BÁT NHÃ ĐĂNG LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Kệ bản)
Bồ tát Phân Biệt Minh giải thích
Hán dịch: Đời Đường, Đại sư Ba La Phả Mật Đa La
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

Phẩm thứ 20: QUÁN VỀ NHÂN QUẢ HÒA HỢP

Nay nơi Phẩm này, cũng là nhằm ngăn trừ về đối tượng đối trị của không, do người của Tỳ-thế-sư v.v… Ở trong phẩm trước đã lập thời không thành, nên nêu bày.

Người của Tỳ Bà Sa và người của Tăng khư cùng nói: Trong đệ nhất nghĩa có thời như thế, vì quả có sinh diệt. Như hạt giống cùng với nước đất hòa hợp, do thời tiết có thể nên mầm được sinh. Nếu không có nhân, thì quả tức không sinh. Do đấy nên như trước đã nói, nhân có sức mạnh, nên biết là có thời.

Luận giả nêu: Nếu có thuyết nói nhân duyên hòa hợp nên có quả sinh, nay sẽ đáp lại, như kệ của Luận nói:

Nếu cho các nhân duyên

Hòa hợp nên quả sinh

Quả ấy trước đã có

Đâu cần hòa hợp sinh.

Giải thích: Trong hòa hợp nếu có quả, thì mắc phải lỗi như thế. Vì sao? Vì có chẳng sinh. Nếu có từ trong hòa hợp sinh, thì có làm sao sinh? Nếu nói là sinh thì trong hòa hợp tức không. Vì sao? Vì có cùng với sinh, hai pháp là trái nhau. Lại nữa, nếu có quả tức không sinh, do đã có. Quả nếu đã có thì không cần sinh nữa. Vì sao? Vì sinh cùng với chẳng sinh, hai pháp là trái nhau. Nếu có người nói trong nhân duyên hòa hợp không có quả, nhưng có thể sinh quả, nay nên đáp lại, như kệ của Luận nói:

Nếu cho các nhân duyên

Hòa hợp nên quả sinh

Trong hòa hợp không quả

Sao cần hòa hợp sinh.

Giải thích: Đây cho quả chẳng sinh, do không có sinh. Ví như sừng thỏ. Nếu không sinh thì thể của pháp sinh hoại. Là nghĩa của ông có lỗi. Nếu lập trong nhân duyên hòa hợp có quả, nay nên luận phá lần nữa. Như kệ của Luận nói:

Nếu cho các nhân duyên

Hòa hợp nên có quả

Quả ấy có thể lấy

Nhưng thật không thể lấy.

Giải thích: Đây tức là quả không thể giữ lấy. Vì sao? Vì một tâm muốn giữ lấy nhưng không thể giữ lấy, vì quả là không. Từ đây tiếp xuống là tạo nghiệm xét. Trong hòa hợp có mầm gọi là quả, cũng không thể giữ lấy. Vì sao? Vì trong hòa hợp không có quả nên không thể giữ lấy. Nếu không thể giữ lấy, thì trong ấy tức không. Ví như trong chủng loại không có bình chén, vải lụa. Như thế, ở trong hòa hợp không có mầm gọi là quả, nên không thể giữ lấy. Người của Tăng khư nói: Người kia cho trong hòa hợp không thể giữ lấy, là cũng có nghĩa ấy. Đó là rất xa, rất gần, cùng các căn bị tổn hại. Lúc tâm mê muội, có chướng ngại ngăn cách đối với giữ lấy, nên tuy có Thể của vật, nhưng không thể giữ lấy, chẳng phải toàn bộ là không nên không thể giữ lấy. Nếu nói là không tức lỗi của người kia nên nhân lập nghĩa.

Lại nữa, lại có người của Tăng khư khác nói: Như trước đã nêu về lỗi, nay nên nói lại. Trên kia đã nêu ra nhân nói không thể giữ lấy, vậy nhân này có những nghĩa gì? Tức là hiện lượng không thể giữ lấy chăng? Như các căn thức mà thật là có, cũng không là đối tượng được giữ lấy của hiện lượng, nên người kia lập nhân chẳng phải là toàn bộ. Nếu do nghiệm xét về lượng không thể giữ lấy, thì nghĩa của nhân không thành, cũng như nghiệm xét về quả trong nhân, có giữ lấy có thể lường tính. Nếu có thể lường tính, thì nhân tức chẳng không. Ví như có Thể của quả. Như thế hai thứ khổ vui có thể làm nhân của ba phiền não như tham sân các kiến. Năm thứ như sắc, thanh, cũng có thể làm nhân của ba phiền não như tham sân v.v… Do nhân ấy cùng có nghiệm xét về lượng, nên quả trong nhân có giữ lấy. Ông tuy nói hiện lượng không thể giữ lấy, nhưng nay nghiệm xét về lượng là có thể giữ lấy, nên người kia nêu ra nghĩa của nhân là chẳng thành. Nếu hiện lượng cùng nghiệm xét về lượng đều không thể giữ lấy, thì điều ấy trái với nghĩa của Tôi và nhân không thành.

Luận giả nói: Đạo của Tôi cho là không thể giữ lấy, nghĩa là ở trong nhân duyên hòa hợp, rốt ráo là không có quả, nên không thể giữ lấy. Ông cho là rất xa v.v… cũng không thể giữ lấy, chẳng phải toàn bộ là không, thì trong thế đế cũng không có lý ấy, huống hồ là nơi đệ nhất nghĩa. Ở trong đệ nhất nghĩa cũng không có các vật rất xa v.v… Như khổ vui sắc thanh v.v… nêu trên, ở trong đệ nhất nghĩa cũng không. Tức là nghĩa của nhân không thành, nên nói về quả, thì quả cũng không tự thể. Nếu trong nhân không quả, thì trong thế đế quả cũng chẳng sinh. Ví như cái khuôn không thể sinh ra nhân của khuôn, cũng không thể sinh ra nhân. Ông nói nhân có thể sinh ra quả, ở trong thế đế cũng đã bị luận phá. Lại có người của Tăng khư khác nói: Nếu lúc nhân chưa sinh, trước không có Thể của nhân, quả cũng trước không có, nhưng sau mới sinh. Luận giả nêu: Nay nên nói về nghiệm xét. Nếu trước không nhân, sau cũng chẳng sinh, vì không có. Ví như hoa nơi hư không, Thạch nữ v.v… nói rộng như trước nói về nghiệm xét. Nay lại đáp chung. Người của Kinh Bộ cùng Tỳ-thếsư cùng cho trong nhân không có quả. Như kệ của Luận nói:

Nếu cho các nhân duyên

Hòa hợp không có quả

Tức là các nhân duyên

Cùng phi nhân duyên đồng.

