Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

PHƯỚC TUỆ THỈ VĂN ĐỆ TỨ THẬP THẤT

Đức Thế Tôn nói xong, Ngài bèn dùng kệ tụng để trùng tuyên ý trước. Trong phần kệ tụng này, Ngài nhắc lại điều sai, lẽ đúng, bác bỏ cái sai, đề cao cái đúng. Trong phần chỉ rõ cái đúng, có ba phần: Một là tin vào vãng sinh; hai là tin Phật trí khó nghĩ lường; ba là tin niệm Phật được độ.

KINH VĂN:

Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: 

Nhược bất vãng tích tu phước tuệ, 

Ư thử chánh pháp bất năng văn, 

Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai, 

Tắc năng hoan hỉ tín thử sự, 

Ác kiêu giải đãi cập tà kiến, 

Nan tín Như Lai vi diệu pháp, 

Thí như manh nhân hằng xử ám, 

Bất năng khai đạo ư tha lộ.

VIỆT DỊCH:

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng: 

Xưa kia nếu không tu phước tuệ

Nay chẳng được nghe chánh pháp nầy 

Ðã từng cúng dường các Như Lai 

Mới năng hoan hỉ tin sự này 

Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến 

Khó tin Như Lai vi diệu pháp 

Như kẻ mù mãi trong bóng tối 

Không thể chỉ đường cho kẻ khác.

GIẢNG:

Trên đây là đoạn thứ nhất của phẩm nầy, gồm hai bài kệ. Bài kệ thứ nhất:

Nhược bất vãng tích tu phước tuệ, 

Ư thử chánh pháp bất năng văn, 

Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai, 

Tắc năng hoan hỉ tín thử sự

Bốn câu trên đây thể hiện ý nghĩa phẩm này là “Phước Tuệ Thỉ Văn” (Phước Tuệ mới được nghe). Ý nói: Xưa kia nếu không tu phước tuệ, thì chẳng được nghe chánh pháp này. Người đã từng cúng dường các Như Lai, mới có thể hoan hỉ tin tưởng sự này. Ðây cũng chính là như trong kinh đã dạy: “Đương hữu chúng sinh, thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật. Do bỉ Như Lai gia oai lực cố, năng đắc như thị quảng đại pháp môn, nhiếp thủ thọ trì” (Nếu có chúng sinh trồng các thiện căn, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Do oai lực của các đức Như Lai ấy gia bị mới được pháp môn rộng lớn như thế này nhiếp thủ, thọ trì).

Kinh Kim Cang nói: “Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, có kẻ trì giới, tu phước, đối với chương cú này mà sinh được tín tâm, xem đó là thật, nên biết người ấy, không phải đã gieo trồng thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà đã từng ở nơi vô lượng trăm vạn đức Phật trồng các thiện căn”. Cũng thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỉ tin nhận, phải biết người đó đã từng tu phước, tu tuệ, trồng các thiện căn nơi vô lượng các đức Phật.

Trái lại, những kẻ trược ác, kiêu mạn, biếng nhác, tà kiến sẽ không thể tin nổi pháp này; khác nào như kẻ mù sống trong bóng tối, tự mình không thấy đường, làm sao dẫn dắt người khác đi theo đường chánh cho được! Nên nói:

“Ác kiêu giải đãi cập tà kiến, 

Nan tín Như Lai vi diệu pháp, 

Thí như manh nhân hằng xử ám, 

Bất năng khai đạo ư tha lộ”.

KINH VĂN:

Duy tằng ư Phật thực chúng thiện, 

Cứu thế chi hạnh phương năng tu, 

Văn dĩ thọ trì cập thư tả, 

Độc tụng, tán diễn, tịnh cúng dường, 

Như thị nhất tâm cầu tịnh phương, 

Quyết định vãng sinh Cực Lạc quốc, 

Giả sử đại hỏa mãn tam thiên, 

Thừa Phật oai đức tất năng siêu.

VIỆT DỊCH:

Chỉ từng nơi Phật gieo các thiện, 

Thì mới tu nổi hạnh cứu đời 

Nghe xong thọ trì và biên chép 

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường 

Nhất tâm như vậy cầu tịnh độ

Quyết định vãng sinh cõi Cực Lạc. 

Giả sử đại hỏa khắp tam thiên 

Nhờ oai đức Phật tất qua được.

GIẢNG:

“Duy tằng ư Phật thực chúng thiện, 

Cứu thế chi hạnh phương năng tu”.

Ý nói: Duy nhất chỉ người đã từng ở nơi vô lượng đức Phật, rộng trồng các thiện căn, mới có thể tu hạnh phổ cứu tất cả thế gian, gọi là “cứu thế chi hạnh” (hạnh cứu thế).

