Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

ĐỘC LƯU THỬ KINH ĐỆ TỨ THẬP NGŨ

Trong phần Tự, nơi phẩm Ðại Giáo Duyên Khởi, đức Phật “do tâm đại bi vô tận, thương xót tam giới”, “muốn cứu vớt quần sinh, ban cho cái lợi chân thật”, không gì hơn là diễn thuyết pháp bảo rộng lớn, viên mãn, vừa giản dị, vừa phương tiện thẳng tắt này. Cho nên đức Phật đã phóng đại quang minh, hiện tướng lành tạo đầu mối cho A Nan thưa hỏi. Cũng chính nhờ ngài A Nan thưa thỉnh, nhân cơ hội nầy mà đấng Thế Tôn mới giảng kinh Vô Lượng Thọ. Phật khen A Nan: “Đương lai chư thiên nhân dân, nhất thiết hàm linh, giai nhân nhữ vấn nhi đắc độ thoát cố” (trong tương lai, chư thiên, nhân dân, tất cả hàm linh đều do lời hỏi của ông mà được độ thoát).

Phẩm này chỉ rõ trong tương lai khi kinh pháp diệt tận, nghiệp chướng chúng sinh sâu nặng, đức Thế Tôn do tâm từ bi thương xót chúng sinh mà riêng lưu trụ kinh Vô Lượng Thọ này tồn tại thêm một trăm năm để cứu tế. Nếu ai gặp được kinh này, “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” tùy tâm mong mỏi, đều được độ thoát. Kinh Vô Lượng Thọ quả thật là thuốc A Già Ðà để cứu vớt khắp các chúng sinh. Ân đức của đức Thế Tôn và Phật A Di Đà thật chẳng thể nghĩ bàn!

KINH VĂN:

Ngô kim vị chư chúng sinh thuyết thử kinh pháp, linh kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập kỳ quốc độ nhất thiết sở hữu. Sở đương vi giả, giai khả cầu chi. Vô đắc dĩ ngã diệt độ chi hậu, phục sinh nghi hoặc.

VIỆT DỊCH:

Ta nay vì các chúng sinh nói kinh pháp này, khiến họ thấy được Phật Vô Lượng Thọ và tất cả các cõi nước của Ngài. Hễ có tâm mong cầu đều được như ý. Không nên sau khi ta diệt độ rồi lại sinh nghi hoặc.

GIẢNG:

Câu “linh kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập kỳ quốc độ nhất thiết sở hữu” (khiến họ thấy được Phật Vô Lượng Thọ và các thứ trong cõi nước của Ngài) hàm ý: Do oai lực của Phật mà tất cả y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc đều hiện rõ như đối trước mắt, khiến ai nấy cũng đều được trông thấy như đã nói trong phẩm Lễ Phật Hiện Quang. Do duyên thù thắng này mà đại chúng đều sinh khởi tín tâm chân thật; lại do oai đức của Phật Di Ðà gia trì nên thiện căn của hội chúng thảy đều tăng thượng, nên bảo sở đương vi giả, giai khả cầu chi” (tạm dịch: Hễ có tâm mong cầu đều được như ý). “Sở đương vi giả” (hễ có tâm mong cầu). Tâm mong cầu  ở đây là muốn thực hiện nguyện hạnh vãng sinh thì “giai khả cầu chi” (đều được như ý).

Cuối đoạn kinh trên, Phật lại rủ lòng Từ bi căn dặn: Hiện tại, các ông đã đích thân thấy nghe về y báo, chánh báo của cõi Tây Phương Cực Lạc và pháp môn Tịnh Ðộ, vì thế sau khi Ta diệt độ, chớ lại sinh tâm nghi hoặc, nên nói “vô đắc dĩ ngã diệt độ chi hậu, phục sinh nghi hoặc” KINH VĂN:

Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bách tuế. Kỳ hữu chúng sinh, trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ.

VIỆT DỊCH:

Ðời tương lai, kinh đạo diệt tận, ta đem tâm từ bi, thương xót, đặc biệt lưu lại kinh nầy tồn tại một trăm năm. Nếu có chúng sinh, gặp được kinh này, tùy ý nguyện cầu, đều được độ thoát.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên nói đến hai vấn đề:

– Thứ nhất: Do tâm từ bi mà Phật gia trì bộ kinh này tồn tại thêm một trăm năm, sau khi kinh pháp bị diệt tận.

– Thứ hai: Người gặp được bộ kinh này sẽ tùy nguyện được độ.

“Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận” (Đời tương lai kinh đạo diệt tận):

Ngài Thiện Ðạo nói về việc tương lai kinh pháp sẽ bị tận diệt như sau: “Vạn năm Tam Bảo diệt, kinh này trụ trăm năm”. Ý nói: Sau mười ngàn năm thời Mạt pháp, Tam Bảo sẽ bị diệt, chỉ có kinh này được lưu thêm một trăm năm. Các vị Tịnh Ảnh, Ðạo Xước, Từ Ân, Nghĩa Tịch, Pháp Trụ, Vọng Tây cũng đồng một quan điểm như vậy.

Ngài Tịnh Ảnh nói: “Câu ‘đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận’; Chánh Pháp của đức Thích Ca tồn tại năm trăm năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Khi hết thảy [các thời gian] ấy đã qua hết thì gọi là diệt tận”.

Nhưng, ngài Cảnh Hưng lại dựa vào sách Pháp Trụ Ký mà cho rằng “Pháp diệt” nhằm giai đoạn “kiếp tăng”, lúc con người thọ được bảy vạn tuổi. Sách Pháp Trụ Ký chép:

“Khi tuổi thọ con người cao nhất chỉ là mười năm thì kiếp đao binh khởi, (con người) tàn sát lẫn nhau. Khi đó, Phật pháp tạm diệt. Sau khi tuổi thọ tăng tới một trăm tuổi thì mười sáu vị đại A La Hán và các quyến thuộc lại xuất hiện nơi đây, xứng tướng hiển thuyết vô thượng chánh pháp, độ vô lượng chúng. Cho đến lúc con người ở châu này thọ sáu vạn tuổi thì vô thượng chánh pháp lưu hành trong thế gian phồn thịnh chẳng ngớt. Ðến khi con người thọ bảy vạn tuổi thì mười sáu vị A La Hán (như ngài Tân Ðầu Lô chẳng hạn) và các quyến thuộc cùng lúc nhập Vô Dư Niết Bàn”.

Ngài Cảnh Hưng nói: “Ngay lúc con người thọ được bảy vạn năm thì vô thượng chánh pháp mới vĩnh viễn diệt mất nên bảo là kinh đạo diệt tận”.

Hòa thượng Tịnh Không giải thích câu: “Khi tuổi thọ con người cao nhất chỉ là mười năm” như sau: Trong kinh Phật nói, tuổi thọ con người dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm. Sau đó, mỗi trăm năm lại giảm đi một tuổi; giảm đến tuổi thọ ngắn nhất chỉ còn mười tuổi; đây gọi là “Kiếp giảm”. Từ thọ mạng mười tuổi, lại bắt đầu tăng lên; cứ một trăm năm tăng thêm một tuổi, cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi, đây là “Kiếp tăng”. Thời gian từ một “Kiếp tăng” đến  một “Kiếp giảm” gọi là một “Tiểu kiếp”. Thời gian “Tiểu kiếp” dài như vậy. Hai mươi “Tiểu kiếp” là một “Trung kiếp”; bốn “Trung kiếp” là một “Đại kiếp”. Ở đây nói “tuổi thọ con người chỉ là mười năm” là chỉ cuối thời “Kiếp giảm”.

Chỗ này đề cập đến ngài Tân Đầu Lô. Tên gọi đầy đủ là Tân Đầu Lô Phả La Đọa. “Phả La Đọa” là họ, “Tân Đầu Lô” là tên. Ngài là đệ nhất trong mười sáu vị La Hán, mãi mãi an trụ ở thế gian. Đức Phật không cho phép Ngài nhập diệt, bởi nhân gian cần tu phước, nếu không có Thánh Hiền để ứng cúng thì phước báo của họ sẽ rất mỏng. Do vậy, Ngài phải ở lại làm phước điền cho trai chủ. Nếu họ chí tâm thành khẩn cúng dường Tam Bảo để tu phước, Ngài nhất định sẽ hóa thân đến ứng cúng.

