BẢO ẤN THỦ NHÃN

 

Bảo Ấn Thủ (Tay cầm cái Ấn báu):

Tay thứ ba trong tám tay thuộc Liên Hoa Bộ của Mật Pháp, là Pháp Kính Ái.

Câu thứ 24 trong Chú Đại Bi là:”Tát bà tát bà” dịch nghĩa là tất cả lợi lạc tức Bảo Ấn Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.

Đại Bi xuất tướng câu 24: Tát Bà Tát Bà

Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 24 trong Kinh Văn:

“Nếu muốn thành tựu miệng nói , biện luận hay khéo thì nên cầu nơi tay Bảo Ấn”.

Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 31:

“Nếu người nào vì Khẩu Nghiệp biện luận khéo léo thì nên cầu nơi bàn tay cầm cái Ấn báu”.

_ Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ 31 là:

Nếu muốn thành tựu diệu biện tài (biện thuyết khéo léo) nên tác pháp Bảo Ấn. Tượng TRÍ ẤN QUÁN TỰ TẠI Bồ Tát…. chỉ có tay phải đặt trên trái tim cầm cái hình ấn báu, tay trái nắm quyền đặt ở eo,vẽ tượng xong.

Tướng Ấn là dùng tay phải ấn lên trái tim.

Trí Ấn Quán Tự Tại Bồ Tát

31) Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm chiếc Ấn-Báu”.

Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]

𑖭𑖨𑖿𑖪 𑖭𑖨𑖿𑖪
SARVA   SARVA

SARVA (Tất cả )

SARVA  SARVA: Hết thảy Phật Pháp Bình Đẳng làm lợi lạc cho tất cả Chúng Sinh.

Tát Bà Tát Bà”, là tiếng Phạn, dịch ra là “Nhất thiết lợi lạc”. Nhất thiết là tất cả, bạn tu Thủ Nhãn (tay mắt) này thì có thể lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

Bạn có “bảo ấn” này thì chư thiên trên trời đều nghe hiệu lệnh của bạn, quỷ vương dưới địa ngục cũng đều nghe hiệu lệnh của bạn; bạn kêu họ như thế nào thì họ như thế ấy. Bạn kêu họ thả người có tội ra thì họ lập tức phải thả họ ra. Tại sao ? Vì bạn có mạng lệnh này. Bảo ấn này cũng giống như ngọc tỷ của hoàng đế; ấn ngọc tỷ của hoàng đế in vào trong chiếu thư, phổ cáo thiên hạ, đến đâu thì mọi người đều phải chiếu theo chiếu thư mà hành sự, chẳng có ai dám phản đối. Bạn có Bảo Ấn Thủ này thì có thể lợi ích tất cả chúng sinh; bạn kêu tất cả chúng sinh được lợi ích gì thì họ sẽ được lợi ích đó, cho nên dịch ra nghĩa là “lợi ích tất cả”.

Người Trung Quốc hầu như đều có nghe rằng thần tiên thời xưa có một cái ấn gọi là “phiên thiên ấn”. Huỳnh Thành Tử có phiên thiên ấn tức là cái ấn này; Ðạo giáo gọi là phiên thiên ấn, ở tại Bồ Tát Quán Thế Âm gọi là Bảo Ấn Thủ. Bạn dùng Bảo Ấn Thủ này tu hành thì tu sẽ thành công; bạn mang theo bảo ấn này dù người nào chết, hoặc sắp chết thì vua Diêm Vương chẳng dám kêu họ chết, có diệu dụng có thể cải tử hồi sinh. Song, bạn phải tu hành, nếu không tu hành thì chẳng có ích lợi gì. Tu hành thành công thì giống như bạn đi học, bắt đầu học từ tiểu học, trung học sau đó lên đại học, đậu bằng bác sĩ. Bạn tu Bảo Ấn Thủ thành công thì cũng giống như đậu được bằng bác sĩ, song còn cao hơn nhiều.

Cho nên “Tát Bà Tát Bà” tức là “lợi lạc tất cả”, hay trợ giúp tất cả chúng sinh, lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được khoái lạc. Bạn thấy có diệu chăng ! Cho nên gọi là Bảo Ấn Thủ. Nếu bạn muốn dùng Bảo Ấn Thủ này tu Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn (tay và mắt) thì “Tát Bà Tát Bà” là một Thủ Nhãn trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn, ngoài ra còn có bốn mươi mốt Thủ Nhãn nữa.

