BÁT NHÃ ĐĂNG LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Kệ bản)
Bồ tát Phân Biệt Minh giải thích
Hán dịch: Đời Đường, Đại sư Ba La Phả Mật Đa La
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 9

 Phẩm thứ 15: QUÁN VỀ CÓ KHÔNG

Lại nữa, đối tượng được đối trị của không hoặc có hoặc không. Vì khiến cho người khác hiểu về các pháp duyên khởi là chẳng đoạn chẳng thường nên có phẩm này.

Ngoại nhân nêu: Ông nói các pháp không có tự thể, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì trái với lời ông tự nói, cũng như nghĩa lập có lỗi. Thế nào là trái với lời đã nói? Như có người nói: Mẹ tôi là Thạch nữ. Cha tôi tu phạm hạnh. Người khác nêu vấn nạn: Nếu cha mẹ ông thật sự là như thế thì vì sao có ông? Ông nếu theo đấy sinh, thì nghĩa Thạch nữ, phạm hạnh đều không lập. Trường hợp của ông cũng như vậy. Nếu không có tự thể thì vì sao gọi là các pháp? Đã gọi là các pháp vì sao không có tự thể? Nên là trái với lời nói. Cũng là nghĩa đã lập có lỗi.

Luận giả nói: Ông cho các pháp là có tự thể, thì trong đệ nhất nghĩa như những vật nào? Do không có dụ nên lời ông nói là không đúng. Lại, nếu Tôi trước, ở trong đệ nhất nghĩa thừa nhận là có các pháp, sau lập là không, thì mới là trái với lời mình nêu. Nhưng thật sự thì không như thế nên không mâu thuẫn. Lại, trong thế đế, an lập các pháp như huyễn mộng v.v… là điều Tôi không ngăn trừ, nghĩa lập không có lỗi. Hoặc có kẻ tà mạn thông sáng, nói: Những gì là các pháp là không có tự thể? Nếu như phân biệt hư vọng cho các pháp có tự thể, ông nói pháp ấy không tự thể, đây tức thành đối tượng được thành của Tôi. Nếu các pháp này từ nhân duyên sinh, nhưng ý của ông muốn chúng là vô thể, tức trái với hiện thấy, cùng với sự hiểu biết của thế gian là trái nhau.

Luận giả nêu bày: Ở trong chỗ chân thật, không phân biệt thức duyên sắc sinh khởi, là không thể đạt được, nên cho vật này là có, như trước đã ngăn trừ. Theo thế đế đã nói, Tôi không ngăn trừ, nên không trái với với hiện thấy cùng chỗ hiểu biết của thế gian. Thế nên điều ông đã nói, nghĩa tức không đúng.

Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, nếu có một pháp có tự thể, thì không có nghĩa sinh khởi. Như kệ nói:

Pháp nếu có tự tánh

Từ duyên khởi không đúng.

Giải thích: Nếu cho các pháp có tự tánh, thì mắc phải lỗi như thế. Nếu ông nhất định cho thấy pháp có khởi, không thể luận phá Tôi, thì ở đây nên hỏi: Ông nói thấy pháp có sinh khởi, là nhân duyên của y tha chăng? Như kệ nêu:

Nếu từ nhân duyên khởi

Tự tánh là pháp tạo.

Giải thích: Nếu là pháp tạo tác, thì đây tức là tướng nhân duyên của không tự thể. Vì sao nếu pháp không cùng với tự phần không gián đoạn sinh, chỉ là một tự quả của chủ thể khởi: Đây là tướng nhân, chuyển ngược đây gọi là duyên. Vì sao gọi là tạo tác? Nếu pháp có tự thể, tức không cần tạo tác. Nhưng nay có tạo tác, nên biết là vô thể. Ở đây lập nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, các nội nhập là vô thể. Vì sao? Vì từ nhân duyên sinh. Ví như Huyễn sư tạo các pháp huyễn như trâu bò v.v… Nếu có tự thể tức không từ nhân duyên sinh.

Lại nữa, có người không hiểu thí dụ nêu ở đây, nên nói như vầy: Lực huyễn của chú thuật, thuốc, đối với cỏ cây bùn đất v.v… là có chẳng phải không. Do thứ ấy có, nên các hình tượng như voi ngựa kia mới hiện rõ. Vì nghĩa ấy nên trong thí dụ của ông là pháp không thành lập.

Luận giả nói: Ông nêu bày không đúng. Tôi dẫn dụ, dùng voi, ngựa v.v… vô thể làm dụ, không dùng cỏ cây có Thể làm dụ. Lại nữa, nếu cho cỏ cây, đất v.v… có sinh khởi là có thật, tức như trước đã ngăn trừ. Có người cho: Các pháp hiện có từ duyên sinh đều có tự thể. Như hư không chẳng từ duyên khởi, nhưng là có pháp, nên chỗ nêu ra nhân của ông, ở đây chẳng phải là toàn bộ. Luận giả nói: Ông nói là không phải. Pháp do nhân duyên sinh như huyễn mộng, trong thế đế là có, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Nghĩa ấy là thế nào? Như kệ nêu:

Nếu như có tự tánh

Làm sao có thể tạo?

Giải thích: Nếu là pháp tạo tác, thì không lìa với không có tự tánh. Do tự thể của đối tượng đối trị là không. Vì thế, nhân được nêu ra là toàn bộ. Ở trong thế đế, hư không v.v… cũng là không sinh. Cũng như sừng thỏ, há là có chăng? Các pháp hữu vi đều không có tự tánh. Trước đã quán xét khiến kẻ khác tin hiểu. Nay lại lập nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, các pháp là vô thể. Vì sao? Vì do có tạo tác. Lại là quán ngôn thuyết có sai biệt. Như người huyễn v.v… Nếu là một vật có tự tánh, tức cùng với điều nêu trên trái nhau. Lại nữa, ở đây Ngoại nhân lập nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, các nội nhập kia đều có tự thể. Vì sao? Vì do khởi nhân của ngôn thuyết tự tha có sai biệt. Ví như nhân nơi dài có ngắn. Đây là nhân của ngắn. Nay nói tự, so với tha, do ngôn thuyết sai biệt làm nhân. Luận giả nói: Các pháp là vô thể, trước đã lập nghiệm xét. Do ông chấp nên nay lại nêu.

Như kệ nói:

Pháp đã không tự tánh

Làm sao có tha tánh?