Còn một vị nữa cũng không nhập Niết Bàn, vẫn trụ tại thế gian, đó là tôn giả Ca Diếp, ở Kê Túc Sơn, Vân Nam. Sứ mệnh của Ngài sẽ đem y bát của Thế Tôn truyền trao cho Bồ tát Di Lặc. – Thời gian này phải đợi đến bao lâu? – Bồ tát Di Lặc hiện ở cung trời Đâu Suất. Tuổi thọ ở đây là bốn ngàn tuổi. Một năm cũng ba trăm sáu mươi lăm ngày. Một ngày ở trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm ở nhân gian. Như vậy, phải đến năm mươi sáu ức, bảy ngàn vạn năm Bồ tát Di Lặc mới hạ sinh. Hiện nay, có số người tuyên truyền nói Bồ tát Di Lặc đã hạ sinh. Đó là hư ngụy, không thật!

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Cả hai thuyết trên đều có lý riêng.

Ngài Vọng Tây phán định: “Ngài Thiện Ðạo là đức A Di Ðà hóa thân, ngài Từ Ân là Quán Âm hóa hiện nên lời giải thích của hai Ngài chẳng thể xem thường. Phải nên dựa theo đó”. Ý Ngài muốn nói: Để giải thích đoạn kinh trên, ắt phải tuân theo lời giải thích của tổ Thiện Ðạo mới thật là chính xác. “Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bách tuế”. Tịnh Ảnh Sớ giảng câu “Đặc lưu thử kinh” (Đặc biệt lưu lại kinh này) như sau: “Đức Phật vì từ bi, thương xót chúng sinh nên sau khi pháp diệt, riêng lưu lại kinh này thêm trăm năm để cứu vớt. Vì kinh này khai thị pháp Tịnh Ðộ, khiến người cầu vãng sinh, nên Phật riêng lưu lại kinh này. Kinh Ðại Niết Bàn hiển thị Phật tánh, nhưng vì thánh nhân ẩn mất trước, nên kinh ấy bị ẩn mất trước hết. Kinh này dạy người chán khổ, cầu vui, là pháp trọng yếu để cứu vớt phàm phu nên bị diệt mất sau”.

Câu “kỳ hữu chúng sinh, trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ” (Nếu có chúng sinh, gặp được kinh này, tùy ý nguyện cầu, đều được độ thoát). Được ngài Tịnh Ảnh giảng như sau: “Gặp được kinh này thì đều thỏa sở nguyện, đó là nói về lợi ích của lưu lại pháp. Sau khi pháp diệt, trong vòng một trăm năm được nghe còn hưởng lợi ích vãng sinh Tịnh Ðộ, huống hồ nay đã được nghe, lẽ đâu chẳng sinh?”

Câu “đều thỏa sở nguyện” chính là được vãng sinh thành Phật. Trong Tịnh Ảnh Sớ, ngài Huệ Viễn còn viết: “Quyết định vãng sinh, chớ nên nghi hoặc, lo lắng”.

“Giai khả đắc độ” (đều được độ thoát). Chữ “đắc độ” là vượt qua được biển sinh tử tiến đến bờ kia Niết Bàn nên bảo là “đắc độ”.

KINH VĂN:

Như Lai hưng thế, nan trị, nan kiến. Chư Phật kinh đạo, nan đắc, nan văn. Ngộ thiện tri thức, văn pháp năng hành, thử diệc vi nan. Nhược văn tư kinh, tín nhạo, thọ trì, nan trung chi nan, vô quá thử nan.

VIỆT DỊCH:

Ðức Như Lai xuất hiện trong đời, khó gặp, khó thấy. Kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe. Gặp thiện tri thức, nghe pháp tu hành, cũng là điều khó. Nếu nghe kinh này, tin ưa, thọ trì là việc khó nhất trong các khó, không có gì khó hơn.

GIẢNG:

“Như Lai hưng thế, nan trị, nan kiến. Chư Phật kinh đạo, nan đắc, nan văn” (Ðức Như Lai xuất hiện trong đời, khó gặp, khó thấy. Kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe). Ý nói, người nghe kinh này, nếu có thể tin nhận, thọ trì, đó chính là điều khó trong các điều khó.

– Câu này, Phật chủ đích là nói với ai?

– Với người tu Tịnh Độ!

Chúng ta được thân người, gặp được Phật pháp, gặp được Đại Thừa, gặp được Tịnh Độ, gặp được kinh Vô Lượng Thọ. Thử hỏi: Trong đời nầy chúng ta có được thành tựu hay chăng? Đây là nói đến cái khó trong các cái khó.

– Vì sao gặp được rồi mà không thể vãng sinh?

– Vì hiểu biết chưa đủ, chưa được thấu triệt!

Tín tâm không kiên định, nguyện tâm không khẩn thiết, trước cảnh giới hiện tiền vẫn còn động tâm, thậm chí còn thoái chuyển, vậy thì không được! Cho nên, nghe kinh, tin hiểu, thọ trì là điều khó trong các khó. Đây là Phật nhắc nhở chúng ta chớ nên xem thường kinh nầy mà phải nên sinh tâm kính trọng, hi hữu khó gặp.

Mấy năm trước là cửa ải quan trọng, trải qua ít nhất là năm năm, có không biết bao nhiêu người phản đối bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư. Họ dùng ngôn ngữ lẫn văn tự để phê phán. Chúng tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) vẫn rất kiên trì, không vì thế mà thoái tâm, dao động. Sau đó, cục tôn giáo quốc gia xuất bản “Ngũ Kinh Tịnh Độ” (bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư), chứng tỏ quốc gia đã thừa nhận kinh Vô Lượng Thọ này.

Bộ chú giải kinh Vô Lượng Thọ của Cụ Hoàng Niệm Tổ rất hay và rất tường tận, nhưng lượng lưu thông không lớn, vì chú giải quá dài, người ngày nay không đủ kiên nhẫn để đọc. Cho nên, càng đơn giản thì càng tốt, nhiều trang quá họ không tiếp thu! Chúng ta phát tâm tinh tấn học một lần, hai lần v.v…chú giải này, có thể gây sức chú ý cho người thế gian, đối với bộ kinh này sinh khởi tín tâm, hi hữu khó gặp.

“Như lai hưng thế” : Chữ “Hưng thế” “xuất hưng ư thế” (xuất hiện trong thế gian). Sách Tư Trì Ký nói: “Phật thân sung mãn, tùy vật hiện thân, thị hiện sinh ra, khởi xướng và diệt độ, để tiếp độ quần sinh. Nếu xét theo cái thấy của cõi Sa Bà thì Ngài đản sinh trong cung vua, bỏ tục đi tu, hàng ma, thành Phật nên bảo là hưng thế”. Ý nói: Pháp thân Phật đầy khắp vũ trụ pháp giới, tồn tại mọi lúc mọi nơi, không có qua lại, ba đời giống hệt nhau, vốn không sinh diệt, chỉ vì ứng cơ hóa độ mà “tùy vật hiện thân”.

Chữ “vật” này phạm vi rất lớn, trong mười pháp giới Ngài đều có thể hiện thân. – Chúng ta thấy được Phật A Di Đà, phải chăng là Phật A Di Đà từ thế giới Tây Phương Cực Lạc, trải qua hơn mười muôn ức cõi Phật mới đến đây? – Không phải! Phật A Di Đà ứng duyên liền hiện, không duyên Ngài ẩn, Ngài“tùy vật hiện thân”.

