CÂU THI THIẾT CÂU THỦ NHÃN
Câu Thi Thiết Câu Thủ (Tay cầm cây Thiết Câu):
Tay thứ nhất trong tám tay thuộc Yết Ma Bộ của Mật Pháp, là Pháp Câu Triệu.
Câu thứ 31 trong Chú Đại Bi:”Địa Rị Ni” dịch nghĩa là che giữ sự chẳng lành tức Câu Thi Thiết Câu Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.
– Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tư?ng tay thứ 17 trong Kinh Văn:
“Nếu muốn Thiện Thần, Long Vương thường đến ủng hộ thì nên cầu nơi tay Câu Thi Thiết Câu”.
– Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 32:
“Nếu người nào vì Thiện Thần, Long Vương thường đến ủng hộ thì nên cầu nơi bàn tay cầm cây Câu Thi Thiết Câu”.
– Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tượng tay Ấn thứ 32 là:
Nếu muốn Trời, Rồng, Thiện Thần đến gia hộ nên tác Pháp Thiết Câu. Tượng CÂU TRIỆU QUÁN TỰ TẠI Bồ Tát ấy…. chỉ có tay trái cầm cái móc câu, tay phải nắm quyền đặt ở eo, vẽ tượng xong.
Tướng Ấn đó là: Tay trái nắm quyền, dựng ngón trỏ như hình móc câu mà triệu mời.
32) Câu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được Thiên-thần, Long-vương thường đến ủng hộ, nên cầu nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”
Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]
𑖠𑖰𑖨𑖰𑖜𑖰
DHIRIṆI
DHIRINI: Người Trì Chú (chẳng luận Nam Nữ)
“Ðịa Rị Ni” cũng là tiếng Phạn, dịch ra có rất nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất là “thâm dũng”, rất có dũng khí, còn có ý nghĩa là “tịch diệt”. Thâm dũng là tướng động, còn tịch diệt là tướng tĩnh. Còn có ý nghĩa nữa là “khiết tịnh”, ý nghĩa nữa gọi là “giá trì”, còn gọi là “tồi khai”. Tức là tất cả các điều ác, nghiệp chướng đều phá sạch; giá trì tất cả điều bất thiện, phụng hành tất cả các điều thiện.
Thủ Nhãn này là gì? Gọi là Câu Thi Thiết Câu Thủ, gọi tắt là Thiết Câu Thủ. Thiết Câu Thủ này hay sai khiến tất cả quỷ thần, câu triệu tất cả quỷ thần. Câu Thi Thiết Câu Thủ còn có thể sai khiến tất cả các quỷ thần, trời rồng đều đến ủng hộ bạn. Bạn tu pháp này thì bạn kêu rồng mưa thì rồng sẽ mưa; kêu nổi gió thì sẽ nổi gió, kêu đừng mưa thì không mưa, kêu không nổi gió thì không nổi gió. Có người nói :”Ðiều này tôi không tin”. Tôi giảng cho bạn nghe, tức cũng là muốn kêu bạn không tin. Tại sao? Vì tôi kêu bạn không tin, tức là vì điều này.
Hiện tại ở Ðài Loan đang mưa, hôm nay có người trở về, bạn có thể hỏi họ thử. Ðài Loan lúc này vốn không mưa, nhưng trời lại mưa. Tôi gọi điện thoại đi Ðài Loan thì họ nói ngày nào cũng mưa, rất là lạnh. Tôi nói :”Bạn có thích nóng chăng ? Ðược rồi, thích không mưa thì rất dễ”.
Họ nói:”Làm sao để trời có thể không mưa ?”. Tôi nói:”Bạn hãy thử xem, tôi có thể kêu trời đừng mưa xuống”. Gọi điện thoại xong thì trời hết mưa, cho nên họ cảm thấy rất là kỳ lạ. Ðây là nhờ sức của Câu Thi Thiết Câu thủ. Bạn giơ Câu Thi Thiết Câu Thủ ra nói :” Này Long Vương, không cho phép các ông mưa xuống”. Thì rồng chẳng mưa xuống, tuyệt đối tuân lệnh của bạn. Song bạn phải minh bạch Câu Thi Thiết Câu Thủ và thường tu pháp này. Cho nên nếu rồng không tuân lệnh, mà tiếp tục mưa xuống nữa thì bạn có thể dùng Thiết Câu Thủ để móc rồng lại thì rồng chẳng dám mưa xuống.
Các bạn nghe điều này, giống như nói chuyện cười với các bạn. Các bạn nghe là chuyện cười cũng được, nghe là chuyện thật cũng được. Hiện tại tôi giảng Kinh cho các bạn là nói lời thật, đây chẳng phải là nói chuyện tiếu.
Kệ:
Sư tử vương binh nghiệm tụng độc
Thiên biến vạn biến vô lượng sổ
Đa đa ích thiện công viên mãn
Thành tựu bồ tát thắng quả thù
Dịch:
Sư tử vương binh hùng gẫm suy, tụng đọc
Hàng nghìn muôn vô số, vô lượng lần
Thiện nghiệp tròn đầy, lợi ích toại lòng
Đắc thánh quả Bồ tát thừa thù thắng.