Có người nghe tôi giảng Bảo Ấn Thủ có đại dụng như thế, anh ta bèn nghĩ :”Tôi phải mau tu Bảo Ấn Thủ này; tu xong rồi, tất cả mọi người sắp chết thì tôi đều khiến cho họ đừng chết.” Có thể được ! Bất quá bạn đừng kêu người khác chết hoặc là thọ mạng đến lúc chết thì không có ai có thể dùng ấn này được nữa.

Tôi đã dùng qua hai lần cái ấn này. Tại Ðông Bắc Trung Quốc tôi đã dùng qua một lần, tại Hương Cảng cũng dùng qua một lần. Tại Ðông Bắc nhân duyên như thế nào ? Ðó đều là bất đắc dĩ. Bất đắc dĩ như thế nào? Tức là nhất định phải làm việc này, không thể không làm. Tôi còn nhớ khi tôi ở Chùa Tam Duyên tại Ðông Bắc thì vào ngày 18 tháng 4, có người tên là Cao Ðức Phước, nhà anh ta cách Chùa khoảng gần hai mươi dặm. Vào một buổi chiều hôm đó, anh ta đến Chùa. Ðể làm gì ? Ðể chặt cánh tay; anh ta cầm một thanh đao dùng giấy báo bao bọc lại, chuẩn bị chặt cánh tay của anh ta để cúng Phật. Bạn có cho rằng anh ta thông minh chăng ? hoặc là ngu si ? Ðương nhiên rất là ngu si. Nếu là người thông minh sao lại chặt cánh tay của mình ? Không sai, rất là ngu si. Song, anh ta ngu si là vì hiếu thuận mà ngu si.

Tại sao anh ta muốn chặt cánh tay ? Vì mẹ của anh ta bệnh nặng. Mẹ của anh ta bình thường hay hút nha phiến, bệnh nặng đến độ chẳng hút nha phiến được nữa. Nha phiến đã không thể hút được nữa thì đương nhiên cũng chẳng ăn cơm được, chẳng uống nước được nữa. Lưỡi cũng đã biến thành màu đen. Trung y, bác sĩ Trung Quốc, bác sĩ ngoại quốc đều bó tay. Anh ta nói :” Bồ Tát là linh cảm nhất, bây giờ tôi đến Chùa Tam Duyên, chặt cánh tay của tôi xuống để cúng dường Phật; dùng tâm thành này để cầu Phật gia hộ cho mẹ của tôi khỏi bệnh”. Ðến chùa rồi mở đao trong giấy báo ra, tự mình duỗi cánh tay ra, còn tay kia thì cầm đao muốn chặt tay; từ phía sau có người đến giữ thanh đao của anh ta lại, nói :”Ê ! Anh làm gì thế ? Ðừng có tự sát, tại đây không nên tự mình giết mình !” Anh ta nói :”Tôi vì mẹ của tôi bệnh nặng, tôi phải chặt cánh tay của tôi xuống để cúng Phật, Thầy đừng cản trở tôi, đừng làm tôi không chặt được !” Người đó cũng chẳng chịu buông đao ra, bèn đi báo cáo với Hòa Thượng phương trượng (Thầy trụ trì), Hòa Thượng phương trượng cũng chẳng có biện pháp. Ðương lúc đó có vị cư sĩ tên là Lý Cảnh Hoa là hộ pháp đắc lực nhất của Hòa Thượng phương trượng. Hòa Thượng bèn sai Lý Cảnh Hoa đi tìm tôi nói:”Thầy ơi Thầy ! Có người đến muốn chặt cánh tay, vì mẹ của anh ta bệnh nặng, Thầy hãy tìm cách giúp anh ta”.

Lúc đó tôi làm thủ tòa ở trong Chùa, ngoài Hoà Thượng phương trượng ra tức là tôi. Lúc đó tôi còn là Sa Di, chẳng phải như Sa Di hay ăn, Sa di hay ngủ, Sa Di hay uống, chẳng phải như thế. Lúc tôi làm Sa Di thì mọi người chẳng dậy thì tôi dậy; chẳng phải đợi mọi người dậy mà mình thì chưa dậy. Việc người khác không làm thì tôi làm.