Câu “thị hiện sinh ra, khởi xướng và diệt độ”: Đây là không nhất thời, chúng sinh có cảm Phật liền có ứng. Chữ “Khởi xướng” là giáo hóa chúng sinh; đến khi hết duyên, Ngài liền “diệt độ”; đây là thị hiện sinh diệt. “Tiếp độ quần sinh”: Phật ứng hóa ở thế gian mục đích là cứu độ, tiếp dẫn chúng sinh có duyên. “Nếu xét theo cái thấy của cõi Sa Bà, thì Ngài đản sinh trong cung vua, bỏ tục đi tu, hàng ma, thành Phật nên bảo là hưng thế”. Chữ “hàng ma”, nói đơn giản là buông bỏ vạn duyên; “vạn duyên” chính là “ma”. Chỉ một thứ không buông được vẫn là chướng ngại cho người tu. 

“Nan trị, nan kiến” (khó gặp, khó thấy) Tịnh Ảnh Sớ giảng câu này như sau: “Ý nói gặp Phật khó, sinh vào thời Phật gọi là “trị” (值: gặp gỡ), chính mắt trông thấy Phật gọi là “kiến” (見: thấy). Cả hai điều này đều là khó. ‘Chư Phật kinh đạo nan đắc nan văn’ (kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe v.v…) ý nói pháp khó được nghe. Tay cầm được quyển kinh (là kinh Vô Lượng Thọ) gọi là ‘đắc’, tai nghe gọi là ‘văn’. Cũng có thể hiểu là lãnh thọ, tụng đọc là ‘đắc’; tai nghe nhận là ‘văn’. Những điều ấy đều là khó”.

Câu “pháp khó được nghe”, ý nói: Gặp Phật là rất có phước báo; người không có phước báo không thể gặp được. Đây là nhắc nhở chúng ta phải biết trân quý kinh này.

“Tay cầm được quyển kinh gọi là ‘đắc”: Ngày xưa, muốn có được một quyển kinh không phải dễ! Phải đến chùa tìm kiếm trong Đại Tạng Kinh để chép lại, toàn là chép tay. Ngày nay, kỹ thuật in ấn vô cùng phát triển, cho nên kinh điển rất dễ có được, nên họ không biết quý trọng! Đây cũng có thể như trong kinh nói: “Phú quý học đọc nan”.

“Ngộ thiện tri thức, văn pháp năng hành, thử diệc vi nan” (Gặp thiện tri thức, nghe pháp tu hành, đây cũng là khó). Chữ  “thiện tri thức” là thuật ngữ; hai chữ “tri thức” có nghĩa là “tri tâm thức hình”.  “Thiện” nghĩa là có ích cho ta, dẫn dắt ta theo con đường thiện. “Tri” là tri tâm, là hiểu biết cái tâm, là tương đồng đạo hợp. “Thức” là nhận biết về hình thức, biết tình trạng của người này.

Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển bốn giảng: “Nghe tên gọi là Tri, thấy hình gọi là Thức. Người ấy làm lợi ích cho đạo Bồ Ðề của ta nên gọi là thiện tri thức”. Do đó, thiện tri thức được gọi là “thiện hữu” (bạn lành) là người tương tri, tương thức của mình, dẫn dắt ta đi trên con đường thiện.  

Đức Thích Ca và Phật A Di Đà là hai vị đại thiện tri thức của chúng ta phải nên thân cận.

– Thân cận bằng cách nào?

– Đọc tụng, nghiên tầm kinh điển là thân cận Phật; chia sẻ tâm đắc học Phật là thân cận Phật. Cổ nhân có câu: “Tế thần như thần tại”, tâm này thiện biết bao. Nên nhớ: Muốn gặp chân thiện tri thức phải có “chánh tâm thành ý” mới gặp được, mới thật sự có được lợi ích. Bằng không, tuy gặp được cũng như không gặp!

Viên Giác Kinh Ðại Sớ, quyển mười lăm có câu: “Khéo hiểu chân, biết vọng, biết bệnh rành thuốc thì gọi là thiện tri thức”. Ý nói: Người phân biệt rành chân, vọng, thông đạt Chân Tế (chính là minh tâm kiến tánh), biết căn tánh của chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc thì gọi là thiện tri thức.

Ngày nay, tuyệt đại đa số người học Phật đối với Phật pháp Đại thừa mà nói, chỉ là trồng thiện căn mà thôi, đời này không đạt được lợi ích, chưa thể lìa khổ được vui, tương lai không vượt khỏi luân hồi lục đạo.

Lần này, tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) hạ quyết tâm “tùy bệnh cho thuốc”, không giảng các kinh khác, chỉ chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ và giảng chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, vì sao vậy? – Vì đây là liều thuốc hay, thật trị được bệnh. Nếu chúng ta nghe hiểu được bộ kinh nầy, có thể y giáo phụng hành, chắc chắn giải quyết được mọi vấn đề. Đây là thuốc A Già Đà, là vạn linh dược trị lành tất cả bệnh, đời sau đến thế giới Cực Lạc làm Phật, được đại viên mãn. Quả thật kinh Vô Lượng Thọ này là  chân thiện tri thức.

Trong tác phẩm An Lạc Tập, ngài Ðạo Xước lại dựa theo kinh Pháp Cú mà viết như sau:

“Phật dạy: Thiện tri thức có thể nói pháp thâm sâu, nghĩa là: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, các pháp bình đẳng, không có nghiệp báo, không có nhân quả, cứu cánh như như, trụ trong Thật Tế; nhưng trong Tất Cánh Không lại kiến lập ra tất cả pháp thì gọi là thiện tri thức”. 

Hòa thượng Tịnh Không giải thích ý của Ngài Đạo Xước như sau : Đấy là cảnh giới của Như Lai, của Pháp Thân Đại Sĩ. Có “ta” tức là không bình đẳng. Chỉ cần có “ta” là có nghiệp báo, có nhân quả. Thật sự nếu “vô ngã” thì những thứ ấy không còn nữa. Cho nên, chân thiện tri thức không phải là người bình thường mà phải là Pháp Thân Bồ tát như: Lục Tổ Huệ Năng, Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, Đại Sư Thiện Đạo, Đại sư Trí Giả v.v…mới có thể nói pháp thâm diệu. “Trong Tất Cánh Không lại kiến lập ra tất cả pháp”. Đó là gì? – Như đức Thế Tôn vì chúng sinh giảng kinh dạy học suốt bốn mươi chín năm. Ngài giảng cho chúng ta về “có” “không”; sau cùng Ngài nói: “có” “không” là một không phải hai. Đây chính là “kiến lập ra tất cả pháp”.

Sách An Lạc Tập còn viết: “Thiện tri thức là cha mẹ vì nuôi dưỡng thân Bồ Ðề của chúng ta. Thiện tri thức là tròng mắt của chúng ta vì có thể thấy được tất cả đường thiện ác. Thiện tri thức là thuyền lớn của chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi biển sinh tử. Thiện tri thức là dây giàm của chúng ta vì có thể kéo chúng ta ra khỏi sinh tử”. Lại nói: “Tất cả chúng sinh muốn đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên thân cận thiện tri thức, thưa hỏi pháp yếu”.

Những câu trên ví dụ rất hay, nói rõ người học Phật nhất định phải dựa vào thiện tri thức. Muốn đạt được lợi ích lớn lao, vượt thoát luân hồi, đạt quả cứu cánh Vô Thượng, không gì hơn là “thân cận thiện tri thức, thưa hỏi pháp yếu” chính là pháp môn, đường hướng tu tập.

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương trong kinh Pháp Hoa có câu: Thiện tri thức là đại nhân duyên, có thể giáo hóa khiến được thấy Phật, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Chứng tỏ thiện tri thức đối với chúng ta vô cùng quan trọng. – Thiện tri thức nầy là ai? – Là người thầy của chúng ta. Vị thầy là then chốt, là yếu tố quan trọng nhất trong suốt cuộc đời học Phật của chúng ta.

Kinh Viên Giác dạy: “Chúng sinh đời Mạt pháp phát đại tâm cầu thiện tri thức để tu hành, nên cầu người có chánh tri chánh kiến đối với tất cả, tâm không trụ tướng, không đắm trong cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy hiện trong trần lao nhưng tâm hằng thanh tịnh; thị hiện có các lầm lỗi, nhưng khen ngợi phạm hạnh, chẳng khiến cho chúng sinh làm điều chẳng đúng với luật nghi. Cầu người như thế tức được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. 

