻ thấy. Thế gian đều không nhận biết, nhưng nói có người thấy, nghĩa này là không đúng. Do đấy kệ nói: Lìa mắt không người thấy, Vì không tự thể kia. Do lìa mắt thấy, tức không thấy, có thể gọi chung là người thấy, đây là tùy theo ý của ông mà nói.

Lại nữa, Tỳ-thế-sư đã lập: Trong đệ nhất nghĩa, người thấy là thấy sắc. Nghĩa này là không dừng. Vì sao? Vì khác với mắt, như bình chén v.v… Do hai môn trước, nên người thấy không thành. Lại nữa, phân biệt về trượng phu cho là người thấy, là không tự thể. Như kệ nói:

Lìa mắt không lìa mắt

Người thấy không thể được.

Người thấy kia, tự thể có mắt không mắt, là không thể thấy. Nếu cho người thấy có mắt nên có thể thấy, điều ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì do cho mắt là có Thể, nên thấy sắc được thành, như lửa có thể thiêu đốt, mắt thấy cũng như vậy. Theo trong thế đế mà nói, nên nhận biết như vậy. Nếu lìa mắt kia riêng có kẻ thấy, thì người mù không có mắt sáng cũng nên có thể thấy. Nghĩa này không đúng.

Lại nữa, Tỳ-thế-sư nói: Người thấy hợp tạo, có thể thấy nơi sắc. Như thế nên biết, nghiệp tạo đủ kia là có. Ở đây nếu không tạo tác thì vật dụng của nghiệp kia tức không. Ví như hư không. Do có vật dụng của mắt, nên thấy sắc là nghiệp tức biết có người thấy, cùng sự tạo tác của thấy kia.

Luận giả nêu bày: Trong đệ nhất nghĩa, nơi tất cả thời, mắt đều là không có, nhưng lập người thấy tức là không đúng. Như kệ nói:

Người thấy là không có

Hai năng, sở đều không.

Giải thích: Người thấy là vô thể, tức không có đối tượng giữ lấy, nhưng nói mắt là vật dụng kia, do mắt ấy là người thấy, thì nghĩa này không đúng. Vì thế ông nói nghiệp tạo đủ là có, thì nhân ấy chẳng thành, cũng trái với nghĩa, nên lỗi lầm như vậy.

Lại nữa, người của Tự Thừa nói: Nhân duyên của các hành, vì y tha nên là không. Mắt cùng ngã kia đều không thể thấy, nghĩa này nên như thế. Nhưng nói chủ thể thấy, đối tượng thấy đều là vô thể, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì quả như thức kia v.v… do bốn thứ nên có. Ở đây nếu không thì thức xúc thọ ái kia không gọi là quả. Như người mù bẩm sinh.

Luận giả nói: Đối tượng thấy cùng thấy, nghĩa này không thành, như trước đã luận phá. Nay gọi là, như kệ nói:

Thấy, đối tượng thấy: không

Bốn thứ như thức, không.

Giải thích: Thức v.v… là không, nên thủ cũng chẳng thành. Nghĩa của kệ là như thế. Thâu nhận là nghĩa của thủ. Thủ ấy có bao nhiêu thứ? Nghĩa là dục thủ, giới thủ, ngã ngữ thủ, kiến thủ. Thủ kia duyên nơi hữu cùng sinh lão tử. Lỗi lầm như thế luôn theo đuổi ông. Ngoại nhân nơi phần đầu của phẩm đã nêu dẫn thí dụ, thành lập mắt thấy, như trước đã ngăn trừ. Tai, âm thanh kia, so đồng với luận phá ở trước. Như kệ nói:

Tai mũi lưỡi thân ý

Người nghe, đối tượng nghe

Nên biết nghĩa như thế

Đều đồng ngăn mắt thấy.

Lại nữa, Ngoại nhân nơi đầu phẩm nói có là đi, do tạo quả, thì cũng không đúng. Như kệ trước nói. Thế nên đi là không tánh, người đi cũng lại như vậy. Lúc đi cùng các pháp, tất cả là không thật có. Do nghĩa ấy nên Ngoại nhân phân biệt có nhập kia khởi cùng với nghĩa đi, ở đây đều không thành, như trước đã nói về lỗi. Vì thể của nhập v.v… là không, khiến sinh tin hiểu. Nghĩa của phẩm là như thế, do đấy được thành. Như nơi Kinh Vô Ngôn Thuyết, kệ nói:

Địa giới trong ngoài không hai nghĩa

Trí tuệ Như Lai đều hiểu rõ

Kia không hai tướng cùng bất nhị

Một tướng: Vô tướng, biết như thế.

Lại như Kinh Kim Quang Nữ nói: Văn-thù-sư-lợi nói với Đồng nữ kia: Nên quán xét các giới. Đồng nữ đáp: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như vào thời kiếp thiêu đốt, ba cõi cũng như thế. Lại nói kệ:

Mắt chẳng thể thấy sắc

Ý không biết các pháp

Đây là đế vô thượng

Thế gian không thể hiểu.

Lại như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nêu: Hết thảy pháp kia là không nhận biết, không thấy rõ. Sư thuyết giảng pháp ấy cũng không thể đạt được. Không thể dùng tâm để phân biệt. Không thể dùng ý để có thể nhận biết.

Lại như Kinh Phật Mẫu nói: Này A Tỳ! Mắt không thể thấy sắc, cho đến ý không nhận biết pháp. Như thế là Bồ-đề lìa, nên mắt sắc lìa, cho đến Bồ-đề lìa, nên ý pháp lìa.