Giải thích: Đây nói không có quả, nghĩa là quả không. Vậy nhân cùng với quả, thế nào là sai biệt? Tướng của nhân: Nghĩa là từ quả sinh, vô gián sinh, tự phần sinh cùng sai biệt. Đó là tướng của nhân. Tướng của duyên: Nghĩa là sinh chung vô số quả, có thể nuôi lớn tha khiến tha nối tiếp, cho đến nơi xứ xa sinh chung các quả, chẳng phải tự phần sinh có thể tạo lợi ích rộng. Như vậy cùng gọi là tướng sai biệt của nhân duyên. Cùng phi nhân duyên đồng: Nghĩa là phi nhân duyên không sinh quả. Vì sao? Vì quả là không. Do đấy nên nhân duyên cùng với phi nhân duyên đồng.

Lại nữa, nay vì người chấp trong nhân không có quả, nên nêu ra nghiệm xét, trong đệ nhất nghĩa, hạt giống cùng các nhân duyên không thể sinh quả. Vì sao? Vì quả là không. Ví như phi nhân duyên. Lại như người của Kinh Bộ nói: Duyên có thể sinh quả. Vì sao? Vì có duyên quyết định có thể sinh quả. Nếu quả là không, thì nghĩa không tương ưng.

Luận giả nêu rõ: Trong đệ nhất nghĩa không có nghiệm xét như thế, trở lại đồng với lỗi phi nhân duyên ở trên. Muốn khiến kẻ khác tin hiểu, sự nghiệm xét của ông là không có sức mạnh.

Người của Kinh Bộ lại nói: Thấy hạt giống lúa mạch có thể sinh mầm lúa mạch. Do đấy nên người kia nêu ra nhân là không có nghĩa lý. Luận giả nói: Trong thế đế, thật sự là thấy hạt giống lúa mạch sinh ra mầm lúa mạch, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Nếu ở trong đệ nhất nghĩa, lúa mạch sinh ra mầm, nghĩa ấy là không đúng. Quán xét như thế cho là có quả sinh, là không đúng. Như trước đã đáp. Ông lập quả sinh diệt, dùng làm nhân, cho quả có sinh diệt là không đúng. Lại nữa, nay xin hỏi: Cho trong nhân không có quả, thì nhân sinh quả rồi diệt, hay là chưa sinh quả mà diệt trước? Người kia đáp: Tôi có lỗi gì vì hai câu hỏi ấy? Luận giả nói: Nghĩa không tương ưng. Như kệ của Luận nói:

Cho quả tạo công năng

Rồi nhân mới hoại diệt

Cho nhân cùng diệt nhân

Tức nên có hai Thể.

Giải thích: Đây tức cho ở trong thế đế cũng không muốn khiến người cho, người diệt, một pháp mà có lỗi có hai thể.

Lại nữa, nếu chưa cho quả, tạo công năng mà đã diệt trước, nay sẽ đáp tiếp theo. Như kệ của Luận nói:

Nếu nhân chưa cho công

Nhưng nhân đã diệt trước

Nhân diệt mà quả khởi

Quả ấy tức không nhân.

Giải thích: Đây nghĩa là chẳng muốn không nhân mà có quả. Vì thế nên chẳng phải nhân diệt rồi mà quả mới sinh. Vì sao? Vì đã diệt. Ví như từ lâu đã diệt. Nghĩa này thì tất cả thế gian cùng hiểu rõ, nên cũng không cần khiến vật được giải thích lãnh hội lần nữa. Người của Kinh Bộ lại nói: Pháp hòa hợp khởi có đồng thời có thể sinh quả. Như đèn cùng với ánh sáng đồng thời sinh khởi. Nghĩa này nên như thế. Luận giả nói: Nếu cho đồng thời mà sinh quả, thì cũng không đúng. Như kệ của Luận nêu:

Nếu đồng thời hòa hợp

Mà có thể sinh quả

Chủ thể, đối tượng sinh

Cùng rơi trong một thời.

Giải thích: Đây cho là có lỗi đồng thời, nhưng không muốn khiến hai pháp chủ thể sinh cùng đối tượng được sinh có lỗi ấy. Như hai cha con đồng thời sinh khởi, tức có lỗi như trên.

Lại nữa, thế nào là khác thời sinh khởi? Nghĩa là nhân quả của đối tượng được sinh và chủ thể sinh là hai. Nay tiếp tục tạo nghiệm xét. Chẳng phải là quả cùng với nhân hòa hợp đồng thời cùng khởi. Vì sao? Vì đối tượng được sinh và chủ thể sinh là hai. Ví như hai cha con. Như trước đã nói, có bầu đèn, tim đèn, dầu cùng hòa hợp có sức mạnh. Trong thế đế, đèn cùng với ánh sáng đồng thời khởi. Chẳng phải là đèn cùng với ánh sáng hướng vào nhau làm nhân quả. Thế nên ông nói là không phải.

Lại có người của Tăng khư khác cho: Trước, chưa hòa hợp, quả đã khởi trước. Sau, vào lúc hòa hợp là mới hiển hiện. Luận giả đáp nói: Không có nghĩa này. Như kệ của Luận nêu:

Nếu trước chưa hòa hợp

Đã có quả sinh khởi

Lìa nhân duyên ấy rồi

Quả khởi tức không nhân.

Giải thích: Đây tức cho lìa nhân duyên hòa hợp mà trước có quả, trong thế đế thật cũng không thấy có sự việc như thế. Do đấy, trong pháp Phật của Tôi không có quả khởi trước. Ông nói về sau thì hiển bày rõ, việc ấy trước đã đáp xong.

Lại có người của Tăng khư khác nói: Pháp của nhân tuy đã diệt, nhưng đến lúc quả khởi thì cũng có Thể của nhân trụ.

Luận giả nêu rõ: Nếu nhân diệt rồi nhưng thể không xả bỏ, tức trụ là thể của quả, không có nghĩa như vậy. Vì sao? Như kệ của Luận nói:

Nếu nhân biến làm quả

Nhân tức có hướng đến

Trước có mà lại sinh

Tức có lỗi sinh nữa.

Giải thích: Ở đây cho thể của nhân là quả, nhưng thể không bỏ. Như Đề-bà-đạt-đa không bỏ ngôi nhà này để đến ngôi nhà kia. Vì sao? Vì thể của nhân đã có, nhưng lại khởi nữa, tức là sinh lần nữa. Đã không sinh quả, là hoàn toàn không tạo tác. Lại nữa, nếu cho tức nhân biến làm quả: Tức là không gọi là biến đổi. Biến đổi không gọi là tức là. Như khối đất bùn không tức là bình chén. Khối đất bùn diệt rồi mà có bình chén sinh, thì không thể xưng là biến đổi, chẳng biến đổi. Ví như tự thể của đất bùn. Người của Tăng khư lại nói: Nhân có thể sinh quả. Nghĩa của Tôi là như thế, nên không có lỗi như trên.