Hòa thượng Tịnh Không bảo “hạnh cứu thế” vô cùng quan trọng!

– Gọi là hành giả cứu thế, đấy là ai?

– Đấy là khen ngợi người tu học Tịnh Độ!

– Có thật như vậy chăng?

– Quả thật là như vậy! Nếu ở đây có người thật sự tu Tịnh Độ, thiên tai ắt sẽ giảm nhẹ. Các nhà khoa học nói với chúng ta: Một thành phố có trăm vạn người, trong đó có một trăm người chuyên tu Tịnh Độ, thì nơi đây không còn bị thiên tai. Ấy là do năng lượng của ý niệm có thể thay đổi hiện tượng vật chất bên ngoài.

Như thí nghiệm của Tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở hồ Tỳ Bà. Đây là hồ lớn nhất ở Nhật Bản, đó là một eo biển, nước không lưu thông hơn hai mươi năm nên rất hôi thối. Ông mời một Hòa thượng trên chín mươi tuổi cùng trên ba trăm người đến đó để cầu nguyện trong vòng một tiếng đồng hồ, chỉ với một câu nói: “Nước hồ trong sạch, tôi yêu bạn”. Trong tâm họ hoàn toàn buông bỏ mọi ý niệm, chỉ nhất tâm chuyên niệm một câu này. Ba ngày sau, nước hồ bỗng nhiên trong sạch, mùi hôi trước đây không còn nữa, chứng minh ý niệm có thể thay đổi hoàn cảnh tự nhiên. Thật không thể nghĩ bàn!

“Cứu thế chi hạnh” (hạnh cứu đời) chính là như kinh nầy nói: Tất cả hàm linh trong đời tương lai đều nhờ pháp này mà được độ thoát. Ai muốn tự cứu và cứu khắp thế gian phải tu hạnh cứu thế gian này. Cái hạnh đó chính là: “Văn dĩ thọ trì cập thư tả. Độc tụng, tán diễn, tịnh cúng dường” (Nghe rồi thọ trì và biên chép.

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường ).

Chữ “Thọ trì” là thật sự tin nhận đạo lý trong kinh, biến đạo lý này  thành tư tưởng, hành vi của chính mình. Kế đến là “Thư tả”; chữ “thư tả” ở đây, theo Hòa thượng Tịnh Không, là lưu thông kinh điển với số lượng lớn; không những lưu thông bằng văn tự mà còn có thể dùng CD, VCD, Tivi, mạng internet, truyền hình vệ tinh để truyền bá. Phải toàn tâm toàn lực phát triển phương diện này để hồi hướng trang nghiêm Tịnh Ðộ, cầu sinh Cực Lạc, nên nói “như thị nhất tâm cầu tịnh phương” (nhất tâm như vậy cầu Tịnh Độ). Có như vậy Phật liền thọ ký: “Quyết định vãng sinh Cực Lạc quốc”. Người như thế lúc lâm chung “giả linh tam thiên đại thiên thế giới mãn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sinh bỉ sát độ” (giả sử cả tam thiên đại thiên thế giới đều ngập tràn đại hỏa, vẫn có thể vượt qua sinh về cõi ấy) nên nói: “Giả sử đại hỏa mãn tam thiên, thừa Phật oai đức tất năng siêu”: (Giả sử đại hỏa khắp tam thiên, nhờ oai đức Phật tất qua được).

KINH VĂN:

Như Lai thâm quảng trí tuệ hải, 

Duy Phật dữ Phật nãi năng tri, 

Thanh Văn ức kiếp tư Phật trí, 

Tận kỳ thần lực mạc năng trắc, 

Như Lai công đức Phật tự tri, 

Duy hữu Thế Tôn năng khai thị, 

Nhân thân nan đắc, Phật nan trị, 

Tín tuệ văn pháp nan trung nan.

VIỆT DỊCH:

Biển trí tuệ Như Lai sâu rộng 

Chỉ Phật với Phật mới biết được 

Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí

Tận hết thần lực cũng không hiểu 

Công đức Như Lai Phật tự biết 

Chỉ có Thế Tôn mới khai thị 

Thân người khó được, Phật khó gặp 

Tín tuệ nghe pháp khó trong khó.

GIẢNG:

Ðoạn kinh văn trên, sáu câu đầu ý nói “Phật trí sâu rộng khó nghĩ lường”, chỉ có Phật cùng Phật mới biết được; Thánh hiền Nhị Thừa (tức Thanh Văn, Duyên Giác) đều không thể suy lường, huống hồ phàm phu chúng ta! Cho nên, chúng ta phải buông bỏ mọi tình chấp mà chỉ có kính ngưỡng tin theo. Nay ta may mắn có đầy đủ phước tuệ mới được nghe pháp nầy, tuyệt đối không nên bỏ lỡ!