Giải thích: Nếu pháp có tự tánh, quán về tự tánh nên có thể nói tha tánh. Tự tánh đã không, thì quán cái gì để nói về tha? Ông nói tự tánh cùng với tha làm nhân. Nhân ấy không thành, cùng trái với nghĩa. Lại trong đệ nhất nghĩa, ngắn dài là không nên thí dụ chẳng thành.

Ngoại nhân nói: Trong đệ nhất nghĩa, mắt v.v… là có Thể. Vì sao? Vì do thể. Ví như tánh nóng của lửa.

Luận giả nêu rõ: Lửa là không tự thể. Như nơi Phẩm Quán Về Ấm đã luận phá có cùng khởi diệt. Trong đệ nhất nghĩa cũng như trước đã ngăn trừ, nên nghĩa của lửa không thành. Thí dụ là vô thể. Lại như kệ nói:

Tự tha tánh đã trừ

Xứ nào lại có pháp?

Giải thích: Nghĩa của thể đã ngăn trừ, nên các pháp là vô tánh. Do pháp không nên nghĩa của nhân chẳng thành. Ý của lời nói là như thế. Ngoại nhân nêu kệ:

Nếu người thấy tự tha

Cùng có Thể không Thể

Người ấy không thể thấy

Pháp chân thật Như Lai.

Như ông đã nói, tánh của tự tha đã loại trừ, thì xứ nào lại có pháp, như kệ nêu, thì lời ấy là mâu thuẫn. Lại nữa, có Thể như vậy, do cùng trái nhau, nên như chim cú mèo là sừng quạ.

Luận giả nói: Trong đệ nhất nghĩa, đã ngăn trừ về sinh khởi. Như kệ nêu:

Có Thể đã không lập

Pháp không làm sao thành?

Giải thích: Vì ngăn trừ chấp có, thế nên nói không. Không lại vô thể, tuy chẳng nói không, nhưng không là phi ngã. Vì sao? Vì không có một pháp riêng để có thể chấp giữ. Thế nên cũng không. Nghĩa của nhân chẳng thành. Lại nữa, kệ nói:

Pháp này Thể là khác

Người đời gọi vô Thể.

Giải thích: Pháp không có thể tánh nên gọi đó là không. Lại không có một pháp nào gọi là không Thể. Do vậy ông lập nhân, nghĩa ấy là chẳng thành, cùng trái với nghĩa. Thế nào là trái với nghĩa? Ông lập pháp trái nhau làm nhân. Do trái nhau đã bị phá nên chỗ lập có pháp ở đấy cũng chẳng thành, thế là trái nhau. Lại, trong đệ nhất nghĩa, các thứ quạ, cú mèo là vô thể nên thí dụ không thành. Do quán xét về tự tha vô thể, cả ba đều không thành ấy, Bồ-tát Ma-ha-tát dùng tuệ không vướng mắc, không thấy các pháp hoặc tự hoặc tha cùng có, không v.v… Thế nào là không thấy? Do đã lên xe của trí không phân biệt.

Lại nữa, những kẻ trí cạn, đời trước chưa sinh khởi pháp nhẫn sâu rộng, đối với các pháp kia đã khởi phân biệt về tự tha có không, do ngôn thuyết huân tập nên tuệ thật bị ngăn che. Như kệ trước nói: “Nếu người thấy tự tha, Cùng có thể không thể, Người ấy không thể thấy, Pháp chân thật Như Lai”. Nghĩa này là thế nào? Thấy tự tha v.v… là trái với đạo lý chân chánh, cùng giáo pháp. Ý của kệ là như vậy. Trái với đạo lý: Như trước đã nêu. Trái với giáo pháp: Ông nay nên lắng nghe. Như kệ nói:

Phật hay quán như thật

Chẳng chấp pháp có không

Dạy trao Ca-chiên-diên

Khiến lìa hai có không.

Giải thích: Thế nào là dạy trao? Như Đức Phật nói với Tôn giả Ca-chiên-diên: Thế gian có nhiều người nương dựa nơi hai biên, nghĩa là hoặc có hoặc không. Người có trí sâu chẳng vướng mắc nơi có không v.v… Lại như Đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan: Nếu nói có, là chấp nơi biên thường. Nếu nói không, là chấp nơi biên đoạn.

Lại nữa, hoặc có người nói: Nếu trong đệ nhất nghĩa các pháp đều không có, thì vì sao có được pháp kiến đế? Do trong thế đế pháp từ duyên khởi. Dùng trí quán xét pháp từ duyên khởi, không tự không tha, chẳng có chẳng không, thấy có sự ngăn trừ như thế gọi là kiến đế. Vì sao gọi là kiến đế? Tức pháp duyên khởi này là thấy nhân thật. Người nào thấy nhân thật? Nghĩa là các Phật tử được ánh sáng mặt trời của trí duyên khởi soi chiếu, do đấy làm nhân.

Luận giả nói: Người sợ hãi về không tạo ngôn thuyết như vậy. Cũng như người thế gian sợ hãi hư không, chấp trước có đối là chỗ nương dựa của vật thật, nên sinh tâm muốn được xa lìa hư không. Người xa lìa không, do họ nương dựa nơi các kiến chấp như tự tha v.v… Như kệ đã nêu: Nếu người thấy tự tha v.v… Nghĩa ấy là thế nào? Người thấy như vậy gọi là tà kiến. Thế nên trong phần dạy trao Tôn giả Ca-chiên-diên, Đức Thế Tôn đã nêu rõ: Hoặc có hoặc không, hai biên đều ngăn trừ, là đạo lý chân chánh. Do đạo lý này, tức không nên thấy các pháp kia là tự, tha v.v… Điều ấy lại là thế nào? Như kệ nêu:

Pháp nếu có tự Thể

Tức không được nói không.

Giải thích: Trước là lúc chưa khởi, cùng sau là lúc hoại diệt, đều là vô thể. Lại, nếu các pháp có tự tánh, như kệ nói:

Pháp nếu có tự tánh

Sau khác tức không đúng.

Giải thích: Như lửa do nóng làm tướng, thời gian sau lạnh, là không đúng. Vì đấy nên nói là dụ không tương tợ. Như pháp là thường, nhưng là khởi tạo, thì nghĩa tức không đúng. Ở đây lập nghiệm xét. Như chứng đắc pháp thật, thể như nội nhập v.v… tức không hiển hiện. Vì sao? Vì do các nội nhập, thời gian sau khác. Như nước được lửa làm cho nóng, chẳng phải nóng là tự tánh của nước.