Luận giả nói: Nếu không bỏ thể của nhân mà gọi là quả: Là chỉ có danh tự sai biệt, nhưng không có Thể của quả. Như trên đã nói về lỗi, ông không thể tránh khỏi. Nếu bỏ thể của nhân, thể của quả lúc khởi mà nhân trở lại trụ trong thể của quả, nghĩa ấy là không đúng. Ông không lường xét nên nói như thế.

Lại nữa, nay nêu câu hỏi về người của Tăng khư khác chấp có như ông: Nhân có thể khởi, là nhân đã diệt rồi có thể khởi quả? Hay là nhân chưa diệt có thể khởi quả chăng? Cả hai đều không đúng. Như kệ của Luận nói:

Là đã diệt sinh quả

Là chưa diệt sinh quả

Nhân diệt rồi là hoại

Sao có thể sinh quả?

Giải thích: Đây tức cho đã diệt rồi thì không còn là nhân, sao có thể sinh quả? Hoặc nhân khởi rồi, nhưng thể không diệt, sao có thể sinh quả? Những điều ông đã nói, nghĩa không tương ưng. Lại có người của Tăng khư khác nói: Pháp thật luôn trụ, nhưng thể của vật trước diệt, thì thể của vật sau sinh, là có sự biến chuyển đổi khác ấy. Do nghĩa này nên thể của nhân không sinh, có thể sinh quả.

Luận giả nói: Điều ấy cũng có lỗi. Lúc thể trước diệt, thì pháp thật cũng diệt. Vì sao? Vì pháp thật cùng với thể của vật là không khác. Ví như thể của pháp đã diệt. Thể của pháp sau lúc khởi thì pháp thật cũng khởi. Vì sao? Vì pháp thật cùng với thể của vật là không khác. Ví như thể của pháp đã khởi. Như ông đã nêu, cùng với đạo lý của thế đế là mâu thuẫn. Nếu dựa nơi đạo lý của đệ nhất nghĩa, thì có Thể của pháp nào diệt? Có Thể của pháp nào sinh? Để nói là có biến chuyển đổi khác! Vì sao? Vì tất cả thời gian là không có. Do vậy, thí dụ ông đã nói, người ấy tức không đúng.

Lại nữa, ông nói thể của pháp trước diệt, thì thể ấy là thể của nhân hay là thể của chẳng phải nhân? Nếu là thể của nhân thì thể của pháp trước diệt, thể của nhân cũng diệt. Kệ nói nhân diệt, nghĩa là chẳng phải nhân đã diệt ấy, có thể khởi sức mạnh của quả. Lại, nếu pháp trước diệt chẳng phải là thể của nhân, như kệ của Luận nói:

Nhân quả hòa hợp trụ

Vì sao được sinh quả

Không cùng quả hòa hợp

Vật nào có thể sinh?

Giải thích: Đây tức cho nhân không sinh quả. Vì sao? Vì thể của nhân quả là chẳng khác. Như tự thể của nhân không tự sinh nhân. Nếu nhân cùng với quả hòa hợp cùng trụ, đã không sinh quả, nhân tức là vô dụng. Thể của pháp có điên đảo, là lỗi nơi nghĩa của ông đã lập. Hoặc có kẻ nói: Nhân không cùng với quả hòa hợp, thì cũng đáp lại như trên. Vật chẳng sinh quả. Vì sao? Vì quả là không. Ví như quả khác. Lại đã ngăn trừ chung về nhân có thể sinh quả. Nay sẽ nêu bày riêng. Ngăn trừ chấp quả như nhãn thức v.v… kia. Nếu nhãn thức ấy dùng mắt làm nhân, thì mắt ấy thấy rồi giữ lấy cảnh, hay là chưa thấy mà giữ lấy cảnh? Cả hai đều không đúng. Nếu mắt thấy mà giữ lấy cảnh, sau đấy thức sinh khởi, thì thức tức vô dụng. Nếu mắt không thấy cảnh mà giữ lấy, thì cảnh giới của sắc tức là vô dụng.

Lại có người nói: Trong đệ nhất nghĩa, nhân có thể sinh quả. Vì sao? Vì nhân cùng với quả tạo nhân. Nếu nhân không sinh quả tức là sữa chẳng phải là nhân của lạc (cao sữa). Ví như sữa cùng với bình chén. Luận giả nêu: Ông nói là không đúng. Vì sao? Như kệ của Luận nói:

Không có quả quá khứ

Cùng nhân quá khứ hợp

Cũng không quả chưa sinh

Cùng nhân đã sinh hợp.

Giải thích: Đây cho là nhân quả cùng không. Ví như sừng thỏ. Lại, nhân quá khứ do thời khác nên tức không cùng với quả hòa hợp. Lại, quả đã sinh chưa sinh cùng với nhãn đã sinh chưa sinh không hòa hợp, như kệ của Luận nói:

Quả đã cùng nhân chưa

Rốt ráo không hòa hợp

Quả chưa cùng nhân đã

Cũng lại không hòa hợp.

Giải thích: Đây là nói về thời khác, vì nhân quả là hai. Nên quả đã sinh cùng với nhân đã sinh chưa sinh, quả đã hoại cùng với nhân đã hoại chưa hoại, là không hòa hợp. Như kệ của Luận nêu:

Không có quả đã sinh

Cùng nhân đã sinh hợp

Cũng không quả đã hoại

Cùng nhân đã, chưa hợp.

Giải thích: Ở đây cho nhân quả hai thứ có thể đồng thời, như trước đã ngăn trừ, do thời có khác, nên nghĩa của ông nêu là chẳng thành. Tạo sự quán xét ấy, tức nhân cùng với quả hoàn toàn không hòa hợp. Như kệ của Luận nêu:

Nhân nếu chẳng hòa hợp

Sao có thể sinh quả?

Nhân nếu có hòa hợp

Sao có thể sinh quả?

Giải thích: Từ đây tiếp xuống là tạo nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa nhân không sinh quả, không có hòa hợp. Ví như hạt giống ở nơi đất, mầm không sinh ra nơi núi cao. Lại nữa, nay có đạo lý, nên so với chỗ chấp kia cho trong chủng loại lúa thóc không có quả, cùng có quả, đều có lỗi. Như kệ của Luận nói:

Trong nhân, quả nếu không

Sao có thể sinh quả?

Trong nhân, quả chẳng không

Sao có thể sinh quả?

Giải thích: Đây tức cho hạt giống không sinh quả, do quả là không, như trước đã đáp. Ví như quả khác. Trong nhân, quả chẳng không: Nghĩa là quả đã có, nên nhân chẳng sinh quả. Ví như nhân chẳng sinh. Nhân ấy trước đã đáp.