Lại như Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Cực Dũng Mãnh: Này thiện nam! Sắc không là cảnh giới của sắc. Thọ tưởng hành thức không là cảnh giới của thọ tưởng hành thức. Do cảnh giới là không. Này Cực Dũng Mãnh! Sắc không nhận biết sắc. Sắc không thấy sắc. Nếu sắc không biết không thấy, đó là Bát-nhã Ba-la-mật. Cho đến thọ tưởng hành thức không biết, không thấy cũng lại như vậy.

Các Kinh như thế, ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Sáu Căn.

 

Phẩm thứ 4: QUÁN VỀ NĂM ẤM

Lại nữa, nhằm khiến nhận biết về nghĩa của ấm là vô tánh nên có phẩm này.

Có người nói: Trong đệ nhất nghĩa có các nhập. Vì sao? Vì do ấm gồm thâu. Nếu pháp kia không có thì sắc nhập v.v… ấy tức không thuộc về ấm, như hoa nơi hư không. Do có các nhập thuộc về ấm kia, nên như mười thứ sắc nhập: một thuộc về sắc ấm. Pháp nhập thuộc về ba ấm là thọ tưởng hành, cùng một phần thuộc về sắc ấm. Ý nhập thuộc về thức ấm. Do nhân ấy nên trong đệ nhất nghĩa có các nhập.

Luận giả nêu rõ: Về sắc ấm lược nói có hai thứ, là bốn đại cùng sắc do bốn đại tạo. Hoặc ba đời cùng tất cả sai biệt, nói chung là sắc ấm. Mắt v.v… kia thuộc về ấm. Ngoại nhân muốn vì nhân, sắc ấm thô dễ hiểu, nên phân biệt nói trước. Như kệ nêu:

Nếu lìa nơi nhân sắc

Sắc tức không thể đạt.

Giải thích: Những gì là nhân của sắc kia? Tức là bốn thứ đại như đất v.v… Trong đệ nhất nghĩa, nếu lìa những thứ ấy, thì sắc không thể đạt được. Nhưng ở thế đế, dựa nơi nhân là bốn đại, giả thiết lập sắc. Nơi đệ nhất nghĩa, nghiệm xét sắc là không thật. Nhân của tự không thọ nhận, nên sự nhận biết là vô thể. Nếu nhân của tự không thọ nhận, nhận biết là vô thể, thì sắc kia thật chẳng phải là có, như quân binh v.v… Nhân của sắc không thể giữ lấy nên biết rõ sắc là không có tự thể cũng lại như thế.

Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, nhận biết cảnh giới của sắc, thể chẳng phải là thật có. Vì sao? Vì do biết rõ. Ví như biết rõ về rừng cây. Lại, trong đệ nhất nghĩa, cảnh giới nơi câu nghĩa của sắc thanh là không thật. Vì sao? Vì do được nghe. Ví như âm thanh của quân binh v.v… Hoặc nói các ấm như thọ v.v… không phải là toàn bộ, thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì thức cùng tâm số cũng đồng được ngăn trừ, nên chẳng phải là không toàn bộ. Nếu cho trong đệ nhất nghĩa có sắc thật kia. Vì sao? Vì sắc ấy đã biến đổi khác, nhưng nhận biết không riêng khác. Nếu vật biến đổi khác, nhận biết cũng khác, thì đấy là thế tục có, ví như bình chén v.v… Như sắc xanh lúc có riêng, sự hiểu biết kia không khác. Do nghĩa này nên biết là sắc có thật.

Luận giả nói: Trong đệ nhất nghĩa, nghiệm xét là vô thể. Đã quán về sắc của nhân, tiếp theo là ngăn trừ bốn đại. Như kệ nói:

Nếu hiện lìa nơi sắc

Nhân sắc cũng không thấy.

Giải thích: Sắc thanh hương vị xúc, các nhân sắc này đều cùng lìa nhau, nên nhân của sắc kia như đất v.v… là không thể thấy, giữ lấy. Do nghĩa ấy, nên nay tạo luận, đầu tiên là ngăn trừ về đất kia. Ngăn trừ nơi đất ấy là có lý do gì? Là có nghĩa của đại. Thế nào là nghĩa của đại? Như trong thế đế, từ nơi nhân khởi. Còn trong đệ nhất nghĩa, thể thật sự là không sinh, vì ở đây là không tự thể. Như nơi Kinh Lăng Già, kệ nói:

Lìa tích tụ, vô Thể

Giác kia không thể thủ

Nên biết duyên khởi không

Ta nói không tự tánh.

Không vật từ duyên khởi

Không vật từ duyên diệt

Khởi chỉ các duyên khởi

Diệt chỉ các duyên diệt.

Giải thích: Do phương tiện này, nên trong đệ nhất nghĩa, địa chẳng phải là thật có. Quyết định như thế, nên nhân kia không thể thấy, không thấy pháp kia. Nếu không thể thấy, nên không thấy pháp kia, tức trong đệ nhất nghĩa pháp ấy không thật có. Như binh chúng v.v… Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, cảnh giới của đất, sự nhận biết về đất, thể không thật có. Vì sao? Vì do nhận biết. Như nhận biết về rừng cây. Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, cảnh giới, câu nghĩa âm thanh của đất là không thật. Vì sao? Vì do nghe. Ví như âm thanh của quân binh v.v… Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, tự phần hòa hợp, không khác với sắc kia. Vì sao? Vì sắc ấy không thể giữ lấy, do sự nhận biết là vô thể. Ví như tự thể của đất v.v…

Lại như người của Tăng khư nói: Ông cho sắc v.v… không khác với đất v.v… điều ấy trở thành chỗ thành của Tôi.

Luận giả nói: Ngăn trừ về khác, nên chẳng phải do chẳng khác khiến ông được hiểu. Ông phân biệt sai lạc nói là chẳng khác: Tôi không thọ nhận.