Chơn-ngôn rằng: Án– a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ. Nẳng mồ– tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖀𑖎𑖿𑖨𑖺𑖠 𑖎𑖯𑖨 𑖪𑖰𑖬𑖧𑖸 𑖡𑖦𑖺_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ AKRODHA KĀRA VIṢAYE NAMO_ SVĀHĀ
OṂ_AKRODHA KĀRA VIṢAYE NAMO (Ba Thân quy mệnh cảnh giới tạo tác của hàng Vô Phẫn Nộ ) SVĀHĀ (quyết định thành tựu)
Câu Chi gọi đủ là Ương Câu Chi (Aṅku’sa hay Amku’sa). Đường dịch là Triệu tức là kêu gọi (câu triệu).
Còn Câu Chi Thiết Câu là cây gậy có ba mũi móc câu, biểu thị cho nghĩa câu triệu (gọi tới tụ tập).
Bồ Tát Quán Thế Âm dùng Bản Nguyện Từ Bi cầm cây Thiết Câu này hiển thị nghĩa: “Thiện Thần Long Vương thường ủng hộ”.
Muốn thành tựu Pháp này, Hành Giả làm cây Thiết Câu đặt trước Bản Tôn, tụng Chú. Sau đó cầm cây Thiết Câu hô lời kêu gọi Hàng Thiện Thần thì tất cả Long chúng, Thiên chúng, Thiện Thần đều đến thường ủng hộ và trừ não hại cho Hành Giả.
Kệ tụng:
Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.
[Các LONG-VƯƠNG thích tu PHÉP THẦN THÔNG, như lại không giữ GIỚI-LUẬT,
Tuy làm THÂN RỒNG, cũng gieo được THIỆN CĂN về sau, là do tu “PHÁP ĐẠI-THỪA”.
Cũng được Quy Y Tam Bảo, thọ “BỒ-TÁT-GIỚI”, làm những vị BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG,
Do SÁM-HỐI TRÌ GIỚI-LUẬT, nên được TỰ-TẠI AN-NHIÊN khi ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI.]
Bài Kệ-tụng nầy ý nói rằng: “ Ngoài việc phát Bồ-đề-tâm, tu theo PHÁP ĐẠI THỪA, như trì CHÚ, TỤNG KINH, NIỆM PHẬT hoặc HÀNH THIỀN… thì phải “QUY Y TAM BẢO”, nghiêm trì giới luật (LẤY GIỚI LÀM THẦY), thì trong mọi oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều được TỰ-TẠI AN-NHIÊN, cho dù gặp phải “PHONG ĐAO ĐỘC DƯỢC” cũng được THANH THẢN NHẸ NHÀN.
Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,
Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên.
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
(Chứng Đạo Ca)
BỒ-TÁT-GIỚI trong KINH PHẠM VÕNG là “THÔNG GIỚI” vì chú trọng ở TÂM-TÁNH nhiều hơn là ở HÌNH-TƯỚNG. Cho nên, tất cả chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI muốn thành “PHẬT” đều có thể thọ trì, như các LONG-VƯƠNG chẳng hạn. Như có vài điều khác biệt như là: NGƯỜI XUẤT-GIA THÌ KHÔNG DÂM DỤC, NGƯỜI TẠI-GIA THÌ KHÔNG TÀ DÂM…
Lại nữa, Tất cả chư PHẬT khi mới thành đạo Y THEO TỰ TÂM BỔN TÁNH THANH TỊNH CỦA TẤT CẢ CHÚNG-SANH, không có DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG…mà KIẾT BỒ-TÁT GIỚI.
Khác với THANH-VĂN-GIỚI..là khi có người sai PHẠM thì mới kiết-giới, như ngài A-NAN ĐI MỘT MÌNH chẳng hạn, KHÔNG CÓ MỘT VỊ THƯỢNG-TỌA và MỘT VỊ A-XÀ-LÊ (Thầy làm Mô-Phạm) đi cùng nên gặp phải nạn MA-ĐĂNG-GÌA. Vậy nên, PHẬT mới KIẾT-GIỚI TỶ-KHƯU ĐI ĐÂU, PHẢI CÓ 2 NGƯỜI ĐI THEO, NẾU KHÔNG RẤT DẼ PHẠM GIỚI.
Lại nữa, THANH-VĂN-GIỚI (Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni, Sa-di, Sa-di-ni) chỉ có NGƯỜI mới thọ giới được. Người còn phải đủ các điều kiện : Các căn phải hoàn bị, đầy đủ tướng tốt, không đui điếc, câm ngọng…
Trong CHỨNG ĐẠO CA có nói về 2 VỊ TỶ-KHƯU phạm “DÂM, SÁT” nên đau khổ vô cùng, vì HỌ KHÔNG CÓ KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM LÀM VIỆC DÂM, SÁT mà lại bị NGÀI BA-LY theo GIỚI THANH-VĂN KẾT TỘI là không được “SÁM HỐI”.
Hữu nhị tỳ-kheo phạm dâm sát: Xưa có hai vị tỳ-kheo ở chung một nơi, một vị phạm vào giới dâm, một vị phạm vào giới sát. Bởi đâu mà phạm giới dâm? Số là hai vị tỳ-kheo này ở trong núi, rồi tới một hôm, một vị có việc phải xuống núi, còn vị kia, ở lại trên núi, nằm ngủ. Lúc đó có một người con gái hái củi đi qua, cô này sanh lòng ô nhiễm, mới cưỡng gian vị tỳ-kheo này.