Tìm tôi rồi, tôi bèn nói với Hòa Thượng :”Họ đến tìm Ngài, Ngài lại thêm phiền phức đến con, Ngài chẳng lo mà kêu con lo”. Hòa Thượng phương trượng nói :”Con hãy từ bi, giúp anh ta”.

Tuy nhiên tôi chẳng muốn lo việc ấy nhưng Hòa Thượng đã nói lời đó làm cho tôi rất cao hứng.

Tôi nói :”Tốt, con đi đây”. Tôi lại nói với anh muốn chặt tay là Cao Ðức Phước :”Anh hãy về đi”. Anh ta leo lên xe đạp về nhà, anh ta đi xe phải đi đường lớn, tôi thì đi đường nhỏ. Lúc đó mặt trời đã lặn sớm khoảng năm giờ chiều, tôi nói :”Anh đi trước”. Anh ta nói :”Thầy có biết đường chăng ?”. Tôi nói :”Anh đừng lo cho tôi, anh hãy đi trước thì tốt rồi”.

Cách mười tám dặm đường, anh ta đạp xe đạp đi trước, tôi thì cũng đi theo con đường nhỏ. Tôi đến nhà anh ta mà anh ta chưa về tới ! Anh ta về đến nhà thì thấy tôi nói : “Ồ ! Lạ quá, sao Thầy lại đến trước con ?”. Tôi nói :”Chắc trên đường đi anh ham chơi, hoặc đá cầu, cho nên anh mới về nhà trễ”. Anh ta nói :”Không đâu ! Con đạp xe rất nhanh để về sớm mà !”. Tôi nói :”Hoặc là xe của anh chẳng nhanh bằng xe của tôi, cho nên tôi đến trước”.

Tôi đi xem bệnh nhân, thật chẳng có cách nào sống lại được, thử xem sao ! Ðến sáng sớm ngày thứ hai thì dậy.

Mẹ của anh ta vốn đã bảy tám ngày chẳng biết gì, cũng chẳng nói, cũng chẳng nhận ra ai, gần như đã chết. Ngày thứ hai thì bà ta ngồi dậy gọi tên con trai lớn, ở nhà thường gọi anh Cao Ðức Phước :”Tụ ơi, Tụ ơi, có cháo không, bây giờ mẹ muốn ăn cháo”. Anh con trai lớn cũng đã bảy tám ngày chẳng nghe mẹ của anh ta gọi, bây giờ đột nhiên ngồi dậy được để gọi anh ta, anh ta rất đỗi vui mừng. Anh ta chạy lại nói :”Mẹ, mẹ bệnh trầm trọng đã nhiều ngày không nói được, bây giờ mẹ có khỏe không ?”. Mẹ của anh ta nói :”Mẹ cũng chẳng biết bao nhiêu ngày rồi, mỗi ngày đều ở trong chỗ tối tăm u ám, cũng chẳng có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cũng chẳng có đèn lửa gì hết ! Chạy khắp nơi tìm chẳng được nhà, chạy đã rất nhiều ngày khổ nhọc, kêu ai cũng chẳng có ai. Tối hôm qua, mẹ nhìn thấy một vị Hòa Thượng nghèo, trên thân mặc áo rách rưới, ông ta đưa mẹ về, cho nên hôm nay mẹ muốn ăn cháo”. Con của bà ta nghe mẹ nói như thế bèn nói :”Hòa Thượng đó như thế nào ?”. Bà ta nói :”Ông ta rất cao, nếu nhìn thấy chắc sẽ nhận ra ngay”. Lúc đó tôi đang nằm trên cái bục ngủ, anh ta đi đến chỗ của tôi ngủ chỉ nói :”Mẹ có biết vị Thầy này chăng?”. Bà ta nhìn chăm chăm nói :”Phải rồi, mẹ thấy ông ta, ông ta đưa mẹ về”.