Lại nữa, Tỳ-thế-sư nói: Ông nêu ra nhân, chẳng phải là lỗi của toàn bộ. Vì sao? Vì như không giữ lấy đèn, tức không nhận biết về bình chén. Pháp kia cũng khác. Luận giả nêu bày: Ông nói là bất thiện. Tôi chỉ ngăn trừ chỗ chấp nơi pháp kia, các chi tự hòa hợp, không thể chấp giữ. Sự nhận biết ấy là vô thể, không luận bàn về sự việc khác. Đèn tuy không tự thể, nhưng có ánh sáng như ngọc báu, cỏ thuốc, mặt trời, mặt trăng v.v… Sự hiểu biết về bình chén kia sinh khởi, các chi tự hòa hợp rồi, ngoài ra lại có sắc khác có thể đạt được. Do nghĩa này nên dụ của ông nêu là không đúng. Đèn không phải là bình chén kia, các chi tự hòa hợp, nên môn khác là vô thể, chẳng phải là lỗi của chẳng phải toàn bộ. Như kệ nói:

Vật này cùng vật kia

Nếu khác tức không đúng.

Giải thích: Nghĩa này, như phần sau sẽ nói. Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, đèn cùng với bình chén là khác, điều ấy cũng không thành. Do nghĩa này, nên chẳng phải là phi lỗi của toàn bộ.

Lại như Tỳ-thế-sư nói: Loại chung như chúng quân binh kia là thật, do lúc đầu sinh khởi là có. Ông nói đất v.v… không thật, lập nghiệm xét khiến hiểu, là thí dụ không thành.

Luận giả nêu: Các phần như quân binh, không phải là chung của binh chúng kia, thật có nhân của lúc đầu khởi. Vì sao? Vì là nêu chung. Như các phần rễ, cành nhánh, lá của cây, các phần như voi ngựa của quân binh kia, không phải là nhân của sự phát khởi đầu tiên thuộc quân binh ấy. Vì sao? Vì chúng không phải là thành phần. Ví như kinh v.v… Cũng chẳng phải là thí dụ vô thể. Như kệ nói:

Nếu hiện lìa nơi sắc

Nhân sắc cũng không thấy.

Như trước đã lập nghĩa, nêu nhân, thí dụ, nghiệm xét sắc kia không khác với đất v.v… Cùng địa ấy không khác với sắc. Về khác, như trước đã ngăn trừ. Không khác, sau sẽ luận phá. Nếu không khác, thì sữa tức là lạc, lạc cũng là sữa, do không khác. Vì nghĩa ấy, nên chứng ở đây được thành. Như nơi Kinh Lăng Già, kệ nói:

Không khác không có Thể

Bó lau cùng xứ riêng

Hoặc một hoặc là khác

Phàm phu vọng phân biệt.

Giải thích: Như sắc nhập v.v… Người kia muốn thành lập, nói nhân là có. Do là nhân, tức nhân ấy không thành, cũng trái với nghĩa. Lại nữa, nếu ông phân biệt cho lìa nhân của sắc kia mà có sắc, thì điều ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì có lỗi. Như kệ nêu:

Lìa nhân sắc có sắc

Sắc tức rơi không nhân.

Giải thích: Những kẻ nói không nhân, là muốn khiến không nhân nhưng có sắc. Nên hỏi kẻ kia như thế. Nếu như ông khiến điều đã nói cùng với lý tương ưng, thì thuận theo những vật nào, tức ông đã nêu là không nhân gây tạo? Không muốn khiến như thế, như kệ nói:

Không nhân mà có vật

Trọn không có điều ấy.

Giải thích: Nghĩa này là thế nào? Do không thí dụ để hiển bày thể kia, nên nếu bác bỏ cho là không nhân thì có lỗi lầm lớn, tức chấp ấy là không thành, như trong Phẩm Quán Duyên đã luận phá. Tăng khư nói: Trong đệ nhất nghĩa thật có đất v.v…, sắc v.v… là không khác. Như tự thể của sắc.

Luận giả nói: Nhân của ông lập là không thành. Dụ cũng là vô thể. Vì sắc v.v… không khác cùng với tự thể của sắc, trước đã ngăn trừ. Lại có kẻ nói: Trong đệ nhất nghĩa có đất v.v… kia. Vì sao? Vì quả ấy là có. Ở đây nếu không thì quả kia chẳng có, như hoa nơi hư không. Nay có quả là sắc nên các đại như đất v.v… là chẳng không. Chấp này là không đúng. Như kệ nêu:

Nếu lìa sắc có nhân

Nhân ấy tức không quả

Không quả mà có nhân.

Làm sao có nghĩa ấy?

Giải thích: Nếu lìa quả như sắc v.v… mà có nhân của sắc, tức là không quả nhưng có nhân. Vì sao? Vì do quả ấy, nên như tấm phên tre v.v… Lại, nhân kia cũng là các tụ như sắc v.v… Do nghĩa như vậy nên nhân quả chẳng thành.

Như ông đã nói về quả là có, nhưng vì nhân trái với nghĩa nên chấp ấy không thành. Lại, phân biệt về sắc ấy, hoặc có hoặc không, cả hai đều không đúng. Vì nhân là không dụng. Như kệ nói:

Sắc nếu như đã có

Tức không đợi nhân sắc

Sắc nếu trước không có

Cũng không đợi nhân sắc.

Giải thích: Sắc nếu trước có, tức không cần đến nhân. Vì sao? Vì do sắc kia đã có. Như các thứ bình chén, y phục. Sắc nếu trước không, tức là chưa có, như các vật khác kia. Ý nghĩa là như thế. Lại nữa, kẻ chấp không nhân, cho nhân là vô Thể. Nghĩa đó là không đúng. Như kệ nói:

Không nhân nhưng có sắc

Nghĩa này tức không đúng.