Nhằm ngay lúc vị tỳ-kheo kia, sau khi xuống núi trở về, thấy cô gái đã làm tổn hại giới thể của bạn đồng tham với mình, bèn chạy đuổi bắt cô gái. Chẳng may, khi chạy trốn, cô gái lỡ chân rớt xuống khe suối chết.
Một vị thì nhận đã phạm giới dâm, vì hạnh bất tịnh của cô gái, còn vị kia nhận đuổi theo cô gái khiến cho cô này sẩy chân rớt xuống khe suối mà chết, nên nhận tội đã phạm giới sát.
Ba-la huỳnh-quang tăng tội kết: Cả hai tìm đến Tôn-giả Ba-ly Huỳnh-quang để cầu xin sám hối. Việc này giải quyết ra sao? Tôn-giả bèn bảo rằng cả hai đều phạm vào tội vô gián địa ngục, có sám hối cũng không được và cũng chẳng còn biện pháp nào để giải tội cho họ cả.
Hai vị tỳ-kheo đều cảm thấy trong lòng có sự hoài nghi, họ tự nghĩ rằng: Việc phạm giới dâm chẳng phải do sự nguyện ý và phạm giới sát cũng như vậy, cả hai việc xảy ra không do cố ý, họ vô tâm, như vậy vẫn bị tội thì chẳng công bình chút nào.
Nên 2 vị này “TÂM KHÔNG PHỤC”, phải tìm người hỏi về vấn đề nầy. HỌ ĐƯỢC ÔNG DUY MA CẬT, ĐEM “BỒ TÁT GIỚI MÀ KẾT TỘI” THÌ : 2 ÔNG TUY PHẠM TỘI “DÂM và SÁT” NHƯ TÂM-TÁNH CHƯA PHẠM, NÊN CÓ THỂ SÁM HỐI TU HÀNH TRỞ LẠI.
PHÁP CỦA PHẬT CŨNG KHÔNG TRÁI VỚI LUẬT PHÁP Ở THẾ GIAN NHƯ LÀ: LUẬT ÂN-XÁ, GIẢM-TỘI …NẾU TỘI NHÂN KHÔNG CÓ CỐ TÂM PHẠM TỘI…
THẬT SỰ MÀ NÓI, NẾU KHÔNG KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM PHẠM GIỚI, THÌ RẤT KHÓ PHẠM GIỚI. TẠI VÌ SAO? VÌ TRONG TỰ TÁNH CỦA CHÚNG-SANH KHÔNG CÓ PHẠM 10 GIỚI TRỌNG VÀ 48 GIỚI KHINH. CHO NÊN, CHƯ PHẬT Y THEO TÂM THANH TỊNH CỦA CHÚNG SANH MÀ KIẾT BỒ-TÁT–GIỚI.
Sư tử hống, vô úy thuyết,
Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát.
Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề,
Bất kiến Như Lai khai bí quyết.
Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,
Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do như hách nhật tiêu sương tuyết.
Bất tư nghì, giải thoát lực,
Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.
Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,
Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.
Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bá ức.
(CHỨNG ĐẠO CA)
ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI
Thưở ấy, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng chánh-giác trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết Bồ-Tát Giới. Ngài dạy: Hiếu thuận với cha mẹ, Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.
Liền đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục, mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.
Đức Phật nói với các vị Bồ-Tát : Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-Thú, Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ.
Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.
(KINH PHẠM VÕNG)
Tại sao lại làm thân rồng?
Trong quá khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”, nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là chỉ Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng mãnh, nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này.
Cách thức họ tu như thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm”, trong khi đó, họ ăn cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn cắp bài vị tổ tiên của gia đình người ta, rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai khiến.
Chữ “thừa cấp” là nói về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ trong việc luyện công, đặng có thể tiến bộ mau như hỏa tiễn vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng giới luật, mặc sức hành động; kể cả các giới như giết hại, ăn cắp, dâm dục, họ đều không tuân thủ.
Vậy thì còn nói gì nữa! Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên của nhà người ta, lấy cả mấy cây trồng trên mộ phần để luyện phép; vì tu pháp với tâm tham như vậy, do đó mới có câu “thừa cấp, giới hoãn”. Vì thế mà phải đọa mang thân rồng, tuy có thần thông, nhưng vẫn là loài súc sinh.
Tuy nhiên, rồng cũng là loại linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn khi hiện vô chừng. Có điều chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa xuống, giống như người ta tắm gội vậy.
(Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích
Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự, Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.)
PHẬT DẠY TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM
(TRONG KINH LĂNG NGHIÊM NÓI: “NGƯỜI TU “CHÁNH ĐỊNH” TAM MA ĐỊA, TRƯỚC HẾT PHẢI BIẾT VỌNG TÂM, CHƠN TÂM. RỒI CHỌN PHƯONG PHÁP VÀO CHƠN TÂM : “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG” CHẲNG HẠN. SAU CÙNG PHẬT DẠY PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT VÀ TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM, MỚI KHÔNG BỊ LẠC VÀO 5O LOẠI MA CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA), TRONG KHI TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.)
A Nan! Ngươi hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa. Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi (DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG) kể trên, trong sáng như băng tuyết để làm căn bản, tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.