Lại thêm nhiều sự rắc rối ! Cả gia đình hơn mười người đều đến quỳ ở trước tôi nói :”Thầy đã cứu mạng mẹ của chúng con, cả gia đình chúng con lớn nhỏ đều xin quy y với Thầy, sau này bất cứ Thầy có việc gì kêu chúng con làm, chúng con đều hoan hỉ làm hết mình”. Ðó là tôi đã dùng qua một lần. Dùng qua một lần thì bệnh khỏi, bạn nói như thế nào ? Sao lại nói nhiều sự rắc rối đến ? Cả nhà đều đến lạy, về sau ở trong làng đó, người này cũng nói có bệnh, người kia cũng nói có bệnh, rất là nhiều bệnh nhân. Vì có nhân duyên này nên tôi nói :”Các vị những người có bệnh đều phải đánh”. Lúc đó tôi cầm cây phất trần đánh mỗi người ba cái, sau đó tôi hỏi những bệnh nhân :”Các vị có còn bệnh chăng ?”. Họ trả lời :”Hết đau rồi, khỏi rồi”. Tôi nói :”Các vị đều là bệnh đánh đòn, để tôi đánh thì hết bệnh”. Ðó là việc rắc rối phiền phức ở tại Ðông Bắc (Manchuria) bên Trung Quốc.

Còn ở Hương Cảng là ai ? Tức là cha của cô Madelena Lew. Cha của cô ta khoảng 79 tuổi, coi bói, xem tướng đều nói ông ta nhất định phải chết, do đó ông ta bèn đến ghi danh quy y. Khi quy y thì ông ta hỏi tôi :”Sư Phụ, Ngài có thể làm tôi không chết chăng ?”. Tôi nói :” Ông thích không chết chăng ? Tốt, có thể được, tôi để cho ông sống tới mười hai năm nữa được không ?” Ông ta nói :”Ðương nhiên là tốt !”, tôi cũng làm cho ông ta việc này, về sau quả nhiên ông ta sống thêm mười hai năm nữa.

Song, vừa mới nói, dù bạn có pháp này cũng không thể dùng cho người chết. Nếu bạn cứu họ lại, không để cho họ chết thì tức là biến thành đối đầu với vua Diêm Vương. Vua Diêm Vương sẽ nói với bạn rằng :”Tốt ! Ông không để cho họ chết thì bây giờ tôi kêu ông chết trước”. Khi bạn chết thì chẳng có ai thay bạn dùng ấn đó. Bạn nói :”Chính tôi dùng ấn đó cho tôi”. Vậy thì không được. Tại sao ? Giống như một thanh đao, đây là bề lưỡi, kia là bề sống đao; đao của chính bạn không thể chặt bề sống đao . Dù bạn có pháp thuật, nếu chính bạn có việc gì tức cũng như Bồ Tát bằng đất sét đi qua biển, khó bảo vệ được thân mình, bạn bảo vệ cho mình chẳng được. Cho nên nếu có được pháp này còn phải tự mình tu hành. Vì vậy, cho nên hiện tại tôi chẳng lo việc nhàn rỗi, muốn chết thì chết, tôi chẳng lo, tôi sợ Bồ Tát bằng đất sét đi qua biển, thân mình khó giữ đặng.

Kệ:

Hương Tích bồ tát đại uy thần
Thanh hoàng xích bạch hắc quỷ binh
Phục lao chấp dịch thính giáo hóa
Cảm ứng đạo giao cứu quần sanh

Dịch:

Uy lực như thần, Hương Tích Bồ tát
Quỷ làm binh, đỏ, trắng, vàng, xanh,
Nhận chịu khiến sai cầu học kệ kinh
Cứu người, vật đạo tâm hằng giao cảm.

Chơn-ngôn rằng: Án– phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.

𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖕𑖰𑖝𑖽 𑖕𑖧𑖸 _ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VAJRA JITAṂ JAYE _ SVĀHĀ

OṂ VAJRA JITAṂ (Quy mệnh Kim Cương Thắng) JAYE (vượt thắng) SVĀHĀ (quyết định thành tựu)

ẤN(Mudra) là con dấu dùng thay mặt cho một người, một cơ qua , một ý nghĩa nào đó.