“Như Lai thâm quảng trí tuệ hải” (Biển  trí tuệ Như Lai sâu rộng): Chữ “hải” là ví trí tuệ Như Lai vô bờ tựa như biển cả nên gọi là “trí tuệ hải” (biển trí tuệ)

“Duy Phật dữ Phật nãi năng tri” (Chỉ có Phật với Phật mới biết được), như phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa chép: “Pháp hi hữu khó hiểu bậc nhất mà đức Như Lai chứng được, chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu trọn vẹn Thật Tướng của các pháp). Pháp hi hữu khó hiểu nầy là gì? – Là Thật tướng của các pháp! Thật tướng đó chính là “vô sở hữu, tất cánh không, vô khả đắc” mà phía trước chúng ta đã học.

Hiện tượng này, Max Planck, nhà khoa học người Đức đã phát hiện ra, nhưng không nói rõ như Bồ tát Di Lặc nói trong kinh. Ông chỉ thấy được hiện tượng tần suất chấn động vô cùng nhanh của ý niệm sinh ra hiện tượng vật chất, đưa đến kết luận: Thế gian này, căn bản không có thứ gì gọi là vật chất, mà chỉ là ý niệm liên tục, không gián đoạn sinh ra huyễn giác, tưởng đó là thật.

Kinh Pháp Hoa nói: “Vô lậu chẳng nghĩ bàn, pháp vi diệu rất sâu, ta nay đã đầy đủ. Chỉ ta biết tướng này; thập phương Phật cũng thế). Theo Hòa thượng Tịnh Không: “vô lậu” chính là chúng ta thường nói, lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, không khởi tâm, không động niệm, gọi là “vô lậu”. “Lậu” là phiền não; khởi tâm động niệm là có phiền não. Không khởi tâm, không động niệm là thậm thâm không thể nghĩ bàn, rất khó lý giải, không thể tưởng tượng, không thể diễn tả bằng lời nói; cho nên gọi là pháp vi diệu, thấu tột Thật Tướng của các pháp.

“Thanh Văn ức kiếp tư Phật trí, tận kỳ thần lực mạc năng trắc” (Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí, tận hết thần lực cũng không hiểu). Như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện nói: “Ta cùng mười phương Phật mới biết nổi việc này. Pháp này không thể chỉ bày, tướng ngôn từ tịch diệt. Các loài chúng sinh khác, không ai có thể hiểu được, chỉ trừ các Bồ Tát có tín lực kiên cố (mới có thể thấu hiểu)”.

Kinh còn dạy: “Bích Chi Phật lợi trí, thân vô lậu sau cùng, cũng khắp mười phương giới, số đông như rừng tre, bọn họ cùng nhất tâm, trong ức vô lượng kiếp, muốn suy Phật thật trí, chẳng thể biết chút phần).

Hòa thượng Tịnh Không giải thích: “Bích Chi Phật lợi trí”, vì sao gọi là “lợi trí”? – Vì trí tuệ của A La Hán rất cao, nhưng trí tuệ của Bích Chi Phật còn cao hơn. A La Hán đã đoạn tận chấp trước, nhưng tập khí vẫn còn. Bích Chi Phật đến tập khí cũng không còn, nên trí tuệ vượt qua A La Hán.

“Thân vô lậu sau cùng”: “Vô lậu” này là của Tiểu thừa, đã đoạn tận tất cả Kiến Tư Phiền não và tập khí Kiến Tư Phiền não. Trong Tiểu thừa thân “vô lậu” này là thân sau cùng. Người như vậy “cũng khắp mười phương giới”, “số đông như rừng tre”, “cùng nhất tâm trong ức vô lượng kiếp”; muốn suy được Phật trí, cũng không biết được ít phần. Ý nói: Thật trí của Phật không thể dùng suy tư hay ngôn từ để diễn tả được, pháp ấy không thể chỉ bày được, ngoại trừ các Bồ tát có tín lực kiên cố, ngoài ra những kẻ khác không cách chi thấu hiểu nổi.