Người của Tỳ Bà Sa nói: Trước, quả chưa khởi, quả ấy trước đã có.

Luận giả nói: Không có nghĩa như thế. Nay vì ngăn trừ lỗi này, như kệ của Luận nêu:

Quả chưa khởi chẳng không

Chẳng không tức không diệt

Do không có khởi diệt

Quả bị lỗi chẳng không.

Giải thích: Đây là cho quả chẳng từ duyên khởi, vì quả có tự thể. Nếu có tự thể mà khởi, thì không có nghĩa như vậy. Vì đã có nên không cần khởi nữa. Nếu cho không khởi nhưng có quả, tức là thể của quả nên thường, không diệt. Do đấy nên quả bị lỗi chẳng không. Nhưng người chấp không muốn khiến quả có lỗi ấy. Như kệ của Luận nói:

Quả chẳng không, chẳng khởi

Quả chẳng không, chẳng diệt

Do quả chẳng không nên

Không sinh cũng không diệt.

Giải thích: Quả nếu không tức không khởi diệt. Nếu đã định là có thì không cần khởi nữa. Không sinh khởi nên không diệt. Do đấy nên quả nếu chẳng không thì làm sao có khởi diệt. Lại nữa, vì sao muốn được quả như thế? Vì là pháp khởi diệt. Quả nếu đã có tức không thấy có pháp khởi diệt. Ví như tướng hiện tại.

Lại có Lộ Già Da nói: Trước quả chưa khởi, quả không có tự thể. Vì sao thể của quả là không. Quả đã khởi, cũng không có Thể của pháp khác. Luận giả nói: Nói như thế là hư vọng, không có nghĩa lý. Tôi nay đáp lại ông. Vì sao? Như kệ của Luận nêu:

Quả không làm sao khởi

Quả không làm sao diệt?

Do quả là không, nên

Không khởi cũng không diệt.

Giải thích: Đây là cho trong đệ nhất nghĩa, quả không những có sinh khởi là không đúng. Vì sao? Vì quả là vô thể. Ví như hoa nơi hư không. Trong đệ nhất nghĩa, cho ở trên mầm của lúa nếp có mầm của lúa mạch vô thể nên thể diệt, là cũng không đúng. Vì vô thể. Ví như chẳng phải là mầm của lúa nếp diệt.

Lại nữa, vật từ duyên khởi, thì tự thể đều không, là quán đệ nhất nghĩa trong pháp của Tôi. Nếu cho có một ít vật được thừa nhận nhưng chẳng không, thì những vật ấy tức chẳng từ nhân duyên sinh. Trong thế đế cũng không có sự việc ấy. Ví như hoa nơi hư không. Như kệ ở trên nói: Quả chưa khởi chẳng không v.v… Quả bị lỗi chẳng không. Đây cho quả chẳng không, là bị lỗi không sinh diệt. Nay khiến ông lãnh hội, trong đệ nhất nghĩa, quả không nhưng có khởi, ví như huyễn v.v… Trong đệ nhất nghĩa, quả không, do có diệt nên cũng như huyễn v.v… Quả cũng như thế. Nếu quả dùng không thể khác làm thể, thì quả ấy tức không khởi không diệt. Trong thế đế cũng không có quả ấy. Ví như hoa nơi hư không. Cũng như trên đã nêu: Quả không làm sao khởi? Quả không làm sao diệt? Đây nghĩa là khởi diệt đều vô thể, quả này đã không tức không khởi diệt. Nhưng Ngoại nhân không muốn khiến quả không khởi diệt, nên ở đây lập nghiệm xét. Các quả như nội nhập v.v… chẳng phải là không tự thể, nhưng có sinh khởi, nên ví như huyễn v.v… Do nghiệm xét không khởi không diệt ấy tức phá bỏ quả có khởi có diệt của ông. Pháp sai biệt của ông đã bị phá, là lỗi của nghĩa ông đã lập. Lại nữa, nhân của chủ thể sinh, nhân ấy cùng với quả, là một chăng, là khác chăng? Lỗi đó, như kệ của Luận nói:

Nhân cùng quả là một

Trọn không có nghĩa này

Nhân cùng quả là khác

Cũng không có nghĩa ấy.

Giải thích: Vì sao nhân quả không thể là một khác? Vì trong ấy là có lỗi. Như kệ của Luận nêu:

Nhân quả nếu là một

Năng sở (Chủ thể – đối tượng) tức là một

Nhân quả nếu là khác

Nhân tức đồng phi nhân.

Giải thích: Đây tức cho ông không muốn có được hai thứ chủ thể sinh và đối tượng được sinh. Như cha và con, vì sao là một? Cũng như lửa và củi, vì sao được một? Hai dụ này thế gian cùng thấy biết.

Do đó, nên Tôi nay nêu nghiệm xét. Nhân cùng với quả không được là một. Vì sao? Vì chủ thể sinh, đối tượng được sinh có khác. Ví như cha con là hai. Đây cho nếu chấp là một tức có lỗi. Lại, chấp khác là thế nào? Nghĩa là nhân cùng với quả là khác. Ví như tất cả pháp chẳng phải là nhân. Nhưng ông không muốn nhân đồng với chẳng phải là nhân. Ý của ông là muốn có được hai pháp nhân quả nối tiếp không khác. Lại nữa, nay xin hỏi: Chấp trong nhân trước có quả, thì quả ấy là trước có rồi sinh, hay là chưa có mà sinh? Cả hai đều không đúng. Lỗi ấy như kệ của Luận nêu:

Quả nếu đã có trước

Đâu cần từ nhân sinh

Quả nếu như chưa có

Nhân sao có thể sinh?

Giải thích: Ở đây, quả nếu có tự thể, thì đâu nhờ nơi nhân sinh. Trong thế đế cũng lại không thể khiến người tin hiểu. Quả nếu không có tự thể, thì như hoa nơi hư không. Ở trong thế đế cũng không thể khiến người hiểu. Như kệ trên nói: Quả không làm sao khởi? Do quán xét này, trong đệ nhất nghĩa nhân có thể sinh quả là không đúng. Nếu nhân không sinh quả, tức không là nhân. Như Ngoại nhân đã lập ở trước. Nếu nhân có thể sinh quả, thì nhân tức nên xứ xứ làm nhân. Nay đã bị luận phá, nên nghĩa của nhân này là không thành. Tức ông cũng trái với những điều đã nói ở trước: Ở trong đệ nhất nghĩa thành lập nghĩa nhân sinh quả. Lại nữa, nay nói là trái, tức ở trong đệ nhất nghĩa, nhân không sinh quả. Trong thế đế là có các thứ sinh như huyễn hóa.