A Nan, nếu giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?
Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì “Phật Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú” của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết.
Ngươi và Ma Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều kiếp, ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu, đắc quả A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, chẳng có tâm tu hành, nhờ thần lực thầm giúp, được mau chứng vô học, huống là hàng Thanh Văn các ngươi trong hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật, cũng như bụi bay theo chiều gió, đâu có ngăn ngại gì?
GIỚI LUẬT LÀ THỌ MẠNG CỦA PHẬT PHÁP
Hòa thượng Thích Trí Tịnh
…
Như trong luật Ðức Phật có nói: Tại sao người thọ giới được đắc giới? Vì rằng, người thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên đắc giới, phải nhớ điều đó.
…
Và tôi (Hòa thượng Thích Trí Tịnh) cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố gắng học giới cho rành, nhờ có học hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật được.
Quí vị đã có sự học hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và cũng chính nơi giới luật nó làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri kiến để thành Phật như Phật không khác.
ĐÂY CŨNG LÀ LỜI PHẬT DẠY, KHI NGÀI SẮP VÀO NIẾT-BÀN.
– LẤY GIỚI-LUẬT LÀM THẦY
– AN TRỤ Ở TỨ NIỆM XỨ : THÂN, THỌ,TÂM, PHÁP. (THÂN bất tịnh, THỌ thị khổ,TÂM vô thường, PHÁP vô ngã).
– LẤY “NHƯ THỊ TÔI NGHE”, Ở ĐẦU KINH VĂN, KHI KIẾT TẬP KINH ĐIỂN.
– ĐỐI VỚI TỶ-KHƯU ÁC TÁNH, THÌ PHẢI IM LẶNG ĐỪNG ĐẾ Ý TỚI HỌ. ĐỂ GIÚP HỌ CÓ THỜI-GIAN PHẢN TỈNH TRỞ LẠI.
Tóm lại, nếu Qúy-vị tu hành mà không giữ giới-luật, bây giờ thấy lỗi lầm muốn sám hối, phát nguyện thọ trì giới luật trở lại, như nghiệp lực qúa mạnh, làm hoài mà không được (LỰC BẤT TÙNG TÂM), thì Qúy-vị nên thường trì tụng “Cu-thi-thiết-câu thủ nhãn ấn pháp”, thì TÂM, Ý và THỨC của Qúy-vị sẽ bị CÂU MÓC TRỞ LẠI ở trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín, động tịnh đều được TỰ-TẠI AN-NHIÊN, Y theo TAM-BẢO mà tu hành, LẤY GIỚI-LUẬT LÀM THẦY, có vậy thì mới có đủ ĐỊNH-LỰC và KHẢ NĂNG, BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG NHƯ CHƯ LONG VƯƠNG VẬY.
Kệ tụng Việt dịch:
Cấp Tu, Khoái Độ, các vua rồng
Quả Vãng, Pháp Đại bậc hiền thần
Quy y tam bảo làm hộ pháp
Đi, đứng, ngồi, nằm thường an nhiên.
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Hai
Địa Rị Ni [31]
𑖠𑖰𑖨𑖰𑖜𑖰
DHIRIṆI
Án– a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ. Nẳng mồ– tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖀𑖎𑖿𑖨𑖺𑖠 𑖎𑖯𑖨 𑖪𑖰𑖬𑖧𑖸 𑖡𑖦𑖺_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ AKRODHA KĀRA VIṢAYE NAMO_ SVĀHĀ
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(TAM VÔ LẬU HỌC: GIỚI, ĐỊNH, HUỆ)
Đức Phật bảo A-Nan: “Ông thường nghe trong giới luật của Như Lai, giảng bày ba nghĩa quyết định của việc tu hành. Thu nhiếp tâm ý gọi là giới, nhân giới phát định lực, nhân định có trí huệ. Đó gọi là ba môn học vô lậu.
- ĐOẠN TRỪ DÂM TÂM
A-Nan vì sao thu nhiếp tâm niệm, Như Lai gọi là giới? Nếu các chúng sinh trong thế giới lục đạo tâm không dâm dục, thì sẽ không bị tương tục trong sinh tử
Ông tu tam-muội, cốt là để thoát khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng dâm, không thể ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí và thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm dâm, chắc lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ.
Các loài ma kia cũng có đồ chúng. Đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều loại ma dân nầy náo loạn trong thế gian. Chúng gây nhiều việc tham dâm, xưng là thiện tri thức, khiến cho chúng sinh rơi vào hầm sâu ái kiến, lạc mất đường đến giác ngộ.
Ông dạy người đời tu tam-ma-địa, trước hết phải đoạn trừ tâm dâm. Đó là lời dạy bảo thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên, A-Nan, nếu không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như nấu cát mà mong thành cơm. Trải qua trăm ngàn kiếp, cũng chỉ là cát nóng. Vì sao? Vì đó chẳng phải là bản nhân của cơm, đó chỉ là cát đá.
Ông đem thân dâm dục cầu diệu quả chư Phật, dù được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm. Cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi được. Còn đường nào để tu chứng niết-bàn của Như Lai?
Ắt phải khiến cho thân tâm đều đọan trừ hết căn dâm. Tánh đoạn cũng trừ. Mới mong chứng quả bồ-đề của chư Phật.