Lại nữa, Sư của Kinh Bộ nói: Như giáo pháp của Tôi, trong cây có vô số giới. Do nghĩa như thế, nên nước cũng có nóng. Ông nói: Nóng chẳng phải là tự tánh của nước, thí dụ ấy không thành. Luận giả nêu: Trong giáo pháp kia, có người nói như thế. Nghĩa là có Tỳ-kheo đạt được thần thông cùng tâm tự tại. Tùy theo đối tượng duyên là các vật như cỏ cây v.v… muốn biến làm vàng. Hoặc nước, lửa v.v… như ý tức thành, nên nói trong cây có vô số giới (giới, xứ). Vô số giới: Đây nghĩa là trong cây có nhiều công năng của giới. Nếu trong vật kia có công năng, thì công năng ấy chẳng phải là thể của vật đó. Nếu các công năng là thể của vật ấy, như trong đại chủng đất có bốn công năng, tức cũng nên có đủ ướt, nóng, động, là thể của đại chủng đất, không chỉ giữ lấy tánh cứng chắc.

Lại nữa, Sư Tỳ-bà-sa nói: Phần vị thế gian tuy riêng nhưng thể có là không khác. Nên nhận biết như thế. Vì sao? Vì do là cảnh giới của thức. Như hiện tại. Do nghĩa này nên ông trước nêu ra nhân, nói thể khác, chẳng phải là điều Tôi chấp nhận. Nếu ông muốn không khác, tức tự nghĩa chẳng thành. Luận giả nêu rõ: Trong đệ nhất nghĩa, vật hiện tại, là có cũng không thành, nên dụ của ông là không đúng. Nếu cho có pháp trải qua nơi thế gian, cùng trong các phần vị, thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì đã ngăn trừ về chấp có sinh khởi. Lại nữa, ở trong khứ, lai không có pháp hiện tại. Chẳng phải là hiện tại, nên như hoa nơi hư không.

Lại trong thế đế, thể của quá khứ, vị lai cũng không thành. Hoặc người Tăng khư nói như vầy: Ông trước nêu ra nhân, nói thể khác, thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì Tôi lập các pháp có hai thứ nghĩa: Một là ngăn che. Hai là nhập trong tạng tự tánh. Vì để thành nghĩa này nên lại cần lập nghiệm xét, nhất định có các pháp chẳng diệt như thế.

Vì sao? Vì do được ngăn che. Ví như ánh sáng của mặt trời đã ngăn che ánh sáng các vì sao. Lại là cảnh giới của thức. Là nói về thời tiết. Như đời hiện tại. Do đó, ông lập nghĩa của nhân là chẳng thành.

Nên đáp như thế này: Vật hiện tại, trong đệ nhất nghĩa có cũng chẳng thành. Vì sao? Vì không có thí dụ. Ông lập ngăn che dùng làm nhân, nghĩa cũng không thành. Ở đây nên nói thế nào là nghiệm xét? Người chưa hiểu rõ ấy, chung cuộc là không hiểu rõ. Vì sao? Vì do không rõ. Như hoa nơi hư không.

Lại nữa, người không nhập nơi tạng tự tánh, thì trọn không có nghĩa nhập. Vì sao? Vì do không nhập. Ví như tư duy. Lại như tạng tự tánh, do chấp pháp ấy nên có lỗi lầm. Như kệ nói:

Nếu có là tự tánh

Tức chẳng được nói không

Tự tánh có nếu khác

Rốt ráo là không đúng.

Giải thích: Do tự tánh ấy không biến đổi, nên thí dụ tức không. Nếu là pháp không thì không có biến đổi. Như Thạch nữ từ nhỏ đến lớn. Do biến đổi ấy khiến người tin hiểu là hoàn toàn không thể được. Như kệ nêu:

Nếu không có tự tánh

Làm sao có thể khác?

Giải thích: Hai biên đều có lỗi, người trí không thọ nhận. Ngoại nhân nói: Ông cho tự tánh có Thể, không Thể, đều không biến đổi, ý muốn như thế chăng? Do đó, nghĩa đã lập trước của ông bị phá, nhân cũng chẳng thành. Vì sao chẳng thành? Vì nếu có tự tánh mà biến đổi, thì điều ấy là không đúng.

Luận giả nêu bày: Nói như thế là không phải. Vì sao? Vì Tôi nói không, là nêu rõ về tự tánh là không, chẳng phải là muốn nói có pháp của tự tánh ấy. Như kệ nêu:

Thật không có một pháp

Tự tánh có thể đạt.

Giải thích: Cho có tự tánh, là không đúng. Nhưng ông vì sức mạnh của tập khí phiền não, nên đã tạo phân biệt. Như kệ trước nói:

Nếu không có tự tánh

Làm sao có thể khác?

Lỗi về biến đổi này, như trước đã nêu. Ngăn dứt hai biên cùng sự thành lập, đều là thế đế, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Do đó, Tôi trước đã lập nghĩa là không bị phá. Ở trong thế đế, có biến đổi, nên cũng không phải là nghĩa của nhân đã nêu là không thành. Lại nữa, người của Tỳ-thế-sư nói: Trong đệ nhất nghĩa, các nhập như mắt nhất định có tự thể. Vì sao? Vì những thứ ấy có thể làm nhân cho có giác. Ví như Niết-bàn.

Luận giả nói: Ông nêu về nhân có giác, nhân này không thành. Vì sao? Vì như trong ánh lửa, nước cũng là nhân nhận biết. Thế nên nhân chẳng phải là toàn bộ. Nay nên nêu bày nữa. Như kệ nói:

Cho có là chấp thường

Cho không là đoạn kiến

Thế nên người có trí

Chẳng nên dựa có không.

Giải thích: Người kia chấp đoạn thường là có lỗi lầm gì? Pháp nếu là thường, thì vui nên luôn là vui, khổ nên luôn là khổ. Cũng không có chán khổ cầu vui, khởi nơi Thánh đạo. Trước đã có, là không cần nhân. Pháp nếu là đoạn, tức không có nhiễm tịnh cùng khổ vui. Tuy lại thọ trì giới cấm nhưng hoàn toàn không có quả. Cả hai thứ đều không đúng. Có không cùng chấp gọi là ác kiến. Do ác kiến này có thể ngăn lấp hàng trời người hướng tới cửa Niết-bàn. Thế nên muốn ra khỏi quãng đồng rộng vắng sinh tử, muốn được sinh nơi cõi trời có nhiều an vui, muốn đoạn trừ tất cả thọ lạc, muốn dứt bỏ mọi thứ hý luận, tức không nên nương dựa nơi hai kiến chấp có không. Vì sao? Vì nương dựa nơi chúng là mắc phải lỗi về đoạn thường. Vì sao hai kiến là lỗi của đoạn, thường? Như kệ nói:

Nếu pháp có tự tánh

Chẳng không tức là thường

Trước có mà nay không

Đây tức là lỗi đoạn.