Bảo Ấn (Ratna mudra) là báu của Bát Nhã hay Ấn Ngôn bí mật của chư Phật nên biểu thị cho sự biện tài của khẩu nghiệp. Mặt trái của Bảo Ấn có chữ HRĪḤ (𑖮𑖿𑖨𑖱𑖾)là chủng tử của Liên Hoa Bộ Trí Tuệ Môn nên hàm chứa Đức “Thuyết Pháp đoạn Nghi”

Lý Thú Thích ghi: “Công năng của chữ HRĪḤ là dùng chữ này gia trì ở Thế Giới Cực Lạc thì nước, chim, rừng ….đều diễn nói Pháp”.

Vì thế chữ HRĪḤ là Đức của Khẩu Nghiệp. Do giúp ích chúng sanh thành tựu sự xảo diệu của Khẩu Nghiệp mà mặt trái của Bảo Ấn có chữ HRĪḤ.

Bồ Tát Quán Thế Âm dùng bản Nguyện Từ Bi xông ướp Tam Muội “Bảo Ấn” nên tay cầm Ấn báu biểu hiện Trí Khế , biểu hiện cho nghĩa “không ngưng trệ” nhằm giúp cho chúng sanh thành tựu sự biện tài của Khẩu Nghiệp.

Hành Giả làm cái  Ấn báu, đối trước Bản Tôn tụng Đại Bi Chú, xong ấn lên trái tim tức được thành tựu.

Như Kinh nói: “Nếu chẳng được vô lượng biện tài Ta (Quán Thế Âm Bồ Tát) thề chẳng thành  Chánh Giác”.

Kệ tụng:

Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.

[Tài hùng biện như nước SÔNG chảy mãi không ngừng, như “DUY-MA-CẬT” Cư-sĩ.

Diệu-âm vang dội khắp 10 phương, tầm thanh cứu khổ như là QUÁN-THẾ-ÂM” Bồ-tát.

Lý-sự viên dung vô ngại, thì thành tựu được 2 trí: Căn-bổn-trí và Sai-biệt-trí.

PHẬT TRUYỀN 1 ẤN NHẤT THỪA, 84 000 PHÁP QUY VỀ NHẤT TÂM.]

KỆ-TỤNG NẦY CỦA CỐ HT. TUYÊN HÓA GỒM CÓ 4 Ý:

1.- PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN

2.- TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI, NHƯ CƯ-SĨ “DUY-MA-CẬT”.

3.- MƯỜI CHÍN LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT PHÁP, VANG DỘI KHẮP 10 PHƯƠNG, CỦA “DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT”.

4.- LÝ  SỰ VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI CỦA HOA NGHIÊM TÔNG

1.- PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN

Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ và được Tổ ấn chứng

Hồi đó, Sư nghe nói lối truyền tâm ấn (Nhĩ đề diện mệnh, khẩu thọ tâm hội, tức là “đối diện rỉ tai, lời trao tâm lãnh”) của phái Tào-khê, tức Lục-tổ ở Chùa Nam Hoa, được truyền thừa y bát từ Phật Thích Ca, Sư bèn không quản ngàn dặm đường xa, tới kiếm Lục-tổ để cầu ấn chứng.

Sư tới Chùa Nam Hoa thì gặp Lục-tổ đương thuyết pháp. Sư đắp y, tay cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi đứng trước Lục-tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát lên một tiếng lớn.

Tổ hỏi:

–Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có?

Sư đáp:

–Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau.

Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách, làm gì còn thời gian để làm lễ nữa? Làm gì còn thời gian để lo những điều tiểu tiết? Ðể nghiên cứu cái gì là ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh? Chẳng còn chuyện gì to lớn bằng chuyện sanh tử, quỷ vô thường đến bất chợt lúc nào không hay, vậy tôi còn thời gian nào để hành lễ nữa?

Tổ bèn nói:

–Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau chóng?

Ý Tổ muốn nói rằng sao không nghiên cứu pháp vô sanh? Sao không minh bạch đạo lý của cái không mau?

Sư thưa lại:

–Thể giải (tự tánh) tức là không sanh, liễu ngộ (tự tánh) rồi thì vốn không có mau chóng.

Ý Sư nói rằng đừng nói tới nghiên cứu, bởi nghiên cứu không kiếm ra sanh tử, khi minh bạch rồi thì không có cái gì gọi là mau chậm, cũng không có cái vô thường.

Tổ bảo:

–Nếu ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn không có mau, vậy ai là kẻ phân biệt?

Ý nói rằng ai là người có ý nghĩ phân biệt đó?