Hòa thượng Tịnh Không kể: Trước đây Thầy của Hòa thượng dạy: Nếu cầu Thiện tri thức nên tìm người có tu có chứng. Nhưng, thời đại ngày nay, người có tu không nhiều, người có chứng lại càng không có, vậy phải làm sao? – Bất đắc dĩ phải cầu người có trình độ thấu hiểu kinh điển, có tu hành nhưng không chứng quả. Những gì họ dạy không trái với kinh điển, chỉ duy nhất họ chưa làm được! Cũng không sao! Thầy không làm được nhưng bản thân ta làm được, vậy là tốt rồi. Cổ nhân thường nói: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam”, học trò thành tựu hơn thầy, đây cũng là vị thầy tốt. Sợ nhất là thầy có tri kiến bất chánh, người này tuyệt đối không nên theo. Mấu chốt chính là ở tri kiến. Ngày nay, tìm thầy có chánh tri, chánh kiến thật không dễ dàng!

Trong đời nầy, tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) may mắn gặp được ba vị thầy là: Giáo thọ Phương Đông Mỹ, đại sư Chương Gia và cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Ba vị thầy này không những chánh tri, chánh kiến mà còn thật sự tu hành, thật sự có thể làm tấm gương cho chúng ta, đây chính làchân thiện tri thức”.

Chỗ này, Kinh Viên Giác cũng đặc biệt nêu: “Chúng sinh thời Mạt, phát tâm cầu thiện tri thức hòng tu hành, nên cầu người có chánh tri kiến đối với tất cả”.

– Dựa vào đâu để biết rằng họ có “chánh tri chánh kiến”?  – Dựa vào kinh điển! Nếu như tư tưởng, lời nói của họ không trái với kinh điển, đó là người có “chánh tri chánh kiến”

Viên Giác Ðại Sớ ghi: “Khéo thông đạt giác tánh, chẳng do tu mà sinh, quyết trạch không nghi thì gọi là chánh tri kiến”. “Giác tánh” là tánh giác diệu minh. Khéo thông đạt được tánh giác sẵn có nên bảo là “khéo thông đạt giác tánh”. Giác tánh sẵn có ấy không từ bên ngoài vào, cũng không phải do tu mà được, nên bảo là “chẳng do tu mà sinh”. Lại nữa, theo Hòa thượng Tịnh Không: Chân tâm vốn là giác ngộ, là trí tuệ vô lượng sẵn có ở mỗi người. Chỉ cần chúng ta không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước thì trí tuệ, đức năng trong tự tánh liền hiển lộ. Đây gọi là “thiện đạt” (khéo thông đạt). Chỉ cần buông bỏ là được! Mọi người đều có “giác tánh”, không có chi là hi hữu.

Cho nên, Phật dạy: “Tất cả chúng sinh vốn là Phật”. Đức Thế Tôn là Phật, A Di Đà là Phật; chúng ta cũng là Phật; mọi người đều là Phật. Trí tuệ, đức năng, tướng hảo đều bình đẳng, không có gì không bình đẳng. Vì sao vậy? – Vì tất cả pháp đều từ tự tánh hiển lộ ra, làm sao không bình đẳng, chỉ e rằng chúng ta trước tướng. Vì vậy, kinh dạy: “Tâm bất trụ tướng”.

“Tâm bất trụ tướng” này chính là trong kinh Kim Cang dạy buông bỏ bốn tướng: Ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng. Nửa phần sau của kinh Kim Cang dạy buông bỏ bốn kiến: Ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến và thọ giả kiến. Đó là cảnh giới “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.

“Ưng vô sở trụ”, chính là phần trước đã nói: “Trong  tất cánh không kiến lập tất cả pháp”. “Kiến lập tất cả pháp” chính là “nhi sinh kỳ tâm”. Thể hiện được điều nầy người đó chính là “chân thiện tri thức”, là chư Phật Như Lai, là Pháp Thân Đại Sĩ. Tâm họ rất thanh tịnh, bình đẳng không hề có chút nhiễm ô.

– “Tâm không trụ tướng” phải từ đâu mà nhận diện? – Từ không có tự tư tự lợi, không có danh văn lợi dưỡng, không có ngũ dục lục trần, tham sân si mạn. Đấy mới là thầy giáo tốt, là “chân thiện tri thức”. Nhìn người là nhìn từ khía cạnh này, không phải nghe họ nói. Họ có thể nói nhưng không hành, đó chẳng phải là thiện tri thức.

“Không đắm trong cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác”. Đây chính là, như trong kinh Xưng Tán Đại Thừa dạy: “Thà ở trong địa ngục cả trăm ngàn kiếp, trọn chẳng phát tâm Nhị thừa”. Vì sao vậy? – Vì hàng Nhị thừa chỉ tự tư tự lợi, không chủ động lợi tha! Vẫn biết Thanh Văn là Tiểu thừa cũng không tệ, nhưng không thể học họ, vì tâm lượng họ chưa đủ lớn. Đối với thánh nhân Tiểu thừa, chúng ta phải cầu họ, họ mới dạy; không cầu không dạy! Bồ tát không như vậy! Chúng ta không cầu họ cũng tìm đến, làm bạn không mời của chúng sinh. “Tuy hiện trong trần lao nhưng tâm hằng thanh tịnh”. Ý nói: Tuy dạy học rất gian khổ, lãnh chúng rất gian nan, nhưng tâm họ vẫn duy trì được sự thanh tịnh. Chúng ta quan sát tỉ mỉ sẽ thấy được lượng công việc của họ rất nhiều nhưng năng lượng tiêu hao rất ít, nên tâm họ thanh tịnh. Tôi theo học thầy Lý Bỉnh Nam mười năm. Đã từng nói qua với các vị: Lượng công việc hằng ngày của thầy bằng ít nhất là công việc của năm người làm. Muốn gặp thầy phải đăng ký trước một tuần, thời gian của thầy đều sắp kín hết. Thầy rất bận rộn, nhưng tâm thầy thanh tịnh.

– Sao biết tâm thầy thanh tịnh?

– Thầy ngủ nghỉ ít, ăn uống giản dị và ăn rất ít!

Nên biết, thân thể của con người là một bộ máy. Máy móc muốn vận động cần phải có năng lượng. Năng lượng chính là ẩm thực. Năng lượng tinh thần chính là tín ngưỡng, Tam Bảo gia trì. Năng lượng vật chất là ẩm thực.

– Vì sao bản thân cần ẩm thực nhiều đến thế? Ba bữa vẫn chưa đủ, tối đến cần phải ăn khuya. Đó là vì máy móc của chúng ta tiêu hao quá nhiều năng lượng, cần phải bổ sung!

Có lần tôi thỉnh giáo với thầy Lý: Phải chăng năng lượng con người, từ chín mươi đến chín mươi lăm phần trăm đều tiêu hao nơi vọng tưởng? Thầy gật đầu, chứng minh cho tôi việc này là chính xác. Do vậy, vọng tưởng chúng ta ít thì tiêu hao năng lượng ít. Công việc của thầy rất nhiều, nhưng thầy không có tạp niệm. Những công việc của thầy làm đều là lợi ích chúng sinh, lợi ích xã hội, không có tư riêng, tự lợi; đến ý niệm tự lợi cũng không có nên tâm thầy thanh tịnh, tiêu hao năng lượng cũng ít.

“Thị hiện có các lỗi lầm, khen ngợi phạm hạnh”. Ý nói: Có những việc họ không làm được nhưng người khác làm được, họ tự mình khiêm tốn, tự mình sám hối, người đó tu tốt hơn ta, ta không bằng họ. Nói cách khác, bản thân họ có một số giới luật không làm được, nhưng hi vọng người khác có thể làm, “Không khiến chúng sinh nhập bất luật nghi” (không khiến chúng sinh làm điều không đúng với luật nghi). Nói cách khác, họ không dạy chúng sinh phạm pháp, không giữ quy cũ. “Luật nghi”: “Luật” là pháp luật; “nghi” là oai nghi, là quan niệm đạo đức, tập quán của thế tục, nhất định phải tuân thủ. Đây là người có tâm lượng lớn, có chánh tri chánh kiến, tuyệt đối không sinh tâm đố kỵ, chướng ngại người khác. Người như vậy mới đúng là thiện tri thức, nhất định phải thân cận. Chúng ta theo họ để tiếp thu sự huân tập của họ, dần dần trưởng dưỡng thành chánh tri chánh kiến.