Như lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma ba-tuần nói.
- PHẢI ĐOẠN TRỪ TÂM SÁT HẠI
Lại nữa, A-Nan, nếu các chúng sinh trong sáu cõi khắp các thế giới, nếu họ không có tâm sát hại, ắt sẽ không tương tục theo dòng sanh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là ra khỏi trần lao. Tâm sát hại không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.
Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu như không đoạn trừ tâm sát hại, ắt rơi vào thần đạo. Bậc cao thì làm đại lực quỷ. Bậc trung thì làm quỷ phi hành dạ-xoa và các loài quỷ soái. Bậc thấp thì làm quỷ địa hành la-sát.
Các loài quỷ thần ấy cũng có đồ chúng. Chúng đều tự cho rằng mình đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp, nhiều loại quỷ thần nầy sôi nổi trong thế gian. Chúng tự tuyên bố rằng ăn thịt sẽ chứng được đạo bồ-đề.
A-Nan, Như Lai cho phép hàng tỷ-khưu ăn năm loại tịnh nhục. Thịt ấy đều do thần lực của Như Lai hóa ra, vốn chúng không có mạng căn. Xứ Bà-la-môn của các ông, đất đai phần nhiều ẩm thấp và nóng, lại thêm cát đá, rau cỏ không sinh được. Như Lai dùng thần lực từ bi gia hộ. Do tâm đại từ bi giả gọi là thịt. Các ông cũng nhận được vị như thịt. Cớ sao sau khi Như Lai diệt độ, những người ăn thịt chúng sinh lại xưng là Thích tử?
Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dù tâm được khai ngộ, như tam-ma-đề, đều là loài đại la-sát. Khi quả báo hết, lại phải chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Họ chẳng phải là đệ tử của Phật. Những người ấy giết hại, thôn tánh lẫn nhau, ăn nuốt nhau không thôi. Những người như vậy làm sao ra khỏi ba cõi?
Ông dạy người đời tu pháp tam-ma-địa, phải đoạn trừ việc sát sanh. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ hai của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A-Nan, nếu không đoạn trừ việc sát hại mà tu thiền định, ví như có người tự bịt tai mình, rồi kêu lớn tiếng, mà mong mọi người chẳng nghe tiếng mình. Loại người nầy gọi là muốn dấu nhưng càng lộ bày.
Tỷ-khưu thanh tịnh và các vị Bồ Tát khi đi trên đường còn không đạp cỏ non, huống là dùng tay nhổ. Tại sao thực hành tâm đại bi mà lại lấy máu thịt chúng sinh làm thức ăn?
Nếu các tỷ-khưu không mặc tơ lụa, là lượt của phương đông, và không dùng giày dép, áo cừu, áo len, hay các thứ sữa, lạc, đề hồ. Những tỷ-khưu ấy, thật là giải thoát trong pháp thế gian. Trả hết nợ cũ xong, sẽ không vào trong ba cõi nữa.
Tại sao dùng những bộ phận thân thể chúng sinh, đều có ảnh hưởng đến chúng. Như con người ăn trăm giống cốc loại trong đất, thì chân không rời đất. Dứt khoát thân tâm mình, đối với thân thể hay chi phần của chúng sinh, quyết không dùng, không ăn không mặc. Những người như vậy, Như Lai mới thật xem là giải thoát.
Như lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma ba-tuần nói.
- DỨT TRỪ TÂM TRỘM CẮP
Lại nữa A-Nan, nếu như chúng sinh trong thế giới lục đạo, tâm không trộm cắp, thì họ sẽ không bị tương tục trong dòng luân hồi sinh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là ra khỏi trần lao. Tâm trộm cắp không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.
Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm trộm cắp, ắt phải rơi vào tà đạo. Hạng trên thành tinh linh, hạng trung thành yêu mị, lớp dưới thành người tà đạo, bị yêu mị gá vào.
Các nhóm tà đạo kia cũng có đồ chúng. Họ đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp, có nhiều loại yêu ma tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, lén lút gian dối xưng là thiện tri thức. Họ đều tự xưng đã được pháp thượng nhân. Dối gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến họ mất lòng tin. Chúng đi đến đâu, gia đình người ta đều bị hao tán.
Như Lai dạy hàng tỷ-khưu theo thứ tự khất thực, là khiến họ xả trừ lòng tham, thành tựu đạo bồ-đề. Các hàng tỷ-khưu không tự nấu ăn, gửi cái thân sống nhờ như khách trọ trong ba cõi. Hiện thân một lần qua lại, đi rồi không trở lại nữa.
Tại sao loại giặc ấy lại mượn y của Phật, buôn bán Như Lai, tạo vô số nghiệp, nói rằng đó đều là Phật pháp. Lại chê hàng xuất gia thọ giới tỷ-khưu là đạo Tiểu thừa. Do chúng làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị đoạ vào địa ngục vô gián.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỷ-khưu phát tâm quyết định tu tam-ma-đề. Có thể trước hình tượng Như Lai, tự mình thắp một ngọn đèn, đốt một ngón tay; hay ở trên thân đốt một liều hương. Như Lai nói người nầy, nợ nần từ kiếp lâu xa, nay được trả hết trong một đời, xa lìa thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu hoặc. Người ấy tuy chưa hiểu rõ đạo vô thượng giác, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định.