Giải thích: Ở trong thế đế, cho sắc không nhân, nghĩa cũng không hợp. Lại như Sư Tỳ Bà Sa nói: Sắc vị lai là có, đồng với chỗ đáp của kệ trước. Lại nữa, ở trong thế đế, nhân chưa giữ lấy quả, sắc tức vô thể, nhưng nói là có, thì nghĩa ấy không đúng. Do nhân này nên đối với tất cả thời, chấp có bốn đại cùng sắc do bốn đại tạo, so với nghĩa là trái nhau. Như kệ nói:

Vì thế nơi cảnh sắc

Không nên sinh phân biệt.

Giải thích: Thế nào là phân biệt? Nghĩa là cho có sắc thật, hoặc nhân không khác cùng quả không khác với nhân của sắc như đất, nước v.v… Sắc như thế, hình tướng có sai khác. Ở nơi cảnh giới ấy không nên phân biệt, vì không tránh khỏi lỗi như trước đã nêu. Muốn đạt được trí không phân biệt chân thật, người có mắt thông tuệ nên khéo quán về đế. Như chỗ thấy biết trong mộng, khi tỉnh thì không có. Trí kia cũng như thế.

Lại có kẻ cho: Công năng của nhân trước thứ lớp nối tiếp, lúc quả sau sinh khởi, tướng công sức của nhân kia cũng có thể thấy. Như chất khoáng màu tím nhuộm tấm giạ trắng xong, do huân tập nên thứ lớp nối tiếp, đến lúc của quả sau, màu sắc kia đều có thể đạt được. Nhằm ngăn trừ chấp này, nên như kệ nói:

Nếu quả giống với nhân

Nghĩa này tức không đúng.

Giải thích: Ở đây nghiệm xét thì pháp kia không phải là nhân của quả. Nghĩa của lời ấy là như thế. Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa, không muốn khiến các sắc như màu xanh kia, trải qua là màu xanh, cùng nhân của xấp giạ do tương tợ, như xấp giạ màu xanh khác.

Người của Tăng khư nói: Ông nói nhân của xấp giạ màu xanh khác kia cũng không, là không đúng. Vì sao? Vì thí dụ ông lập là vô thể. Luận giả nói: Ông nói không phải. Lúc tấm giạ kia sinh khởi, nhân ấy không phải phần. Do tấm giạ kia không thành, nên thí dụ như thế được thành.

Lại nữa, người của Tự Bộ nói: Có nhân quả tương tợ, nhân quả không tương tợ, nơi sát-na trước sau kia, thế gian tuy có khác, nhưng ở trong vật loại, như gió nơi ngọn đèn cháy sáng, sát-na sinh diệt, đây gọi là nhân quả tương tợ. Như thiêu đốt cây gỗ thành tro, biến sữa thành lạc v.v…, đó gọi là nhân quả không tương tợ. Luận giả nói: Nhân quả tương tợ ấy, như trước đã ngăn trừ. Nhân quả không tương tợ, như nay ở đây luận phá. Kệ nói:

Nếu quả không giống nhân

Nghĩa cũng không ứng hợp.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, nghiệm xét hạt lúa ấy không là nhân của mầm. Vì sao? Vì không tương tợ. Ví như mảnh ngói vụn. Hoặc cho lúa thóc là nhân của mầm kia, do lúa thóc là hữu thể, mầm ấy được có, có thể chỉ rõ. Như âm thanh của trống lớn, cùng mầm v.v… của lúa mạch. Luận giả nói: Ông nêu bày là không phải. Các thứ có sinh khởi, tất cả đều ngăn trừ. Do thí dụ vô thể có thể thành là không đủ, tức có lỗi ấy. Nếu cho các căn như mắt kia sinh quả như thức v.v… thì điều ấy không tương tợ, nên chẳng phải là toàn bộ, thì cũng không đúng. Vì sao? Vì như phá bỏ các pháp, nhãn thức kia cũng ngăn trừ như thế. Lại không có môn khác, nên chẳng phải là lỗi của phi toàn bộ, như trước đã nói. Các đại như đất v.v… là có thật, nên quả kia là có, cả hai đều không thành, do trái với nghĩa.

Lại nữa, người của Tỳ Bà Sa nói: Nhân của đối tượng tạo tác là có. Nghĩa là pháp hữu vi lúc khởi, thì tất cả pháp tương tợ không tương tợ, làm nhân cho pháp ấy, nên thí dụ là vô thể. Luận giả nói: Ông không khéo nêu bày, vì có lựa chọn phân biệt. Tự phần kia sinh không cùng chẳng với nhân đã tạo tác, có thể dấy khởi, đã ngăn trừ. Từ phần đầu của phẩm trở đi, các câu nghĩa ấy đã ngăn bỏ bốn đại cùng sắc của nhân là bốn đại kia, khiến kẻ khác hiểu rõ sắc ấm là vô thể. Thọ ấm v.v… còn lại, như kệ nói:

Thọ ấm cùng tâm ấm

Tất cả loại tưởng, hành

Các thứ pháp như vậy

Đều đồng ngăn sắc ấm.

Giải thích: Như ngăn trừ sắc ấm, thọ ấm v.v… cũng như thế. Đã nói trong đệ nhất nghĩa, sắc chẳng phải là thật có. Nhân của tự không giữ lấy, nên nhận biết pháp kia là vô thể, như quân binh đông đúc. Trong đệ nhất nghĩa như vậy, thọ tâm tưởng xúc cùng tác ý v.v… đều không thật có. Tự nhân không giữ lấy, nên các thứ kia cũng không giữ lấy. Như quân binh đông đảo. Tất cả cũng nên so sánh để nhận biết như ở đây.