–Phân biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa là không có tâm niệm tại chỗ phân biệt.

Lúc đó, Lục-tổ bèn ấn chứng cho Ðại sư Vĩnh-Gia:

–Ðúng thế! Ðúng thế!

Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ Tổ, sau đó Sư xin cáo từ.

Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:

–Sao lại ra đi quá mau như vậy?

Sư thưa:

–Vốn tự không động, há có mau ư? Sư muốn nói bổn lai không đến, không đi, thì có gì là mau chậm.

–Ông thiệt đã chứng được ý vô sanh.

–Vô sanh có ý sao?

–Không ý, cái gì phân biệt được?

–Phân biệt cũng không phải ý.

–Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.

Lúc đó Sư biết rõ Lục-tổ quả đã ấn chứng cho mình, nên Sư ở lại chùa Nam-hoa một đêm. Người đương thời gọi Sư là “Nhất-túc-giác” ngộ một đêm. Ðó là công án về chuyện Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ và được Tổ ấn chứng.

Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,
Minh minh Phật sắc Tào-Khê thị.

Ðệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng,
Nhị thập bát đại Tây thiên ký.
Pháp đông lưu, nhập thử thổ,
Bồ-đề Ðạt-ma vi Sơ tổ.

Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số.

Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu vô câu khiển bất không không.
Nhị thập không môn nguyên bất trước,
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.

(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca– Sa-Môn Huyền Giác soạn
Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự Los Angeles,
California, Mỹ Quốc, tháng 2 năm 1985)

LỜI BÀN:

Ta thấy rằng “PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN”, không phải đêm “TÂM” người nầy truyền cho người kia, mà là “KHAI THỊ” để cho chúng ta “NGỘ NHẬP” TỰ-TÂM BỔN-TÁNH CỦA CHÍNH MÌNH. Cho nên, KINH LĂNG NHGIÊM nói rằng : “CÓ ÂM-THANH hay KHÔNG CÓ ÂM-THANH, THÌ “TÁNH NGHE” CỦA MÌNH CŨNG KHÔNG SANH KHÔNG DIỆT” là vậy.( Phân biệt cũng không phải ý). TỨC LÀ TÁNH PHÂN BIỆT, KHÔNG PHẢI LÀ TÂM, Ý VÀ THỨC).

KHI THẦY VÀ TRÒ CÓ CÙNG 1 TÂM (NHẤT TÂM) NHƯ CHƯ PHẬT KHÔNG KHÁC BIỆT, THÌ GỌI LÀ PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN.

ĐÂY LÀ DÙNG “TÂM ẤN TÂM” CHO NHỮNG NGƯỜI THƯỢNG CĂN, THƯỢNG TRÍ NHƯ VĨNH-GIA HUYỀN-GIÁC ĐẠI-SƯ CHẲNG HẠN.

CÒN TRUYỀN LÀM TỔ, THÌ TRONG ĐỜI CHỈ TRUYỀN CHO 1 NGƯỜI  MÀ THÔI. NHƯ 28 VỊ TỔ Ở ẤN-ĐỘ VÀ 5 VỊ TỔ Ở TRUNG HOA, VỊ SAU CÙNG LÀ TỔ HUỆ-NĂNG, THÌ KHÔNG CÒN “TRUYỀN TÂM-ẤN”  VÀ Y-BÁT LÀM TỔ NỮA.

Còn “PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN CHUNG” cho tất cả chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI, thì lấy “THẬT TƯỚNG” trong KINH VĂN ĐẠI THỪA (THÁNH NGÔN LƯỢNG) làm TÂM-ẤN.

Như “THIỀN TÔNG” BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA khuyên tứ chúng, lấy “KINH LĂNG GÌA” làm TÂM-ẤN, LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG khuyên tứ chúng, lấy “KINH KIM CANG” làm TÂM-ẤN…

“TỊNH ĐỘ TÔNG” lấy KINH A-DI-ĐÀ, KINH VÔ-LƯỢNG-THỌ… làm TÂM-ẤN.

“MẬT TÔNG” lấy KINH ĐẠI-NHẬT, KINH LĂNG-NGHÊM… làm TÂM-ẤN.