Nếu không gieo được cái nhân xả thân nhỏ bé ấy, dù có thành đạo vô vi, cũng phải sanh lại làm người, hoàn trả các nợ cũ, như quả báo ăn lúa ngựa của Như Lai.
Ông dạy người đời, tu pháp tam-ma-địa, sau nữa, dứt trừ tâm trộm cắp. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ ba của các Đức Phật Như Lai Thế Tôn trong quá khứ.
Cho nên A-Nan, nếu không dứt trừ tâm trộm cắp mà tu thiền định, cũng như rót nước vào bình thủng, mà mong cho đầy. Dù trải qua nhiều kiếp số như vi trần, rốt cục vẫn không đầy được.
Nếu các tỷ-khưu, ngoài y bát ra, không tích trữ mảy may. Khất thực có thừa, bố thí cho chúng sinh đói. Nơi hội lớn đông người, chắp tay lễ bái đại chúng. Nếu có người đánh mắng, xem như khen ngợi mình. Xem thân thịt máu xương của mình giống như thân của chúng sinh. Nếu không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ tỏ ngộ của mình, khiến cho kẻ sơ học khỏi bị lầm lạc, thì Như Lai ấn chứng người ấy chân thực được tam-muội.
Như lời Như Lai nói đây, tức là lời của chư Phật. Nếu không đúng như lời nói đó, tức ma ba-tuần nói.
- DỨT TRỪ VỌNG NGỮ
A-Nan, chúng sinh trong thế giới lục đạo như thế, tuy thân tâm không còn sát đạo dâm, ba hạnh đều đã viên mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì tam-ma-đề không được thanh tịnh, sẽ thành giống ma ái kiến, và làm mất chủng tử Như Lai.
Chưa được gọi là đã được, chưa chứng nói rằng đã chứng. Hoặc để mong cầu thế gian Tôn trọng tột bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã đắc quả Tu-đà-hoàn quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, được đạo A La Hán, Bích-chi Phật thừa, hay các quả vị Bồ Tát trong Thập địa hay trước Thập địa. Mong được mọi người lễ bái, tham được cúng dường.
Những kẻ nhất-điên-ca ấy tự tiêu diệt chủng tử Phật. Như người dùng dao chặt cây đa-la. Phật ấn ký người ấy mất hẳn thiện căn, không còn chánh tri kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu được pháp tam-muội.
Sau khi Như Lai diệt độ, dạy hàng A La Hán và Bồ Tát hãy ứng thân sinh trong đời mạt pháp, hiện ra nhiều hình tướng khác nhau để độ những chúng sinh còn trong vòng luân hồi.
Hoặc làm sa-môn, cư sĩ bạch y, vua chúa, quan lại, đồng nam đồng nữ. Như vậy cho đến làm dâm nữ, làm người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, kẻ buôn bán. Để cùng với họ đồng sự, xưng tán Phật thừa, khiến cho thân tâm họ nhập vào tam-ma-địa.
Rốt ráo không tự bảo mình thật là Bồ Tát, là A La Hán. Khinh xuất nói với người chưa học, tiết lậu mật nhân của Phật.
Chỉ trừ khi đến lúc lâm chung, âm thầm có lời di chúc. Tại sao những người ấy lừa gạt chúng sinh, thành tội đại vọng ngữ.
Ông dạy người đời tu tam-ma-địa, sau rốt phải đoạn trừ nói lời đại vọng ngữ. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A-Nan, nếu không đoạn trừ lời đại vọng ngữ, như khắc phân người làm hình cây chiên đàn, mà muốn được hương thơm. Thật không có chuyện đó.
Như Lai dạy hàng tỷ-khưu, lấy trực tâm làm đạo tràng. Trong các hành xử từ bốn uy nghi, còn không được hư dối. Làm sao có kẻ tự xưng là đã được pháp thượng nhân?
Ví như người bần cùng, tự xưng là đế vương, tự chuốc lấy sự tru diệt. Huống gì là ngôi vị pháp vương, sao dám xưng càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co. Cầu đạo bồ-đề của Phật, như người muốn cắn rốn, làm sao thành tựu được?
Nếu hàng tỷ-khưu, tâm thẳng như dây đàn, hành xử mọi việc chân thật, nhập vào tam-ma-đề, ắt hẳn không có ma sự. Như Lai ấn chứng cho người nầy, thành tựu được vô thượng trí giác của hàng Bồ Tát.
Như lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma ba-tuần nói.
Giới Luật Là Thọ Mạng Của Phật Pháp
Hòa thượng Thích Trí Tịnh
(bài ban từ trong Ðại giới đàn Thiện Hòa, ngày 01-04-1993 tại Ðại Tòng Lâm, Bà Rịa Vũng Tàu)
—o0o—
Ðức Phật là một đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Ðức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Ðức Phật không có cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ đại Bi, ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sinh”.
Vì vậy Ðức Phật ra đời, cũng không ngoài mục đích ấy, vì thương chúng sinh như con một mà phải ban vui cứu khổ, và trong kinh Pháp Hoa Ðức Phật nói rõ:
“Ðức Phật ra đời vì muốn cho tất cả chúng sinh được Khai Phật tri kiến, Thị Phật tri kiến, Ngộ Phật tri kiến và Nhập Phật tri kiến, được thành Phật như Phật không khác”.