“Bồ tát có tín lực kiên cố”, đây là chỉ: Thứ nhất là Bồ tát minh tâm kiến tánh; thứ hai là “đại tâm phàm phu”, như kinh Hoa Nghiêm nói: “Đại tâm phàm phu”, họ tu hành ngay trong đời sống hằng ngày “tức tất cả tướng, lìa tất cả tướng”. Đây là chân lý, hoàn toàn chính xác, nhưng hàng sơ học thì không được! Hàng sơ học trong tất cả tướng, làm gì có chuyện không bị mê hoặc?! Ít nhất cũng phải có hai, ba mươi năm công phu mới có thể làm được “tức tướng ly tướng”, vĩnh viễn tự nhắc bản thân: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Tiếp xúc với bất cứ hiện tượng nào, tâm đều hoan hỉ, không đối lập, không kết ác duyên với người, thành tựu tốt đẹp cho người, không thành tựu điều xấu ác cho họ v.v… Đấy chính là “đại tâm phàm phu”, cũng chính là “Bồ tát có tín lực kiên cố”.

“Như Lai công đức Phật tự tri” (Như Lai công đức Phật tự biết), như trong phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa nói:

“Tất cả thế gian trời, người, A-tu-la đều cho rằng nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật rời khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng, này thiện nam tử! Thật ra ta thành Phật đến nay đã là vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha kiếp. Ví như giả sử có kẻ nghiền cả năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới thành vi trần, đi qua khỏi năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cõi mới bỏ một vi trần xuống. Ði mãi về phía

Ðông như thế, cho đến hết số vi trần ấy. Này các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể dùng tư duy, tính toán để biết được số đó chăng? 

Di Lặc Bồ Tát v.v…đều bạch Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng, vô biên, không thể dùng toán số để biết được, cũng chẳng thể dùng tâm lực để suy nổi. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật dùng vô lậu trí cũng không biết đến được. Chúng con đã ở vào địa vị A Duy Việt Trí (tức là Bất Thoái Chuyển) đối với sự nầy vẫn không thể biết được. Bạch Thế Tôn! Các thế giới như vậy vô lượng vô biên.  Lúc bấy giờ, Phật bảo các vị đại Bồ Tát: – Các thiện nam tử! Hôm nay ta tuyên bày nói rõ cùng các ông. Các thế giới ấy dù có dính vi trần hay không dính vi trần, cho đến hết số vi trần ấy, cứ tính một vi trần là một kiếp, thì từ khi ta thành Phật đến nay còn hơn số đó cả trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp).

Đoạn kinh văn trên đã nói rõ thọ mạng vô lượng của Phật quả thật là vô lượng thọ, Bồ tát Bổ Xứ cũng chưa đạt được điều nầy. Vì sao vậy? – Bồ tát Bổ Xứ chưa thành Phật! “Bổ xứ” tức là Bồ tát Đẳng Giác, vẫn còn một phẩm tập khí sinh tướng vô minh chưa đoạn; nếu đoạn tận được, họ sẽ thành Phật.

– Có phương pháp nào đoạn được chăng?

– Không có phương pháp! Cứ để vậy, lâu ngày tự nhiên tập khí nầy sẽ không còn.

– Cần bao nhiêu kiếp, tập khí vô thỉ vô minh mới hoàn toàn đoạn sạch?

– Kinh Hoa Nghiêm dạy: Cần ba A-tăng-kỳ kiếp, bắt đầu từ lúc mới khai ngộ, minh tâm kiến tánh, bắt đầu từ ngày đó; thời gian dài như vậy. Đây là chỉ cho Sơ Trụ Bồ tát. Từ đó, mới biết tập khí vô thỉ vô minh nghiêm trọng và thật đáng sợ, không có cách chi đoạn được.

Tập khí Kiến Tư phiền não, tập khí Trần Sa phiền não đều có cách đoạn, duy chỉ tập khí vô thỉ vô minh là không có cách đoạn tận. Vì sao vậy? – Vì tập khí nầy không thể khởi tâm động niệm! Vừa khởi tâm động niệm, chính là vô thỉ vô minh lại khởi hiện hành. Cho nên, không được khởi tâm động niệm, cứ để mặc nó.

– Có chướng ngại gì chăng?

– Chỉ có một chút chướng ngại là không rõ ràng đối với trí tuệ, thần thông đạo lực của Phật. Ngoài ra, đối với bản thân tu học, hóa độ chúng sinh đều không bị chướng ngại.

– Vì sao tập khí Kiến Tư, Trần Sa có thể đoạn?

– Vì nó có thể khởi tâm động niệm!

Nên biết công đức của Phật viên mãn, hoàn toàn xứng tánh. Pháp thân Bồ tát xứng tánh nhưng chưa viên mãn. Cho nên, công đức của Phật, chỉ có Phật mới biết được, nên nói: “Như Lai công đức Phật tự tri”. Lại nói: “Duy hữu Thế Tôn năng khai thị” (chỉ có Thế

Tôn mới khai thị). “Khai thị” chính là “khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến” mà trong kinh Pháp Hoa nói.