Giải thích: Do lỗi của đoạn thường như thế, tức nói về trung đạo. Phải chánh tư duy. Dựa nơi thế đế, nên các pháp như sắc v.v… khởi, là nhân của có giác. Sắc nếu chưa khởi cũng đã diệt, là nhân của không giác. Trong đệ nhất nghĩa, tự thể của giác là không. Do không khởi nên chẳng phải là kiến có. Như huyễn được tạo tác, nên chẳng chấp nơi kiến không. Do như thế nên không rơi vào hai biên. Ở đây là ngăn trừ chấp về tự tánh của các pháp, khiến người tin hiểu pháp từ duyên khởi, là chẳng đoạn chẳng thường. Nghĩa của phẩm là như vậy, vì thế được thành. Như trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Đức Phật nói với Bồ-tát Cực Dũng Mãnh: Này thiện nam! Sắc chẳng đoạn chẳng thường. Như vậy, thọ tưởng hành thức chẳng đoạn chẳng thường. Nếu sắc cho đến thức chẳng đoạn chẳng thường, thì đấy là Bát nhã Ba-la-mật.

Lại như nơi Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, kệ nói:

Có không là hai biên

Tịnh, bất tịnh cũng thế

Thế nên người có trí

Lìa hai biên, chẳng trụ.

Các Kinh như thế ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Có Không.

 

Phẩm thứ 16: QUÁN VỀ BUỘC – MỞ

Lại nữa, đã ngăn trừ về có không, lìa lỗi của đoạn thường. Ở đây là nêu rõ về nghĩa không tự tánh của trói buộc – giải thoát thuộc đối tượng đối trị của không, nên tiếp theo là có Phẩm này.

Có người cho: Trong đệ nhất nghĩa, các nội nhập v.v… nhất định là có tự thể. Vì sao? Vì do các nhập ấy là có buộc mở. Ở đây nếu không có, thì không có buộc, mở. Như Thạch nữ là không thể ngôn thuyết. Thế nên nhất định nhận biết, trong đệ nhất nghĩa, các nhập là có Thể.

Luận giả nêu rõ: Các hành tướng trói buộc là như huyễn mộng, nhưng các chúng sinh kia do không trí, hết sức mù tối, từ vô thỉ đến nay, bị các thứ chấp ngã ngã sở hãm hại, bị các thứ gông cùm của phiền não như tham, sân v.v… xiềng trói. Thế nên Đức Như Lai, vì nhằm khiến họ ra khỏi ngục tù sinh tử, do ái kiến đóng kín khóa chặt, tức ở trong thế đế giả danh tướng nêu bày, lúc chánh trí phát khởi, thì đối với các thứ kiết sử cực nặng như tham v.v… ấy được xa lìa, gọi là giải thoát, không phải là đệ nhất nghĩa tạo sự nêu đặt đó. Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa, cho có buộc mở, nghĩa ấy là không đúng. Nên Đức Như Lai đã giảng nói có sinh tử, chỉ là giả thiết lập, nhưng ở trong ấy không thật có lưu chuyển. Niết-bàn cũng như thế, chỉ là giả thiết lập. Thấy rõ nẻo thường ấy, vị A-xà-lê nói: Nếu nhất định phân biệt có buộc, mở, thì nay đối với trói buộc này chính là các hành, hay là chúng sinh? Nếu là các hành thì chúng là thường chăng, là vô thường chăng? Cả hai đều không đúng. Vì sao? Vì nếu là thường, như kệ nói:

Nếu các hành là thường

Kia tức không lưu chuyển.

Giải thích: Các hành là thường, khiến người tin, nghiệm xét tức vô thể. Nếu lập thường thì không có buộc mở. Buộc mở không có nên thể của pháp là điên đảo, nghĩa lập có lỗi.

Lại nữa, các hành là thường thì không có lưu chuyển. Nghĩa này là thế nào? Các nẻo có qua lại, trước sau nối tiếp gọi là sinh tử. Nếu là thường, thì các hành không có trước sau sai biệt, mà nói là lưu chuyển, tức nghĩa không đúng.

Lại nữa, Tỳ-thế-sư cùng người của Tự Bộ nói: Nếu các hành là thường, tức không có khởi diệt trước sau có sai biệt, không có lưu chuyển. Nay các hành là vô thường, nên có lưu chuyển: điều ấy cũng không đúng. Vì sao? Như kệ nêu:

Vô thường không lưu chuyển.

Nếu là vô thường, tức diệt, không còn sinh khởi, thế nên các hành với năm thứ qua lại tới lui, tức là không đúng. Lại nữa, vô thường không lưu chuyển, như các hành bên ngoài. Ở đây lập nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, các hành bên trong cùng lưu chuyển, là không đúng. Vì sao? Vì do vô thường. Như các thứ bình chén v.v… bên ngoài. Như các hành với hai thứ hoặc thường hoặc vô thường lưu chuyển, là đều không đúng. Nếu ông phân biệt có chúng sinh lưu chuyển, tức cũng đáp như trước: Vì chúng sinh này là thường mà lưu chuyển, hay vì vô thường nên lưu chuyển. Nếu cùng lập cả hai, tức cũng như trước nói về lỗi. Nghĩa này là thế nào? Chúng sinh là thường, tức không có lưu chuyển. Vì sao? Vì không có biến đổi, cũng không có trước sau sai biệt. Chúng sinh là vô thường, cũng không có lưu chuyển. Vì sao? Vì chúng sinh kia đã diệt, là pháp không sinh khởi. Như kệ nói:

Chúng sinh cũng đồng lỗi.