Chỉ một hoài bão duy nhất đó mà Ðức Phật mới ra đời và Ðức Phật cũng nói thập phương Chư Phật ra đời cũng một hoài bão duy nhất đó mà thôi.
Do đó, tất cả Pháp của phật nói ra cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh, những người có thể tin được, có thể làm được cũng đến nơi mục đích là hết khổ được an vui cứu cánh giải thoát, đầy đủ trí Huệ đại Từ Bi như Ðức Phật không khác. Cho nên bổn phận hôm nay của chúng ta cũng như các vị Giới Sư, chỉ vì mục đích duy nhất là đem Giáo Pháp của Phật truyền nói lại cho những người kế thừa mình để cho Chánh Pháp của Phật mãi mãi lưu truyền ở thế gian không dứt.
Ðể chi? Ðể cho những người hiện tại cũng như tất cả những người ở tương lai và rộng đến tất cả mọi loài chúng sanh đều được nhuần nơi chánh Pháp (ban vui cứu khổ) để hết khổ và được an vui. Như Ðức Phật dạy:
“Sau khi Phật diệt độ, chúng ta phải coi Giới luật là bậc Thầy sáng suốt, cũng như Phật còn tại thế không khác”.
Bởi vậy, sau Phật diệt độ, nhất là trong thời kỳ mạt Pháp nầy, nếu chúng ta có một tâm giữ gìn được Chánh Pháp của Ðức Như Lai để làm lợi ích cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh đều được an vui hết khổ, thì trước hết phải giữ gìn giới luật của Ðức Phật còn tồn tại ở thế gian, giới luật có tồn tại ở thế gian thì mới có thể làm nền móng cho Chánh Pháp được tồn tại.
Muốn giữ gìn giới luật được tồn tại tại thế gian thì phải thực hành nơi giới luật của Phật chế ra lúc Phật còn tại thế.
Do đó, mà được truyền nối đến ngày nay. Thế nên ở nơi chúng ta là người đã thọ giới và thực hành theo giới, mà phải đem Giới luật ấy mà ban bố lại cho những người hậu lai để có sự kế thừa liên tục. Vì vậy, nên ta phải làm Giới Sư, phải truyền giới để cho giới đó được giới, học giới và giữ giới.
Các vị giới tử đó khi đã có giới rồi thì cũng sẽ truyền lại cho những người khác cũng được thọ giới, học giới và giữ giới. Ðược như vậy thì giới Pháp của Ðức Phật mới có thể tồn tại, mà Giới Pháp tồn tại thì Phật Pháp mới còn, đây là lời nói ở trong Kinh như vậy.
Vì sự truyền giới nó rất quan trọng nên tôi xin nhắc nhở cho toàn thể quý vị Giới Sư rằng: Dầu sao đi nữa cũng không nêu ở hoàn cảnh hay là bất cứ những điều chi đó. Mà nó có thể chi phối được mình không làm đúng theo giới luật, nhưng về phần truyền giới mình phải làm sao, nếu không được trọn vẹn hết thì cũng có một phần lớn để hoàn thành những điều ở trong luật chỉ dạy truyền giới phải như thế nào. Vì sự truyền giới có đúng Pháp thì người thọ giới mới được đắc giới.
Như vậy, giới luật đầu tiên là ở nơi người thọ giới, mà người thọ giới chưa được đắc giới, thì về sau làm sao có được giới thể trang nghiêm có giới đức thanh tịnh được, do đó sự truyền giới là mối đầu tiên hết, nên phải làm sao dầu không thể được hoàn toàn viên mãn, nhưng cũng phải làm sao để hoàn thành những điều quan trọng nhất mà trong giới luật đã nêu ra cho những người có bổn phận truyền giới.
Tôi cũng cầu nguyện cho toàn thể giới sư lục căn thanh tịnh, tam nghiệp thuần hòa, giới thể trang nghiêm để đem giáo Pháp của Phật ban bố cho hàng giới tử. Và sau đây tôi cũng có ít lời để khuyên nhắc các vị giới tử Tăng Ni cầu giới.
Tôi xin mạn phép được gọi quý vị bằng huynh đệ, bởi vì dù sao chúng ta cũng đều là con của Ðức Phật, đã là con của Phật thì đồng một cha, tức là anh em với nhau cả. Quý huynh đệ ngày hôm nay, cũng như tôi trước đây, hơn nửa thế kỷ, thì cũng khép nép cần cầu và khát muốn được thọ giới. Lòng của tôi ngày hôm trước, và những ngày sau đó cũng chính là cái lòng của quý huynh đệ thọ giới ngày hôm nay.
Tôi thông cảm ở nơi tâm nguyện đó của quý huynh đệ, vì rằng tôi đã trải qua và cũng tấm lòng của tôi từ đó được ôm ấp cho tới ngày hôm nay. Vì sao? Vì khi mà cầu giới như vậy, thì thấy lòng mình có phần nào gọi là thiết tha, thanh tịnh đối với giới luật. Vì rằng do sự mong muốn do sự cần cầu đó mà nó có sự khao khát và trân trọng. Quý huynh đệ nên biết rằng: Cái sơ tâm tức là bỏ phát tâm nó rất là khó mà cũng rất quí, nhưng cũng có thể sau khi được rồi, thì cái tâm phát khởi lúc ban đầu ấy lần lần nó bị phai nhạt đi.