“HOA NGHIÊM, PHÁP HOA TÔNG” lấy KINH HOA-NGHIÊM, KINH PHÁP-HOA làm TÂM-ẤN…

Tóm lại, DẦU TU PHÁP MÔN NÀO, DẦU LÀM VIỆC THIỆN NHỎ NHƯ VI-TRẦN, CŨNG HƯỚNG VỀ NHỨT TÂM, TỨC LÀ “NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ”. ĐÂY LÀ PHẬT TRUYỀN “1 ẤN  NHỨT THỪA” CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI.

Tuy nhiên, “LÝ” TUY đốn ngộ, “SỰ” PHẢI tiệm tu”. Nghĩa là chúng ta, phải Y theo “NHỨT THỪA” mà tu hành thì mới thành “NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ”.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng:“Nấu cát muốn thành cơm, dầu nấu đến nhiều kiếp cũng chẳng thể thành. Dùng thức tâm phan duyên phân biệt vô thường để tu hành mà muốn được “pháp thân Như Lai thường trụ” cũng đồng với ví dụ trên”.

Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.

(KỆ HỒI HƯỚNG – KINH NHẬT-TỤNG)

2.- TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI, NHƯ CƯ-SĨ “DUY-MA-CẬT”.

Biện-tài có bốn loại, gọi là “tứ vô ngại biện.”

Thứ nhất là vô ngại biện về lời, tức ngôn từ. Bất cứ ai có vấn đề gì, ngài đều biện giải được một cách trôi chảy. Lời lẽ mà ngài xử dụng nghe rất hay, vừa tinh luyện lại vừa chính xác, dùng rất đúng chỗ. Ðối phương lý luận cách nào, cũng không sao thắng nổi.

Vô ngại biện thứ hai là về nghĩa. Không riêng ngôn từ mỹ lệ, nghĩa lý cũng vô cùng mạch lạc.

Thứ ba là vô ngại biện về pháp. Lời ngài nói ra, chỗ nào cũng là đạo, lời nào cũng quy về gốc; tất cả đều là Phật-pháp, không có gì bế tắc trở ngại.

Thứ tư là vô ngại biện về vui thích thuyết pháp. Là một loại tam muội nhạo thuyết, vui thích thuyết pháp cho mọi người, trừ phi người ta không muốn nghe, nếu muốn nghe, thì lời pháp sẽ như nước nguồn tuôn chảy, không lúc nào ngừng.

(Lược Giảng Kinh Kim Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật- Hòa Thượng Tuyên Hóa)

KINH-VĂN:

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:

– “Các Nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai”? Cứ theo chỗ thích của mình mà nói.

Trong Pháp hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói:

– Các Nhân giả! “Sanh”, “diệt” là hai. Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó là vào “pháp môn không hai”.

Các Bồ Tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:

– Như ý tôi đối với tất cả pháp không nói không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào pháp môn không hai.

Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Chúng tôi ai ai cũng nói rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?

Ông Duy Ma Cật im lặng không nói.

Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai.

Khi nói phẩm vào Pháp Môn Không Hai này, trong chúng có năm nghìn Bồ Tát đều vào pháp môn không hai, chứng Vô sanh Pháp nhẫn.

(Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết-HT. Thích Huệ Hưng Việt dịch)

Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,
Ðại thí môn khai vô ủng tắc.
Hữu nhân vấn ngã giải hà tông?
Báo đạo ma-ha bát-nhã lực.

(TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI)

Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.

(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)

3.- 19 LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT PHÁP, VANG DỘI KHẮP 10 PHƯƠNG,CỦA “DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT”.

DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ ÂM BỒ-TÁT, QUÁN-SÁT THEO ÂM-THANH MÀ HIỆN 19 LOẠI THÂN THUYẾT PHÁP, ĐỂ CỨU KHỔ CỨU NẠN, CHO CHÚNG-SANH TRONG 10 PHƯƠNG PHÁP GIỚI, NẾU CHÚNG SANH NÀO, THƯỜNG CUNG KÍNH TRÌ NIỆM DANH HIỆU “NAM MÔ ĐẠI-BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” . THÌ SẼ THOÁT 7 NẠN, TRỪ ĐƯỢC 3 ĐỘC VÀ TOẠI NGUYỆN 2 ĐIỀU MONG CẦU.