Mấy ngày trước, có người nói với tôi: – Thầy ơi! Trong nước không thích tên thầy! Những kinh sách mà các vị in có tên của Thầy, có thể xóa được chăng? – Được! Cứ xóa bỏ! Miễn pháp lưu thông là được! Người bảo tôi xóa bỏ tên, tôi cảm ơn họ. Vì sao vậy? – Danh là giả! Có danh chỉ là thêm cống cao ngã mạn, tốt nhất là xóa bỏ cả tên! Từ nay tôi viết cho người khác đều không dùng tên. Tôi thật cảm ơn họ. Người cần có thật đức, không cần có hư danh. “Thật đức” tôi cũng không có, nếu cần hư danh đó chính là tội lỗi! Họ nhắc nhở, tôi phải cám ơn họ, không thể trách, trách cứ là sai! Phải cảm ơn họ mới thật là đúng. Tuyệt đối không đối lập với người. Đối lập là sai! Như vậy không phải học Phật.

Điều đầu tiên trong Phật pháp là phá “Ngã kiến”; thứ hai là phá đối lập – “Biên kiến”. Vì sao vậy? – Vì đó là đang trụ tướng. Chúng ta viết cho người khác, không ghi tên mình, là không trụ tướng. Đây là việc tốt, không phải việc xấu!

Lại có người nói với tôi: Có một vài nơi muốn đốt hết tất cả sách này. Tôi hỏi ai nói? – Chính phủ mệnh lệnh! – Được! Tôi nhất định phục tùng mệnh lệnh của chính phủ. Vì sao? – Trong lịch sử tam võ diệt pháp, đệ tử Phật môn xuất gia và tại gia không ai phản kháng. Đệ tử Phật là công dân tốt nhất, quốc gia muốn thế nào, chúng ta phục tùng như thế đó: Muốn chúng ta dừng, thì chúng ta dừng; muốn chúng ta giải tán, thì chúng ta giải tán. Nhất định nghe lời, phải làm gương. Tương lai, triều đại sau khởi lên, vị vua đó thấy Phật giáo đồ tốt, biết nghe lời, họ lại phát tâm hộ trì. Lịch sử trong quá khứ chẳng phải là như vậy sao? Nếu Phật giáo đồ phản kháng, sau khi diệt vong, vĩnh viễn sẽ không phục hưng được. Đây là đức Phật dạy chúng ta nhẫn nhục, tu bố thí, tu trì giới. Chúng ta có thực hành chăng? Thật sự y giáo phụng hành mới là đệ tử Phật.

“Thị hiện có các lỗi lầm, khen ngợi phạm hạnh” còn có ý nghĩa: Trong cuộc sống hằng ngày phải giao tiếp với mọi người, đôi khi chúng ta cũng có sai lầm không sao tránh khỏi. Nhưng, quan trọng nhất là tự mình biết thừa nhận lỗi mình, không che dấu. Thấy người khác có ưu điểm phải khen ngợi, thấy lỗi của họ không nên nói, đừng để vào tâm. Đây là “ẩn ác dương thiện”. Tuyệt đối không chỉ trích phê bình mà chỉ có khen ngợi.

Trong nhà Phật cũng không ngoại lệ. Xưa nay chư vị Tổ sư dạy đệ tử: “Muốn Phật pháp hưng thịnh chỉ có Tăng khen Tăng”. Người xuất gia khen ngợi nhau, Phật pháp mới hưng thịnh. Nếu phê bình lẫn nhau, thậm chí còn “tự tán hủy tha” (tự khen mình chê người) thì Phật pháp sẽ diệt! Thử hỏi: – Chúng ta là người chấn hưng Phật giáo hay làm Phật giáo diệt vong?! Phải nhớ: Đây là thời kỳ Mạt pháp; người trong thời Mạt chướng sâu nghiệp nặng, có sai lầm là điều không thể tránh. Cổ đức có câu: “Người không phải thánh hiền”, “xuất gia học Phật không phải là Phật, Bồ tát”, làm sao không có sai lầm chứ! “Sai mà có thể sửa, không điều thiện nào lớn hơn”, điều nầy không sai!

Tóm lại, người chân thiện tri thức phải có chánh tri chánh kiến, tâm không trụ tướng, không trước tướng Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy hiện trong trần lao nhưng tâm hằng thanh tịnh; thị hiện có các lầm lỗi, nhưng khen ngợi phạm hạnh. Thấy mình có vài điều chưa trọn vẹn, chưa làm tốt, người khác làm tốt hơn mình, phải khen ngợi họ, phải khuyên người khác học tập theo họ, chính bản thân mình cũng học tập theo họ. Đây là các điều kiện cơ bản, tiêu chuẩn cần có của thiện tri thức mà kinh Viên Giác dạy.

“Quyết trạch không nghi”: Chữ “Quyết trạch” là khéo phân biệt các pháp tướng; “không nghi” là bất động nơi “Ðệ Nhất Nghĩa”. “Ðệ Nhất Nghĩa” đó chính là “tâm không trụ tướng”.  Ðại Sớ nói: “Tâm không trụ tướng là lìa khỏi cảnh giới phiền não của phàm phu. Nếu còn bận tâm đến chút pháp thì gọi là trụ tướng. Thậm chí với Bồ Ðề, Niết Bàn còn không chấp trước, huống là cảnh giới huyễn mộng của thế gian. Vì thế, không nên trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để sinh tâm, hãy nên không trụ vào đâu cả mà sinh tâm. Ðã được vô tâm trụ liền khế hợp với viên giác”. Đại sư Huệ Năng nhờ câu này mà khai ngộ.

“Tâm không trụ tướng”, nên hạ thủ công phu ở đâu?  – Ở Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần không khởi tâm, không động niệm, đấy gọi là “tâm không trụ tướng”, cũng chính là “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (không nên trụ vào đâu cả mà sinh tâm).

“Ưng vô sở trụ” “tâm không trụ tướng”; “nhi sinh kỳ tâm” chính là “vì chúng sinh lựa chọn pháp môn”.

– Chúng sinh muốn quay đầu, muốn học Phật, phải bắt đầu học từ đâu? – Phải nói với họ: Học Tiểu thừa trước, sau mới học Đại thừa. Học làm người trước, sau mới học làm Phật. Chưa làm người tốt, sao có thể làm Phật?!

Ðại Sớ còn viết: “Người hoại kiến tuy chẳng hoại hạnh, chẳng thể làm con mắt đạo cho chúng sinh. Dẫu hoại hạnh nhưng kiến giải không sai lầm, vẫn là ruộng phước cho trời người”. Đây là chọn lựa thiện tri thức. Ý nói: Người có kiến giải sai lầm (hoại kiến), tuy hành vi họ không sai trái, nhưng họ không thể làm con mắt sáng suốt để dẫn đường cho chúng sinh. Ngược lại, nếu hành vi họ sai trái (hoại hạnh) nhưng kiến giải họ không sai lầm, vẫn là ruộng phước cho thế gian trời, người nương theo học tập. Nói cách khác, “chánh tri chánh kiến” là tiêu chuẩn hàng đầu của Thiện tri thức, kế đến mới là hành vi.

Đại sư Thiên Thai (tức Trí Giả đại sư) nói: “Có thể nói không thể hành, đây là thầy của đất nước”, người này có thể làm Quốc sư. Vì sao vậy? – Vì họ nói không sai, hoàn toàn hợp với đạo lý của Thánh hiền, Phật và Bồ tát. Tuy họ không làm được, nhưng nếu chúng ta làm theo lời giáo huấn của họ vẫn được lợi ích. Họ làm được hay không làm được, điều đó không quan trọng. Mặt khác, nếu “có thể nói, cũng có thể hành, đó là báu vật của quốc gia”. Thế nên, không tìm được “quốc bảo”, tìm được “quốc sư” cũng không tệ! Cho thấy, chân thiện tri thức, quan trọng nhất là phải có chánh tri chánh kiến”.