Lại nữa, các nhân như thọ v.v… đó là xúc, cũng cùng với sắc làm rõ tác ý v.v… của hư không, như chỗ ứng hợp, nên ngăn trừ như vậy. Lại, các nhân như sắc v.v… không riêng khác, đã khiến cho kẻ khác hiểu, trong đệ nhất nghĩa như thế, thì các nhân như thọ cũng không dị biệt. Các chi tự hòa hợp, không thể giữ lấy. Pháp kia không nên giữ lấy, như tự thể của tự nhân. Đây cũng cùng với lỗi nên như trước đã nêu. Nếu Ngoại nhân hợp cùng với lỗi, nên tránh bỏ như trước.

Lại nữa, các pháp như thế, nghĩa là ngoài các ấm ấy, các pháp hữu vi hiện có phân biệt, như bình chén, y phục v.v… cho là thật có, nên dị biệt. Như chỗ ứng hợp, đồng với việc ngăn bỏ sắc kia. Như sắc v.v… thuộc về ấm, nên là nhân, thì nhân ấy không thành. Thí dụ cũng là vô thể, nghĩa của ấm bị hoại, nên các thứ thuộc về ấm, là trong thế đế gồm thâu, chẳng phải là đệ nhất nghĩa, do trái với nghĩa của nhân. Các đạo lý này, nên nhận biết như vậy.

Hoặc lại có người, vọng tưởng phân biệt, trong đệ nhất nghĩa, tùy theo tự thể của những vật gì, cho là chẳng không cùng có sinh diệt. Các thứ luận tranh ấy, nghĩa đều không đúng. Vì sao? Vì quán đế như thật, tướng của chúng là không. Do trong đệ nhất nghĩa, các nhập không sinh khởi, thể chẳng phải là thật có. Quán xét như thế, khiến người hiểu biết. Nếu chấp chẳng không cùng với không tạo lỗi, điều ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì đồng với chỗ ngăn trừ ở trước. Tất cả không thể cùng với không tạo lỗi. Như kệ nói:

Nếu quán Thể một vật

Tức thấy tất cả Thể Một vật không như thế Nên tất cả đều không.

Giải thích: Từ trước, văn nghĩa đã ngăn trừ cho các nhập có sinh khởi, do ấm không có tự tánh, khiến biết rõ về người hành. Nghĩa của phẩm là như vậy, thế nên được thành. Như Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Cực Dũng Mãnh: Này thiện nam! Sắc không sinh diệt. Thọ tưởng hành thức cũng không sinh diệt. Nếu hiểu rõ năm ấm ấy không sinh không diệt, thì đấy là Bát-nhã Ba-la-mật. Này thiện nam! Sắc lìa tự tánh của sắc. Như vậy, thọ tưởng hành thức cũng lìa tự tánh của thọ tưởng hành thức. Nếu hiểu rõ sắc cho đến thức, tánh của chúng là lìa, thì đấy là Bát-nhã Ba-la-mật. Này thiện nam! Sắc không có tự tánh. Thọ tưởng hành thức cũng không có tự tánh. Nếu hiểu rõ sắc cho đến thức không có tự tánh, đó là Bát-nhã Ba-la-mật.

Lại như Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn, kệ nêu:

Ta vì thế gian nói các ấm

Ấm kia là dựa nơi thế gian

Có thể nơi ấm không tạo dựa

Các pháp thế gian được giải thoát.

Thế gian như tướng hư không kia

Tướng hư không ấy cũng tự không

Do hiểu không chỗ dựa như thế

Tám pháp thế gian không thể nhiễm.

Lại như trong Kinh Kim Cương Bát Nhã nói: Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không trụ nơi sắc để bố thí. Không trụ nơi thanh hương vị xúc pháp để hành bố thí.

Lại như kệ của Kinh Lăng Già nói:

Ba hữu giả thiết lập

Nên vật không tự Thể

Chỉ ở trong giả nêu

Vọng tưởng tạo phân biệt.

Do lúc tỏ phân biệt

Tự Thể không thể đạt

Do không có tự Thể

Ngôn thuyết kia cũng không.

Các Kinh như thế, ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Năm Ấm.

 

Phẩm thứ 5: QUÁN VỀ SÁU GIỚI

Lại nữa, các pháp là vô thể, do không có đối tượng đối trị. Nay lại muốn nêu rõ về nghĩa của các giới như đất, nước v.v… là không có tự tánh, nên có phẩm này. Nghĩa ấy như thế nào? Quán trong ấm nói: Nếu lìa nơi sắc, tức không có nhân của sắc. Ở đây, Tự Bộ lại dẫn lời Phật nói làm chứng. Như kinh nói: Đức Phật nói với đại vương: Giới có sáu thứ, là đất nước lửa gió, không và thức. Chúng đều có tướng. Nghĩa là cứng chắc, thấm ướt, nóng ấm, lay động, chứa nhận, phân biệt. Sáu thứ giới này gọi là trượng phu. Như không có hoa đốm thiết lập là có, giữ lấy gọi là trượng phu, nghĩa ấy không đúng. Thế nên Luận giả trước đã lập nghĩa, nhân của sắc như đất, nước v.v… thể là không có. Chỗ lập nghĩa của người kia tức bị phá bỏ, cũng cùng với A-hàm là trái nhau. Luận giả nói: Vì thế đế, Đức Như Lai nói sáu giới như đất nước v.v… cho là trượng phu, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.

Lại như Sư của Tỳ Bà Sa nói: Trong đệ nhất nghĩa có các giới như đất v.v… Vì sao? Vì tướng của chúng là có. Các giới như đất v.v… ấy nếu thật là không thì Đức Như Lai không nên nói chúng có tướng, như hoa nơi hư không. Nay có cứng chắc v.v… là tướng của đất v.v…, do tướng là có nên đất v.v… chẳng phải là không.