Người Tỳ-thế-sư lại nói: Trong đệ nhất nghĩa, nhân có thể sinh quả. Vì sao? Vì người thế gian đều nói: Nhân của quả này, nên biết nhân có thể sinh quả. Nếu nhân không sinh quả, thì trọn không có ngôn thuyết chỉ rõ đây là nhân của quả. Ví như sừng lạc đà hình cánh cung, do không có nên không nói. Nay do có nên nói. Như nói mắt là nhân, thức là quả. Hạt lúa là nhân, mầm là quả. Do có nên nói. Nếu cho dụ về thức cùng với mầm được thành, tức là nghĩa đã lập của Tôi được thành. Nghiệm xét ấy là như vậy. Luận giả nêu bày: Nếu từng có một ít quả sinh được thừa nhận là đệ nhất nghĩa, thì có thể được nói đây là nhân, đây là quả. Có thể tạo sự chỉ rõ như thế. Nay, nhân của chủ thể sinh là không, nên chỗ nêu dẫn của ông ở trên về người thế gian đều nói: Là nhân của quả này, chỗ lập ấy là không thành, cũng trái với nghĩa của ông.

Lại có người của Tăng khư nói: Pháp được hòa hợp nên quả sinh. Pháp hòa hợp này do có được thời tiết, nên có thể sinh quả. Nhưng nơi phần đầu của phẩm này, vị kia đã ngăn trừ kiến giải của Tôi, nói: Quả có sinh diệt làm nhân, nên nhân không thành, thật chẳng phải là không thành, cũng chẳng phải là riêng nhân có thể sinh quả. Lại do hòa hợp cùng có được thời tiết mới có thể sinh quả. Như vị kia đã nói nhân không sinh quả, chính là thành nghĩa của Tôi. Luận giả nói: Nhân duyên hòa hợp chẳng phải là tự thể của pháp thật có thể sinh. Nếu tự thể sinh rồi, là có thể sinh quả, nay tức không đúng. Vì sao? Vì lỗi ấy như kệ của Luận nói:

Tự Thể cùng các duyên

Hòa hợp không thể sinh

Tự Thể đã chẳng sinh

Sao có thể sinh quả?

Giải thích: Đây tức cho hòa hợp không sinh quả. Vì sao? Vì chẳng phải là pháp thật. Ví như huyễn v.v… Cũng như Bồ-tát Đề-đà, trong Bách Luận đã ngăn trừ về hòa hợp, kệ nói:

Một hòa hợp là không

Nhiều hòa hợp cũng không.

Nếu nói là một, tức nên lìa nhân duyên có. Nay sẽ vì ông phân biệt về nghĩa chính. Như kệ của Luận nói:

Thế nên quả chẳng từ

Duyên hợp không hợp sinh

Do quả là không có

Pháp hòa hợp cũng không.

Giải thích: Đây nghĩa là lìa các duyên không có pháp hòa hợp. Như trước đã ngăn trừ, làm rõ là nhân không sinh quả. Nay ngăn trừ, làm rõ hòa hợp cũng không sinh quả. Vì sao không sinh? Nghĩa là sự hòa hợp ấy chẳng phải là từ gần sinh, cũng chẳng phải là từ xa sinh. Trong đệ nhất nghĩa là không sinh. Như trước đã ngăn trừ trong nhân duyên khiến tin hiểu. Như thế, pháp hòa hợp không sinh quả, chẳng phải là pháp hòa hợp cũng không sinh quả.

Lại như trong Bách Luận nói: Danh tự của thế gian, do hòa hợp có. Thể của pháp chẳng phải có. Thể chẳng phải là có, nên cũng không hòa hợp. Do đấy nên nơi phần đầu của phẩm, Ngoại nhân đã nói về nhân cùng nêu ra nhân là có lỗi. Ngăn trừ về pháp của thời kia, là khiến tin hiểu nhân quả không có tự tánh. Đó là ý nghĩa của phẩm này. Vì thế, nên nghĩa của Tôi được thành. Như trong Kinh Bát Nhã nói: Này Bồ-tát Cực Dũng Mãnh! Sắc chẳng phải là nhân, chẳng phải là quả. Nếu sắc chẳng phải là nhân chẳng phải là quả, thì cho đến thọ tưởng hành thức cũng chẳng phải là nhân chẳng phải là quả. Vì sao? Vì sắc không hòa hợp. Nếu sắc không hòa hợp, cho đến thọ tưởng hành thức cũng không hòa hợp. Không thấy sắc. Không thấy thọ tưởng hành thức. Không có đối tượng hành trì, thì đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.

Như Đức Thế Tôn trong Kinh Thức Thú Hậu Thế, nói kệ:

Nếu nói xứ hòa hợp

Là nói môn phương tiện

Là hướng đệ nhất nghĩa

Người trí hiểu như thế.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Nhân Quả Hòa Hợp.

Phẩm thứ 21: QUÁN VỀ THÀNH HOẠI

Nay nơi phẩm này cũng nhằm ngăn trừ về đối tượng đối trị của không. Như phẩm trước, do nhân quả không có tự tánh đã khiến tin hiểu, nay là hiển bày chỉ rõ các pháp không thành hoại, nên nêu bày.

Người của Tăng khư nói: Trong đệ nhất nghĩa là có thời gian. Vì sao? Vì thời gian là nhân của thành hoại. Nếu không có thời gian thì không là nhân. Ví như chân của rắn. Do có thời gian nên hai pháp thành hoại theo thời gian mà chuyển. Vì vậy nói thời gian là nhân. Nhân được thành, tức là nghĩa đã lập của Tôi được thành.

Luận giả nêu rõ: Hai pháp thành hoại, là lìa thành có hoại, hay là không lìa thành có hoại, hay là cùng cả hai nên có hoại? Các trường hợp ấy đều không đúng. Như kệ của Luận nói:

Lìa thành không có hoại

Cùng đều cũng không hoại

Lìa hoại không có thành

Cùng đều cũng không thành.

Giải thích: Nghĩa nơi pháp Phật của Tôi là như thế như thế. Như ông đã nói, thời gian là nhân, nghĩa ấy không thành. Vì sao? Vì nếu lìa thành có hoại, tức không nhân nơi thành có hoại, hoại tức không có nhân. Lại, pháp không thành là có thể hoại. Thế nào là thành? Nghĩa là các duyên hợp. Thế nào là hoại? Nghĩa là các duyên tan.

Lại nữa, nếu lìa thành có hoại, thì không có thành, cái gì sẽ hoại? Ví như không có bình chén v.v… Thế nên, lìa thành không hoại. Nếu cho cùng đều nên có hoại, là cũng không đúng. Vì sao? Vì pháp riêng thành trước, sau đấy có hợp, thì pháp hợp ấy không lìa nơi khác. Nếu lìa khác, thì hoại tức không nhân. Do vậy, cùng đều cũng không hoại. Như thế, nếu lìa hoại cùng hoại, thì không có thành. Vì sao? Vì nếu lìa hoại có thành, thì thành tức là thường. Thường là tướng chẳng hoại.