Cho nên, học trò vượt qua thầy, thầy cũng không có tâm đố kỵ, chỉ mong sao học trò giỏi hơn mình thì xã hội mới có tiến bộ. Nếu trò không được như thầy, thầy sẽ rơi nước mắt! Vì sao vậy? – Vì đời sau không được như đời trước sẽ đi đến diệt vong! Tâm người thầy tốt là như thế, không khác gì cha mẹ đều hy vọng hậu nhân vượt hơn mình, đây là chân thiện tri thức.

Ngày xưa, làm quan đội mũ tấn hiền: Phía sau cao, ở trước thấp. Ý nghĩa: “Ở trước” là mình phải thấp hơn đời sau. Phải gắng tâm vun bồi cho đời sau, là hậu nhân vượt qua mình, quốc gia mới có tiền đồ, hy vọng. Nếu ta là cao nhất, mọi người đều không bằng ta, vậy là xong! Quả thật là bi ai! Không thể không hiểu đạo lý nầy.

Ðại Luận (tức Đại Trí Độ Luận): “Ðối với các bậc tôn sư nên tưởng như Thế Tôn. Nếu ai có thể khai hiển, giải thích nghĩa sâu, cởi mở nghi kết (cho ta) thì tận tâm cung kính, không nghĩ đến các điều ác (của họ). Ví như cái túi xấu không nên vì cái túi xấu mà bảo là nó không thể đựng được của báu. Lại như ban đêm đi trên đường hiểm, có kẻ xấu cầm đuốc, không nên vì kẻ ấy xấu mà không thèm nhờ họ soi sáng. Bồ Tát cũng lại như vậy: Nhờ thầy mà được trí tuệ quang minh thì không nên bận tâm đến lỗi của thầy”. 

Trước đây tôi, (tức Hòa thượng Tịnh Không) ở Đài Loan, thầy tôi là Phương Đông Mỹ, có người phê bình thầy không đáng một đồng! Lúc tôi theo Đại sư Chương Gia, họ phê bình rất nhiều, nào là Đại sư Chương Gia là Hòa thượng chính trị, không hiểu được gì, sao lại học với ông ấy! Khi theo thầy Lý, người xuất gia nói đó là Tứ Bảo, không như pháp! Nếu nghe theo họ, thì từ lâu tôi chẳng học được gì! Cho nên, cầu học tu đạo, tâm thái quan trọng nhất chính là đối với Thầy; ở đây nói là “đối với các bậc tôn sư” phải “tưởng như Thế Tôn”. Chúng ta phải xem thầy như Phật hiện tại, hóa thân của Phật Thích Ca, hóa thân của Phật A Di Đà, như vậy chúng ta mới thật có được lợi ích. Nếu chúng ta chỉ xem thầy như người bình thường, học giả bình thường, không có tâm cung kính, thậm chí còn phê phán, chúng ta sẽ không học được gì mà còn có tội!

“Tận tâm cung kính, không nghĩ đến các điều ác khác của họ”. Ý nói : Chúng ta phải tận tâm đối với vị thầy nầy, phải yêu thương học tập từ họ. Nếu họ có tập khí, khuyết điểm gì, đôi khi đó chỉ là đại quyền thị hiện, phàm phu nhìn không hiểu. Lại nưa, chúng ta phải vĩnh viễn không nên nhớ chuyện ác của bất kỳ ai, để duy trì tâm thuần thiện, thuần tịnh của chính mình. “Ví như cái túi xấu không nên vì cái túi xấu mà bảo là nó không thể đựng được của báu”.

– Túi xấu ấy là gì?

– Là vị thầy hình như có chút phá giới, hoặc có hành vi không tốt lắm. Nếu thấy vậy, bèn không theo học là sai! Trong khi đó tâm họ có đầy ắp học vấn, có chánh tri chánh kiến. Nếu chỉ thấy một chút không vừa mắt, bèn ngoảnh mặt quay lưng, thử hỏi ai là người chịu thiệt thòi? – Bản thân ta chịu thiệt! Đó là sai lầm lớn!

“Lại như ban đêm đi trên đường hiểm, có kẻ xấu cầm đuốc”. Kẻ xấu ấy có thể là người vô tri, không hiểu biết lễ tiết, chưa tiếp thu giáo dục. Họ cầm bó đuốc soi đường cho chúng ta. “Không nên vì kẻ ấy xấu mà không thèm nhờ họ soi sáng”.

– Không thèm nhờ họ soi sáng thì sao?

– Thì sẽ lọt xuống hố!

“Bồ Tát cũng lại như vậy: Nhờ thầy mà được trí tuệ quang minh, thì không bận tâm đến lỗi của thầy”. Những người khác có phê bình, họ cũng không sánh bằng Thầy. Cho nên, bản thân cần phải có trí tuệ, phải có lựa chọn, không thể vì người khác nói lỗi của Thầy rồi chúng ta không học với Thầy.

Kinh Viên Giác kết luận: “Cầu như thị nhân, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Cầu người như thế, liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác). Ý nói: Cầu người có đủ các đức tánh kể trên,  tức là đã cầu được chân thiện tri thức, sẽ giúp ta chứng được quả vị Bồ Ðề.

Ðại Sớ còn nói: “Chỉ nên khéo thờ minh sư, gặp việc minh sư ắt sẽ chỉ dạy. Cũng giống như Thiện Tài phát Bồ Ðề tâm nơi đức Văn Thù, hỏi về Bồ Tát hạnh. Ngài Văn Thù không dạy đủ mà dạy nên thân cận thiện hữu; Ngài dạy nên gặp tỳ-kheo Ðức Vân, lần lượt để Thiện Tài đi tham học tiếp”. Đây là phương tiện thiện xảo của thiện tri thức.

Thầy của Thiện Tài là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Trong hội của Thầy, Thiện Tài đã đạt được “Căn bản trí”, chính là đã minh tâm kiến tánh. Lên cao hơn nữa, Thầy dạy ông nên đi tham học, không cần ở đây nữa, nơi đây ông đã tốt nghiệp. Vì sao vậy? – Vì Thiện Tài đã có năng lực phân biệt thị phi thiện ác. Thiện hay ác đều là Thầy, không ai mà không phải là Thầy. Sau năm mươi ba lần tham vấn, Thiện Tài thành tựu được vô lượng trí tuệ, đây là “hậu đắc trí”.

Sách còn viết: “Bởi thế kinh Pháp Cú dùng hai mươi mốt thí dụ để ví thiện tri thức, nghĩa là: cha mẹ, tròng mắt, chân cẳng, thang, ghế cao, thức ăn, áo báu, cầu, rường, của báu, mặt trời, mặt trăng, thân mạng v.v… Cuối cùng kết luận: ‘Thiện tri thức giả, hữu như thị vô lượng công đức, thị cố giáo nhữ đẳng thân cận’ (Thiện tri thức có vô lượng công đức như thế nên ta dạy các ông thân cận). Ðại chúng nghe xong lớn tiếng than thở, tự nghĩ trong bao kiếp, nhờ thiện tri thức thủ hộ, ngày nay mới được gặp đức Như Lai, nhưng chưa từng báo ân, chưa hề có tâm thân cận. Thốt lên những lời ấy xong lại vật mình khóc lóc”.

Kinh văn trên dùng nhiều thí dụ để ví thiện tri thức. Hòa thượng Tịnh Không giải thích: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta không thể nào tách rời thiện tri thức: “Chân” là để đi, không có chân làm sao ta vận hành? “Cầu thang” giúp ta lên cao; không có cầu thang chúng ta không lên cao được. “Ẩm thực” là nuôi sống thân mạng; thiện tri thức là nuôi sống pháp thân tuệ mạng của chúng ta; không có thiện tri thức giống như không có ẩm thực, sẽ không giữ được pháp thân tuệ mạng.