Luận giả nêu bày: Hư không không có tự thể, vì ít sinh công dụng khiến người khác hiểu hư không kia là không vật. Hiểu về không giới rồi thì tự các giới còn lại, tức dễ có thể ngăn trừ. Như kệ nói:

Trước, hư không không có

Mảy may tướng hư không.

Giải thích: Hư không cùng với tướng kia không có chướng ngại, nân hai thứ ấy là không dị biệt. Ý của kệ là như thế.

Lại nữa, Sư của Tỳ Bà Sa nói: Tôi lập nghĩa này, tức không chướng ngại là tướng của hư không. Tướng ấy là có.

Luận giả nói: Không chướng ngại này lập là có, người khác không thể hiểu. Nghĩa này là thế nào? Như âm thanh vô thường, là nghĩa được lập. Do vô thường nên dùng làm nhân xuất phát. Như thế là có hư không này. Do hư không có, ở đây tức chỉ có lập nghĩa, không nhân cùng dụ nên nghĩa không thành. Nếu ý của ông cho tướng không chướng ngại là hư không, là ở trong thế đế, tùy theo người tất hiểu, không cần nói pháp kia khiến kẻ khác hiểu về nhân, do ở trong đệ nhất nghĩa điều ấy không thành. Nên nhất định cần nêu bày khiến kẻ khác hiểu về nhân. Người kia nếu nói, tức có nhân cùng thí dụ, đều là lỗi lầm, do chỉ có lập nghĩa. Lại nữa, Sư của Tỳ Bà Sa nói: Thật có hư không, là pháp vô vi. Đáp lại lời ấy, như kệ nói:

Trong đây xét hư không

Thể không mảy may thật.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, hư không là không thật. Vì sao? Vì do không sinh. Ví như sừng thỏ. Như thế là nhân vô thể, không có quả, tức các nhân không có. Nên nói rộng như vậy.

Lại nữa, Tỳ-thế-sư nói: Tướng của đối tượng và tướng của chủ thể, hai pháp là khác nhau. Luận giả nói: Nếu như thế thì những thứ ấy tức có trước sau, như bình chén, y phục v.v… Nhằm đáp lại lời của Tỳ-thế-sư, như kệ nêu:

Nếu trước có hư không

Không tức là vô tướng.

Giải thích: Hư không vô tướng. Ý của kệ là như thế. Ở đây nói nghiệm xét, hư không chẳng phải là tướng đối tượng của tướng kia. Vì sao? Vì do trước đã có. Như tùy theo một vật.

Lại nữa, không chướng ngại, chẳng phải là tướng của hư không.

Vì sao? Vì do khác với pháp kia. Như tùy theo một vật.

Lại nữa, nếu cho tướng chủ thể tướng đối tượng là vô tướng, là cũng không đúng. Vì sao? Vì người phân biệt khác, thì ngã cũng xả bỏ. Lại, nếu ông cho thế đế nói về nhân chẳng phải là nhân, nên không thành, vì có lỗi là trái với nghĩa, ông không thể tránh khỏi, thế nên tướng riêng chẳng riêng, cả hai đều chẳng thành, nên nhận biết hư không nhất định là vô tướng. Nếu nói vô tướng là hữu thể, thì người không thể nhận biết. Vì vậy nên như kệ nêu:

Không xứ có một vật

Vô tướng mà hữu Thể.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, hoặc tự phần, hoặc tha phần, thể ấy là thành, nghĩa tức không đúng. Hoặc có người cho: Tướng đối tượng nơi hư không như thế là hữu thể. Đối với pháp kia có thể cùng chuyển. Điều ấy cũng không đúng. Như kệ nói:

Vô tướng, Thể đã không

Tướng nơi xứ nào chuyển.

Giải thích: Đối tượng dựa là vô thể nên chủ thể dựa cũng là vô thể, tức nghĩa chẳng thành, lại là lỗi của nhân.

Lại nữa, tướng chủ thể, tướng đối tượng nếu không khác, thì há do tướng đối tượng trở lại cùng tướng đối tượng là tướng khác kia vô thể? Do nghĩa này nên trong không có môn khác nói hư không vô tướng. Nếu môn khác nói là tướng, thì tướng ấy cũng chẳng phải là tướng, tức tướng đối tượng là khác. Ví như tùy theo một vật. Như vậy, tướng đã vô thể nên không cũng vô tướng. Kệ nói: Thể vô tướng không có, nghĩa là hư không. Tướng nơi xứ nào chuyển: Là do không ở nơi kia chuyển, nghĩa này nên nhận biết.

Lại nữa, kệ nói:

Vô tướng, tướng không chuyển

Có tướng, tướng không chuyển.

Giải thích: Như ông đã nói, nghĩa của tướng chủ thể tướng đối tượng đều không đúng. Vì sao? Vì thể của vật kia là không mà có tướng, điều ấy tức không thành. Hữu thể cũng như vậy. Kệ nêu:

Lìa có tướng vô tướng

Xứ khác cũng không chuyển.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa có một vật, thể tướng ở đấy chuyển, điều ấy đều không đúng. Vì sao? Vì do thí dụ là vô thể. Chỗ mong muốn của Ngoại nhân về nghĩa là không thành. Lại, như hoa nơi hư không, do vô tướng nên tướng ấy cũng thế. Do vô thể nên không thể nói là chuyển, thế gian đều hiểu rõ. Vì vậy kệ nói: Có tướng, tướng không chuyển, là do trong đệ nhất nghĩa nghiệm xét như thật. Sự việc không chướng ngại kia không phải là tướng của hư không. Vì sao? Vì do có tướng. Như tướng cứng chắc v.v…

Lại nữa, có người nói: Tướng của vật có tướng không tướng, trong ấy đều chuyển, điều đó không có lỗi. Vì ngăn trừ lỗi chấp này như như kệ nói:

Lìa có tướng vô tướng

Xứ khác cũng không chuyển.