Tóm lại, sáu câu kệ trên đây cực lực tán dương trí tuệ của Phật, nhằm khiến cho chúng sinh hiểu rõ trí tuệ thâm sâu của Phật mà thật sự tin tưởng vào lời Phật dạy. Trong phẩm Thọ Lượng [của kinh Pháp Hoa], đức Thế Tôn đã ba lần bảo đại chúng: “Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ” (Các ông nên tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai). Vì thánh trí của Như Lai; Thanh Văn ức kiếp cũng không đo lường được, huống hồ là phàm phu há có thể dùng tâm sinh diệt mà dám nói thấy được trí Phật ư?! Vì thế, chúng ta chỉ nên kính ngưỡng, tin lời Phật dạy như phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa chép: “Ư Phật sở thuyết pháp, đương sinh đại tín lực” (Với pháp Phật đã thuyết, nên sinh đại tín lực). Biển cả Phật pháp hễ tin thì được vào.

“Nhân thân nan đắc” (Thân người khó được) là như trong Tự Phần của kinh Phạm Võng có nói: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục” (Một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được). Kinh Niết Bàn cũng dạy: “Nhân thân nan đắc như Ưu Đàm hoa” (Thân người khó được như hoa Ưu Ðàm). Ðược thân người ít như chút đất nơi móng tay, mất thân người nhiều như đất nơi đại địa.

“Phật nan trị” (Phật khó gặp), “Trị” (値 zhí) là gặp gỡ, như phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa dạy: “Tỳ-kheo nên biết: Chư Phật xuất thế, khó thể gặp gỡ, vì sao vậy? Những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc thấy được Phật, hoặc không được thấy Phật. Do bởi sự ấy, ta nói thế này: – Này các tỳkheo! Khó thể thấy được Như Lai).

Lại ngay khi đức Phật ngự trong thành Vương Xá ở Ấn Ðộ, chỉ có một phần ba người dân trong thành ấy được gặp Phật. Một phần ba số người chỉ nghe danh Phật chớ không được thấy. Một phần ba còn lại không nghe danh, cũng chẳng gặp Phật, đủ thấy gặp Phật là một sự khó.

“Tín tuệ văn pháp nan trung nan” (Tín tuệ nghe pháp khó bậc nhất), chính như trong phần trên đã nói: “Nhược văn tư kinh, tín nhạo thọ trì, nan trung chi nan, vô quá thử nan” (Nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì; đó là điều khó nhất trong các điều khó, không còn gì khó hơn). Do tuệ sinh giải, nên nghe kinh liền tin hiểu, vui thích. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Tịnh tông khó tin. Điều khó được, nay đã được, điều khó nghe, nay đã được nghe, điều khó tin, nay đã tin; không những thế mà còn hiểu biết bằng trí tuệ nữa, quả thật là “nan trung chi nan” (điều khó nhất trong các điều khó). Phật khuyên hành nhân nên tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật cầu sinh, chớ để luống qua. Nếu bỏ qua lần nầy, quả đúng là sai lầm lớn!

KINH VĂN:

Nhược chư hữu tình đương tác Phật, 

Hạnh siêu Phổ Hiền đăng bỉ ngạn, 

Thị cố bác văn chư trí sĩ, 

Ưng tín ngã giáo như thật ngôn, 

Như thị diệu pháp hạnh thính văn, 

Ưng thường niệm Phật nhi sinh hỉ, 

Thọ trì quảng độ sinh tử lưu, 

Phật thuyết thử nhân chân thiện hữu.

VIỆT DỊCH:

Nếu các hữu tình sẽ thành Phật, 

Hạnh vượt Phổ Hiền lên bờ kia, 

Vì thế, các bậc trí học nhiều 

Phải tin lời ta dạy như thật. 

Diệu pháp như thế may được nghe 

Nên thường niệm Phật, sinh hoan hỉ 

Thọ trì rộng độ dòng sinh tử 

Phật bảo người nầy thật bạn lành.

GIẢNG:

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Hai bài kệ trên đây tổng kết toàn bộ bản kinh. Phẩm thứ hai của kinh này có  tên là Ðức Tuân Phổ Hiền. Trong đây, tất cả Bồ Tát trong Pháp hội “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân tu hạnh đức của Phổ Hiền đại sĩ). Cuối bản kinh lại nói: “Nhược chư hữu tình đương tác Phật, hạnh siêu Phổ Hiền đăng bỉ ngạn” (Nếu các hữu tình sẽ thành Phật, hạnh vượt Phổ Hiền lên bờ kia). Đầu tiên thì nói “đức tuân Phổ Hiền”, sao ở đây lại nói “hạnh siêu Phổ Hiền” nghĩa là sao?