Câu “Trong bao kiếp, nhờ thiện tri thức thủ hộ”: Chữ “thiện tri thức” ở đây là chỉ cho Phật và Pháp Thân Bồ tát; vô lượng kiếp đến nay các Ngài chưa từng rời xa chúng ta. Bất luận chúng ta ở con đường nào, các Ngài đều đang thủ hộ. Nếu chúng ta quay đầu; Phật, Bồ tát sẽ kéo ta ra; không quay đầu thì các Ngài không thể kéo! Vì sao vậy? – Vì Phật, Bồ tát không thể tiêu nghiệp cho chúng ta mà chỉ có thể giúp ta giác ngộ. Tự mình thật sự giác ngộ mới có thể tiêu nghiệp.

“Ngày nay mới được gặp đức Như Lai, nhưng chưa từng báo ân, chưa hề có tâm thân cận. Thốt lên những lời ấy xong lại vật mình khóc lóc”.

– Vì sao chưa từng báo ân?

– Vì không biết ân đức! Tri ân mới có thể báo ân. Nếu không tri ân, tâm báo ân làm sao sinh khởi! Đã không sinh khởi được tâm báo ân mà còn “không có tâm thân cận” thiện tri thức, vì cứ mãi miết điên đảo trong ngũ dục lục trần. Phật, Bồ tát vẫn kiên trì ở đó mà chờ đợi chúng ta quay đầu. “Nói xong lời này”, tự tâm cảm thấy hổ thẹn, sám hối, khởi tâm khóc than.

Vì thế, trong kinh Viên Giác, trong phẩm Phổ Giác có lời phổ khuyến như sau: “Mạt thế chúng sinh, dục tu hành giả, ưng đương tận mạng cúng sự thiện hữu, sự thiện tri thức” (Chúng sinh đời Mạt muốn tu hành, phải nên trọn đời cúng dường, phụng sự thiện hữu, thờ kính thiện tri thức). Muốn cung kính thiện tri thức, trước hết phải phụng hành đúng như lời dạy, điều này cũng rất khó! Bởi thế, kinh nói: “Văn pháp năng hành, thử diệc vi nan” (Nghe pháp xong có thể tu hành, điều này cũng khó), nghĩa là: Thiện tri thức đã khó gặp, khó biết (chữ khó biết ở đây có nghĩa là gặp được nhưng lại không biết), nay may mắn đã cầu được (chính là cầu được bộ kinh nầy); nhưng nếu đối với những điều thiện tri thức dạy mà ta không thể tin nhận, phụng hành thì lương y cũng đành bó tay. Như thế dù có gặp cũng như không gặp!

Cho nên, gặp Phật khó, nghe pháp cũng khó, gặp thiện tri thức cũng khó, có thể thực hành cũng khó; đều là cực kỳ khó được. Nhưng, cả bốn điều khó nói trên vẫn không khó bằng “nhược văn tư kinh, tín nhạo thọ trì” (nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì). Ðấy mới là điều khó nhất trong các điều khó, nên bảo là “nan trung chi nan” (khó nhất trong những điều khó). Việc hi hữu khó được không chi hơn việc này, nên bảo “vô quá thử nan” (không gì khó hơn điều này). Vì cớ sao?

Tịnh Ảnh Sớ đáp: “Đối với pháp nghĩa này, khắp nơi tuyên thuyết,  khai hiển Tịnh Ðộ, dạy người vãng sinh thì chỉ có kinh này nên gọi là rất khó”.

Theo Hòa thượng Tịnh Không: Đây là nói đức Phật dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn, ngàn kinh vạn luận tuyên giảng khắp nơi về đạo lý nhân sinh vũ trụ. Nhưng, nói về vãng sinh Tịnh Độ chỉ có bộ kinh này. Bây giờ, chúng ta biết, chuyên nói về vãng sinh Cực Lạc chỉ có ba kinh: Kinh Vô Lượng Thọ là kinh đệ nhất; kinh A Di Đà là tiểu bổn của kinh Vô Lượng Thọ; kinh Quán Vô Lượng Thọ là chuyên nói về phương pháp và nguyên lý của pháp môn Tịnh Độ. Nguyên lý đó chính là “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Sau đó, mới nói về phương pháp.

Sách Hội Sớ bảo: “Nhược văn tư kinh (nếu nghe kinh này) là cái nghe tri thức để huân tập. ‘Tín nhạo thọ trì’ (tin ưa thọ trì) là chánh nhân vãng sinh, nghĩa là: Tin ưa bổn nguyện, thọ trì danh hiệu. Vì pháp nầy vượt trỗi, khác biệt với các pháp khác (tức là vượt qua tám vạn bốn ngàn pháp môn khác), được lợi ích cũng vượt trỗi hơn các điều thiện khác, mọi căn cơ chúng sinh đều được vào báo độ; một đời có thể  thành tựu, ắt phải là do túc thiện nhiều kiếp, nên bảo là khó nhất trong những điều khó v.v…”

Hòa thượng Tịnh Không giải thích: Câu “Cái nghe tri thức để huân tập”: Chữ “tri” ở đây là hiểu biết về thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhận thức được Phật A Di Đà từ trong kinh dạy, hoặc từ các Tổ sư, đại đức tuyên giảng, đó gọi là tri thức, là nghe biết và huân tập.

Câu “lợi ích cũng vượt trỗi hơn các điều thiện khác”, ý nói:

Trong tất cả thiện của thế và xuất thế gian đều không thiện bằng niệm Phật. Đây là thiện bậc nhất trong các điều thiện.

“Mọi căn cơ chúng sinh đều được vào báo độ”. Chữ “Báo độ” ở đây là cõi Thật Báo Trang Nghiêm ở Tây Phương Cực Lạc. Chỉ cần chí tâm niệm câu danh hiệu nầy không gián đoạn, mỗi niệm đều nghĩ đến Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc thì nhất định được vãng sinh về cõi Thật Báo. Nếu niệm không thuần, tin không thật, nguyện không thiết; bình thường cũng niệm Phật nhưng không nhiều, vẫn chưa buông được pháp thế gian. Khi lâm chung, nếu vận khí tốt, có người trợ niệm nhắc nhở, sẽ vãng sinh về Cực Lạc ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư

Căn cứ theo ý của hai bộ sớ trên, ta thấy rằng, nếu ai có thể đối với diệu pháp đệ nhất hi hữu, khó nghe, khó tin, một đời thành tựu này mà nghe được, tin được, thọ trì được, nên biết người ấy ắt đã huân tu trong nhiều kiếp, đã gieo nhiều thiện căn, quả thật là hi hữu, vượt qua tất cả, nên nói “nan trung chi nan, vô quá thử nan” (khó nhất trong các điều khó, không gì khó hơn điều này). Nói như vậy không có nghĩa pháp môn này khó tu mà là ngụ ý: Rất khó có người được thiện căn phước đức nhân duyên hi hữu như vậy!

KINH VĂN:

Nhược hữu chúng sinh đắc văn Phật thinh, từ tâm thanh tịnh, dũng dược hoan hỉ, y mao vi khởi, hoặc lệ xuất giả, giai do tiền thế tằng tác Phật đạo, cố phi phàm nhân. Nhược văn Phật hiệu, tâm trung hồ nghi, ư Phật kinh ngữ, đô vô sở tín, giai tùng ác đạo trung lai, túc ương vị tận, vị đương độ thoát. Cố tâm hồ nghi, bất tín hướng nhĩ.

VIỆT DỊCH:

Nếu có chúng sinh được nghe danh hiệu Phật, từ tâm thanh tịnh, hớn hở vui mừng, lông tóc dựng cả lên, hoặc chảy nước mắt, đều do đời trước đã từng hành Phật đạo, không phải phàm nhân. Nếu nghe danh hiệu Phật mà trong tâm hồ nghi, đối với kinh Phật đều không tin tưởng, là từ ác đạo mới đến, túc ương chưa hết, sẽ chưa được độ, nên tâm hồ nghi, không thể tin tưởng!