Tức cả hai thứ ấy đều không đúng. Người quán định kia, nơi phẩm đốt cháy có thể đốt cháy ở sau sẽ ngăn trừ rộng. Ở đây, trước khiến kẻ khác hiểu về hai phần lỗi, nay trở lại thuộc về ông, nên điều đó là không tương ưng, do có hai lỗi.

Lại nữa, có kẻ cho: Trong đệ nhất nghĩa, hư không là có, do có tướng. Hư không ấy nếu không, thì không nói về tướng của nó, như hoa nơi hư không. Như nơi kinh chép: Đức Phật nói: Này đại vương! Sáu thứ giới này gọi là trượng phu. Thế nên hư không kia là có cùng là tướng.

Luận giả nêu rõ: Tướng của đối tượng là không thành, Tôi trước đã luận phá. Như kệ nói:

Tướng đối tượng chẳng thành

Tướng chủ thể cũng vậy.

Giải thích: Tướng chủ thể cũng tùy thuộc trong tướng đối tượng. Tướng cũng không thành, thí dụ là vô thể. Vì nghĩa này, nên dùng tuệ quán đế, cả hai tướng chuyển, tướng đối tượng đều không lập. Như kệ nêu:

Vì thế tướng đối tượng

Tướng chủ thể đều không.

Giải thích: Tướng kia khiến kẻ khác hiểu, có thể nghiệm xét là vô thể. Do nghiệm xét ấy nên nhận biết pháp đó thật là vô thể, nghĩa này được thành. Lại nữa, sư Tỳ Bà Sa nói: Như Tôi lập nghĩa, hư không là có Thể. Vì sao? Vì đấy là cảnh giới dục nhiễm đã đoạn dứt. Ví như sắc. Lại là đối tượng duyên của Tam-ma-bátđể. Ví như thức. Cũng là vô vi. Ví như Niết-bàn. Luận giả nói: Ông nêu là muốn khiến trong đệ nhất nghĩa có hư không này, thì đấy là tướng của đối tượng hay là tướng của chủ thể? Cả hai đều không đúng. như trước đã nêu bày. Vì khiến người được hiểu, thế nên kệ nói:

Lìa sở tướng, năng tướng

Thể ấy cũng chẳng có.

Giải thích: Nghĩa của Tự Bộ là như thế. Niết-bàn còn lại, cùng tùy theo thể của một vật có thể thành, nên thí dụ đều không thành. Lại nữa, người của Bộ riêng cho: Hư không là có. Do thọ nhận tự thể, cũng là hữu vi. Nghĩa này cùng với nhân, cả hai đều không thành, như trước đã nghiệm xét về lỗi, nên nói như thế.

Lại như người của Kinh Bộ nói: Như Tôi lập nghĩa, thật không có xứ bị ngăn ngại, nói là hư không. Hư không là vô thể, chỉ là giả danh. Nghĩa của Tôi nêu là như vậy. Luận giả nói: Như sư Tỳ Bà Sa đã nêu bày, đối tượng duyên của Tam-ma-bát-để cũng là cảnh giới dục nhiễm đã đoạn dứt, nên lập hư không là có Thể, nhằm khiến người hiểu. Nay Kinh Bộ chấp cho là thật không có xứ bị ngăn ngại, nói là hư không, chỉ là giả danh, ngăn trừ chấp có Thể ở trước. Xét tính như vậy, khiến thí dụ của Tôi chuyển càng hiển bày rõ. Nay nói nghĩa này, như kệ nêu:

Lìa nhân sắc, có sắc

Nghĩa ấy tức không đúng

Sắc vốn là vô Thể

Vô Thể làm sao thành?

Giải thích: Như nơi Phẩm Quán Năm Ấm ở trước đã nói, trong đệ nhất nghĩa, có ngăn ngại gọi là sắc, tức không có đạo lý này. Như Kinh Bộ phân biệt về hư không là vô thể, nghiệm xét khiến hiểu, thì nghĩa ấy không thành. Có kẻ nói: Hư không có Thể, không khiến người hiểu vì không thí dụ. Tôi nay lập nghĩa khiến người dễ hiểu, nên nói như thế. Sắc v.v… là có Thể. Quán vô thể kia là có, ở đây nếu là có thì quán thể kia là không. Ví như sắc, vị, cả hai là vô thể. Pháp nếu vô thể, vô tức là chẳng quán, ví như sừng ngựa. Luận giả nói: Sắc pháp có thể, Tôi trước đã ngăn trừ, không muốn khiến ông thọ nhận vô thể kia. Như kệ nói: Không có Thể.

Giải thích: Là sắc. Kệ nêu: Xứ nào.

Giải thích: Là vị. Kệ nêu: Vô Thể sao đạt được?

Giải thích: Sắc kia là không. Thí dụ là vô Thể, nên nghĩa đã mong muốn bị hoại, nên biết. Ngoại nhân nói: Có Thể không Thể, cả hai đều là có, người kia hiểu là có. Nếu người hiểu là có, thì vật kia tức có. Luận giả nêu: Ông cho người hiểu là hiểu về thể, vô thể. Người hiểu ở đây là có Thể hay là vô thể? Cả hai đều cũng đã ngăn trừ. Người hiểu là có Thể, nghĩa này không thành, lại cùng với có Thể không Thể chẳng tương tợ. Khác với đây, ngoài ra có phân biệt hiểu rõ, nghĩa ấy không đúng. Như kệ nói:

Cùng Thể, không Thể khác

Xứ nào có người hiểu.