Giải thích: Thế nên chúng sinh hoặc thường hoặc vô thường có lưu chuyển, tức cũng như trước đã lập nghiệm xét về lỗi của các hành. Lại nữa, trong pháp Phật, người muốn khiến các hành cùng người là vô thường, nói như vầy: Người chưa khởi đạo đối trị, các hành diệt trước dùng đấy làm nhân, các hành khởi sau nối tiếp là quả. Chúng sinh cũng như thế. Như vậy, nghĩa của các hành lưu chuyển là thành, nên Tôi không có lỗi. Luận giả nêu bày: Lời nói ấy là không đúng. Các hành đã diệt cùng với chúng sinh, là sát-na sau tạo duyên kia, như trước trong phần Thứ đệ duyên đã ngăn trừ. Nghĩa lập cùng dụ là có lỗi. Đây cũng như vậy nên Tôi không lỗi. Lại nữa, Lộ-giàda-đà nói: Ông cho các hành hoặc thường hoặc vô thường đều không lưu chuyển, điều ấy trở thành nghĩa của Tôi. Vì sao nhận biết? Như trong luận của Tôi, kệ nói:

Xá ma chỉ mắt thấy

Một loại gọi trượng phu

Đa văn nói đời sau

Như người nói dấu thú.

Ông nay rất đoan nghiêm

Mặc sức ăn nhận lấy

Nghiệp quá khứ đều không

Thân này chỉ hành tụ.

Người chết rồi chẳng về

Việc ấy ông nên tin.

Do vậy nên biết: Không một pháp nào từ đời này đến đời sau. Cũng không có người từ đời sau trở lại nhập thai. Hoặc có người nói: Thai này trở về trước lại có đời trước. Làm sao nghiệm xét để biết? Nghĩa là sự việc nhập thai này đầu tiên nhận biết, thứ đến tâm trước diệt làm thứ đệ duyên. Vì sao? Vì do nhận biết. Như sau khởi hiểu biết. Dụ này là không đúng. Vì sao? Vì chỉ có một hiểu biết. Do một hiểu biết ấy cho đến chưa chung cuộc, luôn trụ như thế nên không có đời trước. Lại nữa, cũng không có đời sau, thì do đạo lý nào để nói như thế? Như Điều-đạt tâm mạng chung không tạo tâm đầu tiên nhập thai của đời sau. Vì sao? Vì tâm mạng chung. Như tâm mạng chung của A-la-hán.

Luận giả nói: Các hành lưu chuyển, trong thế đế không ngăn trừ. Các hành là thường, cho là lưu chuyển: Đây cũng cùng ngăn trừ, nên chẳng phải là thành chỗ thành của ông. Lại nữa, sắc giác của Điều-đạt cùng với thanh giác của Điều-đạt, ở đây chẳng phải là không khác. Vì sao? Vì cảnh giới có sai biệt. Ví như kẻ khác thân giác nối tiếp. Do nghiệm xét như thế nên có thí dụ, chẳng phải là trong thế đế, đời trước chẳng thành. Lại nữa, chẳng phải là không có đời sau. Làm sao nghiệm xét? Nghĩa là tâm mạng chung hữu lậu kia, có thể kế tục tâm thọ thai đầu tiên của đời sau. Vì sao? Vì do là hữu lậu, nên cùng với tâm mạng chung ấy là nhân sai biệt, tức ở trong thế đế, nghĩa là không trái nhau.

Lại nữa, Lộ-già-da-đà nói: Trong đệ nhất nghĩa, giác của Điềuđạt cùng với giác của tất cả người cũng không khác. Vì sao? Vì do là giác. Như giác của Điều-đạt.

Luận giả nêu: Lời của ông là sai trái. Giác của Điều-đạt kia, trong đệ nhất nghĩa trước đã ngăn trừ. Lại, ông nói: Trong đệ nhất nghĩa, so với giác của tất cả mọi người là không khác, chấp ấy là không thành. Ở trong thế đế lập không khác, tức cùng với thế gian trái nhau. Lại nữa, tâm mạng chung của A-la-hán ấy có niệm nối tiếp không niệm nối tiếp, trong đệ nhất nghĩa, những thứ ấy đều không thành. Thí dụ là không, nên sự thành lập là có lỗi. Nếu lập tâm vô lậu không kế tục đời sau, thì ở trong thế đế thành chỗ thành của Tôi.

Lại nữa, Độc-tử-bộ nói: Như Tôi lập nghĩa về ấm giới nhập, hoặc một hoặc khác, hoặc thường hoặc vô thường đều không thể nói. Người cũng như thế. Ông trước đã nêu về hai thứ lỗi lầm, là không thể luận phá Tôi. Vì sao? Vì người như thế là có lưu chuyển. Luận giả nêu kệ:

Nếu người có lưu chuyển

Trong các ấm giới nhập

Năm thứ cầu đều không

Ai là thọ lưu chuyển?

Giải thích: Không lưu chuyển. Làm sao nghiệm xét biết? Nơi đệ nhất nghĩa, không người có thể đạt được. Vì sao? Vì lìa ngoài năm ấm, không có Thể riêng. Cũng như sừng thỏ. Tuy thật không có người, nhưng ông cho là có. Nghĩa này do ngã chấp ngăn che tuệ thật. Như người mắt bị màng che thấy những vòng li ti. Lại nữa, kệ nói:

Nếu từ thủ đến thủ

Tức tạo lỗi có không

Không thủ lại không có

Cái gì sẽ qua lại?

Giải thích: Nếu từ thủ này hướng tới thủ sau, thì thể của thủ tức không. Gốc do thủ nên thiết lập nơi hữu. Thể của thủ đã không thì hữu không có chỗ gá dựa. Không thủ không hữu tức không có chất ngại. Không chất ngại nên không thể lưu chuyển. Nhưng ông nhất định cho là có qua lại, tức là không đúng.

Ngoại nhân nói: Trong trung hữu của ngã có thủ ấm, nên nghĩa của thủ được thành, không có lỗi lầm trước. Dị Bộ luận phá nói: Ông cho là lúc bỏ trung hữu, hướng tới sinh hữu, thì trung gian của hai thứ ấy không có thủ không có hữu, tức lỗi lầm như trước, ông chẳng thể lìa.