Nhưng thật sự không thấy có pháp là thường. Do đấy nên lìa hoại cũng không có thành. Nếu cho cùng đều là có thành, thì cũng không đúng, vì thành hoại cùng trái nhau, làm sao có thể một thời cùng hợp.

Người của Tăng khư nói: Sao chỉ có cùng với tha lập lỗi, nghĩa của tự được thành. Tự nếu thành, nên nói về đạo lý.

Luận giả đáp: Nghĩa của ông là sai trái. Lỗi ấy, như kệ của Luận nêu:

Lìa thành tức không hoại Làm sao được có hoại?

Lìa chết tức không sinh

Không hoại sao có thành?

Giải thích: Đây tức cho lìa thành không có pháp hoại, người thế gian đều cùng hiểu, không cần nói rộng. Giải thích lìa thành không có hoại xong.

Lại nữa, cùng đều cũng không hoại. Như kệ của Luận nói:

Nếu thành cùng hoại hợp

Làm sao có thể được?

Cũng như sinh cùng tử

Không thể được đồng thời.

Giải thích: Ở đây nói nghiệm xét về hoại cùng với thành chẳng phải đồng thời có. Vì sao? Vì thành là duyên của hoại. Ví như tử cùng với sinh không thể được kết hợp. Giải thích về không kết hợp xong.

Lại nữa, phân biệt lần thứ hai, lìa hoại không có thành. Như kệ của Luận nêu:

Nếu lìa hoại có thành

Sao có thể đạt được?

Các Thể trên vô thường

Trong tất cả thời có.

Giải thích: Đây nghĩa là lìa hoại không thành. Vì sao? Vì như trong lập nghĩa, các thể vô thường, nghĩa là tự thể như sắc pháp v.v… là vô thường. Ví như tự thể của vô thường.

Lại có người của Chánh Lượng Bộ nói: Pháp tuy vô thường, nhưng có được nhân của hoại đến nơi thể của pháp, tức hoại. Chẳng phải tất cả thời đều có vô thường.

Luận giả nêu: Nếu thế, ví như có người uống thuốc trừ bệnh tả xong liền tả, nên nói với người khác: Là thần linh khiến tôi tả, không nói là thuốc trừ tả. Ông cũng như thế. Pháp vô thường, trong tất cả thời đều có thể hủy hoại thể của pháp, nhưng nói là đợi nhân của hoại tới, sự việc ấy là không đúng. Nếu được nhân của hoại là vô thường mới có thể hoại thể của pháp, thì chỉ là nhân của hoại có thể hoại thể của pháp, sao lại nói vô thường có thể hoại? Nay xin hỏi Ngoại nhân: Thể của pháp, là tánh hoại được nhân của hoại đến nên hoại, hay là chẳng phải tánh hoại được nhân của hoại tới nên hoại? Thể của pháp ấy nếu là tánh hoại, được nhân của hoại tới nên hoại, là không đúng. Vì sao không đúng? Vì thể của pháp lúc khởi vô gián tức hoại. Cũng có khởi liền diệt, không đến sát-na thứ hai, làm sao có thể đợi nhân của hoại đến mới hoại? Nếu tự thể của pháp chẳng phải là tánh hoại, ví như Niết-bàn, cũng không đợi nhân của hoại kia đến mới hoại.

Lại nữa, hoại không có nhân, là hoại không nhân, nên pháp tức không hoại. Ví như vô vi. Do nghiệm xét ấy nên phá bỏ nhân của hoại kia. Nhân đã bị phá, tức phá thể của pháp, là lỗi của nghĩa do ông lập. Lại cho hai pháp thành hoại trước sau mà có, là không đúng. Giải thích lìa hoại không có thành xong.

Lại nữa, đồng thời có thành hoại, nghĩa cũng không đúng. Vì sao? Như kệ của Luận nêu:

Thành cùng hoại đồng thời

Làm sao có thể được?

Cũng như sinh và tử

Đồng thời là không đúng.

Giải thích: Đây tức cho lúc tạo quán này, nghĩa đồng với trước đã giải thích. Lại nữa, hỗ tương cũng không thành. Như kệ của Luận nói:

Thành hoại đều cùng thành

Hai ấy không có thành

Lìa hai ấy đều thành

Hai pháp làm sao thành?

Giải thích: Đây nghĩa là hai pháp thành hoại không thể được thành. Như Ngoại nhân trước nói có thời gian là nhân của thành hoại, nhân ấy tức không thành. Người của Tỳ-bà-sa Tát-bà-đa lại nói: Tự tánh nơi pháp hoại này chẳng phải là khởi, nhưng tức diệt. Do khởi không gián đoạn nên có trụ. Trụ này không gián đoạn nên có diệt.

Luận giả nêu rõ: Sự việc ấy không đúng. Nghĩa đó như kệ của Luận nêu:

Sự tận, không có khởi

Không tận cũng không khởi

Sự có tận, không hoại

Không tận cũng không hoại.

Giải thích: Đây tức cho nếu pháp có vô thường, gọi là tận. Có tận tức không khởi. Hai pháp khởi tận (sinh diệt) là cùng trái nhau. Ví như sinh cùng tử. Nếu nói khởi rồi mà không gián đoạn, chẳng diệt, thì đấy chẳng phải là pháp tận. Ví thế nên, như đã nói về pháp khởi tận, ở trong thế giới là không thành, nên pháp có tận không cần tư duy phân biệt. Vô tận, là chẳng phải hủy hoại tự thể. Ví như giải thoát. Người của Tỳ-thế-sư nói: Nên có thành hoại, vì có pháp thể. Nếu không thành hoại, thì cũng không có pháp thể, ví như lông của con cóc. Nhưng thành hoại là pháp của vật thể, nên tất có thành hoại. Luận giả nêu bày: Trong đệ nhất nghĩa, nếu có một vật thật có thành hoại, tức nên nói là pháp thành hoại. Nhưng không có thành hoại để có thể nêu. Nghĩa ấy như kệ của Luận nói:

Nếu lìa thành hoại kia

Tức không có vật Thể

Là hai pháp thành hoại

Lìa vật Thể cũng không.

Giải thích: Vật thể: Do thành làm thể. Thành đã không Thể, như ông vừa nói pháp thể là có nên làm nhân, là không thành. Vì sao? Vì đối tượng dựa là vô thể, nên chủ thể dựa cũng không thành. Lại nữa, ông dùng vật thể làm nhân, nay là nói về lỗi ấy.