Câu “hạnh siêu Phổ Hiền” trích nguyên văn từ bản Ðường dịch. Dịch giả của bản Ðường dịch chính là ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chí đời Ðường. Phần đầu của bản Ðường dịch cũng ghi hội chúng “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền chi đạo” (đều cùng tuân tu đạo của Phổ Hiền), cho thấy ý “đức tuân Phổ Hiền” “hạnh siêu Phổ Hiền” đều cùng phát xuất từ bản Phạn, chứ không phải người dịch ghi nhầm.

Chẳng những ngài Bồ Ðề Lưu Chí không dịch nhầm, mà đó còn là tâm từ bi cùng cực của đức Thế Tôn. Phật phơi trọn tâm can cho chúng sinh thấy: Phổ Hiền là bậc đại hạnh Bồ Tát tượng trưng cho Sai Biệt Trí, được gọi là Hoa Nghiêm Trưởng Tử, dùng mười đại nguyện vương để dẫn dắt về Cực Lạc. Nguyện mà được gọi là “vương” thì nguyện của ngài Phổ Hiền phải rộng lớn không ngằn hạn, tột cùng vô tận kiếp, dẫn dắt quy về Cực Lạc, cứu vớt, lợi ích vô tận nên gọi là “đại nguyện vương”.Do vậy, thánh chúng đến dự pháp hội này đều tuân tu hạnh đức của ngài Phổ Hiền.

Nhưng, trong kinh này, đức Thế Tôn chủ ý riêng dạy phương tiện bậc nhất trong các phương tiện, hiển thị pháp viên đốn nhất trong các pháp viên đốn, nêu thẳng một pháp Tín Nguyện Trì Danh, gồm trọn lục độ vạn hạnh, thâu tóm trọn vẹn mười đại nguyện vương vào một câu danh hiệu, gói gọn vô biên hạnh môn của ngài Phổ Hiền quy về Nhất Hạnh tam-muội của ngài Văn Thù.

Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí. Nhất Hạnh tam-muội là “buộc tâm nơi một đức Phật, chuyên xưng danh hiệu”. Thế nên, một pháp Trì Danh đúng là đề-hồ, gồm trọn các điểm mầu nhiệm. Phổ Hiền Ðại Nguyện Vương là từ Căn Bản Trí trở thành Sai Biệt Trí. Nay, gom trọn Nguyện Vương, chỉ xướng xuất Tín Nguyện Trì Danh, đó là Sai Biệt Trí quay về Căn Bản Trí, nghĩa là quay trở về gốc, nên nói là “hạnh siêu Phổ Hiền”. Diệu hạnh trì danh lấy Quả Giác làm cái tâm tu nhân; nhân quả đồng thời, không nhọc phương tiện, chẳng cần theo thứ lớp, thật đúng như sách Di Ðà Yếu Giải nhận định:

“A Di Ðà Phật dịch nghĩa là vô lượng, vốn không thể nói. Ðức Bổn Sư lấy hai nghĩa quang minh và thọ lượng để bao gồm tất cả những điều vô lượng. Quang minh thời, theo chiều ngang chiếu trọn mười phương; thọ thời, theo chiều dọc suốt cả ba đời. Ngang dọc trọn khắp chính là Thể của pháp giới. Toàn bộ cái Thể ấy tạo thành thân và cõi nước của Phật A Di Ðà, cũng tạo thành danh hiệu A Di Ðà. Bởi thế, danh hiệu A Di Ðà chính là Bổn Giác lý tánh của chúng sinh. Trì danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng hai, chúng sinh và Phật chẳng hai. Vì thế, “một niệm tương ứng với một niệm Phật, niệm niệm tương ứng với niệm niệm Phật”.

Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ dẫn dắt về Cực Lạc, nên niệm niệm chính là Di Ðà. Nhưng mười đại Nguyện Vương nghĩa lý sâu rộng, kẻ thường nhân không thể phát khởi được; còn pháp Trì Danh lại độ khắp ba căn, Ngũ Nghịch, Thập Ác đều có thể nương theo đó mà thoát khỏi sinh tử. Ví như người trị được chứng bệnh nan y, phải tôn họ là vua của các thầy thuốc; pháp độ được cả kẻ cực ác, phải nên xưng tụng là vua của các pháp lành; nên nói, pháp Trì Danh là “hạnh siêu Phổ Hiền”. Có Tín Nguyện Trì Danh thì nhất định vượt lên bờ kia, chính là cõi Tây Phương Cực Lạc, nên nói là “đăng bỉ ngạn” (lên bờ kia).