Giải thích: Người hiểu là vô thể. Nghĩa của kệ là như thế. Ngoại nhân lại nói: Tôi có môn khác, tạo phân biệt này, như thế là hiểu rõ, so với có Thể không Thể kia là không tương tợ. Luận giả nói: Không tương tợ với thể kia là một vật có hai phần, nghĩa ấy là không đúng, do trái nhau. Quán xét cũng không lập. Kẻ kia không thể nghiệm xét khiến người tin biết. Như thế là hư không, lúc quán xét đúng thật là không hợp đạo lý. Như kệ nói:

Thế nên biết hư không

Chẳng phải Thể, không Thể

Chẳng sở tướng năng tướng

Năm khác, đồng hư không.

Giải thích: Như ngăn trừ chấp về hư không là không có mảy may khiến người tin nhận, thì năm giới còn lại (Đất, nước, lửa, gió, thức) cũng như vậy. Như kệ nêu:

Trước đất là không có

Mảy may tướng đạt được.

Giải thích: Các giới như đất, nước v.v… kia cũng nên phân biệt rộng như thế để nêu bày. Cho đến kệ nói: Chẳng phải Thể, không Thể, Chẳng sở tướng năng tướng, tức nên đồng tạo sự ngăn trừ như hư không. Vì sao gọi là giới? Nghĩa chứa giữ là nghĩa của giới. Như giới của kim loại. Hư không v.v… ấy có thể tạo nghĩa chứa giữ các thứ sầu khổ v.v…

Lại nữa, nghĩa không công dụng nhưng tự cùng duy trì là nghĩa của giới.

Thuyết giảng về các giới ấy, là vì thương xót, giáo hóa chúng sinh, là lời Phật giảng nói, thuộc về thế đế, vì trong đệ nhất nghĩa, giới là vô thể. Nhập cũng không thành. Do giới có, nên chỗ mong muốn không phá. Lại có người nói: Nếu trong đệ nhất nghĩa, hết thảy câu nghĩa đều cho là không, thì đây là pháp tà kiến của Lộ-già-da-đà đã nói, cùng tương tợ với lời Đức Phật giảng dạy. Điều này nên trừ bỏ, vì không phải là lời Phật nói.

Luận giả nêu rõ: Ông dấy khởi về lỗi chỉ tăng thêm sự che lấp, không đúng, vì đấy chỉ là những thứ nhỏ nhặt v.v… để vọng tạo ngăn trừ. Nghĩa này là thế nào? Tôi nói ngăn trừ chấp nhập, giới là có, là ngăn trừ chấp có tự thể, không nói về vô thể. Như trong Kinh Lăng Già, kệ nêu:

Có, không đều là biên

Cho đến chốn tâm hành

Tâm hành kia diệt rồi

Gọi là chính tâm diệt.

Giải thích: Như thế là không chấp trước về có Thể, không chấp trước về không Thể. Nếu pháp là không Thể, thì không có một thứ gì có thể tạo tác. Lại như kệ nói:

Ngăn có, nói chẳng có

Không chấp giữ chẳng có

Như ngăn xanh, chẳng xanh

Không muốn nói là trắng.

Giải thích: Hai thứ kiến này gọi là chẳng thiện. Thế nên người có trí tuệ, muốn dứt trừ hý luận, đạt được an lạc trọn vẹn phải nên ngăn trừ hai thứ ác kiến ấy. Điều này lại là thế nào? Hoặc thuộc về ba cõi, hoặc xuất thế gian, hoặc thiện, bất thiện cùng vô ký, như nơi thế đế gieo trồng các thứ để mưu sinh, pháp kia ở trong đệ nhất nghĩa đế, nếu có tự thể, tức phát khởi phương tiện siêng năng làm điều thiện, bất thiện, thì những tác nghiệp này nên hoàn toàn không có quả. Vì sao? Vì do trước đã có. Ví như trước có, hoặc bình chén, y phục. Người an lạc như vậy là luôn an lạc, kẻ khổ là luôn khổ. Như trên vách tường vẽ các hình tượng đẹp đẽ, tướng mạo uy nghi không hề biến đổi. Hết thảy chúng sinh cũng nên như thế. Lại nữa, nếu không tự thể, thì thuộc về ba cõi ấy, hoặc xuất thế gian, hành pháp thiện bất thiện khởi phương tiện siêng năng, tức hoàn toàn không có quả, do là không có. Như vậy, thế gian tức rơi vào đoạn diệt. Ví như sừng thỏ làm ngọc báu mài bóng, khiến sự nhọn bén kia trọn không thể có được. Thế nên kệ nói:

Ít tuệ, thấy các pháp

Hoặc có hoặc là không

Người kia tức không thấy

Đệ nhất nghĩa diệt kiến.

Lại nữa, như trong Kinh Bảo Tụ, Đức Phật nói với Tôn giả Cadiếp: Có là một biên, không là một biên v.v… Địa giới nội kia cùng với địa giới ngoại, nghĩa đều không hai. Tuệ thật của chư Phật Như Lai chứng biết, đắc thành chánh giác, là một tướng không hai, đó là vô tướng.

Lại như nơi Kinh Thượng Kim Quang Minh Nữ, Bồ-tát Vănthù-sư-lợi hỏi Thiện nữ: Cô quán xét giới như thế nào? Thiện nữ đáp: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như vào thời gian kiếp thiêu đốt thế giới hoàn toàn là trống vắng, không một thứ gì có thể thấy.

Lại như kệ nói:

Thế gian như tướng không

Hư không cũng vô tướng

Nếu nhận biết như thế

Nơi đời được giải thoát.

Các Kinh như vậy, ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Sáu Giới.

HẾT – QUYỂN 4