Cho nên vừa rồi tôi nói lòng khát ngưỡng giới luật, cũng như tấm lòng quí trọng nơi giới luật lần đầu tiên mình có được, tôi vẫn tâm tâm niệm niệm ôm ấp cho đến trọn đời.
Thật ra mà nói cũng có lúc nó phai nhạt một phần nào, nhưng nhờ sự nghĩ đến bổn phận của mình, nghĩ đến tương lai làm sao mình được siêu phàm nhập thánh cầu mong cho được giải thoát, nhờ ở nơi tâm nguyện đó mà nó nếu kéo lại để cho lòng tôn kính giới luật, quí báo giới luật như lúc ban đầu.
Do đó, tôi khuyên nhắc tất cả quí huynh đệ mà cầu giới hôm nay nên ghi nhớ hẳn những giờ phút thiêng liêng mà mình cầu giới. Tâm trạng chí nguyện như thế nào. Phải nhớ rõ ngày tháng năm, cái giờ cho đến cái phút mà mình được thọ giới, để từ đó mình ôm chặt vào lòng giữ gìn, trân trọng quí báu mãi mãi về sau trọn đời của mình.
Ðiều đó tôi nhắc nhở ở nơi quí huynh đệ những ngày sắp tới đây, sau khi thọ giới và được đắc giới rồi; trở về nơi trụ xứ của mình thì lần lần, quí huynh đệ mới thấy rằng sự quí trọng ôm ấp ở nơi giới mình đã thọ, đã được đó rất là khó giữ trọn vẹn lắm, khó giữ bền lắm, chớ không phải là chuyện dể đâu. Phải có chí nguyện cho kiên cường, phải có một tâm hành luôn luôn được kiểm soát thì mới có thể trọn vẹn đối với sự giữ gìn ôm ấp. Như quý huynh đệ cũng biết Phật dạy:
“Ở trong lục đạo chúng sinh thì chỉ có thân người, làm người mới được xuất gia, mới được thọ giới làm Tăng hay Ni”.
Giờ đây quý huynh đệ được làm thân người và cũng có duyên tốt sắp tới đây được thọ giới mà được đắc giới, được giới nhân chánh quả Ðức Như Lai, đó là do vì ở nhiều đời trước trồng thiện căn sâu dày, cho nên ngày hôm nay mới được như vậy. Trước hết quý huynh đệ phải trân trọng với căn lành mà mình đã dày công vun trồng từ nhiều đời trước đó, để cho mỗi ngày được thêm lớn và khỏi phải có sự tốn hao. Như trong luật Ðức Phật có nói:
Tại sao người thọ giới được đắc giới?
Vì rằng, người thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên đắc giới, phải nhớ điều đó. Do vậy, giờ phút này, quý huynh đệ luôn luôn giữ đến cái giới chỉ có Ðức Phật ra đời mới có, cái giới mà mình sắp thọ đó, không phải là chuyện dễ có đâu.
Mình đã có rồi thì cho là dễ, nếu như không có Phật ra đời thì không có cái giới đó ở thế gian. Vì sao? Vì chính nơi giới đó mới có thể làm nền tảng, làm chỗ đứng đầu tiên để bước lên hàng Hiền Thánh. Bởi vì các bậc Hiền Thánh do chánh định, chánh huệ nên mới thành bậc Hiền Thánh được.
Nếu không có giới thì chánh định không do đâu mà sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ từ đâu mà phát sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ từ đâu mà phát sanh. Cho nên nói rằng, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ, trong lời phát nguyện vừa rồi của quý vị tôi cũng nghe nhắc đến điều đó.
Như vậy thì quý vị cũng đã biết được phần nào về sự quan trọng của giới định rồi. Giới là bậc đầu tiên, không giới thì lấy đâu để có định huệ bước lên bậc Hiền Thánh. Do có sự suy nghĩ như vậy nếu có cái lòng hết sức quan trọng quí báu vô cùng, vì sự tôn trọng cần cầu ấy mà khi quí vị ở trước giới Sư để thọ giới quí vị sẽ đắc giới, đó là điều ở trong giới luật có nói.
Nguyên nhân được đắc giới là do cái lòng hết sức kính trọng, thiếu lòng kính trọng ấy thì không thể đắc giới được, đó là mục đích của tôi hôm nay muốn nhắc nhở quý huynh đệ. Và tôi cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố gắng học giới cho rành, nhờ có học hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật được.
Quí vị đã có sự học hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và cũng chính nơi giới luật nó làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri kiến để thành Phật như Phật không khác.
Vậy tôi cầu mong cho tất cả quí huynh đệ từ giờ phút này, thân tâm được thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căng tăng trưởng để quí vị khi thọ giới thì được đắc giới. Và tôi cũng xin gởi lời cầu chúc đến cho toàn thể chư Tôn Ðức quí vị hiện diện hôm nay cũng như toàn thể mọi người, tất cả chúng sinh đều được an lành, đều được an vui, đều được giải thoát.