THOÁT 7 NẠN LÀ:

  1. LỬA CHÁY
  2. NƯỚC TRÔI
  3. GIÓ BÃO
  4. DAO GẬY
  5. DẠ-XOA cùng LA-SÁT
  6. GÔNG CÙM XIỀNG XÍCH TRÓI BUỘC NƠI THÂN
  7. OÁN TẶC

 GIẢI TRỪ 3 ĐỘC LÀ:

  1. LÌA LÒNG THAM DÂM, Ý DỤC
  2. LÌA LÒNG GIẬN HỜN
  3. LÌA LÒNG NGU-SI

TOẠI 2 ĐIỀU MONG CẦU LÀ:

  1. CẦU CON TRAI “PHƯỚC-ĐỨC TRÍ-HUỆ”
  2. CẦU CON GÁI CÓ TƯỚNG “XINH ĐẸP ĐOAN CHÁNH”

KINH VĂN:

Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào?”

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật [1] được độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Duyên Giác [2] được độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh Văn [3] được độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm Vương [4] được độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Ðế Thích [5] được độ thoát, liền hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên [6] được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Ðại Tự Tại Thiên [8] được độ thoát, liền hiện thân Ðại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân [8] được độ thoát, liền hiện thân Thiên Ðại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn [9] được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu Vương [10] được độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng Giả [11] được độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư Sĩ [12] được độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tể Quan [13] được độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà La Môn [14] được độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di [15] (4 chúng Phật-tử) được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân phụ nữ [16] của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ [17] (người Nam còn thuần dương, Nữ còn thuần âm, chưa có vợ hoặc chồng, chưa có sự quan hệ Nam và Nữ) được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân [18]  (THIÊN, LONG CÙNG BÁT-BỘ) được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần [19] được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.

Quán Thế Âm Ðại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị “Thí Vô Úy”.

(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa -Phẩm ‘Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn’ Thứ Hai Mươi Lăm)

4.- LÝ  SỰ VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI CỦA HOA NGHIÊM TÔNG

Lại nữa, muốn hiểu thấu phần nào cảnh-giới Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều dung thông vô-ngại, người học đạo cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :

  1. Lý vô-ngại pháp-giới
  2. Sự vô-ngại pháp-giới
  3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
  4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới

‘Lý’ tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại, nên gọi là ‘Lý vô-ngại pháp-giới’.

Người chứng được lý vô-ngại này chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.

Tất cả pháp ‘Sự’ đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể ‘Sự’ là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên gọi là ‘Sự vô-ngại pháp-giới’.

Người chứng được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).

Lý là thể-tánh của ‘Sự’ (tất cả pháp), ‘Sự’ là hiện-tượng của ‘Lý-tánh’. Vậy thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là ‘Lý-sự vô-ngại pháp-giới’.

Người chứng được lý-sự pháp-giới này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).

Tất cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là ‘Sự-sự vô-ngại pháp-giới’.

Người chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).

(Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh- HT Thích Trí Tịnh giảng giải )

Tóm lại, nếu “Quý-vị” thường trì tụng “BẢO-ẤN THỦ NHÃN ẤN PHÁP” này thành tựu, thì được PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN, được TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI, được 19 LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT PHÁP, chứng nhập cảnh giới LÝ SỰ VÔ-NGẠI PHÁP GIỚI của HOA NGHIÊM TÔNG. Cho nên, DẦU TU PHÁP MÔN NÀO, DẦU LÀM VIỆC THIỆN NHỎ NHƯ VI-TRẦN, CŨNG QUY VỀ NHỨT TÂM, TỨC LÀ NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ. ĐÂY LÀ “SỰ-SỰ VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI.

Kệ tụng Việt dịch:

Mở miệng thao thao sức biện tài
Tiếng lời vang vọng diệu thanh âm
Lý sự gồm thu trong pháp tánh
Muôn một chung đồng ấn Phật tâm.

 

Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Mốt

Tát Bà Tát Bà [24]
𑖭𑖨𑖿𑖪 𑖭𑖨𑖿𑖪
SARVA   SARVA

Án– phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖕𑖰𑖝𑖽 𑖕𑖧𑖸 _ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VAJRA JITAṂ JAYE _ SVĀHĀ