“Thị cố bác văn chư trí sĩ, ưng tín ngã giáo như thật ngôn” (Vì thế, các bậc trí học nhiều, phải tin lời ta dạy như thật): Thế Tôn rủ lòng Từ, khuyên những kẻ trí học rộng nghe nhiều, phải nên tin lời dạy của Như Lai đều khế hợp với Thật Tướng lý thể. Những điều được nói trong kinh đều như Lý, hoàn toàn chân thật, nên nói: “Ưng tín ngã giáo như thật ngôn” (Phải tin lời ta dạy như thật).

“Như thị diệu pháp hạnh thính văn, ưng thường niệm Phật nhi sinh hỉ” (Diệu pháp như thế may được nghe, nên thường niệm Phật, sinh hoan hỉ). Ý nói: Diệu pháp khó gặp, khó nghe, khó tin như thế, ta nay may mắn được nghe phải nên thọ trì, phụng hành đúng theo lời dạy, luôn luôn niệm Phật, sinh tâm hoan hỉ. Hơn nữa, người niệm Phật được từ quang của Phật nhiếp thọ, “cấu diệt thiện sinh, tâm ý nhu nhuyến”. Thân được nhẹ nhàng, an ổn, tâm sinh hoan hỉ như trong Quán kinh nói: Phu nhân Vi Ðề Hi do chợt thấy quang minh thanh tịnh của cõi Phật A Di Ðà hiện ra trước mắt, liền đắc ngay Vô Sinh Pháp Nhẫn.

Ngài Thiện Ðạo bảo Vô Sinh Pháp Nhẫn mà bà Vi Ðề Hi đã chứng khi đó, chính là Hỉ Nhẫn, Ngộ NhẫnTín Nhẫn. Ðại sư còn nói Hỉ Nhẫn là “niệm A Di Ðà Phật sinh tâm hoan hỉ”.

“Thọ trì quảng độ sinh tử lưu, Phật thuyết thử nhân chân thiện hữu” (Thọ trì rộng độ dòng sinh tử, Phật bảo người nầy thật bạn lành): Cuối cùng, Phật khuyên hành nhân không những thọ trì pháp này mà còn phải nghĩ đến việc làm lợi ích cho chính mình lẫn cho mọi người, bằng cách hoằng dương chánh pháp, khuyên người trì danh Niệm Phật, lần lượt giúp nhau vượt thoát luân hồi sinh tử. Làm được như thế, Phật khen người này đích thật là “chân thiện hữu”,“chân thiện tri thức”.

Kỳ vọng và dạy răn của đức Thế Tôn, chúng ta phải khắc cốt ghi tâm, siêng tu gìn giữ, chớ nên phụ bạc từ ân.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, “những chữ: Phước tuệ thỉ văn” (phước tuệ mới được nghe), “vi diệu pháp”, “cứu thế hạnh” (hạnh cứu thế), “trí tuệ hải” (biển trí tuệ), “nan trung nan” (khó nhất trong các điều khó), “hạnh siêu Phổ Hiền” (hạnh vượt trỗi Phổ Hiền) v.v… trong phẩm này đều chỉ diệu pháp vô thượng Tín Nguyện Trì Danh. Sự mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật, dẫu có vô lượng thân, mỗi thân có vô lượng miệng, mỗi miệng có vô lượng lưỡi. Mỗi lưỡi phát ra vô lượng âm, mãi cho đến cùng kiếp vị lai cũng khó bề diễn tả được ít phần. Vì thế, tôi (tức cụ Hoàng Niệm Tổ) chẳng dám lạm bàn nhiều, chỉ trích dẫn hai đoạn sau đây trong sách Di Ðà Yếu Giải của Linh Phong đại sư (tức Ngẫu Ích đại sư) để tổng kết lại lời chú giải phẩm này “Phước tuệ thỉ văn”. Hòa thượng Tịnh Không khen dụng ý này của cụ rất sâu và cũng rất hiếm có:

  1. Sách Yếu Giải viết:

“Do nghĩa là Vô Lượng Quang (tức quang minh biến chiếu) nên chúng sinh sinh về Cực Lạc tức là sinh về mười phương; thấy A Di Ðà Phật là thấy mười phương chư Phật; tự độ mình chính là độ khắp tất cả. Do nghĩa là Vô Lượng Thọ nên nhân dân cõi Cực Lạc chính là Nhất Sinh Bổ Xứ, đều nhất định ngay trong đời này thành Phật, chẳng phải sinh lần nữa. Nên biết: Rời tâm vô lượng quang thọ nhất niệm hiện tiền thì không thể tìm đâu ra danh hiệu A Di Ðà Phật; mà rời danh hiệu A Di Ðà Phật thì còn đâu mà triệt chứng nhất niệm tâm vô lượng quang thọ? Xin hãy suy xét kỹ, xin hãy suy xét kỹ!”