Lại nữa, người của Kinh Bộ v.v… nói: Ông ở đây nêu bày như thế, là không hiểu nghĩa của Tôi. Vì sao? Vì bỏ cùng nhận lấy này, nơi sát-na trước sau là đồng một lúc, mà nói không có thủ không có hữu, nghĩa ấy là không đúng. Như ông trước nói năm thứ cầu tìm đều không thì cái gì lưu chuyển. Nay sẽ đáp lời ông là có người như thế. Vì sao? Vì phải hướng tới thủ sau để trụ. Ở đây nếu không có, thì không thể nói hướng tới trong thủ sau để trụ. Như con của Thạch nữ. Do có người ấy, từ nơi thủ trước hướng tới thủ sau để trụ. Làm sao nghiệm xét để nhận biết? Như Đức Phật nói: Ta ở nơi thời xa xưa làm vua Đảnh Sanh cùng vua Thiện Kiến. Thế nên biết là có người từ đây đến kia.

Luận giả nêu rõ: Như kệ trước nói: Nếu từ thủ đến thủ, Tức tạo lỗi có không. Nghĩa này là thế nào? Thủ của hữu trước không tạo nhân nương dựa của hữu sau. Vì sao? Vì lìa tự tánh của hữu, thì hữu là vô thể. Ví như Điều-đạt, từ một phòng này đến một phòng kia. Như ông đã nói, có các thủ kia có thể thành người, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì do giữ lấy. Như người khác giữ lấy. Vì vậy kệ nói: Không thủ lại không có, Cái gì sẽ qua lại? Như thế, các hành cùng do chúng sinh, trong đệ nhất nghĩa có lưu chuyển, là đều không đúng.

Lại nữa, chấp có giải thoát, cũng nên quán xét. Giải thoát này, vì là các hành hay vì là chúng sinh, vì sẽ là người? Nếu nói các hành được giải thoát, thì nay các hành ấy, là thường chăng, là vô thường chăng? Nếu ông muốn khiến trong đệ nhất nghĩa, các hành là thường, tức là không đúng. Như kệ nêu:

Các hành là Niết-bàn

Sự ấy trọn không đúng.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, do không khởi nên các hành là thường, thì ở trong thế đế cũng không thành. Nếu trong đệ nhất nghĩa, các hành vô thường đạt được Niết-bàn, là cũng không đúng. Vì sao? Vì do vô thường. Như đất v.v… bên ngoài. Nếu cho chúng sinh được giải thoát, thì cũng không đúng. Như kệ nói:

Chúng sinh là Niết-bàn

Sự ấy cũng không đúng.

Giải thích: Hoặc thường hoặc vô thường, hoặc có phân biệt, hoặc không phân biệt đạt được Niết-bàn, là đều không đúng. Vì sao chúng sinh là thường, không đắc Niết-bàn? Vì không có các căn đầy đủ như thấy nghe v.v… Ví như hư không. Hoặc chẳng phải là chất ngại. Lại, không thấy nghe nhưng là có: Là điều thế gian không tin. Như Thạch nữ. Nếu cho vô thường đắc Niết-bàn, là cũng không đúng. Vì sao? Vì nếu vô thường là không có nghĩa giải thoát. Như đất v.v… bên ngoài. Đã nghiệm xét vô thường không đắc giải thoát, thì chỗ lập của Ngoại nhân về thể của pháp có sai biệt được giải thoát, là đều không thành. Nghĩa được lập có lỗi.

Lại nữa, Bà-tư-phất-đa-la nói: Như Tôi lập nghĩa, nói có người, nhưng chẳng thể nói thường cũng chẳng phải là vô thường. Do như thế nên nghĩa giải thoát thành, không có lỗi như trên.

Luận giả nêu rõ: Ông cho trong đệ nhất nghĩa, người là thật có, không thể nói thường cùng là vô thường, được giải thoát, là cũng không đúng. Vì sao? Vì đã dựa nơi nhân để thiết lập. Ví như bình chén v.v…, như thế tức bị phá. Nếu là pháp thật, cũng là vô thường. Ví như sắc v.v… Do nghiệm xét này, nên ông lập người thật, tức là có thể nói thể là vô thường. Ông nói thể của pháp có sai biệt không thể nêu bày, lời nói ấy tức hoại, nghĩa được lập có lỗi.

Lại nữa, Niết-bàn vô dư, nơi lúc một sát-na, người nếu có Thể tức là lỗi về thường, người nếu vô thể tức là lỗi về đoạn. Nếu nói Niết-bàn vô dư, nơi lúc sát-na kia, người không thể nói là có Thể vô Thể, đây tức cùng với nghĩa của Luận trong ngã là đồng. Như kệ của Kinh nói:

Giải thoát nếu có ngã

Có ngã tức là thường

Giải thoát nếu không ngã

Không ngã tức vô thường.

Lại nữa, ở đây lập nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, duyên nơi sự hiểu biết của người là cảnh giới không thật. Vì sao? Vì do có hiểu biết. Ví như duyên nơi bình chén v.v… để hiểu biết. Do nghiệm xét về người kia không có một vật, nên trong đệ nhất nghĩa tức không giải thoát. Nếu ông nhất định nói người là pháp thật. Vì sao? Vì do có thể nhận thức. Ví như sắc v.v…, nghĩa này là không đúng. Vì các vật vô thường, cùng là có thể nhận thức, không có Thể riêng, nên như sừng thỏ. Nhân chẳng phải là toàn bộ.

Lại nữa, người của Tự Bộ nói: Do nhân duyên nên lần lượt nối tiếp, các hành tăng trưởng. Nếu cùng với các phiền não như tham v.v… cùng khởi, ngăn che nẻo thiện. Tham v.v… là có, nên nghĩa trói buộc được thành. Nếu người bị trói buộc lắng nghe chánh pháp, chánh niệm tư duy, phát sinh tuệ sáng, trừ bỏ bóng tối vô trí, được lìa tham v.v… gọi là giải thoát. Do nghĩa này nên buộc, mở được thành. Ông vì sao nói không buộc không mở? Luận giả nêu kệ:

Tướng sinh diệt các hành

Không buộc cũng không mở

Chúng sinh như trước nói

Không buộc cũng không mở.