Người của Kinh Bộ nói: Vật thể không thật, tự tánh là không. Nhưng ở trên vật có pháp thành hoại. Người của Tát-bà-đa lại nói: Vật có Thể thật, tự tánh chẳng không, ở trên vật ấy nhưng có thành hoại. Nay đáp chung về thành hoại của hai Bộ kia. Như kệ của Luận nêu:

Có hai pháp thành hoại

Thể vật không, chẳng đúng

Có hai pháp thành hoại

Thể chẳng không, chẳng đúng.

Giải thích: Ở đây lập nghiệm xét như trên. Pháp thể là có. Nếu nói tự thể có, tức nên chẳng hoại. Do vậy, các ông lập nhân chẳng thành. Lại nữa, lại so với đạo lý là có lỗi. Pháp thành hoại này là một chăng, là khác chăng? Cả hai đều không đúng. Nghĩa này là thế nào? Như kệ của Luận nêu:

Hai pháp thành hoại này

Một Thể là không đúng

Hai pháp thành hoại này

Khác Thể là không đúng.

Giải thích: Đây là cho cùng trái nhau. Ví như ngu và trí. Nhưng hai pháp này đồng dựa nơi một vật. Ví như thể của vật khác. Ở đây, nghĩa của nhân cùng có lỗi chẳng thành. Người của Tỳ-thế-sư nói kệ:

Tôi thường thấy vật Thể

Có thành cũng có hoại

Thế nên biết pháp Thể

Nhất định có chẳng không.

Luận giả nói: Ông nói là thật thấy, chỉ là đồng với trí của phàm phu, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Nay sẽ vì ông phân biệt về ý ấy. Như kệ của Luận nêu:

Về khởi trước đã ngăn

Pháp không khởi cũng ngăn

Thấy thành là ngu si

Kẻ thấy hoại cũng thế.

Giải thích: Đây là nêu thể không có thành hoại. Ngoại nhân hoặc nói thấy thành hoại, vì sao biết là ngu si, chẳng phải là đệ nhất nghĩa? Luận giả nêu rõ: Điều này trước đã đáp. Nếu ý của ông do không nhận biết đầy đủ, nay lại vì ông nói. Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy có Thể của vật, chỉ thành cùng với hoại này có thể dựa vào thể kia. Nhưng vật ấy là có Thể nên có thể sinh thể, hay là không Thể nên có thể sinh thể? Cả hai đều không đúng. Vì sao? Nghĩa ấy như kệ của Luận nói:

Có Thể không sinh Thể

Cũng chẳng sinh không Thể

Không Thể không sinh Thể

Cũng chẳng sinh không Thể.

Giải thích: Có Thể không sinh Thể: Tức trong đệ nhất nghĩa là không Thể. Ví như thể đã sinh. Hoặc Ngoại nhân nói: Như thể của hạt giống, thời gian sau có thể sinh mầm. Nghĩa là thể có thể sinh thể, là cũng có lỗi. Vì sao? Vì mầm lúc chưa sinh cũng không có Thể của mầm, do thể của lúa thóc là chẳng sinh, nên lúc mầm chưa sinh không có danh tự. Ở đây tức là chưa có ngôn thuyết. Ví như vật khác chưa sinh. Thể không sinh vô thể: Là thể không có. Ví như sừng thỏ. Vô thể không sinh thể: Nghĩa là thể không có nhân nên thể không sinh. Cũng như sừng thỏ. Vô thể không sinh vô thể: Trước đã nói nghiệm xét để luận phá. Nay hỏi về thể: Là tự sinh chăng? Là tha sinh chăng? Đều có lỗi. Nghĩa ấy như kệ của Luận nêu:

Thể pháp không tự sinh

Cũng không từ tha sinh

Cũng không tự – tha sinh

Nay nói xứ nào sinh?

Giải thích: Chẳng sinh như thế là trước đã nói rộng. Đây tức là rốt ráo không sinh, do thành hoại không có Thể, nên nghĩa của nhân căn bản theo ông là không thành. Nếu trong đệ nhất nghĩa muốn được có Thể, nay sẽ nói về lỗi. Như kệ của Luận nêu:

Các pháp nếu có Thể

Tức rơi kiến đoạn thường

Nên biết pháp được thọ

Hoặc thường hoặc vô thường.

Giải thích: Vì sao như thế? Nghĩa là pháp này hoặc thường hoặc vô thường. Vì sao? Vì thường là không hoại, nên là lỗi về thường kiến. Vô thường là hoại diệt, nên là lỗi về đoạn kiến.

Có Ngoại nhân nói: Tôi không có lỗi ấy. Nghĩa này là thế nào? Tức nên dẫn kệ bản ở trên nói:

Các pháp nếu có Thể

Chẳng phải là thường, đoạn.

Luận giả hỏi: Vì sao như thế? Ngoại nhân lại dẫn kệ của Luận đáp:

Khởi tận cùng nối tiếp

Do quả cùng với nhân

Nhân diệt nhưng quả khởi

Chẳng đoạn cũng chẳng thường.

Giải thích: Ý của Ngoại nhân cho: Lúc nhân vừa diệt là có quả khởi nên là chẳng đoạn. Lúc quả mới khởi thì có nhân diệt nên là chẳng thường. Cũng như kinh nói: Năm ấm là vô thường khổ không vô ngã, nhưng không đoạn diệt. Do nghĩa ấy, nên nhân cùng với quả chẳng phải là đoạn, chẳng phải là thường. Luận giả nêu bày: Nếu như thế thì nghĩa không tương ưng: Vì trước diệt sau khởi. Nay nói về lỗi ấy, như kệ của Luận nêu:

Khởi tận ấy nối tiếp

Do nhân cùng với quả

Nhân diệt nhưng quả khởi

Hoặc đoạn cùng hoặc thường.

Giải thích: Đây nghĩa là, nếu nhân diệt, lại chẳng sinh tức rơi vào lỗi về đoạn, vì đã diệt, không khởi. Ví như hạt giống bị cháy. Người của Tỳ-thế-sư v.v… nói với Luận giả: Như trong Luận kia kệ nói:

Nếu vật từ duyên khởi

Quả ấy chẳng tức duyên

Cũng chẳng lìa duyên kia

Chẳng đoạn cũng chẳng thường.

Đây tức cho Luận giả, chỗ mong muốn trước có được, nay lại nói là lỗi, là không đúng. Luận giả nêu: Lời ấy là chẳng phải. Vì sao? Vì kệ này là ở trong thế đế nói chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, không phải là đệ nhất nghĩa. Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa, tất cả pháp không có lỗi về đoạn thường.

Người của Tăng khư nói: Nhân biến làm quả. Quả trụ nên được nói là có Thể, không có lỗi về đoạn thường.