  1. Sách Yếu Giải viết:

Trì danh hiệu chân thật không thể nghĩ bàn; tâm tánh chấp trì danh hiệu cũng chân thật không thể nghĩ bàn. Trì một câu danh hiệu tức là một câu không thể nghĩ bàn; trì mười, trăm, ngàn, vạn vô lượng danh hiệu thì mỗi mỗi danh hiệu đều không thể nghĩ bàn”.

Hòa thượng Tịnh Không khen câu: “Nên biết, rời tâm vô lượng quang thọ nhất niệm hiện tiền thì không thể tìm đâu ra danh hiệu A Di Ðà Phật; mà rời danh hiệu A Di Ðà Phật thì còn đâu mà triệt chứng nhất niệm tâm vô lượng quang thọ!”. Hai câu này thật quá hay! Nên biết: Tâm vô lượng quang, vô lượng thọ cùng danh hiệu Phật A Di Ðà là một không phải hai. Điều nầy chúng ta phải nhận thức rõ ràng mới trực nhận vô cùng thân thiết với Ngài, không muốn rời xa một bước.

Cũng theo Hòa thượng Tịnh Không:

– Khai thị thứ nhất của đại sư Ngẫu Ích hàm nghĩa: Danh hiệu A Di Đà Phật rất sâu rộng vô lượng, vô biên, vô tận. Nhưng, trong kinh Di Đà, Thế Tôn chỉ dùng hai chữ “quang, thọ” để biểu pháp. “Quang” là chiếu soi mười phương, tượng trưng cho không gian. “Thọ” là quá khứ, hiện tại, vị lai, tượng trưng cho thời gian.

Tất cả pháp đều bao gồm trong hai chữ “quang, thọ” (tức là không gian và thời gian). Danh từ khoa học gọi là vũ trụ; trong Phật pháp gọi là “pháp giới, hư không giới”.

Nghĩa của “Quang” là ánh sáng chiếu khắp, nên khi vãng sinh đến thế giới Cực Lạc cũng đồng thời là sinh đến vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật mười phương. Điều này là thật không phải giả. Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, cho dù ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hạ hạ phẩm vãng sinh, vẫn được oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì. Công đức danh hiệu thật không thể nghĩ bàn! Chỉ cần có thể tin được, thật sự tha thiết phát tâm muốn vãng sinh đến Tây Phương Cực Lạc, không ai mà không được thành tựu.

– Khai thị thứ hai của Đại sư Ngẫu Ích là muốn chúng ta phải thật sự hiểu rõ ràng minh bạch, phải cố gắng suy nghĩ, cơ hội nầy trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, nay gặp được thì cần phải nỗ lực nắm bắt, chớ để luống qua. Công đức “trì danh hiệu thật sự không thể nghĩ bàn; tâm tánh chấp trì danh hiệu cũng chân thật không thể nghĩ bàn”. Điều nầy nói rõ, trì danh hiệu Phật phải dùng chân tâm, hoàn toàn không có vọng niệm. Không có vọng niệm khi niệm Phật, đó là tâm tánh năng trì. Phật hiệu là trí tuệ, đức tướng viên mãn của tâm tánh, cho nên công đức trì danh hiệu thật không thể nghĩ bàn.

Trên thực tế, Phật hiệu nghĩa là tự tánh của chính mình, ở đây gọi là tâm tánh. Tâm tánh nghĩa là Phật A Di Đà; danh hiệu A Di Đà và tâm tánh tương ưng viên mãn. Vì vậy, trong kinh Đại thừa thường nói: “Một niệm tương ưng một niệm Phật; niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Nhất định phải ghi nhớ: Dùng tâm thanh tịnh trì danh, điều nầy rất quan trọng!

Thanh tịnh là buông bỏ tám thức, không còn chấp trước đối với tất cả pháp. Sao cũng được, không có gì là không tốt, pháp pháp đều là tự tánh. Buông bỏ Mạt-na thì tâm thanh tịnh hiện tiền; buông bỏ phân biệt chính là buông bỏ ý thức thì tâm bình đẳng hiện bày; buông bỏ khởi tâm động niệm, buông bỏ tất cả hồi ức, tất cả đều trở về con số không, chính là Đại Viên Cảnh Trí, tánh giác hiển lộ. Đây là sự tuần hoàn lớn nhất, đạt đến cứu cánh quả Phật mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Diệu Giác, mới biết rằng chúng sinh vốn dĩ đã là Phật.

***

Đại Lão HT Tịnh Không để lại Xá Lợi Lưỡi và Xá Lợi hình Bồ Tát Quán Thế Âm _ Bậc Chân Thật Ngữ và giàu lòng Từ Bi.