Giải thích: Như trước đã nói: Các hành là thường, các hành là vô thường đều không lưu chuyển. Như đất v.v… bên ngoài. Nay cũng như thế. Các hành, chúng sinh hoặc thường hoặc vô thường, có buộc mở: Đấy đều là không đúng. Như đất v.v… bên ngoài. Thế nên các Bộ, như chỗ phân biệt, trong đệ nhất nghĩa, tất cả các hành lưu chuyển, Niết-bàn, điều ấy đều không đúng. Chấp đó là thế nào? Người kia cho các hành luôn nối tiếp diệt hoại. Hoặc trước trụ như thế, cho đến thời gian sau mới có hoại diệt. Hoặc cho không thể nói về thường cùng vô thường, vì các hành này đều không lưu chuyển cùng Bát Niết-bàn. Vì sao? Vì là có sinh diệt. Ví như các thứ bình chén v.v… Như kệ trước nói: Các hành có sinh diệt, Không buộc cũng không mở v.v… Do các hành không trụ. Vì sao? Vì sát-na sátna nơi lúc riêng mà khởi. Trong phần vị của tướng ấy có buộc mở, nghĩa này không đúng, như trước đã nêu. Ông nói các hành cùng với tham cùng khởi. Ở đây đã diệt, nên là pháp đã diệt được giải thoát, tức là không đúng. Các hành vị lai sẽ khởi, sát-na được giải thoát, điều ấy cũng không đúng, do trái nhau. Như kệ nói: Các hành có sinh diệt, Không buộc cũng không mở.

Lại nữa, người A-tỳ-đàm nói: Như kệ nơi Luận Câu Xá của Tôi nói:

Lúc tâm vô học sinh

Các chướng được giải thoát.

Ông vì sao nói đều không có buộc mở?

Luận giả nói: Tâm kia lúc sinh, hoặc có nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô, cùng không giải thoát, vì có lỗi lầm, nên không thể nói. Tâm kia lúc nhiễm ô, cũng như lúc sinh ở trên. Hoặc có nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô, đều không giải thoát, vì không thể nói. Lại nữa, người của Kinh Bộ nói: Trong đạo nối tiếp, có buộc có mở, nên không có lỗi. Luận giả nói: Sự nối tiếp ấy, không có thể thật, nên trong đạo nối tiếp, hoặc có nhiễm ô hoặc không nhiễm ô, cũng không giải thoát, như trước đã luận phá. Ở trong thế đế, buộc mở là thành, nên không có lỗi về đoạn thường. Nếu chấp chúng sinh có buộc mở, nay đáp lại nghĩa này. Như kệ ở trước nói: Chúng sinh do không Thể, Pháp buộc mở cũng không. Lại như kệ nói:

Các hành thường, vô thường

Đều không buộc không mở

Chúng sinh thường vô thường

Cũng không buộc không mở.

Ở đây, ý chính là như thế.

Lại có người cho: Có chúng sinh kia chìm đắm nơi các thủ, nên gọi là trói buộc. Buộc ấy dứt nên gọi là được giải thoát. Nhưng chúng sinh này thường cùng vô thường đều không thể nêu bày. Trước nói các hành hoặc thường hoặc vô thường đều có lỗi, Tôi không có lỗi ấy. Luận giả nêu kệ:

Nếu bị các thủ buộc

Người buộc không giải thoát.

Giải thích: Nhân nơi các thủ nên nói là người chấp thủ. Người này đang bị các thủ trói buộc, nên gọi là người giải thoát, nghĩa tức không đúng. Vì hai pháp buộc mở tánh là trái nhau. Lại nữa, trong đệ nhất nghĩa, thủ của Điều-đạt, thủ này không tạo ông Điều-đạt kia. Vì sao? Vì do chấp thủ. Như thủ của Da-nhã. Nếu nhất định như ở đây, trước không có thủ kia nhưng có kẻ kia, thì nghĩa tức không đúng. Như kệ nói:

Không thủ nên không buộc

Người nào có thể buộc?

Giải thích: Nếu lìa phần vị thủ, thì không có phần vị người riêng. Do nghĩa này nên không có người có thể bị buộc. Ý của kệ là như thế. Lại có người nói: Nhất định có chúng sinh là người có thể bị buộc ấy. Vì sao? Vì do có trói buộc. Như có các dụng cụ như gông cùm, khóa v.v… đã giam cấm kẻ kia. Do các thủ này là chủ thể trói buộc, nên biết có chúng sinh là đối tượng bị trói buộc. Luận giả nêu kệ:

Nếu người buộc trước buộc

Chủ thể đối tượng buộc

Nhưng trước thật không buộc

Trong đến đi đã ngăn.

Giải thích: Ông cho trước có dụng cụ trói buộc, nên có chúng sinh là đối tượng bị trói buộc. Nhưng trước người buộc thật sự là không có dụng cụ trói buộc. Làm sao nghiệm xét? Do Điều-đạt không bị trói buộc. Vì sao? Vì do đồng thời. Như thể của Điều-đạt. Lại nữa, người đã buộc, không buộc. Vì sao? Vì đã bị buộc. Người đã bị buộc không còn buộc nữa, như không giải thoát. Người chưa buộc, cũng không buộc. Vì sao? Vì do không buộc. Như người giải thoát. Lúc buộc cũng không buộc. Vì sao? Vì người kia lúc buộc, một phần đã buộc, một phần chưa buộc, là có hai lỗi. Lại nữa, không thể nói, cũng là nghĩa không buộc. Vì sao? Vì không thể nói. Như lúc giải thoát là đã thoát, điều ấy tức không đúng.

Lại nữa, trong Phẩm Quán Về Đến Đi đã phân biệt rộng: Đã đi, chưa đi cùng lúc đi, có sự phát khởi đầu tiên, cả ba đều không đúng. Đây cũng như thế. Đã buộc, chưa buộc cùng lúc buộc, có sự phát khởi đầu tiên của buộc, cả đều không đúng. Vì sao không đúng? Vì người đã buộc kia, lại có sự phát khởi đầu tiên của buộc, nghĩa tức không đúng. Vì sao? Vì do đã buộc. Ví như người từ lâu xa đã buộc. Người kia chưa buộc, có sự phát khởi đầu tiên của buộc, là cũng không đúng. Vì sao? Vì do chưa buộc. Ví như người từ lâu đã giải thoát. Nếu cho lúc buộc có sự phát khởi đầu tiên của buộc, là cũng không đúng. Vì sao? Vì cả hai cùng có lỗi. Và không thể nói. Như lúc giải thoát.

Hỏi: Ý của Tôi nhất định cho là có buộc như thế. Vì sao? Vì có trái nhau. Ví như trí tuệ đối trị không hiểu biết. Đối trị của trói buộc, đó là giải thoát. Do giải thoát nên trói buộc tức chẳng phải là không có?

Đáp: Nếu ông nhất định cho là có giải thoát, như vậy là đã trói buộc, là chưa trói buộc, là lúc đang trói buộc có giải thoát chăng? Cả ba đều không đúng. Như kệ nói:

Người buộc tức không mở.