GIẢNG:

“Đắc văn Phật thinh” (Ðược nghe danh hiệu Phật) là câu trích từ bản Hán dịch. Bản Ngô dịch ghi là “văn A Di Đà Phật thinh” (nghe danh hiệu Phật A Di Ðà). Bản Ngụy dịch ghi là “đắc văn bỉ Phật danh” (được nghe danh hiệu đức Phật ấy). Bản Ðường dịch ghi là “văn bỉ Phật danh” (nghe tên đức Phật ấy). Bản Tống dịch ghi là “đắc văn Vô Lượng Thọ Phật danh hiệu” (được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ). Ðối chiếu các bản dịch, ta thấy rằng “Phật thinh” chính là danh hiệu A Di Ðà Phật.

“Từ tâm thanh tịnh, dũng dược hoan hỉ, y mao vi khởi, hoặc lệ xuất giả” (Từ tâm thanh tịnh, hớn hở vui mừng lông tóc dựng cả lên, hoặc chảy nước mắt). “Văn” là nghe tên, thọ trì. Bởi danh hiệu Phật có đủ vạn đức, có thể khiến người nghe  “từ tâm thanh tịnh”. Chữ “Từ tâm” là phát khởi tâm đại từ. “Thanh tịnh” là thuần tịnh vô cấu.. “Dũng dược” là sự hân hoan phấn chấn thể hiện nơi dáng vẻ, lời nói. “Hoan hỉ” là nội tâm hỉ lạc, không do kích thích từ bên ngoài, đây là niềm vui thật sự. Câu “y mao vi khởi” ý nói các lỗ chân lông khắp người đều nổi da gà, lông đều dựng cả lên. “Hoặc lệ xuất giả”: Chữ “lệ xuất” là nước mắt tuôn trào. Người như thế, do nghe được kinh Phật mà cảm động thâm sâu, đều từ Phật đạo mà đến. Đời đời, kiếp kiếp trong quá khứ, họ đã từng học Phật, họ không phải là phàm nhân,nên nói: “giai do tiền thế tằng tác Phật đạo, cố phi phàm nhân”

– Vì sao thương cảm đến như vậy?

Do thiện căn bộc phát! Đời trước, lúc lâm chung, do một niệm sai lầm nên lại trôi lăn trong luân hồi! Họ cảm thấy hối tiếc, hy vọng đời này không tiếp tục sai lầm nữa.

Câu “tằng tác Phật đạo, cố phi phàm nhân” (từng hành Phật

đạo, không phải là phàm nhân) là lời đức Phật khen ngợi, như kinh Kim Cang dạy: “Nhược đương lai thế hậu ngũ bách tuế, kỳ hữu chúng sinh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhân tức vi đệ nhất hi hữu. Hà dĩ cố? Thử nhân vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng” (Nếu trong đời tương lai năm trăm năm sau, có chúng sinh được nghe kinh này mà tin hiểu, thọ trì thì người ấy chính là hi hữu bậc nhất. Vì sao vậy? Người ấy không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sinh tướng, không có thọ giả tướng).

Trong tác phẩm Phá Không Luận, ngài Linh Phong giảng như sau: “Người này tức tín tu đại quả. (Vì sao vậy? – Người này đã phá tứ tướng). Nếu như còn có chút mảy mai chấp tướng ngã, nhân v.v… thì quyết chẳng thể tin nổi kinh này. Nếu như tin hiểu, thọ trì kinh này, quyết phải thông đạt ngã tướng, nhân tướng v.v… đương thể chính là vô tướng”.

Câu “Nếu như còn có chút mảy mai chấp tướng ngã, nhân v.v… thì quyết chẳng thể tin nổi kinh này” được Hòa thượng Tịnh Không dẫn chứng như sau: Đó là chân tướng hiện thực!

Trước đây, tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) ở Đài Loan, được biết có một vị giáo thọ đại học Đài Loan, cũng có chút danh tiếng, ông là nhà khảo cổ, hiện nay không còn. Ông ta đọc kinh Kim Cang bảo: “Đức Phật nói không hợp logic, bộ kinh Kim Cang giống như thùng nước, đổ qua đổ về, một câu nói mà cứ lặp đi lặp lại nhiều lần!”  Chúng ta nghe rồi biết ông ta hoàn toàn không hiểu mà dám phê bình, đúng là to gan! Không biết kinh Kim Cang ở Trung Quốc có uy thế rất lớn, trải qua bao đời, biết bao nhiêu người nghiên cứu, bao nhiêu người học tập. Nếu phê bình như ông thì kinh đâu còn ai nghiên cứu! Cũng may! Ông không hiểu, nhưng người khác hiểu.

Kinh Kim Cang, người “vô ngã” mới có thể xem, ông ta chưa đến “vô ngã”, ngã chấp ông quá nặng! Làm giáo thọ thu nhập không nhiều, bèn không làm nữa, đi mở tiệm sách. Kinh doanh được bảy, tám năm kiếm được khá nhiều tiền, bắt đầu đầu tư bất động sản. Tôi nghe nói, ông đã mua trên năm mươi đơn vị, cho thuê kiếm tiền, nên ông rất giàu, chưa được bao lâu thì mất. Thật đáng tiếc! Gặp Phật pháp nhưng không tin, đối với kinh điển còn rất ngạo mạn, phê bình! Tóm lại:

Theo lời giảng trên mà luận, kinh này là pháp hết thảy thế gian khó tin. (Tất cả thế gian ở đây không phải thế giới Sa Bà, không phải chỉ địa cầu này), cho đó là mê tín, là hoang tưởng, làm gì có thế giới Cực Lạc! Nếu ai có thể sinh nổi lòng tin đối với pháp nầy, nên biết người ấy không phải là phàm nhân, mà chính là người hi hữu trong tất cả thế gian. Nếu có thể sinh lòng tin chân thật vào Viên Giáo, hiểu trọn vẹn, tu trọn vẹn thì đáng xưng tụng là viên nhân (người căn cơ viên mãn). Cũng chính là nói người này là bậc tái sinh, không phải người thường. Cho nên, viên nhân tu hành một ngày bằng thường nhân tu hành cả một kiếp.

“Nhược văn Phật hiệu, tâm trung hồ nghi, ư Phật kinh ngữ, đô vô sở tín, giai tùng ác đạo trung lai, túc ương vị tận, vị đương độ thoát, cố tâm hồ nghi, bất tín hướng nhĩ”.  Kẻ hồ nghi nghe danh hiệu Phật, hoặc nghe kinh Phật, họ đều không tin, đó là hạng người mới từ ác đạo thoát ra, ương họa nghiệp chướng túc thế chưa hết, chưa đến thời kỳ được độ, nên không thể tin nổi. Ðây chính là điều trong kinh Kim Cang nói: “Trong đời Mạt, nếu có kẻ thọ trì, đọc tụng kinh này, nếu ta (tức Phật Thích Ca) nói đầy đủ công đức của họ đạt được, ắt sẽ có kẻ nghe rồi tâm liền cuồng loạn, hồ nghi không tin”. Công đức người ấy đạt được chính là đã minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Phải biết người ấy có thiện căn, phước đức, nhân duyên từ nhiều đời trước, không phải mới học, mà đích thật phải là người tái sinh mới có thể tin nhận, thọ trì kinh này. Nếu không, thì cho dù đời này họ có thích kinh Kim Cang, có tu hành đi nữa cũng không thể đạt được minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, có chăng chỉ là được đại ngộ mà thôi.

Đối với kinh Kim Cang, tu hành còn được lợi ích như thế huống chi là kinh Vô Lượng Thọ, công đức này càng không thể nghĩ bàn. Bởi Tịnh Độ là vãng sinh thành Phật, được oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, vượt qua kinh Kim Cang không biết bao nhiêu lần. Pháp môn càng thù thắng, người đời càng khó tin. Đặc biệt là phương pháp tu hành của Tịnh Tông vừa đơn giản, nhanh chóng, dễ dàng mà thành tựu lại rất cao, khiến người đời càng khó tin. Người tin được, thọ trì được, quả thật là rất hi hữu!