Luận giả nêu rõ: Nghĩa ấy không đúng. Chuyển biến của ông là không nghiệm xét, không khiến người hiểu. Nghĩa của chuyển biến trước đã ngăn trừ. Ông nay lại khởi phân biệt về chuyển biến, nên nay lại nói về nghiệm xét. Nếu vật không thể biến đổi, thì trọn không có biến chuyển. Vì sao? Vì không thể biến đổi. Ví như sừng thỏ. Lại nữa, nếu các thể có tự thể, thì nghĩa không tương ưng. Lỗi ấy, như kệ của Luận nói:

Trước đã có tự Thể

Sau không tức chẳng đúng

Lúc Niết-bàn liền đoạn

Tức có lỗi đoạn diệt.

Giải thích: Nay hiện thấy thể ấy có khởi có diệt, thế nên các thể không có tự thể. Vì sao? Vì là pháp sinh diệt. Nghĩa này trước đã nêu. Lại nữa, nếu các thể trước có tự thể, thì tâm tâm số pháp của A-la-hán, thời gian sau lại chẳng sinh, nên tức là lỗi đoạn diệt. Lỗi ấy ông không thể tránh. Nếu ý của ông nói, lúc Niết-bàn là đoạn, thì cũng từ đoạn ấy, trước chưa Niết-bàn, là lúc các hữu nối tiếp, Tôi sao có lỗi đoạn diệt. Nhưng cho nối tiếp không có lỗi về đoạn, nói như ông là không đúng. Tôi trước nói lúc Niết-bàn là đoạn, chính là ngăn trừ lời ông nói: Các hữu nối tiếp trước, lúc chưa nhập Niết-bàn. Như trước nói lúc Niết-bàn liền đoạn, điều ấy đã khiến hiểu là lỗi của đoạn kiến. Nếu thời gian sau là đoạn, thì chướng ngại đối với giải thoát. Vì sao như thế? Vì do đoạn kiến này nên không được giải thoát. Như thế là đáp lại ông. Tâm của ông cũng không hội đủ, nay lại nên lắng nghe. Hữu hiện tại này, lúc mạng chung sau cùng, đó gọi là tử hữu. Tâm thọ sinh đầu tiên trong hữu vị lai, đó gọi là hữu đầu. Ý nghĩa ở đây, như kệ của Luận nói:

Tử hữu tức là diệt

Nhận hữu đầu, chẳng đúng

Tử hữu lúc chưa diệt

Nhận hữu đầu, chẳng đúng.

Giải thích: Ở đây nói nghiệm xét. Trong đệ nhất nghĩa, tử hữu là diệt: Là không nhận lấy hữu vị lai. Vì là diệt nên là tử hữu. Ví như tử hữu của A-la-hán. Lại nữa, tử hữu gọi là hữu quá khứ. Hữu đầu gọi là hữu hiện tại. Nếu tử hữu diệt, tiếp theo khởi hữu đầu, tức là không có nhân. Nếu cho tử hữu này lúc chưa diệt, có thể nhận lấy hữu đầu, là hữu, nên không có lỗi. Ở đây nói nghiệm xét. Tử hữu chưa diệt, không thể nhận lấy hữu đầu, vì chưa diệt. Ví như hữu hiện tại.

Ngoại nhân lại nói: Tử hữu sắp diệt, tức có thể nhận lấy hữu đầu. Luận giả nói: Nêu bày cũng không đúng. Lỗi ấy như kệ của Luận nêu:

Tử hữu ấy lúc diệt

Có thể sinh hữu đầu

Lúc diệt là một hữu

Lúc sinh là khác hữu.

Giải thích: Đây tức là lúc diệt lúc sinh, hai hữu đều khác, làm sao có thể nhận lấy? Ngoại nhân đáp nói: Như vị kia đã nêu bày, có nối tiếp nhưng thể là khác. Tôi cũng nói như thế. Luận giả nói: Tử hữu của Đề-bà-đạt-đa không nhận lấy hữu đầu của Đề-bà-đạt-đa vì có khác. Ví như tử hữu của Da-nhã-đạt-đa.

Lại nữa, ông cho: Đã diệt, chưa diệt, lúc diệt đều nhận lấy hữu đầu, là không đúng. Như lỗi của hai hữu ở trên.

Lại nữa, ông cho: Nếu diệt chưa hiện tiền thì có thể nhận lấy hữu đầu, là đồng với lỗi của hai hữu trước. Như vậy, lúc sinh cùng đã sinh nhận lấy hữu đầu, cũng không đúng, là trở lại lỗi như trước. Do đấy nên, như kệ của Luận nói:

Lúc diệt cùng lúc sinh

Nhận hữu đầu, không đúng

Nhưng nếu ấm này diệt

Sau lại sinh nữa chăng?

Giải thích: Đây tức là Ngoại nhân không muốn có được ấm đã diệt trở lại sinh lần nữa. Như một người nơi một lúc có hai tự thể, là không có. Nếu cho lúc hữu đầu diệt tức hữu sau sinh, nay nên tùy theo ở trong ấm nào chết, tức ở trong ấm ấy sinh, không nên ở trong ấm khác sinh. Như thế tử hữu diệt rồi, có thể nhận lấy hữu đầu, là không thành. Đã khiến tin hiểu lúc tử hữu diệt có thể nhận lấy hữu đầu, cũng không thành. Thế nên, đã diệt cùng lúc diệt đều không thành, như đạo lý Tôi đã nói. Lúc qua đời, các ấm diệt rồi, trở lại dùng sự nối tiếp của ấm ấy sinh, cũng không đúng. Lỗi kia, như kệ của Luận nêu:

Như thế trong ba thời

Có nối tiếp không đúng

Nếu không có ba thời

Sao có hữu nối tiếp?

Giải thích: Đây tức cho tử hữu nối tiếp sinh hữu đầu là không đúng, vì sự nối tiếp là chẳng đoạn chẳng thường. Ngôn ngữ là thế đế, chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế. Thế nên điều Tôi đã lập là không bị phá. Như nơi phần đầu của Phẩm, Ngoại nhân nói có thời gian như thế, là nhân của thành hoại. Nay nói rộng về lỗi của nhân ấy, tức lập thời chẳng thành, do thành hoại là không tự tánh, khiến vật tin hiểu, là ý nghĩa của phẩm này. Từ đây tiếp xuống là nêu dẫn kinh, làm rõ sự thành tựu. Như trong Kinh Bát Nhã nói: Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Cực Dũng Mãnh: Sắc là chẳng tử chẳng sinh. Thọ tưởng hành thức là chẳng tử chẳng sinh. Nếu sắc, thọ tưởng hành thức là không tử không sinh, thì đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.

Các Kinh như vậy, ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Thành Hoại.

HẾT – QUYỂN 12