Giải thích: Lúc đạo đối trị buộc chưa khởi, đấy gọi là buộc, không được gọi là mở. Vì sao? Vì không có đối trị. Như kẻ bị trói buộc đủ. Kệ nói:

Người chưa buộc không mở.

Giải thích: Do buộc là không, nên người buộc là không. Ở trong thế đế, buộc là vô thể. Như người từ lâu được giải thoát. Nếu cho vào lúc mở gọi là giải thoát, thì cái gì là lúc mở, nên ông nhất định nói. Nếu đã buộc gọi là lúc mở, thì cũng không đúng. Kệ nói:

Lúc buộc có người mở

Buộc mở tức một lúc.

Giải thích: Buộc mở đồng thời, chẳng muốn như thế. Do đấy người kia lại muốn giữ lấy buộc, lại muốn giữ lấy mở. Nếu như vậy là có lỗi của buộc mở không thể tránh. Do như thế nên trong đệ nhất nghĩa có người giải thoát, nghĩa này là không đúng. Như ông ở trên nói là có trái nhau cùng đối trị. Ở đây, nhân, thí dụ, cả hai đều không thành, nghĩa lập có lỗi.

Ngoại nhân nói: Trong đệ nhất nghĩa, giải thoát là có. Vì sao? Vì người cầu giải thoát đã có hy vọng. Quả nếu là không, thì trọn không khiến kẻ kia khởi tâm hy vọng. Ví như ngọc báu Đồn độ bà xà đảnh. Do nhất định là có, nên người cầu giải thoát khởi tâm hy vọng. Như kệ nói:

Ngã diệt không các thủ

Ngã sẽ đắc Niết-bàn.

Giải thích: Vì sao nên nhận biết có Niết-bàn? Ví như lửa trên củi tắt, do đó nhất định có Niết-bàn có thể chứng đắc. Luận giả nói: Ông cho ngã diệt không có các thủ nên đạt được Niết-bàn, chấp ấy là không đúng. Như kệ nói:

Thọ nhận chấp như thế

Chấp ấy là không đúng.

Giải thích: Nếu khởi duyên nơi thủ như thế, ta sẽ đạt được Niếtbàn. Đây chẳng phải là chấp thiện, Vì sao? Vì chấp bất thiện ở đây đã ngăn che giải thoát. Ý của kệ chính là như vậy. Lại nữa, thủ không có tự thể, nhưng cho thủ làm duyên của cảnh thì đấy là trí đã khởi phân biệt tà vạy, gọi là chấp bất thiện. Do đó ông nói: Kẻ cầu giải thoát có hy vọng nên lấy đấy làm nhân, thì nhân ấy chẳng thành. Như vậy, quán xét đúng về các hành, chúng sinh cùng với người kia có buộc mở, tất cả đều không đúng. Như A-xà-lê chỉ dạy những người tu học, nói kệ này:

Không nên bỏ sinh tử

Không nên lập Niết-bàn

Sinh tử cùng Niết-bàn

Không hai không phân biệt.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, sinh tử – Niết-bàn là một tướng, không sai biệt, như tướng hư không. Không phân biệt trí, cảnh. Không tích tập, không phân tán, chẳng phải là pháp thật. Vì thế không nên tạo phân biệt là lìa bỏ sinh tử an trụ nơi Niết-bàn. Hoặc lập hoặc phá bỏ, đều là trí phân biệt, tự cho có thể đạt được cảnh giới của vật. Nếu là người có thể đạt được cảnh giới của vật, thì đấy đều là pháp tu tán.

Lại nữa, hoặc có chúng sinh, có thể dùng Niết-bàn để giáo hóa, thì vì dẫn dắt họ nên nói có Niết-bàn. Thế nào là an lập? Chỉ đối với các hành bất thiện của vị lai phân biệt dứt trừ tướng phiền não không sinh khởi. Đó tức gọi là Niết-bàn tịch diệt, nên gọi là an lập. Lại vì khiến các chúng sinh kia chán lìa sinh tử, nói như vầy: Sinh tử khổ nhiều, ông nên lìa bỏ. Vì sao? Vì các hành lần lượt từ duyên khởi, tự thể là không thật, như huyễn mộng. Tức nói những thứ ấy gọi là sinh tử. Lìa bỏ chúng nên gọi là Niết-bàn. Trong môn thế đế nêu bày như vậy, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa các hành là không. Tướng phiền não dứt gọi là Niết-bàn, những thứ ấy cũng không. Không nên nêu lập có nb riêng, do các hành kia tự thể là không sinh khởi, xưa nay vắng lặng như Niết-bàn. Nhưng muốn an lập là Niết-bàn, nghĩa ấy không đúng. Xả bỏ sinh tử, tức cũng không nên. Như kệ trước đã nói: Không nên bỏ sinh tử, Không nên lập Niết-bàn. Sinh tử cùng Niết-bàn, Không hai không phân biệt. Nên lãnh hội như thế về sinh tử Niết-bàn. Trong đệ nhất nghĩa không có sai biệt. Nếu cho hai thứ ấy cảnh giới có sai biệt, do cảnh khác nên tuệ cũng khác, thì cả hai đều không đúng. Như Ngoại nhân kia nơi phần đầu của phẩm đã nói: Trong đệ nhất nghĩa có là sinh tử, có buộc mở nên dùng làm nhân, thì nghĩa ấy không đúng. Do người kia nói nghiệm xét thành lập pháp, Luận giả trước giờ đã làm rõ các lỗi ấy, khiến kẻ khác hiểu rõ sinh tử Niết-bàn là không, không thật có, là nghĩa của phẩm này, thế nên được thành. Như trong Kinh Bát nhã Ba-la-mật, Đức Phật nói với Bồ-tát Cực Dũng Mãnh: Này thiện nam! Sắc không buộc không mở. Thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Nếu sắc cho đến thức không buộc không mở thì đó gọi là Bát nhã Ba-la-mật.

Lại như nơi Kinh Phạm Vương Sở Vấn nêu rõ: Đức Phật nói: Này Phạm vương! Ta không bị sinh tử, không đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì nói sinh tử, chỉ là Như Lai giả thiết lập, nên ở trong ấy không có một người nào lưu chuyển. Nói Niết-bàn, cũng là giả nêu đặt, tức không có một người nào Bát Niết-bàn.

Các Kinh như thế ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Buộc Mở.

HẾT – QUYỂN 9